Đỗ Thị Thúy Hà<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
188(12/3): 227 - 233<br />
<br />
BÀN VỀ HIỆN TƯỢNG CHUYỂN DI NGÔN NGỮ TRONG QUÁ TRÌNH<br />
THỤ ĐẮC NGÔN NGỮ THỨ HAI THÔNG QUA CÁCH SỬ DỤNG<br />
TỪ BIỂU THỊ MỤC ĐÍCH “为了” TRONG TIẾNG HÁN HIỆN ĐẠI<br />
Đỗ Thị Thúy Hà*<br />
Khoa Ngoại ngữ - ĐH Thái Nguyên<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Nghiên cứu về chuyển di ngôn ngữ là một bộ phận quan trọng của nghiên cứu thụ đắc ngôn ngữ<br />
thứ hai. Các nhà ngôn ngữ học đã sớm phát hiện ra rằng, việc học tập và nắm vững một loại ngôn<br />
ngữ nào đó sẽ có tác dụng bổ trợ cho việc thụ đắc một loại ngôn ngữ khác. Trong quá trình thụ đắc<br />
ngôn ngữ thứ hai, người học sẽ lợi dụng tất cả những kiến thức đã có về ngôn ngữ (ngôn ngữ thứ<br />
nhất) để phát triển ngôn ngữ đích (ngôn ngữ thứ hai). Điều đó có nghĩa là hiện tượng chuyển di<br />
ngôn ngữ là không thể tránh khỏi. Nhưng chuyển di ngôn ngữ có mặt tích cực và mặt tiêu cực của<br />
nó, do vậy, trong dạy học không thể coi nhẹ hiện tượng này. Bài viết trên cơ sở quan sát thực trạng<br />
sử dụng từ biểu thị mục đích “为了” trong tiếng Hán hiện đại của sinh viên, đi sâu tìm hiểu ảnh<br />
hưởng của sự chuyển di ngôn ngữ trong quá trình thụ đắc ngôn ngữ thứ hai và từ đó đưa ra một số<br />
gợi ý trong dạy học ngôn ngữ thứ hai (cụ thể là tiếng Hán) cho người Việt Nam.<br />
Từ khóa: thụ đắc ngôn ngữ, chuyển di ngôn ngữ, 为了, tiếng Hán, tiếng Việt<br />
<br />
ĐẶT VẤN ĐỀ**<br />
Từ đầu những năm 60, 70 của thế kỷ 21,<br />
nghiên cứu quá trình thụ đắc ngôn ngữ thứ hai<br />
đã là một môn khoa học độc lập, hệ thống lý<br />
luận của nó được xây dựng dựa trên mục tiêu<br />
là miêu tả quá trình thụ đắc ngôn ngữ thứ hai<br />
và giải thích đặc trưng của việc thụ đắc ngôn<br />
ngữ thứ hai. Không thể phủ nhận vai trò của<br />
việc nghiên cứu quá trình thụ đắc, trong đó<br />
nhấn mạnh nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng<br />
đến quá trình này đối với công việc giảng dạy<br />
tiếng nước ngoài. Trước sự phát triển như vũ<br />
bão của ngành giảng dạy tiếng Hán hiện nay,<br />
công việc nghiên cứu này ngày càng được coi<br />
trọng. Phạm trù mục đích là một phạm trù<br />
được sử dụng khá phổ biến trong giao tiếp<br />
của con người. Trong tiếng Hán để biểu thị<br />
mục đích ta có thể sử dụng các từ ngữ, kết<br />
cấu<br />
như<br />
“为了”,<br />
“为”,“以”,“以便”,“好”,“免得”,“为的是”,“<br />
是为了”. Trong đó “为了” có tần suất sử dụng<br />
nhiều hơn cả. Trong tiếng Việt cũng có không<br />
ít các chỉ tố chỉ mục đích như “để”, “để mà”,<br />
“nhằm”, “hòng”, “cốt”… Người Việt nam khi<br />
học tiếng Hán sẽ có xu hướng đem hiểu biết<br />
về kiến thức tiếng mẹ đẻ vận dụng vào sử<br />
dụng ngôn ngữ đích, hay chính là ở đây đã<br />
xuất hiện một sự chuyển di, điều này đem đến<br />
