intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Bàn về các căn cứ miễn trách nhiệm hình sự trong bộ Luật Hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017)

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

101
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết này tập trung phân tích, luận giải các căn cứ miễn trách nhiệm hình sự trong Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) góp phần làm sáng tỏ nội dung, ý nghĩa và giá trị quy phạm pháp luật, đồng thời, tiếp tục kiến nghị một số giải pháp lập pháp góp phần hoàn thiện quy định về miễn trách nhiệm hình sự, trên cơ sở đó nâng cao hiệu quả thực tiễn áp dụng trong phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Bàn về các căn cứ miễn trách nhiệm hình sự trong bộ Luật Hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017)

  1. Soá 2/2018 - Naêm thöù Möôøi Ba NGHIEÂ N CÖÙ U - TRAO ÑOÅ I BÀN VỀ CÁC CĂN CỨ MIỄN TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 2015 (SỬA ĐỔI, BỔ SUNG NĂM 2017) Hoàng Minh Đức1 Lê Quang Thắng2 Tóm tắt: Trong lịch sử lập pháp hình sự của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, chính sách hình sự nhân đạo và khoan hồng luôn được đề cập một cách sâu sắc, đầy đủ, toàn diện trong các quy định của Bộ luật Hình sự, đặc biệt là các quy định về miễn trách nhiệm hình sự, loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, giảm thời hạn chấp hành hình phạt, miễn chấp hành hình phạt, tha tù trước thời hạn có điều kiện, án treo, xóa án tích. Bài viết này tập trung phân tích, luận giải các căn cứ miễn trách nhiệm hình sự trong Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) góp phần làm sáng tỏ nội dung, ý nghĩa và giá trị quy phạm pháp luật, đồng thời, tiếp tục kiến nghị một số giải pháp lập pháp góp phần hoàn thiện quy định về miễn trách nhiệm hình sự, trên cơ sở đó nâng cao hiệu quả thực tiễn áp dụng trong phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm. Từ khóa: Trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt Nhận bài:05/11/2017; Hoàn thành biên tập:12/03/2018; Duyệt in: 02/04/2018 Abstract: In the history of criminal law of Vietnam, humanitarian and munificent criminal policies are always mentioned in full depth in the provisions of Penal Codes, particularly in regulations on exemption or conviction expungement from criminal liability, exemption from punishment, reduction of sentence duration, exemption from serving sentences, conditional parole, probation, conviction expungement. This article focuses on analysis and interpretation the basis for exemption from criminal responsibility in the Criminal Code 2015 (amended in 2017), contributing to clarify the content, the meaning, and the value of legal norms. The author also recommends some legislative solutions which contribute to improving regulations on exemption from criminal liability, and hence enhancing the effect of prevention and fighting against crimes in practice. Keywords: Criminal liability, exemption from criminal liability, exemption from punishment Date of receipt: 05/11/2017;Date of revision: 12/03/2018; Date of approval: 02/04/2018 Có thể khẳng định, tội phạm và trách nhiệm chịu trách nhiệm hình sự, trong những trường hình sự (hình phạt, các biện pháp tư pháp, miễn hợp khi có đủ các căn cứ và điều kiện nhất định hình phạt, án tích) là những chế định cơ bản của người phạm tội có thể được miễn trách nhiệm Luật hình sự. Theo nguyên tắc chung, tội phạm hình sự. thì phải chịu trách nhiệm hình sự. Đây là hậu quả Miễn trách nhiệm hình sự là chế định thể hiện pháp lý bất lợi mà người phạm tội hoặc pháp rõ chính sách hình sự khoan hồng, nhân đạo của nhân thương mại phạm tội phải gánh chịu trước Đảng và Nhà nước ta trong việc xử lý đối với Nhà nước. Với ý nghĩa đó, trách nhiệm hình sự người phạm tội, bằng việc không buộc người được đặt ra nhằm bảo đảm cho hoạt động xử lý phạm tội phải gánh chịu hậu quả pháp lý bất lợi người phạm tội hoặc pháp nhân thương mại vì đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị phạm tội một cách kịp thời, nhanh chóng và công coi là tội phạm. Chế định này đã được quy định minh. Mặc dù vậy, thực tiễn và lý luận pháp lý từ rất sớm trong lịch sử pháp luật hình sự Việt cho thấy rằng, không phải mọi trường hợp người Nam và tiếp tục được nghiên cứu, sửa đổi và quy phạm tội khi thực hiện hành vi phạm tội được định cụ thể hơn trong BLHS năm 2015 (sửa đổi, quy định trong Bộ luật Hình sự (BLHS) đều phải bổ sung năm 2017) với những điểm mới cả về 1 Tiến sỹ, Trường Đại học Cảnh sát nhân dân 2 Thạc sỹ, Học viện Cảnh sát nhân dân 3
