Bản chất chức năng tài chính<br />
doanh nghiệp<br />
<br />
Bản chất, vai trò của tài chính doanh nghiệp<br />
<br />
Bản chất của tài chính doanh nghiệp.<br />
<br />
Nội dung của các mối quan hệ tài chính.<br />
<br />
Tài chính là một bộ phận cấu thành trong các hoạt động kinh tế của doanh nghiệp. Nó<br />
có mối liên hệ hữu cơ và tác động qua lại với các hoạt động kinh tế khác. Mối quan hệ<br />
tác động qua lại này phản ánh và thể hiện sự tác động gắn bó thường xuyên giữa phân<br />
phối sản xuất với tiêu thụ sản phẩm. Phân phối vừa phản ánh kết quả của sản xuất và<br />
trao đổi, lại vừa là điều kiện cho sản xuất và trao đổi có thể tiến hành bình thường và<br />
liên tục.<br />
<br />
Tài chính doanh nghiệp là tài chính của các tổ chức sản xuất kinh doanh có tư cách pháp<br />
nhân và là một khâu tài chính cơ sở trong hệ thống tài chính. Vì tại đây diễn ra quá trình<br />
tạo lập và chu chuyển vốn gắn liền với qua trình sản xuất, đầu tư, tiêu thụ và phân phối.<br />
<br />
Tài chính- thoạt nhìn chúng ta lại hiểu là tiền tệ, như một doanh nghiệp sẽ phải trích một<br />
khoản tiền lương để trả cho cán bộ công nhân viên. Khi tiền lương tham gia phân phối<br />
giữa các loại lao động có trình độ nghề nghiệp khác nhau và điều kiện làm việc khác<br />
nhau. Tài chính tham gia phân phối sản phẩm quốc dân cho người lao động thông qua<br />
quá trình hình thành và sử dụng quỹ tiền lương và các quỹ phúc lợi công cộng khác. Do<br />
vậy giữa tài chính và tiền là hai phạm trù kinh tế khác nhau.<br />
<br />
Tài chính cũng không phải là tiền tệ, và cũng không phải là quỹ tiền tệ. Nhưng thực chất<br />
tiền tệ và quỹ tiền tệ chỉ là hình thức biểu hiện bên ngoài của tài chính, còn bên trong<br />
nó là những quan hệ kinh tế đa dạng. Nhân loại đã có những phát minh vĩ đại trong đó<br />
phải kể đến việc phát minh ra tiền, mà nhờ đó người ta có thể quy mọi hoạt động khác<br />
nhau về một đơn vị đo thống nhất, và trên cơ sở đó có thể so sánh, tính toán được với<br />
nhau. Như vậy tiền chỉ là phương tiện cho hoạt động tài chính nói chung và hoạt động<br />
tài chính doanh nghiệp nói riêng. Thông qua phương tiện này, các doanh nghiệp có thể<br />
thực hiện nhiều hoạt động khác nhau trong mọi lĩnh vực, nếu như chúng ta chỉ nhìn bề<br />
ngoài thì chỉ thấy các hoạt động đó hoạt động tách riêng nhau, nhưng thật ra lại gắn bó<br />
với nhau trong sự vận động và chu chuyển vốn, chúng được tính toán và so sánh với<br />
nhau bằng tiền.<br />
<br />
Do vậy toàn bộ các quan hệ kinh tế được biểu hiện bằng tiền phát sinh trong doanh<br />
nghiệp thể hiện nội dung của tài chính doanh nghiệp. Nó bao gồm các quan hệ tài chính<br />
sau:<br />
<br />
+ Quan hệ trong nội bộ doanh nghiệp.<br />
<br />
Xuất phát từ mục đích sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, cũng như những mối quan<br />
hệ về phân phối và phân phối lại dưới hình thức giá trị của cải vật chất sử dụng và sáng<br />
tạo ra ở các doanh nghiệp.<br />
<br />
Quan hệ tài chính trong nội bộ doanh nghiệp: đó là những quan hệ về phân phối, điều<br />
hoà cơ cấu thành phần vốn kinh doanh, phân phối thu nhập giữa các thành viên trong nội<br />
bộ doanh nghiệp; các quan hệ về thanh toán hợp đồng lao động giữa chủ doanh nghiệp<br />
và công nhân viên chức.<br />
<br />
Các mối quan hệ này đều thông qua việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ ở doanh<br />
