intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Bàn thêm về phân loại văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1930-1945

Chia sẻ: Hoang Son | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:5

87
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Việc phân loại văn xuôi Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX thành các nhóm truyện từ trước đến nay đã được các nhà lý thuyết thử nghiệm khá nhiều và hướng tới mục đích có thể chấp nhận được. Trong đó, đương nhiên tiêu chí phân loại là yếu tố căn cốt nhất. Một số tiêu chí đã được vận dụng khá phổ biến như: thi pháp thể loại, phương pháp sáng tác, phạm vi hiện thực được phản ánh trong tác phẩm (đề tài), sự kết hợp giữa thể loại văn học với các loại hình nghệ thuật khác (âm nhạc, hội họa, kiến trúc...). Chúng tôi thử nghiệm phân loại văn xuôi theo nhóm truyện kể dựa trên nguyên tắc tổ chức sự kiện.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Bàn thêm về phân loại văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1930-1945

Phùng Quý Sơn<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> <br /> 98(10): 141 - 145<br /> <br /> BÀN THÊM VỀ PHÂN LOẠI VĂN XUÔI VIỆT NAM<br /> GIAI ĐOẠN 1930 – 1945<br /> Phùng Quý Sơn*<br /> Trường Cao đẳng Sư phạm Lạng Sơn<br /> <br /> TÓM TẮT<br /> Việc phân loại văn xuôi Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX thành các nhóm truyện từ trước đến nay đã<br /> được các nhà lý thuyết thử nghiệm khá nhiều và hướng tới mục đích có thể chấp nhận được. Trong<br /> đó, đương nhiên tiêu chí phân loại là yếu tố căn cốt nhất. Một số tiêu chí đã được vận dụng khá<br /> phổ biến như: thi pháp thể loại, phương pháp sáng tác, phạm vi hiện thực được phản ánh trong tác<br /> phẩm (đề tài), sự kết hợp giữa thể loại văn học với các loại hình nghệ thuật khác (âm nhạc, hội<br /> họa, kiến trúc...). Chúng tôi thử nghiệm phân loại văn xuôi theo nhóm truyện kể dựa trên nguyên<br /> tắc tổ chức sự kiện.<br /> Từ khóa: phân loại văn xuôi, nhóm truyện kể, tổ chức sự kiện.<br /> <br /> NỘI DUNG*<br /> Trong giai đoạn hoàng kim của văn học hiện<br /> đại Việt Nam (1930 – 1945), văn xuôi đã đạt<br /> đến “giá trị cổ điển” với một lớp nhà văn tiêu<br /> biểu như Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố,<br /> Nguyên Hồng, Nam Cao, Vũ Trọng Phụng,<br /> Nguyễn Tuân, Khái Hưng, Nhất Linh, Thạch<br /> Lam, Lan Khai, Thế Lữ ... Xét về thi pháp thể<br /> loại, nền văn xuôi hiện đại trong sự kết hợp<br /> hài hòa với truyền thống dân tộc và thế giới<br /> với những tinh hoa của nó đã bước từng bước<br /> vững chắc vào nền văn học chung của nhân<br /> loại. Các nhà nghiên cứu đã thử nghiệm nhiều<br /> tiêu chí để phân loại văn xuôi hiện đại Việt<br /> Nam với mong muốn hướng tới cái đích nhất<br /> định có thể chấp nhận được. Hiện nay đang<br /> tồn tại một số cách phân loại như sau:<br /> Thứ nhất là dựa vào trào