  2. HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP nội dung, hình thức và kỹ thuật lập pháp. Trong đổi, bổ sung năm 2017) đã điều chỉnh tên điều phạm vi bài viết này, tác giả tập trung trình bày, luật và thứ tự tại Điều 25 (Miễn trách nhiệm hình luận giải làm sáng tỏ nội hàm, bản chất của các sự) thành Điều 29 (Căn cứ miễn trách nhiệm hình căn cứ miễn trách nhiệm hình sự, trên cơ sở đó sự). Đồng thời, quy định việc áp dụng các biện kiến nghị một số giải pháp góp phần nâng cao pháp xử lý chuyển hướng đối với người dưới 18 nhận thức và hiệu quả thực tiễn hoạt động áp tuổi phạm tội trong trường hợp được miễn trách dụng pháp luật hình sự trong phòng ngừa và đấu nhiệm hình sự nhằm tạo cơ sở pháp lý đảm bảo tranh chống tội phạm. lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi phạm tội. Thứ nhất, về cơ sở pháp lý của miễn trách Đặc biệt, xuất phát từ thực tiễn công tác nhiệm hình sự. Theo quy định của BLHS năm phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm, khoản 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), chế định miễn 3 Điều 29 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung trách nhiệm hình sự được quy định tại phần năm 2017) đã bổ sung quy định: “Người thực chung và phần các tội phạm, bao gồm các trường hiện tội phạm nghiêm trọng do vô ý hoặc tội hợp cụ thể dưới đây: phạm ít nghiêm trọng gây thiệt hại về tính mạng, Một là, miễn trách nhiệm hình sự trong sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của trường hợp tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm người khác, đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường tội quy định tại Điều 16 BLHS; thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả và được người Hai là, miễn trách nhiệm hình sự khi có bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người những căn cứ nhất định quy định tại khoản 1, 2, bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách 3 Điều 29 BLHS; nhiệm hình sự, thì có thể được miễn trách nhiệm Ba là, miễn trách nhiệm hình sự đối với hình sự”. người 18 tuổi phạm tội khi thuộc một trong các Thứ ba, về thẩm quyền miễn trách nhiệm trường hợp quy định tại điểm a, b, c khoản 2 hình sự. Nghiên cứu về các trường hợp được Điều 91 BLHS; hoặc có thể được miễn trách nhiệm hình sự quy Bốn là, miễn trách nhiệm hình sự khi thuộc định trong BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 110, khoản năm 2017) có thể khẳng định, chủ thể có thẩm 7 Điều 364, khoản 6 Điều 365, khoản 2 Điều 390 quyền miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm BLHS. tội bao gồm Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Năm là, miễn trách nhiệm hình sự khi hết Tòa án tùy thuộc vào từng giai đoạn cụ thể của thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự quy định hoạt động truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tại Điều 27 BLHS. người phạm tội. Thứ hai, về kỹ thuật lập pháp hình sự. Miễn Thứ tư, về nội hàm, bản chất của các căn cứ trách nhiệm hình sự được thể hiện dưới hai hình miễn trách nhiệm hình sự thức hoặc là “được miễn trách nhiệm hình sự” BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) hoặc là “có thể được miễn trách nhiệm hình sự” phân chia các trường hợp miễn trách nhiệm hình và được BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm sự thành hai hình thức “được” (bắt buộc) hoặc 2017) quy định một cách chi tiết, cụ thể, rõ ràng “có thể được” (tùy nghi) miễn trách nhiệm hình và thống nhất. sự với những nội dung chủ yếu sau đây: Ngoài các trường hợp miễn trách nhiệm hình Một là, về các trường hợp được miễn trách sự quy định tại Điều 16, Điều 110, khoản 7 Điều nhiệm hình sự quy định tại Điều 16, Điều 27, 364, khoản 6 Điều 365, khoản 2 Điều 390 và khoản 1 Điều 29, khoản 4 Điều 110 BLHS. Điều 27 BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm - Miễn trách nhiệm hình sự trong trường hợp 2017) về cơ bản giống như quy định về miễn tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội. Điều 16 trách nhiệm hình sự trong BLHS năm 1999 (sửa BLHS quy định: “Tự ý nửa chừng chấm dứt việc đổi, bổ sung năm 2009). BLHS năm 2015 (sửa phạm tội là tự mình không thực hiện tội phạm đến 4