nghiệp như: vốn cố định, vốn lưu động, quỹ tiền lương, quỹ khấu hao, quỹ dự trữ tài<br />
chính... nhằm phục vụ cho các mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp.<br />
<br />
+ Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với nhà nước.<br />
<br />
Thể hiện trong việc các doanh nghiệp nộp thuế cho chính phủ và sự tài trợ của chính phủ<br />
trong một số trường hợp cần thiết để thực hiện vai trò can thiệp vào kinh tế của mình.<br />
<br />
ở nước ta do còn thành phần kinh tế quốc doanh nên sự tài trợ của nhà nước được thể<br />
hiện rõ bằng việc bảo đảm một phần vốn pháp định cho các doanh nghiệp.Trong quá<br />
trình hoạt động các doanh nghiệp nhà nước làm ăn có hiệu quả và nhất là các doanh<br />
nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực then chốt của nền kinh tế đất nước sẽ được nhà<br />
nước chú trọng đầu tư vốn nhằm giúp doanh nghiệp phát triển tốt hơn. Cũng trong quá<br />
trình hoạt động kinh doanh này, các doanh nghiệp nhà nước phải nộp các khoản thuế,<br />
phí, lệ phí như các doanh nghiệp khác và còn phải nộp thuế sử dụng vốn cho ngân sách<br />
nhà nước. Khoản thu này chiếm tỉ trọng lớn trong thu ngân sách giúp nhà nước có nguồn<br />
để phục vụ cho quốc kế dân sinh nói chung và tạo hành lang pháp lý để bảo vệ nền kinh<br />
tế cũng như xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ cho phát triển kinh tế và hỗ trợ hoạt động<br />
của doanh nghiệp.<br />
<br />
Đối với các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ hoặc không hoạt động ở những then chốt, nhà<br />
nước sẽ cho cổ phần hoá. Nghĩa là toàn bộ số vốn của doanh nghiệp theo dạng này sẽ<br />
bao gồm : Cổ phần của nhà nước, cổ phần của doanh nghiệp và cổ phần của ngân hàng.<br />
Nếu doanh nghiệp bán cổ phần của mình cho cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp<br />
thì lúc đó sẽ có các cổ phần của cán bộ công nhân viên. ở một chừng mực nào đó, khi thị<br />
trường chứng khoán Việt Nam vận hành thì cổ phần đó sẽ được mua đi bán lại trên thị<br />
trường và nảy sinh ra cổ phần xã hội. Trong điều kiện đó mối quan hệ giữa ngân sách<br />
nhà nước với doanh nghiệp cũng có sự thay đổi đáng kể. Nhà nước còn tham gia vào<br />
nền kinh tế với tư cách là một cổ đông.<br />
<br />
+ Quan hệ giữa nhà nước với các tổ chức tài chính trung gian.<br />
<br />
Hiện nay các tổ chức tài chính trung gian ở nước ta mới chỉ hiện rõ nét bằng hoạt động<br />
của các ngân hàng thương mại và của công ty bảo hiểm. Nhưng để có một nền kinh tế<br />
thị trường phát triển tất yếu phải có sự thiết lập các hình thức phong phú, đa dạng trong<br />
lĩnh vực môi giới về vốn. Nhằm biến những nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi ở các hộ gia<br />
đình, các doanh nghiệp và các tổ chức khác thành những nguồn vốn dành để đầu tư cho<br />
kinh tế.<br />
<br />
+ Quan hệ giữa doanh nghiệp với nhau.<br />
<br />
Mối quan hệ này phát sinh trong quá trình thanh toán các sản phẩm và dịch vụ, trong<br />
việc góp vốn liên doanh, vốn cổ phần và chia lợi nhuận do vốn liên doanh cổ phần mang<br />
lại.<br />
<br />
Cùng với sự phát triển của các yếu tố cấu thành trong nền kinh tế thị trường, các mối<br />
quan hệ về kinh tế giữa các doanh nghiệp có xu thế ngày càng tăng lên. Các hoạt động<br />