*<br />
<br />
Tel: 0914 598599; Email: dothuyha.sfl@tnu.edu.vn<br />
<br />
cho người học nhiều thuận lợi nhưng cũng<br />
không thể không bàn đến những khó khăn.<br />
Dưới đây chúng tôi tập trung bàn về sự<br />
chuyển di này thông qua tình hình sử dụng từ<br />
chỉ mục đích “为了” của sinh viên chuyên<br />
ngành tiếng Trung.<br />
HIỆN TƯỢNG CHUYỂN DI NGÔN NGỮ<br />
Quá trình thụ đắc ngôn ngữ thứ hai là một quá<br />
trình gây dựng giả thiết và thử nghiệm giả<br />
thiết mang tính sáng tạo. Trong quá trình này,<br />
người học sẽ vận dụng những kiến thức đã có,<br />
bao gồm cả kiến thức về ngôn ngữ mẹ đẻ để<br />
phát triển ngôn ngữ trung gian của mình.<br />
Hiểu theo nghĩa này thì sự xuất hiện của hiện<br />
tượng chuyển di ngôn ngữ là không thể tránh<br />
khỏi, hiện tượng này là một trong những nhân<br />
tố quan trọng ảnh hưởng tới quá trình thụ đắc<br />
ngôn ngữ thứ hai.<br />
Theo quan điểm của ngôn ngữ học chủ nghĩa<br />
hành vi, chuyển di luôn có mối quan hệ chặt<br />
chẽ với rào cản, nhưng ngày nay các nhà<br />
nghiên cứu đã nhận ra rằng không thể giản<br />
đơn coi chuyển di là 1 loại rào cản hoặc cách<br />
sử dụng lại tiếng mẹ đẻ. Sharwood Smith và<br />
Kellerman (1986) cho rằng có thể dùng “sự<br />
ảnh hưởng lẫn nhau giữa các ngôn ngữ” để<br />
khái quát nên hiện tượng chuyển di ngôn ngữ.<br />
Hai ông cho rằng cụm từ “sự ảnh hưởng lẫn<br />
nhau giữa các ngôn ngữ” về mặt lý luận là<br />
trung tính, nó có thể khái quát cho rất nhiều<br />
227<br />
<br />
Đỗ Thị Thúy Hà<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
loại hiện tượng như là chuyển di, rào cản,<br />
tránh né, vay mượn, lỗi liên quan đến ngôn<br />
ngữ thứ hai... Điều này cũng đem đến tiềm<br />
năng cho việc nghiên cứu sự khác biệt và<br />
tương đồng giữa các hiện tượng trên.<br />
Một vài quan điểm có ảnh hưởng đến hiện<br />
tượng chuyển di ngôn ngữ<br />
Chuyển di ngôn ngữ có ảnh hưởng đến việc<br />
thụ đắc ngôn ngữ thứ hai hay không, mức độ<br />
ảnh hưởng thế nào và ảnh hưởng ra sao đã trở<br />
thành những vấn đề cơ bản mà các nhà nghiên<br />
cứu cần giải đáp. Trong quá trình phát triển<br />
của mình, chuyển di ngôn ngữ đã trải qua hai<br />
giai đoạn lịch sử quan trọng, đó là giai đoạn<br />
nghiên cứu dựa theo khung lý thuyết của chủ<br />
nghĩa hành vi lấy giả thiết phân tích đối chiếu<br />
là chủ đạo và giai đoạn nghiên cứu dựa theo<br />
khung lý thuyết của lý luận tri nhận lấy giả<br />
thiết ngôn ngữ trung gian là chủ đạo.<br />
Chuyển di ngôn ngữ được phát triển sớm nhất<br />
từ trong lĩnh vực phân tích đối chiếu. Từ<br />
những năm 50, phân tích đối chiếu bắt đầu<br />
xuất hiện và từ đó nhanh chóng chiếm vị trí<br />
đầu tiên trong nghiên cứu giảng dạy ngôn ngữ<br />
thứ hai. Lado (1957) dưới sự ảnh hưởng của<br />