  3. Soá 2/2018 - Naêm thöù Möôøi Ba cùng, tuy không có gì ngăn cản. Người tự ý nửa lý do nào khác mà cơ quan có thẩm quyền không chừng chấm dứt việc phạm tội được miễn trách ra quyết định truy nã thì việc truy cứu trách nhiệm nhiệm hình sự về tội định phạm; nếu hành vi thực hình sự đối với họ không còn cần thiết nữa và tế đã thực hiện có đủ yếu tố cấu thành của một tội trường hợp này họ được miễn trách nhiệm hình khác, thì người đó phải chịu trách nhiệm hình sự sự. Quy định này nhằm bảo đảm nguyên tắc xử lý về tội này”. Có thể khẳng định, tự ý nửa chừng đã được quy định cụ thể tại điểm a, khoản 1 Điều chấm dứt việc phạm tội là một trường hợp phạm 3 và điểm a, khoản 2 Điều 3 BLHS: “Mọi hành vi tội đặc biệt, khi người phạm tội hoàn toàn có khả phạm tội do người thực hiện phải được phát hiện năng và điều kiện để thực hiện hành vi phạm tội kịp thời, xử lý nhanh chóng, công minh theo đúng đến cùng mặc dù không có gì ngăn cản nhưng pháp luật. Mọi hành vi phạm tội do pháp nhân người phạm tội đã lựa chọn cách thức xử sự là thương mại thực hiện phải được phát hiện kịp không tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội của thời, xử lý nhanh chóng, công minh theo đúng mình một cách tự nguyện và dứt khoát khi tội pháp luật”. Mặt khác, quy định này tạo cơ sở pháp phạm đang ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội hoặc lý góp phần nâng cao tinh thần trách nhiệm và phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành. Chính việc hiệu quả hoạt động áp dụng pháp luật hình sự của lựa chọn cách thức xử sự này đã phần nào thể các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, đồng hiện thái độ ăn năn, hối cải, sự thức tỉnh lương thời, là giải pháp để đảm bảo quyền con người, tâm của người phạm tội và đối với họ thiết nghĩ quyền công dân không bị xâm phạm trong bất kỳ việc áp dụng các hình thức trách nhiệm hình sự là trường hợp nào từ phía các cán bộ và cơ quan không thực sự cần thiết. Với ý nghĩa đó, Nhà công quyền. nước quy định trường hợp tự ý nửa chừng chấm - Miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm dứt việc phạm tội thì người phạm tội được miễn tội do có sự thay đổi chính sách, pháp luật hoặc trách nhiệm hình sự về tội định phạm. khi có quyết định đại xá. Theo quy định tại khoản - Miễn trách nhiệm hình sự khi hết thời hiệu 1 Điều 29 BLHS thì người phạm tội được miễn truy cứu trách nhiệm hình sự. Điều 27 BLHS quy trách nhiệm hình sự nếu có một trong các căn cứ định: “Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là sau đây: thời hạn do Bộ luật này quy định mà khi hết thời + Khi tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử, hạn đó thì người phạm tội không bị truy cứu trách do có sự thay đổi chính sách, pháp luật làm cho nhiệm hình sự”. Như vậy, đối với trường hợp hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã người phạm tội sau khi thực hiện tội phạm mà tội hội nữa. Căn cứ này xuất hiện không phụ thuộc phạm đó không thuộc nhóm các tội xâm phạm an vào ý thức chủ quan của người phạm tội, dù có ninh quốc gia quy định tại Chương XIII của thể sau khi thực hiện hành vi phạm tội người BLHS, nhóm các tội phá hoại hòa bình, chống loài phạm tội tỏ rõ thái độ ăn năn hối cải, tự nguyện người và tội phạm chiến tranh quy định tại sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục Chương XXVI của BLHS, tội tham ô tài sản thuộc hậu quả, tích cực hợp tác với cơ quan có trách trường hợp quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong 353 của BLHS, tội nhận hối lộ thuộc trường hợp quá trình giải quyết vụ án, đã lập công chuộc quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 354 của tội… Điều này có nghĩa, việc hành vi phạm tội BLHS đã trải qua một khoảng thời gian nhất định không còn nguy hiểm nữa hoàn toàn do khách (05 năm đối với tội phạm ít nghiêm trọng; 10 năm quan xuất phát từ quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đối với tội phạm nghiêm trọng; 15 năm đối với tội của Đảng và Nhà nước thể hiện rõ trong chính phạm rất nghiêm trọng; 20 năm đối với tội phạm sách, pháp luật. Khi có căn cứ này người phạm đặc biệt nghiêm trọng) họ không thực hiện hành vi tội đương nhiên được miễn trách nhiệm hình sự. phạm tội mới hoặc không trốn tránh và không có Chẳng hạn, theo quy định tại điểm b, khoản 2, quyết định hoặc cố tình trốn tránh nhưng vì bất kỳ Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 5