đó đan xen vào nhau và tự điều chỉnh theo các quan hệ cung cầu về vốn tiền tệ và khả<br />
năng thu hút lợi nhuận.<br />
<br />
+ Quan hệ giữa các doanh nghiệp với các tổ chức kinh tế nước ngoài phát sinh trong<br />
quá trình vay, cho vay, trả nợ và đầu tư với giữa doanh nghiệp với các tổ chức kinh tế<br />
trên thế giới. Nền kinh tế thị trường gắn liền với chính sách mở cửa, các hoạt động giữa<br />
các doanh nghiệp trong nước và các tổ chức kinh tế nước ngoài ngày càng có xu thế hoà<br />
nhập lẫn nhau, hợp tác với nhau để phát huy hết khả năng và thế mạnh của mình trong<br />
việc khai thác các nguồn vốn đưa vào sản xuất kinh doanh để có chi phí ít nhất với hiệu<br />
quả kinh tế cao nhất.<br />
<br />
Bản chất của tài chính doanh nghiệp.<br />
<br />
Tài chính doanh nghiệp là hệ thống các quan hệ kinh tế biểu hiện dưới hình thái giá trị<br />
phát sinh trong quá trình hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ của doanh nghiệp để<br />
phục vụ cho mục đích sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và các nhu cầu chung của<br />
xã hội.<br />
<br />
Hay, tài chính doanh nghiệp là những mối quan hệ tiền tệ gắn trực tiếp với việc tổ chức,<br />
huy động, phân phối, sử dụng và quản lý vốn trong quá trình kinh doanh.<br />
Vai trò của tài chính doanh nghiệp.<br />
<br />
Vai trò của tài chính doanh nghiệp được ví như những tế bào có khả năng tái tạo, hay<br />
còn được coi như “ cái gốc của nền tài chính”. Sự phát triển hay suy thoái của sản xuất-<br />
kinh doanh gắn liền với sự mở rộng hay thu hẹp nguồn lực tài chính. Vì vậy vai trò của<br />
tài chính doanh nghiệp sẽ trở nên tích cực hay thụ động, thậm chí có thể là tiêu cực đối<br />
với kinh doanh trước hết phụ thuộc vào khả năng, trình độ của người quản lý ; sau đó nó<br />
còn phụ thuộc vào môi trường kinh doanh, phụ thuộc vào cơ chế quản lý kinh tế vĩ mô<br />
của nhà nước.<br />
<br />
Song song với việc chuyển sang nền kinh tế thị trường, nhà nước đã hoạch định hàng<br />
loạt chính sách đổi mới nhằm xác lập cơ chế quản lý năng động như các chính sách<br />
khuyến khích đầu tư kinh doanh, mở rộng khuyến khích giao lưu vốn. .. Trong điều kiện<br />
như vậy, tài chính doanh nghiệp có vai trò sau:<br />
<br />
Tài chính doanh nghiệp- một công cụ khai thác, thu hút các nguồn tài chính nhằm<br />
đảm bảo nhu cầu vốn cho đầu tư kinh doanh.<br />
<br />
Để thực hiện mọi quá trình sản xuất kinh doanh, trước hết các doanh nghiệp phải có một<br />
yếu tố tiền đề - đó là vốn kinh doanh.<br />
<br />
Trong cơ chế quản lý hành chính bao cấp trước đây, vốn của các doanh nghiệp nghiệp<br />
nhà nước được nhà nước tài trợ hầu hết. Vì thế vai trò khai thác, thu hút vốn không được<br />
đạt ra như một nhu cầu cấp bách, có tính sống còn với doanh nghiệp.<br />
<br />
Chuyển sang nền kinh tế thị trường đa thành phần, các doanh nghiệp nhà nước chỉ là<br />
một bộ phận cùng song song tồn tại trong cạnh tranh, cho việc đầu tư phát triển những<br />
ngành nghề mới nhằm thu hút được lợi nhuận cao... đã trở thành động lực và là một đòi<br />
hỏi bức bách đối với tất cả các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Trong nền kinh tế thị<br />
trường, khi đã có nhu cầu về vốn, thì nảy sinh vấn đề cung ứng vốn. Trong điều kiện<br />
đó, các doanh nghiệp có đầy đủ điều kiện và khả năng để chủ động khai thác thu hút các<br />