chủ nghĩa hành vi và chủ nghĩa cấu trúc đã<br />
đưa ra giả thuyết phân tích đối chiếu, trong đó<br />
ông đã cho rằng, hiện tượng chuyển di ngôn<br />
ngữ là một trở ngại đáng kể trong việc thụ đắc<br />
ngôn ngữ thứ hai, thông qua việc so sánh, đối<br />
chiếu ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ và ngôn ngữ đích<br />
có thể dự đoán trước được lỗi mà người học<br />
ngôn ngữ thứ hai dễ mắc phải cũng như<br />
những điểm khó trong quá trình học. Trong<br />
giai đoạn này, người ta đã thừa nhận tác dụng<br />
của tiếng mẹ đẻ trong việc thụ đắc ngôn ngữ<br />
thứ hai. Sự tương đồng giữa ngôn ngữ tiếng<br />
mẹ đẻ và ngôn ngữ đích đem đến sự “chuyển<br />
di tích cực” và sự khác biệt giữa chúng sẽ<br />
đem đến “sự chuyển di tiêu cực”. Từ đó, Lado<br />
và các nhà nghiên cứu đã có kết luận rằng,<br />
“phần giống nhau giữa ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ<br />
và ngôn ngữ đích thì dễ học, phần khác nhau<br />
thì khó học”. Quan điểm này đã được khái<br />
quát hóa giản đơn thành công thức “khoảng<br />
cách = độ khó”, tức là khoảng cách lớn nhỏ<br />
giữa ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ và ngôn ngữ đích<br />
tỉ lệ thuận với độ khó của việc học [1]. Tới<br />
những năm 70, cùng với sự phát triển của lĩnh<br />
228<br />
<br />
188(12/3): 227 - 233<br />
<br />
vực nghiên cứu lỗi, phân tích đối chiếu dần<br />
không được coi trọng, nhưng nghiên cứu hiện<br />
tượng chuyển di ngôn ngữ vẫn không dừng<br />
lại, nhiều công trình nghiên cứu trên cơ sở<br />
của phân tích đối chiếu, từ nhiều góc độ như<br />
ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp đã đi sâu tìm hiểu<br />
mối quan hệ “khoảng cách = độ khó” đã nói ở<br />
trên, trong đó một vài nghiên cứu đã chứng<br />
minh được lý luận của Lado.<br />
Những vấn đề cần được nghiên cứu tiếp mà<br />
lĩnh vực nghiên cứu đối chiếu để lại khiến cho<br />
các nhà nghiên cứu nhận ra rằng chuyển di<br />
ngôn ngữ không phải là hiện tượng đơn giản<br />
như Lado và các nhà nghiên cứu đã nghĩ và<br />
họ đã đem lý luận tiêu chí ngôn ngữ vào việc<br />
nghiên cứu hiện tượng này. Lý luận tiêu chí<br />
với nền tảng cơ sở là khái niệm tiêu chí, là<br />
nguyên tắc quan trọng để phân tích hệ thống<br />
ngôn ngữ. Mục đích chính của lý luận này là<br />
thông qua phân tích hiện tượng tiêu chí trong<br />
các hệ thống ngôn ngữ nhỏ để xây dựng nên<br />
những mô hình tiêu chí ngôn ngữ. Những khó<br />
khăn của người học ngôn ngữ thứ hai có thể<br />
dựa vào lý luận này để dự đoán vì lý luận tiêu<br />
chí ngôn ngữ đã trả lời được câu hỏi chuyển<br />
di ngôn ngữ xuất hiện ở đâu và bằng những<br />
phương thức nào.<br />
Các hình thức biểu hiện chính của chuyển<br />
di ngôn ngữ (liên hệ từ biểu thị mục đích<br />
trong tiếng Hán và tiếng Việt)<br />