lưu, khuynh hướng,<br /> phương pháp sáng tác mà người ta chia văn<br /> xuôi Việt Nam 1930 – 1945 ra thành văn xuôi<br /> lãng mạn, văn xuôi hiện thực phê phán, văn<br /> xuôi hiện thực xã hội chủ nghĩa (yêu nước,<br /> cách mạng). Cách phân loại phổ biến này<br /> được đề cập trong sách giáo khoa ngữ văn<br /> phổ thông, giáo trình Văn học Việt Nam dành<br /> cho các trường đại học, cao đẳng và trung cấp<br /> chuyên nghiệp hay một số chuyên luận về<br /> truyện ngắn, tiểu thuyết như: Tiểu thuyết Việt<br /> Nam hiện đại, Truyện ngắn Việt Nam – lịch<br /> sử - thi pháp – chân dung (Phan Cự Đệ chủ<br /> *<br /> <br /> Tel: 0982 339388, Email: quysonls@gmail.com<br /> <br /> biên), Truyện ngắn – Những vấn đề lý thuyết<br /> và thực tiễn thể loại (Bùi Việt Thắng)...<br /> Thứ hai là dựa vào thi pháp thể loại mà chia<br /> ra thành truyện tâm lý, truyện phiêu lưu,<br /> truyện kinh dị... Trong Nhà văn hiện đại, Vũ<br /> Ngọc Phan chia tiểu thuyết làm mười loại:<br /> phong tục, luận đề, luân lý, xã hội, truyền kỳ,<br /> hoạt kê, tả chân, tình cảm, trinh thám, phóng<br /> sự. Trước đó, Phạm Quỳnh đã chia tiểu thuyết<br /> làm ba loại: ngôn tình, tả thực, truyền kỳ.<br /> Cách phân loại mà Phạm Quỳnh, Vũ Ngọc<br /> Phan đề xuất phần nào dựa trên Bách khoa tự<br /> điển của phương Tây từ đầu thế kỷ XX. Càng<br /> về sau, cách phân chia văn học nói chung,<br /> truyện nói riêng theo thi pháp thể loại càng<br /> được sử dụng rộng rãi. Tuy nhiên, với văn<br /> học Việt Nam, không phải mọi mô hình trên<br /> đều phát triển. Có lẽ phát triển hơn cả là nhóm<br /> truyện luận đề, tả chân và tâm lý, tình cảm.<br /> Thứ ba là dựa vào sự kết hợp giữa thể loại<br /> văn học và các loại hình nghệ thuật khác như<br /> hội họa, sân khấu, sử thi, thơ trữ tình, hồi ký,<br /> nhật ký, bút ký, phóng sự, thư từ... Vì thế giai<br /> đoạn này mới xuất hiện các loại tiểu thuyết<br /> như: tiểu thuyết phóng sự (kiểu Lều chõng<br /> của Ngô Tất Tố), tiểu thuyết hoạt kê, trong đó<br /> có ảnh hưởng của hài kịch, tranh biếm họa<br /> (kiểu Số đỏ của Vũ Trọng Phụng), tiểu thuyết<br /> tự truyện (kiểu Những ngày thơ ấu của<br /> Nguyên Hồng)...<br /> 141<br /> <br /> Phùng Quý Sơn<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> <br /> Kiểu phân loại thứ tư là dựa theo đề tài, như:<br /> truyện lịch sử, truyện phong tục, truyện<br /> hương xa hay truyện địa phương (kiểu như<br /> truyện đường rừng của Lan Khai, Lý Văn<br /> Sâm hoặc truyện cao bồi miền Tây trong văn<br /> học Mỹ).<br /> Từ sớm, giới nghiên cứu và sáng tác văn học<br /> Việt Nam đã rất chú ý đến vấn đề thể loại văn<br /> học, coi đó là “các quy tắc đã được thiết lập,<br /> mà đồng thời vừa được xác định bởi tính cách<br /> của các nhà văn” [6; 408]. Và, khái niệm<br /> truyện (truyện thơ, văn xuôi) được sử dụng<br /> rộng rãi. Tuy nhiên, truyện (truyện ngắn, tiểu<br /> thuyết) hiện đại thì đến thế kỷ XX mới định<br /> hình. Theo nhiều tài liệu mà chúng tôi khảo<br /> sát được, thì năm 1887 bắt đầu có dấu hiệu<br /> của văn học hiện đại, được mở đầu bằng tác<br /> phẩm văn xuôi quốc ngữ: Truyện Thầy<br /> Lazaro Phiền của P.J.B Nguyễn Trọng Quản.