  4. HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP 20/6/2017 của Quốc hội về việc thi hành BLHS còn đối với bất kỳ ai đã phạm vào một trong số 100/2015/QH13 đã được sửa đổi, bổ sung một những loại tội được hưởng đại xá; số điều theo Luật số 12/2017/QH14 thì kể từ Đại xá thuộc thẩm quyền quyết định của ngày 03/7/2017 không xử lý về hình sự đối với Quốc hội; người thực hiện hành vi mà BLHS năm 1999 quy Người được đại xá được trả tự do ngay, được định là tội phạm nhưng BLHS năm 2015 không phục hồi toàn bộ quyền công dân và coi như không quy định là tội phạm, bao gồm: tảo hôn; báo cáo phạm tội (tương tự như xóa án tích hiện nay). sai trong quản lý kinh tế; vi phạm quy định về Thực tiễn lịch sử lập pháp hình sự ở nước ta cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp; từ sau cách mạng tháng 8 năm 1945 đến nay cho sử dụng trái phép quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ thấy, nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam của tổ chức tín dụng; không chấp hành các quyết đã hai lần ra quyết định đại xá tội phạm, cụ thể: định hành chính của cơ quan nhà nước có thẩm Đại xá năm 1945 nhân sự kiện thắng lợi của cách quyền về việc đưa vào cơ sở giáo dục, cơ sở chữa mạng tháng Tám và sự ra đời của nước Việt Nam bệnh, quản chế hành chính; hành vi theo BLHS năm dân chủ cộng hòa, theo Sắc lệnh số 52/SL ngày 1999 (được hướng dẫn thi hành trong các văn 20/10/1945 của Chủ tịch Chính phủ lâm thời. Đại bản quy phạm pháp luật) là tội phạm nhưng do có xá năm 1954 nhân dịp giải phóng thủ đô Hà Nội, sửa đổi, bổ sung, thay đổi các yếu tố cấu thành thực hiện đại xá theo Thông tư số 413-TTg ngày tội phạm nên hành vi đó không cấu thành tội 09/11/1954 của Thủ tướng Chính phủ, sau khi có phạm nữa. Nếu vụ án đã khởi tố, đang điều tra, kết luận của Hội đồng Chính phủ và được sự thỏa truy tố, xét xử thì phải đình chỉ; trường hợp thuận của Ban Thường trực Quốc hội. Đây là đợt người bị kết án đang chấp hành hình phạt hoặc đại xá khi Nhà nước đã có Hiến pháp, nhưng đang được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt thì Hiến pháp năm 1946 lại không quy định cụ thể được miễn chấp hành phần hình phạt còn lại; về thẩm quyền quyết định đại xá. trường hợp người bị kết án chưa chấp hành hình - Miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm phạt hoặc đang được hoãn chấp hành hình phạt tội gián điệp. Khoản 4 Điều 110 BLHS quy định: thì được miễn chấp hành toàn bộ hình phạt. “Người đã nhận làm gián điệp, nhưng không + Đại xá là sự tha miễn, khoan hồng ở mức thực hiện nhiệm vụ được giao và tự thú, thành cao hơn nhiều so với đặc xá, do đó, thẩm quyền khẩn khai báo với cơ quan nhà nước có thẩm quyết định cũng cao hơn (thuộc về Quốc hội) và quyền, thì được miễn trách nhiệm hình sự về tội việc áp dụng hình thức tha miễn này cũng ít phổ này”. Đây là trường hợp người phạm tội đã đồng biến hơn. Quyết định đại xá chính là một trong ý, chấp thuận hoặc tiếp nhận mục đích về việc sẽ những căn cứ miễn trách nhiệm hình sự đối với thực hiện một trong các hành vi như: Hoạt động người phạm tội. tình báo, phá hoại hoặc gây cơ sở để hoạt động Nghiên cứu quy định của pháp luật có thể tình báo, phá hoại chống nước Cộng hòa xã hội khẳng định, đại xá có một số đặc điểm cơ bản chủ nghĩa Việt Nam; Gây cơ sở để hoạt động tình dưới đây3: báo, phá hoại theo sự chỉ đạo của nước ngoài; Đại xá là sự tha miễn hoàn toàn đối với hoạt động thám báo, chỉ điểm, chứa chấp, dẫn một số loại tội phạm nhất định trong một thời đường hoặc thực hiện hành vi khác giúp người điểm nhất định, không liên quan đến việc người nước ngoài hoạt động tình báo, phá hoại; Cung được tha đã bị kết án hay chưa, không phụ cấp hoặc thu thập nhằm cung cấp bí mật Nhà thuộc vào yếu tố nhân thân hoặc thái độ cải tạo nước cho nước ngoài; thu thập, cung cấp tin tức, của người đó; tài liệu khác nhằm mục đích để nước ngoài sử Đại xá được áp dụng không chỉ đối với người dụng chống nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt đang bị giam giữ để điều tra hoặc thi hành án, mà Nam. Nhưng trước khi hành vi phạm tội bị phát 3 Nguyễn Ngọc Anh (2007), Hoàn thiện pháp luật về đặc xá ở Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội, tr.23-24. 6