Để tiến hành tìm hiểu các hình thức của<br />
chuyển di ngôn ngữ giữa tiếng Hán và tiếng<br />
Việt, chúng tôi đã thực hiện việc khảo sát,<br />
thống kê các bài viết luận và bài dịch, trong<br />
đó tập trung vào nghiên cứu quá trình sử dụng<br />
các từ biểu thị mục đích “为了” trong tiếng<br />
Hán hiện đại của sinh viên chuyên ngành<br />
tiếng Trung quốc tại Khoa Ngoại ngữ, Đại<br />
học Thái Nguyên. Trên cơ sở nguồn ngữ liệu<br />
đã tổng hợp được tiến hành miêu tả, phân tích<br />
và phân loại. Trong đó đặc biệt chú trọng đến<br />
sự xuất hiện các kiểu loại lỗi của sinh viên<br />
cũng như nguyên nhân gây ra những lỗi đó.<br />
Chúng tôi đã thực hiện thống kê hiện trạng sử<br />
dụng từ biểu thị mục đích “为了” từ bài viết<br />
luận trong kỳ thi cuối kỳ của sinh viên năm<br />
thứ 3 chuyên ngành tiếng Trung Quốc, kết<br />
quả được thể hiện trong bảng dưới đây:<br />
<br />
Đỗ Thị Thúy Hà<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
188(12/3): 227 - 233<br />
<br />
Bảng 1. Tình hình sử dụng từ biểu thị mục đích “为了” trong tiếng Hán hiện đại của sinh viên chuyên<br />
ngành tiếng Trung Quốc<br />
Nội dung<br />
Đối tượng<br />
Sinh viên năm<br />
thứ 3<br />
<br />
Số bài khảo sát<br />
<br />
108<br />
<br />
Tần suất sử dụng<br />
Số bài<br />
23<br />
<br />
Tỷ lệ<br />
21,2 %<br />
<br />
Theo số liệu trong bảng trên cho thấy, tỷ lệ<br />
bài viết có sử dụng các từ ngữ chỉ mục đích<br />
“为了” là rất thấp (chiếm 18%), trong đó, số<br />
bài sử dụng chính xác và không chính xác có<br />
tỷ lệ khá cao và độ chênh lệch không lớn.<br />
Ngoài ra, ngữ liệu của bài viết còn được thu<br />
thập từ nguồn bài tập môn dịch 1 (Dịch Trung<br />
– Việt) của sinh năm thứ 3 chuyên ngành<br />
tiếng Trung Quốc. Kết quả thu được là các<br />
câu có sử dụng từ ngữ chỉ mục đích “为了”<br />
trong tiếng Hán, bao gồm cả câu chính xác và<br />
không chính xác.<br />
1) Chuyển di tiêu cực: Chuyển di tiêu cực chỉ<br />
việc mượn tiếng mẹ đẻ để biểu đạt ngôn ngữ<br />
thứ hai nhưng lại không phù hợp với thói<br />
quen biểu đạt của ngôn ngữ thứ hai đó , hoặc<br />
không được người bản địa dùng ngôn ngữ đó<br />
chấp nhận, do đó kết quả là đã sinh ra lỗi. Khi<br />
giữa ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ và ngôn ngữ thứ<br />
hai có sự khác nhau về điểm nào đó thì sự<br />
khác nhau này luôn là nội dung khó đối với<br />
người học, lúc này rất dễ xảy ra hiện tượng<br />
chuyển di tiêu cực. Chuyển di tiêu cực chỉ<br />
một loại “rào cản” mà kiến thức tiếng mẹ đẻ<br />
hoặc kiến thức ngôn ngữ đích mang đến cho<br />
người học. Nếu “rào cản” do ngôn ngữ tiếng<br />
mẹ đẻ mang đến thì được gọi là “chuyển di<br />
giao ngôn ngữ”, còn nếu “rào cản” đó đến từ<br />
ngôn ngữ đích thì được gọi là “chuyển di nội<br />
ngôn ngữ”[2].<br />