<br /> Vấn đề phân chia thể loại ở văn học giao thời<br /> tương đối phức tạp, đặc biệt là văn xuôi.<br /> Bước sang giai đoạn văn học 1930 – 1945,<br /> khi mà nền văn học Việt Nam đã phát triển và<br /> có nhiều thành tựu thì việc phân loại sáng tác<br /> văn học bắt đầu được chú ý, tiêu chí phân loại<br /> cũng như ranh giới thể loại rõ ràng, thuyết<br /> phục hơn. Trong phạm vi bài viết, chúng tôi<br /> thử nghiệm phân chia văn xuôi giai đoạn này<br /> theo mô hình cấu trúc các nhóm truyện, mà<br /> nguyên tắc tổ chức truyện kể là tiêu chí xuyên<br /> suốt. Truyện - “khái niệm chỉ một thể loại tự<br /> sự, vốn bắt nguồn từ thuật ngữ cổ của hệ<br /> thống thể loại trong văn học Trung Quốc”<br /> [1; 1837]. Nhưng ở Trung Quốc, khái niệm<br /> truyện sớm bị khái niệm tiểu thuyết thay thế,<br /> trái lại, ở Việt Nam khái niệm truyện vẫn tồn<br /> tại từ thời cổ cho đến hiện nay. Tuy vậy, hàm<br /> nghĩa của thuật ngữ này có khác nhau trong<br /> văn học Việt Nam trung đại và hiện đại.<br /> Trở lên, các lý thuyết lần lượt được vận dụng<br /> để phân tích cấu trúc nền văn xuôi thế giới<br /> nói chung và văn xuôi Việt Nam nói riêng<br /> xuất phát từ bản thể của văn học, tư tưởng hệ,<br /> xã hội học... Song một trong những lý thuyết<br /> gợi ý quan trọng trong phân chia thể loại văn<br /> xuôi ở phương Tây chưa được quan tâm đúng<br /> mức là lý thuyết tự sự của Hayden White<br /> (1928) – một nhà sử học người Mỹ. Một số<br /> 142<br /> <br /> 98(10): 141 - 145<br /> <br /> công trình tiêu biểu của ông có thể kể đến là<br /> Metahistory: The Historical Imagimation in<br /> Nineteenth Century Europe (Siêu lịch sử: Sự<br /> tưởng tượng về lịch sử ở châu Âu thế kỷ<br /> XIX), The content of the Form: Narrative<br /> Discouse and Historical representatinon (Nội<br /> dung của hình thức: Diễn ngôn tự sự và sự<br /> biểu hiện lịch sử)... Luận điểm nền tảng để từ<br /> đó Heyden White triển khai toàn bộ tư tưởng<br /> của mình là: lịch sử như là tự sự. Các bộ lịch<br /> sử không đơn thuần chỉ là một bảng liệt kê<br /> các sự kiện theo niên biểu. Người viết sử bao<br /> giờ cũng có tham vọng mãnh liệt hơn, ngoài<br /> việc chép lại các sự kiện là móc nối, xâu<br /> chuỗi các sự kiện lại, để tạo thành một sự<br /> mạch lạc, có đầu có cuối. Lịch sử là một thứ<br /> truyện kể từ điểm nhìn của một ngôi thứ ba.<br /> Các sự kiện quá khứ chưa phải là lịch sử,<br /> chúng chỉ trở thành lịch sử khi được diễn giải.