  5. Soá 2/2018 - Naêm thöù Möôøi Ba giác người phạm tội đã không thực hiện nhiệm nhiệm hình sự. Đây là trường hợp miễn trách vụ như đã hứa hẹn, thỏa thuận, dự định, đồng nhiệm hình sự lần đầu tiên được pháp điển hóa thời, người phạm tội đã tự thú, thành khẩn khai trong BLHS. Trong mối tương quan với quy định báo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về khởi tố được miễn trách nhiệm hình sự. theo yêu cầu của người bị hại:“Chỉ được khởi tố Hai là, về các trường hợp có thể được miễn vụ án hình sự về tội phạm quy định tại khoản 1 trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2, 3 Điều các Điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155, 29, khoản 2 Điều 91, khoản 7 Điều 364, khoản 6 156 và 226 của BLHS khi có yêu cầu của người Điều 365, khoản 2 Điều 390 BLHS. bị hại hoặc người đại diện của người bị hại là - Miễn trách nhiệm hình sự trong trường hợp người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm trước khi hành vi phạm tội bị phát giác, người thần hoặc thể chất hoặc đã chết” thì quy định phạm tội tự thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu này có phạm vi điều chỉnh rộng hơn, bao quát quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố hơn và có tính linh hoạt hơn, góp phần thúc đẩy gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội quá trình tự nguyện hòa giải giữa các bên, đồng phạm và lập công lớn hoặc có cống hiến đặc biệt, thời, có khả năng khắc phục trong chừng mực được Nhà nước và xã hội thừa nhận. Đây là nhất định những hậu quả, mất mát về sức khỏe, trường hợp các cơ quan có thẩm quyền tiến hành danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản do người phạm tố tụng có thể miễn trách nhiệm hình sự cho tội gây ra cho người bị hại, khuyến khích người người phạm tội, khi người phạm tội có những phạm tội tích cực sửa chữa lỗi lầm, bồi thường biểu hiện chuyển biến rõ rệt về nhận thức, thái thiệt hại, ăn năn hối cải và đối với người phạm tội độ bằng việc tự thú nhận về hành vi phạm tội của có đủ các điều kiện nêu trên thiết nghĩ việc truy mình mặc dù chưa bị phát giác, thành khẩn khai cứu trách nhiệm hình sự đối với họ thực sự báo, ăn năn hối cải, góp phần có hiệu quả vào không còn cần thiết mà được thay thế bằng các việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn hình thức xử lý khác một cách linh hoạt, hợp lý, chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm, nhân văn. Đồng thời, quy định này cũng phần đồng thời, người phạm tội phải lập công lớn hoặc nào tháo bỏ những rào cản về mặt pháp lý tồn tại có cống hiến đặc biệt, tức là đã có hành động trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử các vụ án giúp cơ quan nhà nước có thẩm quyền phát hiện, hình sự những năm qua, tạo khả năng nhận thức truy bắt, điều tra tội phạm; cứu được người khác và vận dụng pháp luật hình sự sáng tạo, linh hoạt trong tình thế hiểm nghèo hoặc đã cứu được tài của các cơ quan có thẩm quyền. sản của nhà nước, của tập thể, của công dân trong - Miễn trách nhiệm hình sự trong trường hợp thiên tai, hoả hoạn; có những phát minh, sáng chế khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử do chuyển hoặc sáng kiến có giá trị hoặc thành tích xuất sắc biến của tình hình mà người phạm tội không còn đột xuất khác được các cơ quan có thẩm quyền nguy hiểm cho xã hội nữa (quy định tại điểm a xác nhận4. khoản 2 Điều 29). Đây là trường hợp mà các cơ - Miễn trách nhiệm hình sự khi người thực quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có thể hiện tội phạm nghiêm trọng do vô ý hoặc tội miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội khi phạm ít nghiêm trọng gây thiệt hại về tính mạng, mà tình hình kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của đã có sự thay đổi, chuyển biến và sự thay đổi người khác, đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường chuyển biến đó hoàn toàn không lệ thuộc vào thái thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả và được người độ, ý thức chủ quan của người phạm tội sau khi bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị đã thực hiện tội phạm. Thực tiễn nhận thức và hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách vận dụng căn cứ này, các cơ quan có thẩm quyền 4 Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTP ngày 02/10/2007 Hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Hình sự về thời hiệu thi hành bản án, miễn chấp hành hình phạt, giảm thời hạn chấp hành hình phạt. 7