Có thể thấy rằng chuyển di tiêu cực trong quá<br />
trình thụ đắc ngôn ngữ thứ hai ảnh hưởng tới<br />
(đem rào cản tới) các bình diện của ngôn ngữ,<br />
từ ngữ âm, từ vựng đến ngữ pháp, ngữ dụng<br />
và văn hóa. Đối với hiện tượng khách quan<br />
này, chúng ta một mặt cần nhìn ra sự tồn tại<br />
của nó, thừa nhận ảnh hưởng của nó tới việc<br />
thụ đắc ngôn ngữ thứ hai; mặt khác, cần phải<br />
nhận thức được rằng, lỗi mà do rào cản này<br />
đem đến là khó tránh khỏi, người học ngoại<br />
ngữ cần phải thoát khỏi trở ngại tâm lý sợ<br />
mắc lỗi, như thế lại có lợi cho người học<br />
<br />
Tỷ lệ sử dụng<br />
chính xác<br />
Số bài<br />
Tỷ lệ<br />
13<br />
56,5 %<br />
<br />
Tỷ lệ sử dụng<br />
không chính xác<br />
Số bài<br />
Tỷ lệ<br />
10<br />
43,5 %<br />
<br />
ngoại ngữ phát huy tính năng động chủ quan,<br />
đạt được hiệu quả học tập cao. Dù gì thì sự<br />
xuất hiện của lỗi không phải là một việc xấu,<br />
trong quá trình trải qua sự chuyển di tiêu cực,<br />
người học thực tình cũng đã là trải qua quá<br />
trình học tập không ngừng nghỉ, chúng ta<br />
cũng có thể coi chuyển di tiêu cực như là một<br />
loại sách lược học tập, sách lược giao tiếp.<br />
Ví dụ 1: Để luyện tốt khí công,anh ấy đã<br />
phải chịu bao khó khăn mà không hề oán thán<br />
một câu nào.<br />
Với câu mang chỉ tố chỉ mục đích “để” ở trên,<br />
có người học đã dịch sang tiếng Hán<br />
là:以便练好气功,他受了不少苦,却没有半点怨言。*<br />
“Để” trong tiếng Việt có thể đứng ở đầu câu<br />
hoặc ở đầu phân câu sau, còn “以便” cũng là<br />
từ chỉ quan hệ mục đích, chuyển dịch sang<br />
tiếng Việt cũng có nghĩa là “để”, nhưng nó<br />
chỉ có vị trí duy nhất là đứng ở đầu phân câu<br />
sau. Người học không để ý đến sự khác biệt<br />
này nên đã sinh ra lỗi trong khi vận dụng. Câu<br />
trên cách biểu đạt chính xác nên là:<br />
<br />
为了练好气功,他受了不少苦,却没有半点怨言。<br />
Ta tiếp tục quan sát các ví dụ dưới đây:<br />
Ví dụ 2: *为我没带伞,妈妈要来接我。<br />
Ví dụ 3: *为了想想好久,我睡一个觉到下午。<br />
Ví<br />
dụ<br />
4:*<br />
<br />
他也说过,大家可以生活在一起是为了缘分,所以我<br />
们要互相帮助,互相尊敬。<br />
Nguyên nhân gây lỗi của các ví dụ trên là do<br />
“为” và “为了” ngoài nghĩa chỉ mục đích ra<br />
còn có thể biểu thị nguyên nhân, người học<br />
do trong quá trình sử dụng đã vận dụng kiến<br />
thức một cách máy móc, hay nói cách khác là<br />
họ đã liên hệ vận dụng những gì đã học được<br />
sang một kiến thức mới, do vậy đã xảy ra sự<br />
nhầm lẫn. Các câu trên nên biểu đạt như sau:<br />
<br />
因为我没带伞,妈妈要来接我。<br />
Dịch nghĩa: Vì tôi không mang theo ô nên mẹ<br />
phải đến đón tôi.<br />
229<br />
<br />
Đỗ Thị Thúy Hà<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
因为想想好久,我睡一个觉到下午。<br />
Dịch nghĩa: Vì suy nghĩ quá nhiều nên tôi đã<br />
ngủ một giấc đến tận chiều.<br />
<br />
他也说过,大家可以生活在一起是因为缘分,所以我<br />