<br /> Heyden White quan tâm đến phương diện tu<br /> từ học lịch sử. Theo ông, các thủ pháp tu từ<br /> của văn chương không hề xa lạ với công việc<br /> viết sử. Các nhà viết sử cũng có các thao tác<br /> hư cấu của mình, theo đó, “những gì được<br /> phát kiến trong công trình lịch sử cũng nhiều<br /> như những gì được tìm thấy ở các sự kiện xảy<br /> ra” [3; 116]. Sử giống với tự sự ở chỗ nó<br /> không thể nào triệt tiêu được cốt truyện. Dựa<br /> vào khung phân loại mà Northrop Frye đề<br /> xuất trong công trình Anatomi of Criticism<br /> (Giải phẫu phê bình), Heyden White đã phân<br /> ra bốn loại hình truyện của tự sự học lịch sử<br /> là: lãng mạn (romance), bi kịch (tragedy), hài<br /> kịch (comedy), trào phúng (satire). Tương<br /> ứng với bốn mẫu gốc truyện này là các<br /> phương thức tranh biện và phương thức ngụ ý<br /> về tư tưởng hệ tương ứng. Lý thuyết của<br /> Heyden White đã gây được nhiều ảnh hưởng<br /> trong lĩnh vực sử học cũng như văn hóa, trong<br /> đó có văn học, đặc biệt có ý nghĩa trong<br /> nghiên cứu văn xuôi tự sự lịch sử. Từ bốn loại<br /> hình truyện mà tác giả đề xuất đã gợi trường<br /> liên tưởng tới thực tế văn xuôi Việt Nam giai<br /> đoạn 1930 – 1945. Văn xuôi giai đoạn này đã<br /> phản ánh trung thực, toàn diện diện mạo hiện<br /> thực xã hội Việt Nam trước cách mạng tháng<br /> Tám. Hệ thống sáng tác của các nhà văn luôn<br /> có sự đan xen phức hợp tinh thần lãng mạn,<br /> bi, hài và châm biếm, trào phúng.<br /> <br /> Phùng Quý Sơn<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> <br /> Từ nguyên tắc tổ chức cấu trúc truyện, các tác<br /> phẩm văn xuôi có thể được xếp thành các<br /> nhóm khác nhau. Đó được xem như là những<br /> mô hình tạo nghĩa hết sức năng động đã từng<br /> tồn tại trong lịch sử văn học. Vấn đề cấu trúc<br /> văn bản, theo Yu.Lotman được giải thích<br /> bằng khái niệm “không gian nghệ thuật”. Ông<br /> cho rằng: “Sự quan tâm tới vấn đề không gian<br /> nghệ thuật là kết quả của những quan niệm<br /> xem tác phẩm nghệ thuật như một không gian<br /> được giới hạn theo những kiểu nào đó, một<br /> không gian hữu hạn phản ánh bên trong một<br /> đối tượng vô hạn là cái thế giới bên ngoài tác<br /> phẩm” [5]. Không gian là tổng thể các đối<br /> tượng cùng loại (các hiện tượng, các trạng<br /> thái, các chức năng, các hình thể, các ý nghĩa<br /> của những biến thiên v.v…), giữa chúng có<br /> những mối quan hệ giống như những quan hệ<br /> không gian thông thường (tính liên tục,<br /> khoảng cách v.v…). Đồng thời, khi xem xét<br /> một tổng thể các đối tượng cụ thể như một<br /> không gian, người ta thường bỏ qua mọi<br /> thuộc tính của các đối tượng ấy, ngoại trừ<br /> những thuộc tính được xác định bởi các mối<br /> quan hệ không gian - đồng dạng được chú ý<br /> ấy. Vì thế mới có khả năng mô hình hoá<br /> không gian các khái niệm mà tự chúng vốn<br /> không có bản chất không gian. Với<br /> Yu.Lotman thì cấu trúc tự vận hành tuân theo<br /> cơ chế đối lập biện chứng và văn bản là sự<br /> tổng hòa của những đối lập cơ bản [5]. Cách<br /> lí giải này của Lotman theo G.Poetsov, mang<br /> dấu ấn triết học duy vật biện chứng của chủ<br /> nghĩa Mác. Theo cách lý giải mỗi văn bản là<br /> sự tổng hòa của những đối lập cơ bản và<br /> phương thức xác lập những mô hình thế giới<br /> từ những giới hạn của không gian thì văn xuôi<br /> Việt Nam 1930 – 1945 có thể phân chia thành<br /> ba kiểu mô hình truyện điển hình là lãng mạn,<br /> bi kịch và trào phúng.