nguồn vốn trên thị trường nhằm phục vụ cho các mục tiêu kinh doanh và phát triển của<br />
mình.<br />
<br />
Tài chíh doanh nghiệp có vai trò trong việc sử dụng vốn một cách tiết kiệm và hiệu<br />
quả.<br />
<br />
Cũng như đảm bảo vốn, việc tổ chức sử dụng vốn một cách tiết kiệm và có hiệu quả<br />
được coi là điều kiện tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Trong điều kiện của nền<br />
kinh tế thị trường, yêu cầu của các quy luật kinh tế đã đặt ra trước mọi doanh nghiệp<br />
những chuẩn mực hết sức khe khắt; sản xuất không phải với bất kỳ giá nào. Trong nền<br />
kinh tế thị trường, mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đều được phản<br />
ánh bằng các chỉ tiêu giá trị, chỉ tiêu tài chính, bằng các số liệu của kế toán và bảng tổng<br />
kết tài sản. Với đặc điểm này, người cán bộ tài chính có khả năng phân tích, giám sát các<br />
hoạt động kinh doanh để một mặt phải bảo toàn được vốn, mặt khác phải sử dụng các<br />
biện pháp tăng nhanh vòng quay vốn, nâng cao khả năng sinh lời của vốn kinh doanh.<br />
<br />
Tài chính doanh nghiệp có vai trò đòn bẩy kích thích và điều tiết sản xuất kinh<br />
doanh.<br />
<br />
Khác với nền kinh tế tập trung, trong nền kinh tế thị trường các quan hệ tài chính doanh<br />
nghiệp được mở ra trên một phạm vi rộng lớn. Đó là những quan hệ với hệ thống ngân<br />
hàng thương mại, với các tổ chức tài chính trung gian khác, các thành viên góp vốn đầu<br />
tư liên doanh và những quan hệ tài chính trong nội bộ doanh nghiệp...Những quan hệ<br />
tài chính trên đây chỉ có thể được diễn ra khi cả hai bên cùng có lợi và trong khuôn khổ<br />
của pháp luật. Dựa vào khả năng này, nhà quản lý có thể sử dụng các công cụ tài chính<br />
như đầu tư, xác định lãi suất, tiền lương, tiền thưởng để kích thích tăng năng suất lao<br />
động, kích thích tiêu dùng, kích thích thu hút vốn nhằm thúc đẩy sự tăng trưởng trong<br />
hoạt động kinh doanh.<br />
<br />
Tài chính doanh nghiệp là công cụ quan trọng để kiểm tra các hoạt động sản xuất<br />
kinh doanh của doanh nghiệp.<br />
<br />
Tình hình tài chính doanh nghiệp là tấm gương phản ánh trung thực nhất mọi hoạt động<br />
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, Thông qua các chỉ tiêu tài chính như: hệ số nợ,<br />
hiệu suất và hiệu quả sử dụng vốn, cơ cấu các thành phần vốn...có thể dễ dàng nhận biết<br />
chính xác thực trạng tốt, xấu trong các khâu của quá trình sản xuất kinh doanh.<br />
<br />
Để sử dụng có hiệu quả công cụ kiểm tra tài chính, đòi hỏi nhà quản lý doanh nghiệp cần<br />
tổ chức tốt công tác hạch toán kế toán, hạch toán thống kê, xây dựnghệ thống các chỉ<br />
tiêu phân tích tài chính và duy trì nề nếp chế độ phân tích hoạt động kinh tế của doanh<br />
nghiệp.<br />
<br />
Chức năng của tài chính doanh nghiệp<br />
<br />
Chức năng huy động và phân phối nguồn vốn.<br />
<br />
Một doanh nghiệp có thể hoạt động sản xuất kinh doanh được thì cần phải có vốn và<br />
quyền sử dụng nguồn vốn bằng tiền của mình một cách chủ động. Tuy nhiên cũng cần<br />
phảI làm rõ một vấn đề là: Các nguồn vốn được lấy ở đâu ? Làm thế nào để có thể huy<br />
động được vốn ?<br />
<br />
Trước đây trong cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung ngân sách nhà nước cấp toàn bộ<br />
vốn đầu tư xây dựng cơ bản cho việc thiết lập các xí nghiệp quốc doanh. Hiện nay khi<br />