们要互相帮助,互相尊敬。<br />
Dịch nghĩa: Anh ta đã từng nói, mọi người có<br />
thể sống được cùng nhau là do duyên phận,<br />
cho nên chúng ta phải giúp đỡ nhau, tôn<br />
trọng lẫn nhau.<br />
Ta quan sát tiếp ví dụ dưới đây:<br />
Ví dụ 5:<br />
*他很喜欢唱歌直到他妈妈为了他找个辅导老师教他唱<br />
<br />
歌。<br />
Vì “为” vừa có thể biểu thị mục đích của động<br />
tác hành vi, lại vừa có thể biểu thị đối tượng tiếp<br />
nhận của động tác, nên câu này phải thay “为了”<br />
bằng “为”, cách diễn đạt chính xác nên là:<br />
<br />
他很喜欢唱歌直到他妈妈为他找个辅导老<br />
师教他唱歌。<br />
2) Chuyển di tích cực. Tiếng mẹ đẻ mặc dù có<br />
khả năng sẽ gây ra trở ngại trong quá trình<br />
tiếp thu ngôn ngữ thứ hai, nhưng vẫn có khả<br />
năng mang đến tác dụng tích cực. Hiện tượng<br />
này được gọi là chuyển di tích cực trong học<br />
tập ngôn ngữ. Các nhà nghiên cứu đã phát<br />
hiện ra rằng, trong quá trình học ngôn ngữ thứ<br />
hai, trong đó ở giai đoạn đầu của sự phát triển<br />
ngôn ngữ, người học sẽ luôn dựa theo các quy<br />
tắc ngôn ngữ của tiếng mẹ đẻ. Khi các quy tắc<br />
của ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ đó hoàn toàn giống<br />
với quy tắc của ngôn ngữ thứ hai thì người<br />
học sẽ sử dụng một cách chính xác ngôn ngữ<br />
thứ hai. Tiếp theo đó, người học sẽ dần hình<br />
thành một loạt các quy tắc liên quan đến ngôn<br />
ngữ thứ hai, những quy tắc này có khả năng là<br />
lỗi trong ngôn ngữ thứ hai, nhưng chúng vẫn<br />
là những tiêu chí của sự phát triển ngôn ngữ<br />
của người học. Tiếp đến, người học sẽ phát<br />
hiện ra quy tắc mà mình tự sáng tạo ra có chỗ<br />
không phù hợp với quy tắc chính thống của<br />
ngôn ngữ thứ hai, từ đó người học dần dần<br />
loại bỏ những quy tắc không chính xác và<br />
cuối cùng sẽ học được các quy tắc chuẩn xác<br />
nhất. Trong quá trình học kiểu dạng này, ở<br />
giai đoạn sơ cấp, khi ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ<br />
của người học có các quy tắc đồng nhất với<br />
ngôn ngữ thứ hai, thì ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ<br />
230<br />
<br />
188(12/3): 227 - 233<br />
<br />
đem đến tác dụng thúc đẩy việc học ngôn ngữ<br />
thứ hai này.<br />
Nói một cách khác thì chuyển di tích cực chỉ<br />
một vài hình thức mà trong bối cảnh ngôn<br />
ngữ thứ hai, người học vì chịu ảnh hưởng của<br />
ngôn ngữ mẹ đẻ một cách vô thức đã lợi dụng<br />
tiếng mẹ đẻ để biểu đạt, vừa hay kiểu lợi dụng<br />
này lại phù hợp với thói quen biểu đạt của<br />
ngôn ngữ thứ hai, kết quả là có được những<br />
biểu đạt chính xác. Sự chuyển di tích cực<br />
ngôn ngữ mẹ đẻ chủ yếu biểu hiện ở hai cấp<br />
độ từ và câu.<br />
Ta cùng quan sát một vài ví dụ của sinh viên<br />
khi sử dụng từ chỉ mục đích trong tiếng Hán<br />
hiện đại vào viết bài dịch.<br />