<br /> Về khái niệm “mô hình”, trong thực tế có<br /> nhiều cách quan niệm. Mô hình là vật cùng<br /> hình dạng được thu nhỏ để mô phỏng vật thật;<br /> là cái được tạo ra để tái tạo lại như thế; là một<br /> kiểu mẫu; hoặc “là hình thức diễn đạt hết sức<br /> ngắn gọn theo một ngôn ngữ nào đó các đặc<br /> trưng chủ yếu của một đối tượng, để nghiên<br /> cứu đối tượng ấy” [2; 638]. Song, trong văn<br /> chương, nếu có vận dụng khái niệm này thì<br /> <br /> 98(10): 141 - 145<br /> <br /> cũng chỉ là vận dụng một cách tương đối,<br /> khác với trong sản xuất công nghệ. Công<br /> nghệ đòi hỏi sự rập khuôn đến từng chi tiết,<br /> còn ở văn chương, sự thống nhất giữa các<br /> hiện tượng cùng mô hình chỉ thể hiện ở<br /> những đặc trưng cơ bản và ở cấp độ cấu trúc<br /> chứ không ở mọi chi tiết. Nói mô hình truyện<br /> trong văn xuôi Việt Nam 1930 – 1945 chính<br /> là nói đặc điểm văn xuôi Việt Nam 1930 –<br /> 1945. Đúng hơn, mô hình là một cách gọi cụ<br /> thể về các đặc điểm. Nếu đặc điểm là một<br /> khái niệm trung tính có nghĩa là nét khác biệt<br /> thì khái niệm mô hình lại có khả năng gợi ra<br /> tính lặp lại ở cấp độ cấu trúc tác phẩm và quy<br /> luật vận động thống nhất đặc thù của các tác<br /> phẩm văn xuôi 1930 – 1945. Nó cũng có<br /> nghĩa loại trừ những đặc điểm có tính cá thể,<br /> không phổ biến ở các tác phẩm cũng như ở<br /> từng tác giả, đồng thời thể hiện thái độ đánh<br /> giá không cao về trình độ nghệ thuật của các<br /> hiện tượng văn học này.<br /> 1. Mô hình truyện lãng mạn: Bức tranh thế<br /> giới trong mỗi tác phẩm văn xuôi thuộc mô<br /> hình truyện này được tổ chức trên cơ sở tương<br /> quan của những cặp đối lập cơ bản như “trong<br /> – ngoài”, “ánh sáng – bóng tối” trong xung<br /> đột giữa cái tôi cá nhân và xã hội cũ (kiểu<br /> Đoạn tuyệt, Lạnh lùng, Nửa chừng xuân, Đời<br /> mưa gió, Thoát ly, Thừa tự của các tiểu thuyết<br /> gia Tự lực văn đoàn), giữa con người và thiên<br /> nhiên (kiểu truyện đường rừng như Tiếng gọi<br /> của rừng thẳm, Suối đàn, Mọi rợ của Lan<br /> Khai; Vàng và máu, Gió trăng ngàn của Thế<br /> Lữ, Thần hổ, Ai hát giữa rừng khuya của<br /> TchyA, Kòn Trô, Răng Sa Mát của Lý Văn<br /> Sâm, Trường đời, Trận đời, Tôi là mẹ của Lê<br /> Văn Trương)... Nhân vật trung tâm của các<br /> xung đột này là những con người thường<br /> mang những “sứ mệnh cao cả” và cũng<br /> thường là người “chiến thắng”. Trong văn<br /> xuôi Tự lực văn đoàn, để bảo vệ tự do của cá<br /> nhân, cổ xúy cho phong trào Âu hóa trẻ trung,<br /> sôi nổi, văn minh, các nhân vật phải tuyên<br /> chiến với cả một nền tảng luân lí, đạo đức của<br /> xã hội phong kiến cũ. Họ có thể đau thương,<br /> mất mát nhưng cảm hứng chung vẫn là niềm<br /> tin chiến thắng, cởi trói và tự do về tinh thần,<br /> tâm tưởng như Loan, Dũng (Đoạn tuyệt), Mai<br /> (Nửa chừng xuân), Tuyết (Đời mưa gió)...