chuyển sang nền kinh tế thị trường với sự hoạt động của các doanh nghiệp trong mọi<br />
thành phần kinh tế khác nhau, nhiều xí nghiệp quốc doanh đã tỏ ra sự yếu kém của mình.<br />
Thực trạng đó đặt ra cho các nhà quản lý kinh tế nói chung và các nhà quản lý tài chính<br />
nói riêng một vấn đề là: làm thế nào để đưa các xí nghiệp làm ăn thua lỗ đó thoát khỏi<br />
tình trạng hiện nay ? Chính sự bất ổn định này đã tạo ra một sự chưa được nhất quán<br />
trong việc định hình các nguồn vốn cho các doanh nghiệp ở nước ta.<br />
<br />
Tuy nhiên, dù thay đổi cụ thể như thế nào chăng nữa thì mọi doanh nghiệp với mọi hình<br />
thức sở hữu trong các lĩnh vực sản xuất, lưu thông, dịch vụ đều có thể huy động được<br />
vốn từ các nguồn sau:<br />
<br />
-Vốn do ngân sách nhà nước cấp hoặc cấp trên cấp đối với doanh nghiệp nhà nước được<br />
xác định trên cơ sở biên bản giao nhận vốn mà doanh nghiệp phải có trách nhiệm bảo<br />
toàn và phát triển số vốn giao đó. Khi mới thành lập nhà nước hoặc cấp trên cấp vốn<br />
đầu tư ban đầu để công ty thực hiện sản xuất kinh doanh phù hợp với quy mô và ngành<br />
nghề. Số vốn này thường bằng hoặc lớn hơn số vốn pháp định. Sau quá trình hoạt động<br />
nếu thấy cần thiết, nhà nước sẽ cấp bổ sung vốn cho doanh nghiệp để phục vụ cho việc<br />
phát triển sản xuất kinh doanh.<br />
<br />
• Vốn tự bổ sung: là vốn nội bộ của doanh nghiệp bao gồm:<br />
<br />
+ Phần vốn khấu hao cơ bản để lại doanh nghiệp<br />
<br />
+ Phần lợi nhuận sau khi đã nộp thuế<br />
<br />
+ Phần tiền nhượng bán tài sản (nếu có)<br />
<br />
-Vốn liên doanh liên kết : đó là sự góp tiền hoặc góp tài sản của các doanh nghiệp khác<br />
để cùng với doanh nghiệp sản xuất kinh doanh.<br />
<br />
- Vốn vay: chủ yếu là vốn vay ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác. Ngoài các loại<br />
vốn nói trên, các doanh nghiệp còn có thể huy động vốn của cán bộ công nhân viên và<br />
doanh nghiệp sẽ trả lãi cho số vốn vay đó theo lãi suất ngân hàng.<br />
<br />
Qua đó ta hình dung ra được, quá trình thành lập doanh nghiệp cần phải có một lượng<br />
vốn đầu tư tối thiểu. Đối với doanh nghiệp nhà nước số vốn này do ngân sách nhà nước<br />
cấp có thể là 100% hoặc tối thiểu là 51%. Còn đối với các Công ty cổ phần, Công ty<br />
TNHH thì số vốn đầu tư ban đầu được hình thành từ việc đóng góp vốn hoặc hùn vốn<br />
của các cổ đông dưới hình thức cổ phần. Mức vay vốn được quy định theo từng doanh<br />
nghiệp.<br />
<br />
Để tồn tại và phát triển kinh doanh, trong quá trình sản xuất kinh doanh doanh nghiệp<br />
vẫn phải tiếp tục đầu tư trung và dài hạn vì vậy doanh nghiệp có thể huy động vốn bên<br />
trong doanh nghiệp như vốn tự tài trợ. Nếu như nguồn tự tài trợ mà nhu cầu đầu tư dài<br />
hạn vẫn không đáp ứng được thì doanh nghiệp phải tìm kiếm nguồn vốn từ bên ngoài<br />
như các hình thức đã nêu ở trên.<br />
Với chức năng tổ chức vốn, tài chính doanh nghiệp không đơn thuần chỉ thực hiện việc<br />
huy động vốn mà còn phải tiến hành phân phối vốn sao cho với số vốn pháp định, vốn<br />
tự có và các nguồn vốn huy động, doanh nghiệp có thể sử dụng chúng một cách có hiệu<br />
quả. Muốn vậy, trong từng thời kỳ kinh doanh doanh nghiệp phải xác định được nhu cầu<br />
về vốn là bao nhiêu và kết cấu như thế nào là hợp lý.<br />