Ví dụ 6: Để bạn đọc hiểu rõ sự việc, chúng tôi<br />
xin cung cấp thêm một số tư liệu.<br />
Dịch<br />
câu:“为了让读者把事件弄清,我们就加<br />
<br />
给一些新信息。”<br />
Từ “để” trong tiếng Việt có thể dịch sang<br />
tiếng Hán là “为了”, trong câu trên được dịch<br />
thành “为了” là rất hợp lý, cả hai từ đều dùng<br />
để biểu thị mục đích và đều có thể đứng ở đầu<br />
câu, ngay trước phân câu biểu thị mục đích.<br />
Điều này thuộc về sự chuyển di tích cực,<br />
trong đó giữa ngôn ngữ thứ nhất và ngôn ngữ<br />
thứ hai có một vài điểm ngôn ngữ không có<br />
sự khác biệt, người học khi nắm bắt những từ<br />
ngữ kiểu như thế sẽ không gặp vấn đề khó<br />
khăn gì.<br />
Ví dụ 7: Để đứng vững được trên con đường<br />
sự nghiệp, tôi đã đi khắp nơi tìm kiếm những<br />
đột phá mới.<br />
Dịch câu:<br />
“为了在事业上站住脚,我四处寻找新的突破点。”<br />
Một trong những kiểu kết cấu của từ “để”<br />
biểu thị mục đích là theo sau nó là cụm động<br />
từ hoặc một phân câu nhỏ, trong tiếng Hán<br />
cũng vậy, theo sau “为了” cũng có thể là cụm<br />
động từ hoặc một kết cấu chủ vị, người học<br />
có thể dựa vào điểm giống nhau này để vận<br />
dụng vào học tập.<br />
3) Tránh né. Tránh né là một hiện tượng khá<br />
phức tạp, khi người học phát hiện ra một vài<br />
quy tắc của ngôn ngữ đích có sự khác biệt với<br />
ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ, hơn nữa lại không dễ<br />
<br />
Đỗ Thị Thúy Hà<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
học, họ sẽ cố gắng không sử dụng các quy tắc<br />
này. Đây chính là hiện tượng tránh né trong<br />
quá trình thụ đắc ngôn ngữ thứ hai. Tránh né<br />
và chuyển di tiêu cực đều có điểm chung là<br />
được sản sinh trên cơ sở giữa ngôn ngữ tiếng<br />
mẹ đẻ và ngôn ngữ đích có sự khác biệt.<br />
Nhưng ở “tránh né”, người học tránh sử dụng<br />
những quy tắc tương đồng, bao gồm cả việc<br />
không làm theo quy tắc của ngôn ngữ tiếng<br />
mẹ đẻ, còn ở “chuyển di tiêu cực”, người học<br />
có sử dụng nhưng lại làm theo những quy tắc<br />
của ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ, do đó sinh ra lỗi.<br />
Từ đó, ta có thể thấy rằng, kiến thức về ngôn<br />
ngữ tiếng mẹ đẻ, mức độ nắm kiến thức ngôn<br />
ngữ đích và thái độ của người học với văn<br />
hóa nước nhà cũng như văn hóa của quốc gia<br />
sử dụng ngôn ngữ đích đều có ảnh hưởng tới<br />
sự sản sinh của hành vi “tránh né”. Ta cùng<br />
quan sát một số ví dụ nằm trong nguồn ngữ<br />
liệu chúng tôi đã thu thập được:<br />
Ví dụ 8:<br />
<br />
因为我生病,妈妈请了几天假一直在我的身<br />
边照顾我。<br />
Dịch nghĩa:Vì tôi bị ốm, mẹ đã xin nghỉ làm<br />
mấy ngày ở bên cạnh chăm sóc tôi.<br />
Trong ví dụ trên, nếu người học sử dụng liên<br />
từ “为了”để nối giữa các phân câu thì câu văn<br />
sẽ có được lối diễn đạt phù hợp với văn<br />
phong viết hơn:<br />
我生病了,为了能在我身边照顾我,妈妈请了几天假.<br />