<br /> 143<br /> <br /> Phùng Quý Sơn<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> <br /> Với loại truyện đường rừng, những thể<br /> nghiệm ban đầu, nhìn chung, mảng truyện<br /> này trước cách mạng đã có những thành công<br /> nhất định. Nó đã phản ánh chân thực, rõ nét<br /> đời sống con người trong mối quan hệ với<br /> thiên nhiên. Con người tìm về thiên nhiên là<br /> tìm về với bản thể tự nhiên thiêng liêng nhất<br /> của mình. Tiếng gọi của thiên nhiên làm cho<br /> con người “ở chốn này, người ta quên hết,<br /> quên hết để mà vui” ... “để họ bỗng thấy mình<br /> lâng lâng như đã rũ sạch được hết bụi trần”.<br /> Dưới ngòi bút của mình, các nhà văn đường<br /> rừng đã viết lên những “bản tình ca bất tận<br /> của thiên nhiên ban tặng con người”, đã đi<br /> vào “mọi ngõ ngách suối khe, đến từng ngọn<br /> cỏ, lá cây, nhị hoa, tiếng hót của vượn chim<br /> muôn loài, trong đó sâu lắng nhất là tâm trạng<br /> của con người trước thiên nhiên hoang dã và<br /> tình người muôn điệu như cuộc sống vẫn<br /> hằng sinh tồn” [4].<br /> 2. Mô hình truyện bi kịch: Nguyên tắc xây<br /> dựng xung đột để kiến tạo bức tranh thế giới<br /> của nhóm truyện này là dựa trên tổ chức các<br /> sự kiện đối lập như “trên cao – dưới thấp”,<br /> “thống trị - bị trị’ trong xung đột giai cấp, xã<br /> hội (kiểu Tắt đèn của Ngô Tất Tố, Bước<br /> đường cùng của Nguyễn Công Hoan, Giông<br /> tố của Vũ Trọng Phụng)...; đối lập giữa “giàu<br /> – nghèo”, “no – đói”... (kiểu Sống mòn, Đời<br /> thừa, Trăng sáng của Nam Cao). Nhân vật<br /> trung tâm của mô hình truyện bi kịch là nạn<br /> nhân của những hoàn cảnh. Họ hoặc bị giai<br /> cấp thống trị đè nén, áp bức bóc lột, bị đẩy<br /> đến bước đường cùng lâm vào những tấn<br /> thảm kịch đến mức phá sản, tương lai mịt<br /> mùng đen tối: anh Pha bị bọn lính nhà Nghị<br /> Lại “trói gô lại, khênh anh đi” (Bước đường<br /> cùng), Chị Dậu “vùng chạy ra ngoài sân, giữa<br /> lúc trời tối đen như mực và như cái tiền đồ<br /> của chị” (Tắt đèn), Chí Phèo “mắt hắn trợn<br /> ngược. Mồm hắn ngáp ngáp, muốn nói nhưng<br /> không ra tiếng. Ở cổ hắn, thỉnh thoảng máu<br /> vẫn còn ứa ra” (Chí Phèo)... Hoặc bi kịch của<br /> họ do hoàn cảnh xã hội, cuộc sống “ghì sát<br /> đất” trong nghèo đói. Nhân vật của dạng bi<br /> kịch thứ hai này thường là những con người<br /> giàu suy nghĩ, nhận thức. Họ ôm những hoài<br /> bão, lý tưởng hay phụng sự một “trách nhiệm<br /> lương tâm cao cả” do không chịu khuất phục<br /> 144<br /> <br /> 98(10): 141 - 145<br /> <br /> hoàn cảnh mà lâm vào những bi kịch đầy xót<br /> xa – bi kịch của những con người tự ý thức, bi<br /> kịch nội tâm. Nếu như Thứ, Điền, Hộ cứ thỏa<br /> sức vẫy vùng, nhẹ gánh tang bồng thì có lẽ họ<br /> sẽ đạt được ước mơ của mình. Nhưng cái tạng<br /> “giàu tình thương”, “giàu lòng nhân ái” khiến<br /> họ bị hệ lụy. Ngay Lão Hạc, một “lão nông tri<br /> điền” cũng biết chọn cái chết dù đớn đau, tủi<br /> nhục để giữ trọn thiên lương để vợ con không<br /> xấu hổ, thất vọng về lão. Bằng hệ thống ngôn<br /> từ giàu nhựa sống, giọng điệu cảm thương,<br /> tinh thần nhân đạo sâu sắc, các nhà văn đã<br /> dẫn người đọc đến những cái kết đầy ám<br /> ảnh, day dứt về những bi kịch cuộc đời<br /> trong từng truyện.<br /> 3. Mô hình truyện trào phúng: Truyện được<br /> xây dựng trên cơ sở các cặp đối lập “nội dung<br /> – hình thức” “bản chất – hiện tượng” “tất<br /> nhiên – ngẫu nhiên” “logic – phi logic” trong<br /> xung đột xã hội (kiểu Số đỏ của Vũ Trọng<br /> Phụng, Hai cái bụng, Răng con chó của nhà<br /> tư sản, Tinh thần thể dục, Xin chữ cụ<br /> Nghè...của Nguyễn Công Hoan). Truyện Hai<br /> cái bụng, tác giả xây dựng trên cơ sở đối lập<br /> giữa hai sự vật khác nhau về bản chất, kết hợp<br /> với cường điệu, phóng đại cả hai bản chất đó<br /> đến mức quá đáng để bật ra tiếng cười. Phần<br /> đầu là tình cảnh thằng bé ăn mày lang thang,<br /> đói rách. Phần sau là một bà béo quá đến nỗi<br /> “cổ rụt, má chảy, bụng xệ” đã mời nhiều loại<br /> thầy thuốc mà bệnh vẫn chưa khỏi. Vì hôm đi<br /> ăn cỗ cưới bà ăn quá nhiều bóng, mực, long<br /> tu... nên đến nay, bụng vẫn cứ bình bịch,<br /> không đói cho. Nhân vật xuất hiện trước mặt<br /> người đọc ở hai tình trạng: kẻ ăn không hết,<br /> người lần chẳng ra. Trong Răng con chó của<br /> nhà tư sản thì tiếng cười bật lên từ sự vạch rõ<br /> mâu thuẫn trong một con người, sự đối lập<br /> giữa cái bề ngoài giàu sang và tâm địa độc ác<br /> của một thằng tư sản bên cạnh một bản chất<br /> khác tức là người ăn mày đói khát, rách dưới<br /> đến quá mức. Tiếng cười còn trở lên dồn dập,<br /> liên hoàn ở nghệ thuật tổ chức tầng tầng lớp<br /> lớp các sự kiện đối lập trong tiểu thuyết Số đỏ<br /> của Vũ Trọng Phụng. Ở đối lập về “nội dung<br /> – hình thức” thì còn gì vô lý hơn một thằng<br /> vô lại, vô học như Xuân tóc đỏ lại là một đốc<br /> tờ, triết gia, thi sĩ, nhà cải cách xã hội, anh<br /> hùng cứu quốc; một mụ me tây dâm ô đến<br /> <br /> Phùng Quý Sơn<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> <br /> như Phó Đoan mà lại được sắc ban “tiết hạnh<br /> khả phong”... Đối lập giữa “ngẫu nhiên – tất<br /> nhiên” ở chỗ là ngẫu nhiên Xuân có “số đỏ”<br /> nhưng “tất nhiên” lại ở chỗ, nếu thằng Xuân<br /> không dâm thì làm sao lọt vào mắt bà Phó<br /> Đoan? Nếu nó không thạo nghề quảng cáo<br /> thuốc lậu, không có chất liều lĩnh của thằng<br /> vô giáo dục thì làm sao có được thành công ở<br /> tiệm Âu hóa?... Đối lập giữa “hiện tượng –<br /> bản chất” còn gì hài hước hơn “hạnh phúc của<br /> một tang gia”? Cách tổ chức truyện trên cơ sở<br /> những đối lập cơ bản như thế các nhà văn trào<br /> phúng đã xây dựng được nhiều hình tượng<br /> nghệ thuật độc đáo với mục đích cao cả khiến<br /> cho con người, xã hội thêm nhân văn hơn.