  6. HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP tiến hành tố tụng cần cân nhắc xem xét mối quan AIDS, đang có nhiễm trùng cơ hội, không có khả hệ giữa sự thay đổi của tình hình đời sống chính năng tự phục vụ bản thân và có tiên lượng xấu, trị xã hội gắn với chính bản thân người phạm tội nguy cơ tử vong cao. tại từng thời điểm cụ thể (được chứng minh bằng - Miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng các việc họ đã hoàn lương, chăm chỉ làm ăn, tham biện pháp xử lý chuyển hướng đối với người gia các hoạt động xã hội... hoặc do họ mắc bệnh dưới 18 tuổi phạm tội (khiển trách; hòa giải tại hiểm nghèo...) để quyết định nên hay không nên cộng đồng; giáo dục tại xã, phường, thị trấn)6. miễn trách nhiệm hình sự đối với họ. Khoản 2 Điều 91 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ - Miễn trách nhiệm hình sự trong trường hợp sung năm 2017) quy định:“Người dưới 18 tuổi khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử, người phạm phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây tội mắc bệnh hiểm nghèo dẫn đến không còn khả và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, tự nguyện khắc năng gây nguy hiểm cho xã hội nữa (quy định tại phục phần lớn hậu quả, nếu không thuộc trường điểm b khoản 2 Điều 29). Đây là trường hợp mà hợp quy định tại Điều 29 của Bộ luật này, thì có các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có thể được miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng thể miễn trách nhiệm hình sự khi người phạm tội một trong các biện pháp quy định tại Mục 2 sau khi thực hiện tội phạm đã lâm vào tình trạng Chương này: a) Người từ đủ 16 tuổi đến dưới18 mắc bệnh hiểm nghèo và tình trạng bệnh này làm tuổi phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm cho người phạm tội không còn khả năng gây trọng, trừ tội phạm quy định tại các điều 134, nguy hiểm cho xã hội nữa. Đây là quy định thể 141, 171, 248, 249, 250, 251 và 252 của Bộ luật hiện rõ chính sách hình sự khoan hồng và nhân này; b) Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi đạo của Đảng và Nhà nước, khi thấy không cần phạm tội rất nghiêm trọng quy định tại khoản 2 thiết phải truy cứu trách nhiệm hình sự người Điều 12 của Bộ luật này, trừ tội phạm quy định phạm tội trong tình trạng mắc bệnh hiểm nghèo tại các điều 123, 134, 141, 142, 144, 150, 151, như: Ung thư giai đoạn cuối, liệt, lao nặng kháng 168, 171, 248, 249, 250, 251 và 252 của Bộ luật thuốc, xơ gan cổ chướng, suy tim độ III trở lên, này; c) Người dưới 18 tuổi là người đồng phạm suy thận độ IV trở lên, nhiễm HIV đã chuyển giai có vai trò không đáng kể trong vụ án”. đoạn AIDS đang có nhiễm trùng cơ hội, không Có thể khẳng định, khoản 2 Điều 69 BLHS có khả năng tự phục vụ bản thân và có tiên lượng năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) được xấu, nguy cơ tử vong cao hoặc mắc một trong xem là định hướng ban đầu cho việc xử lý các bệnh khác5. Lẽ tự nhiên, việc kết luận người chuyển hướng đối với người dưới 18 tuổi phạm phạm tội mắc bệnh hiểm nghèo và không còn tội, tạo cơ sở cho các cơ quan tiến hành tố tụng khả năng gây nguy hiểm cho xã hội nữa phải xem xét miễn trách nhiệm hình sự và giao người được thực hiện bởi các cơ quan có thẩm quyền, dưới 18 tuổi cho gia đình, cơ quan, tổ chức giám cụ thể: đối với phạm nhân bị bệnh nặng phải có sát, giáo dục. Tuy nhiên, việc thiếu các quy định kết luận của Hội đồng giám định y khoa hoặc bản rõ ràng, cụ thể đã cản trở việc áp dụng xử lý sao Bệnh án, kết luận của Bệnh viện cấp tỉnh chuyển hướng trong thực tiễn. Ngoài ra, thực tiễn hoặc cấp quân khu trở lên về tình trạng sức khỏe xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội theo quy định của người đó. Riêng phạm nhân bị nhiễm HIV tại khoản 2 Điều 69 BLHS năm 1999 cũng như đã chuyển giai đoạn AIDS phải có kết quả xét các chế tài không giam giữ thiếu bài bản, không nghiệm HIV theo quy định của Bộ Y tế và bản hiệu quả do thiếu các dịch vụ hỗ trợ và các nguồn sao Bệnh án hoặc kết luận của cơ quan y tế có nhân lực tại cộng đồng hạn chế. Do vậy, cần thiết thẩm quyền khẳng định đã chuyển giai đoạn phải bổ sung các quy định có liên quan của 5 Thông tư liên tịch số 03/2013/TTLT-BCA-TANDTC-VKSNDTC-BQP-BYT ngày 15/3/2013 Hướng dẫn thi hành quy định về tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù đối với phạm nhân. 6 TS. Hoàng Minh Đức (2016), Tìm hiểu về biện pháp xử lý chuyển hướng đối với người chưa thành niên phạm tội trong Bộ luật Hình sự năm 2015, Tạp chí Nghề luật, Học viện Tư pháp, số 04/2016. 8