<br />
Chức năng phân phối.<br />
<br />
Sau khi huy động vốn và đã sử dụng nguồn vốn đó sẽ thu được kết quả là việc tiêu thụ<br />
sản phẩm hàng hoá của doanh nghiệp. Do đó doanh nghiệp tiến hành phân phối kết quả<br />
hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.<br />
<br />
ở nước ta, do tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần, hình thức sở hữu khác nhau, cho nên<br />
quy mô và phương thức phân phối ở các loại hình doanh nghiệp cũng khác nhau. Sau<br />
mỗi kỳ kinh doanh, số tiền mà doanh nghiệp thu được bao gồm cả giá vốn và chi phí<br />
phát sinh. Do vậy các doanh nghiệp có thể phân phối theo dạng chung như sau:<br />
<br />
• Bù đắp chi phí phân bổ cho hàng hoá đã tiêu thụ bao gồm:<br />
<br />
+ Trị giá vốn hàng hoá.<br />
<br />
+ Chi phí lưu thông và các chi phí khác mà doanh nghiệp đã đã bỏ ra như lãi vay ngân<br />
hàng, chi phí giao dịch, lợi tức trái phiếu.<br />
<br />
+ Khấu hao máy móc.<br />
<br />
- Phần còn lại sau khi bù đắp các chi phí được gọi là lợi nhuận của doanh nghiệp. Phần<br />
lợi nhuận này, một phần phải nộp cho ngân sách nhà nước dưới hình thức thuế, phần<br />
còn lại tuỳ thuộc vào quy định của từng doanh nghiệp mà tiến hành chia lãi liên doanh,<br />
trả lợi tức cổ phần, trích lập các quỹ doanh nghiệp.<br />
<br />
Chức năng giám đốc.<br />
<br />
Đó là khả năng khách quan để sử dụng tài chính làm công cụ kiểm tra, giám đốc bằng<br />
đồng tiền với việc sử dụng chức năng thước đo giá trịvà phương tiện thanh toán của tiền<br />
tệ. Khả năng này biểu hiện ở chỗ, trong quá trình thực hiện chức năng phân phối, sự<br />
kiểm tra có thể diễn ra dưới dạng: xem xét tính cần thiết, quy mô của việc phân phối các<br />
nguồn tài chính, hiệu quả của việc phân phối qua các quỹ tiền tệ.<br />
<br />
Giám đốc tài chính mang tính chất tổng hợp toàn diện, tự thân và diễn ra thường xuyên<br />
vì giám đốc tài chính là quá trình kiểm tra, kiểm soát các hoạt động tài chính nhằm phát<br />
hiện những ưu điểm để phát huy, tồn tại để khác phục.<br />
Hoạt động tài chính diễn ra trên mọi lĩnh vực của quá trình tái sản xuất xã hội trên tầm<br />
vĩ mô và vi mô. Trong các hoạt động đó tài chính không chỉ phản ánh kết quả sản xuất<br />
mà còn thúc đẩy phát triển. Động lực để thúc đẩy nhanh nền sản xuất xã hội không chỉ<br />
phụ thuộc vào sự phân phối cân bằng, hợp lý và cân đối giữa các bộ phận mà còn trực<br />
tiếp phụ thuộc vào sự kiểm tra, kiểm soát nghiêm nghặt mọi hoạt động tài chính.<br />
<br />
Nội dung giám đốc tài chính là giám đốc sự vận động và chu chuyển của nguồn vốn tiền<br />
tệ với hiệu quả sử dụng vốn, giám đốc việc lập và chấp hành các chỉ tiêu kế hoạch, các<br />
định mức kinh tế tài chính, giám đốc quá trình hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ,<br />
quá trình hạch toán kinh tế và giám đốc việc chấp hành các chính sách về tài chính.<br />
<br />
Thực hiện quản lý tài chính đã khẳng định, để thực hiện triệt để và có hiệu quả việc giám<br />
đốc tài chính cần phải thường xuyên đổi mới và hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính phù<br />
hợp với cơ chế chính sách quản lý kinh tế và thực tiễn sản xuất kinh doanh. Thông qua<br />
đó giúp cho việc thực hiện các giải pháp tối ưu nhằm làm lành mạnh tình hình tài chính<br />
và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.<br />