<br /> KẾT LUẬN<br /> - Cách phân chia mô hình truyện theo nguyên<br /> tắc tổ chức văn bản là những khái quát có tính<br /> loại hình trên những lý lẽ khả thủ nhưng<br /> không thể toàn diện và bao hàm hết các hiện<br /> tượng văn học đặc sắc, phong cách sáng tác<br /> độc đáo trong một thời đại văn học phát triển<br /> rực rỡ nhất của lịch sử văn học dân tộc.<br /> <br /> 98(10): 141 - 145<br /> <br /> - Mỗi tiêu chí để phân loại văn xuôi đều xuất<br /> phát từ cơ sở lý thuyết và đã được kiểm<br /> chứng. Không có lý thuyết nào là toàn diện,<br /> giữa chúng có sự giao thoa, bổ khuyết nhằm<br /> trang bị kiến thức công cụ giúp cho người đọc<br /> tìm được giá trị thẩm mỹ đích thực của tác<br /> các phẩm văn học.<br /> TÀI LIỆU THAM KHẢO<br /> [1]. Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn<br /> Tửu, Trần Hữu Tá (2004), Từ điển văn học (bộ<br /> mới), Nxb Thế giới.<br /> [2]. Hoàng Phê (2000), Từ điển Tiếng Việt, Nxb<br /> Đà Nẵng, Trung tâm Từ điển học.<br /> [3]. Trần Đình Sử (2008), Tự sự học - một số vấn<br /> đề lí luận và lịch sử (phần 2), Nxb ĐHSP Hà Nội.<br /> [4]. Nguyễn Thanh Trường (2006), Một vài đặc<br /> điểm của truyện viết về miền núi giai đoạn 19301945, Tạp chí Khoa học, Số 5, ĐHSP Hà Nội.<br /> [5].http://vanhoanghean.vn/nhung-goc-nhin-vanhoa/goc-nhin-van-hoa/3529-ket-cau-tac-phamnghe-thuat-ngon-tu-ky-2.html.<br /> [6]. R.Wellek và A.Warren (2009), Lí luận văn<br /> học, Nxb Văn học.<br /> <br /> SUMMARY<br /> DISCUSSING ABOUT VIETNAM’S PROSE CLASSIFICATION<br /> IN THE PERIOD OF 1930 – 1945<br /> Phung Quy Son*<br /> Lang Son College of Education<br /> <br /> Vietnam’s prose classification in the first half of the twentieth century into story groups has been<br /> tested by theoreticians several times and aims to be acceptable. Among them, the classifiable<br /> criterion is the main factor. A number of criteria popularly used such as: poetics genre, writing<br /> methods, realistic range is reflected in the work (theme), and combination of literary genres and<br /> different types of arts (music, painting, architecture, etc.). We test classifying prose into story<br /> groups based on the principle of event organization.<br /> Key words: classifying prose, story groups, event organization.<br /> <br /> Ngày nhận bài: 05/9/2012, ngày phản biện: 16/10/2012, ngày duyệt đăng:12/11/2012<br /> *<br /> <br /> Tel: 0982 339388, Email: quysonls@gmail.com<br /> <br /> 145<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2