  7. Soá 2/2018 - Naêm thöù Möôøi Ba BLHS về vấn đề xử lý chuyển hướng đối với pháp hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm người dưới 18 tuổi phạm tội nhằm tạo cơ sở pháp tội gặp nhiều khó khăn, vướng mắc. Bên cạnh lý rõ ràng, cụ thể, đầy đủ để các cơ quan tiến đó, cùng với sự phát triển và thay đổi nhanh hành tố tụng làm căn cứ áp dụng xử lý chuyển chóng về mọi mặt kinh tế, xã hội, văn hóa, đối hướng. Đồng thời, việc đa dạng hóa các biện ngoại hiện nay và trước những yêu cầu hội pháp xử lý chuyển hướng là cần thiết nhằm tạo nhập quốc tế theo hướng bảo vệ tốt hơn nữa điều kiện cho cơ quan có thẩm quyền được lựa cho người dưới 18 tuổi phạm tội, hệ thống tư chọn biện pháp xử lý chuyển hướng phù hợp nhất pháp hình sự của Việt Nam đã bộc lộ một số đối với từng trường hợp cụ thể. Ngoài ra, cũng hạn chế nhất định như các biện pháp thay thế cần phải lưu ý rằng, biện pháp xử lý chuyển xử lý chính thức chưa được quan tâm, các quy hướng được xem xét áp dụng với từng trường định chưa thực sự bảo đảm vì lợi ích tốt nhất hợp cụ thể phải phù hợp với tính chất, mức độ của trẻ em và tính thân thiện trong quy trình tố nghiêm trọng của hành vi phạm tội, nhân thân tụng cũng như yêu cầu của các chuẩn mực quốc người phạm tội, nhu cầu của người dưới 18 tuổi tế về bảo vệ trẻ em... Những bất cập này đặt ra phạm tội và điều kiện cũng như các loại dịch vụ yêu cầu phải xem xét, nghiên cứu để có những hỗ trợ tại địa phương nơi người dưới 18 tuổi sửa đổi, bổ sung kịp thời hệ thống pháp luật phạm tội cư trú như tham vấn, kèm cặp, tập huấn trong lĩnh vực tư pháp hình sự nói chung, pháp kỹ năng sống, hướng nghiệp, dạy nghề7. luật liên quan đến hệ thống xử lý người dưới Như chúng ta đã biết, một trong những 18 tuổi phạm tội nói riêng mà trong đó việc xây nguyên tắc quan trọng trong việc xử lý người dựng một hệ thống các biện pháp chuyển dưới 18 tuổi phạm tội đó là phải bảo đảm các lợi hướng và quy trình xử lý chuyển hướng cụ thể ích tốt nhất của các em. Vì vậy, việc lựa chọn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là hết sức phương pháp xử lý phù hợp với tâm sinh lý lứa cần thiết nhằm bảo vệ tốt hơn lợi ích của người tuổi, tạo môi trường phát triển bình thường cho dưới 18 tuổi, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn người dưới 18 tuổi phạm tội là vô cùng quan cũng như đảm bảo thực thi các nghĩa vụ quốc tế trọng. Trong nhiều trường hợp, việc áp dụng các của Việt Nam. biện pháp xử lý nằm ngoài hệ thống tư pháp - Miễn trách nhiệm hình sự đối với người đưa chính thức, mang tính răn đe, giáo dục xã hội (xử hối lộ. Khoản 7 Điều 364 quy định: “Người đưa lý chuyển hướng) để áp dụng đối với người dưới hối lộ tuy không bị ép buộc nhưng đã chủ động 18 tuổi mang lại hiệu quả mong muốn và đó là khai báo trước khi bị phát giác, thì có thể được một đòi hỏi của Công ước Liên hợp quốc về miễn trách nhiệm hình sự và được trả lại một Quyền trẻ em và các chuẩn mực quốc tế khác mà phần hoặc toàn bộ của đã dùng để đưa hối lộ”. Việt Nam là thành viên. Cách thức xử lý không - Miễn trách nhiệm hình sự đối với người môi viện dẫn đến các thủ tục tố tụng chính thức đối giới hối lộ. Khoản 6 Điều 365 quy định: “Người với người dưới 18 tuổi phạm tội đang được sử môi giới hối lộ mà chủ động khai báo trước khi dụng phổ biến tại nhiều quốc gia trên thế giới, đã bị phát giác, thì có thể được miễn trách nhiệm và đang đem lại nhiều hiệu quả trong việc giáo hình sự”. dục và phòng ngừa tội phạm vị thành niên cũng - Miễn trách nhiệm hình sự đối với người như đảm bảo lợi ích cộng đồng. không tố giác tội phạm. Khoản 2 Điều 390 quy Trong bối cảnh hiện nay, tình hình người định:“Người không tố giác nếu đã có hành động dưới 18 tuổi phạm tội đang có chiều hướng gia can ngăn người phạm tội hoặc hạn chế tác hại tăng và diễn biến phức tạp, tỷ lệ tái phạm tương của tội phạm, thì có thể được miễn trách nhiệm đối cao, thực tiễn áp dụng những quy định về tư hình sự hoặc miễn hình phạt”. 7 Ban soạn thảo BLHS (sửa đổi) (2015), Dự thảo Báo cáo đánh giá tác động Dự án BLHS (sửa đổi), Hà Nội, Tr.35-45. 9