Dịch nghĩa:Tôi bị ốm, để có thể ở bên cạnh<br />
chăm sóc tôi, mẹ đã xin nghỉ làm mấy ngày.<br />
4) Lạm dụng. Trong quá trình thụ đắc ngôn<br />
ngữ thứ hai, sẽ có hiện tượng người học lạm<br />
dụng sử dụng một số hình thức quy tắc ngôn<br />
ngữ, điều này có thể là do họ chưa có hiểu<br />
biết sâu xa về quy tắc của ngôn ngữ đích.<br />
Ví dụ 9: Tôi đã giấu chìa khóa két sắt đi để<br />
khỏi bị trộm lấy mất.<br />
Có người học đã dịch câu này sang tiếng Hán là:<br />
<br />
我把保险柜的钥匙藏起来,为了免得被人偷去。*<br />
Câu trên có chứa chỉ tố chỉ mục đích “để”<br />
nhưng lại kết hợp với “khỏi” tạo thành ý<br />
nghĩa mong muốn không xảy ra việc nào đó,<br />
trong tiếng Hán thì ta chỉ cần dùng một từ nối<br />
chỉ quan hệ mục đích là được, ví dụ như là:<br />
<br />
188(12/3): 227 - 233<br />
<br />
以免、免得,và cách biểu đạt chính xác của câu<br />
này là:<br />
<br />
我把保险柜的钥匙藏起来,免得被人偷去。<br />
Trong ví dụ trên, chỉ cần dùng “免得” là đã đủ<br />
biểu thị quan hệ mục đích rồi nhưng người<br />
học đã lạm dụng dùng cả hai quan hệ từ chỉ<br />
mục đích là为了và省得 .<br />
Qua khảo sát cho thấy, lạm dụng là một biểu<br />
hiện của chuyển di ngôn ngữ xuất hiện nhiều<br />
ở đối tượng người học có trình độ cao hơn, vì<br />
theo thời gian, người học được tiếp cận nhiều<br />
kiến thức mới hơn, khó hơn, lúc này, người<br />
học rất dễ áp dụng những kiến thức chưa đầy<br />
đủ, vẹn toàn (vì vừa được truyền thụ) của nội<br />
dung ngôn ngữ đích đã được tiếp thu vào nội<br />
dung kiến thức mới mẻ, từ đó gây ra lỗi. Ví<br />
dụ khác nằm trong nguồn ngữ liệu mà chúng<br />
tôi đã thu thập được như sau:<br />
Ví dụ 10: *学了三年汉语以后我来中国为了留学。<br />
Dịch nghĩa: Sau 3 năm học tiếng Hán, tôi đến<br />
Trung Quốc để du học.<br />
Từ ví dụ trên cho ta thấy, bản thân cụm<br />
“来中国留学” thông qua kết cấu liên động đã đủ<br />
nói lên quan hệ mục đích, không cần phải dùng<br />
thêm “为了” để chỉ quan hệ mục đích nữa.<br />
Ví dụ 11:<br />
*我喝一点儿水吃一点儿自己做的早饭以后打开电视机<br />
<br />
为了看接连换电视台但没找到好玩儿的东西看。<br />
Trong ví dụ trên xuất hiện vài động tác xảy ra<br />
theo tuần tự trước sau là “打开电视机”,<br />
“看电视”, “换台” , đây là mối quan hệ liên tiếp<br />
nên giữa các động tác không thể tồn tại quan<br />
hệ mục đích, vì vậy cần bỏ “为了” đi, và câu<br />
trên<br />
có<br />
thể<br />
sửa<br />
lại<br />
là:<br />
<br />
我喝一点儿水吃一点儿自己做的早饭以后打开电视看<br />
节目,然后连接换电视台但没找到好玩儿的东西看。<br />
ĐỀ XUẤT KIẾN NGHỊ<br />
Trong quá trình dạy và học ngoại ngữ (ngôn<br />
ngữ thứ hai), chuyển di là hiện tượng không<br />
thể tránh khỏi. Cho nên một trong những<br />
nhiệm vụ của người giáo viên là hướng dẫn<br />
người học từng bước sử dụng ngoại ngữ để tư<br />
duy, làm giảm đi sự ảnh hưởng của rào cản<br />
ngôn ngữ tới người học. Đối với vấn đề này,<br />
chúng tôi đưa ra một số kiến nghị như sau:<br />
231<br />
<br />