  8. HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP Với những phân tích, luận giải trên đây về nhiệm hình sự tập trung vào chương V (Thời cơ sở pháp lý, về kỹ thuật lập pháp, về thẩm hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, miễn trách quyền quyết định, về nội hàm, bản chất của chế nhiệm hình sự) tạo điều kiện dễ dàng cho việc định miễn trách nhiệm hình sự, chúng tôi cho nhận thức và áp dụng. rằng, việc quy định về các căn cứ, trường hợp Hai là, bổ sung vào khoản 1 Điều 29 (Căn cứ miễn trách nhiệm hình sự trong BLHS thể hiện miễn trách nhiệm hình sự) hai căn cứ mà người tư duy lập pháp tiến bộ, văn minh, nhân đạo, phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự gồm: khoan hồng của Đảng và Nhà nước, thể chế hóa “Đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự”; đầy đủ tinh thần của Hiến pháp năm 2013 về “Người phạm tội tự ý nửa chừng chấm dứt việc việc ghi nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm các phạm tội”. quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của Ngoài ra, bổ sung thêm căn cứ “người phạm công dân, phù hợp với xu thế chung của thời đại, tội gián điệp thuộc trường hợp quy định tại đồng thời, thể hiện sự nỗ lực và những cam kết khoản 4 Điều 110 của Bộ luật này” vào khoản 1 của Việt Nam khi tham gia ký kết, phê chuẩn Điều 29. Điều ước quốc tế trong lĩnh vực quyền con Sửa đổi điểm a khoản 1 Điều 29: “Khi tiến người. Đây chính là nên tảng chính trị, pháp lý hành điều tra, truy tố hoặc xét xử, do có sự thay vững chắc cho việc nhận thức và áp dụng pháp đổi chính sách, pháp luật làm cho hành vi phạm luật hình sự của các cơ quan có thẩm quyền tiến tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa” thành hành tố tụng trong việc giải quyết những vấn đề “Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử, do có sự có liên quan đến vụ án hình sự. Mặc dù vậy, từ thay đổi chính sách, pháp luật làm cho hành vi thực tiễn xây dựng pháp luật, thực tiễn đời sống phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa”. pháp lý và dưới góc độ khoa học luật hình sự, Ba là, bổ sung vào khoản 2 Điều 29 (Căn cứ chúng tôi thiết nghĩ điều kiện tiên quyết và có miễn trách nhiệm hình sự) căn cứ miễn trách vai trò then chốt nhằm hiện thức hóa các quy nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm định về miễn trách nhiệm hình sự trong phòng tội theo hướng: “Người dưới 18 tuổi phạm tội ngừa và đấu tranh chống tội phạm là phải xây thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 91 dựng và tạo lập một hệ thống đồng bộ các giải của Bộ luật này”. pháp từ công tác tuyên truyền, hướng dẫn, giải Đồng thời, bổ sung thêm căn cứ “người phạm thích pháp luật, đào tạo nâng cao trình độ pháp tội đã chủ động khai báo trước khi bị phát giác lý, nhận thức pháp luật của không chỉ các cán thuộc trường hợp quy định tại khoản 7 Điều 364 bộ thuộc cơ quan công quyền mà còn của mỗi hoặc khoản 6 Điều 365 của Bộ luật này” và căn người dân trong xã hội, đến việc thực thi một cứ “người phạm tội đã có hành động can ngăn cách minh bạch, công khai, hiệu quả các quy người phạm tội hoặc hạn chế tác hại của tội phạm định của pháp luật trong thực tiễn, đồng thời, quy định tại khoản 2 Điều 390 của Bộ luật này” thường xuyên tổng kết thực tiễn nhằm đề xuất Thứ hai, về hướng dẫn pháp luật. Các cơ giải pháp nâng cao hiệu quả. Với phương châm quan liên ngành trong phạm vi chức năng, nhiệm đó, chúng tôi kiến nghị một số giải pháp góp vụ, quyền hạn của mình, phối hợp tổ chức rà soát phần hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự và đề xuất ban hành văn bản quy phạm pháp luật về miễn trách nhiệm hình sự sau đây: hướng dẫn thi hành quy định của BLHS năm Thứ nhất, hoàn thiện các quy định của BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) về miễn trách về miễn trách nhiệm hình sự, cụ thể như sau: nhiệm hình sự, tập trung vào một số tình tiết như: Một là, trong sự thống nhất và đồng bộ với “sự thay đổi chính sách, pháp luật”, “người phạm các chương khác của Phần chung BLHS năm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa”, “người 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), cần quy định phạm tội mắc bệnh hiểm nghèo”, “lập công lớn toàn bộ các căn cứ và các trường hợp miễn trách hoặc có cống hiến đặc biệt”./. 10
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
8=>2