PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
BÀN VỀ MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP RÈN LUYỆN<br />
KỸ THUẬT GHI CHÉP TRONG GIẢNG DẠY<br />
DỊCH NÓI TẠI KHOA TIẾNG TRUNG QUỐC<br />
HỌC VIỆN KHOA HỌC QUÂN SỰ<br />
NGUYỄN THỊ THIÊM*<br />
*<br />
Học viện Khoa học Quân sự, tianruanshi@yahoo.com.vn<br />
Ngày nhận bài: 11/01/2019; ngày sửa chữa: 14/02/2019; ngày duyệt đăng: 15/5/2019<br />
<br />
<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Trong hoạt động dịch nói, với một khoảng thời gian hữu hạn, khi lượng thông tin vượt quá khả<br />
năng ghi nhớ của não bộ, người phiên dịch phải dựa vào sự hỗ trợ của ghi chép. Kỹ thuật ghi chép<br />
trong dịch nói mang đặc thù riêng, rèn luyện kỹ thuật ghi chép góp phần đảm bảo chất lượng, nâng<br />
cao hiệu quả dịch nói. Xác định được tầm quan trọng của ghi chép, trong giảng dạy thực hành<br />
dịch nói, việc thiết kế những bài học rèn luyện kỹ thuật ghi chép cho người học, đào tạo ra đội ngũ<br />
phiên dịch viên có kỹ thuật dịch nói tốt, đáp ứng yêu cầu thực tế là điều hết sức cần thiết. Trên cơ<br />
sở nghiên cứu tổng kết thành quả của người đi trước, kết hợp khảo sát tổng kết kinh nghiệm thực<br />
tế, chúng tôi xin tóm tắt những đặc điểm của kỹ thuật ghi chép và một vài phương pháp rèn luyện<br />
kỹ thuật ghi chép cho học viên chuyên ngành ngôn ngữ Trung Quốc tại Học viện Khoa học Quân<br />
sự, mong rằng bài viết sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển hoạt động giảng dạy, đào tạo phiên dịch<br />
tại Học viện Khoa học Quân sự.<br />
Từ khóa: dịch nói, phương pháp, ghi chép, ghi nhớ, ký hiệu<br />
<br />
<br />
<br />
1. ĐẶT VẤN ĐỀ tr.107). Trong điều kiện dịch nói, người phiên dịch<br />
sử dụng trí nhớ tạm thời vào việc ghi nhớ các con<br />
Ghi chép là hoạt động quan trọng, kết hợp chặt số, tên riêng, hoặc ghi nhớ thuật ngữ, từ khóa...<br />
chẽ với hoạt động ghi nhớ, lý giải và biểu đạt trong Ngoài ra, người phiên dịch phải kích hoạt trí nhớ<br />
thực hành dịch nói. Đây không phải hoạt động ghi dài hạn để phân tích ngữ nghĩa, lý giải nội dung,<br />
chép thông thường nhằm mục tiêu lưu giữ thông tìm kiếm từ ngữ cần phiên dịch. Theo đó trí nhớ<br />
tin thuần túy. Thực tế cho thấy, khi hoạt động nói ngắn hạn và trí nhớ dài hạn cùng lúc được phát<br />
của diễn giả diễn ra trên 1 phút, người phiên dịch huy vào hoạt động phân tích, chuyển đổi ngôn<br />
bắt buộc phải tiến hành ghi chép. Theo nghiên cứu ngữ. Nếu hoạt động nói của diễn giả kéo dài hơn 1<br />
của các nhà tâm lý học, trí nhớ ngắn hạn của con phút, cơ bản người phiên dịch phải dựa vào trí nhớ<br />
người thường chỉ phát huy tác dụng tốt nhất trong dài hạn, điều này làm tăng áp lực đối với ghi nhớ<br />
khoảng thời gian trên dưới 1 phút (桂诗春, 1985, trong dịch nói. Để giảm bớt áp lực cho hoạt động<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
Số 20 (7/2019) 37<br />
v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY<br />
<br />
<br />
ghi nhớ, người phiên dịch phải sử dụng hình thức tổ hợp cấu trúc, tìm giải pháp chuyển ngữ... Mong<br />
ghi chép, ghi chép lại một cách hợp lý nội dung muốn ghi chép đầy đủ toàn bộ lời diễn giả trình<br />
cần dịch. Trong các hoạt động phiên dịch chuyên bày rồi nhìn vào bản ghi để “đọc”, hẳn là điều thực<br />
nghiệp, người phiên dịch thường phải tiến hành tế không thể thực hiện được và ngược lại trong<br />
ghi chép, việc ghi chép có thể diễn ra ngay từ khi nhiều trường hợp còn ảnh hưởng đến chất lượng<br />
diễn giả bắt đầu hoạt động nói. Trên thực tế, hoạt của ngôn ngữ dịch. Với công việc tốc ký chuyên<br />
động dịch nói là việc không đơn giản, người phiên nghiệp, mọi sự tập trung chú ý đều dành vào việc<br />
dịch khó đoán định diễn giả sẽ nói trong thời gian ghi chép, năng lượng tiêu hao của não bộ không<br />
bao lâuvà dừng lại, để họ bắt đầu hoạt động phiên kém gì so với hoạt động thực hành dịch nói. Ngoài<br />
dịch. Nhiều trường hợp diễn giả bị cuốn theo mạch ra, tốc ký là hoạt động ghi chép chỉ giới hạn trong<br />
nói, họ quên mất bên cạnh mình người phiên dịch một ngôn ngữ, hoàn toàn không liên quan đến hoạt<br />
đang chờ cơ hội chuyển ngữ. Vì vậy, trong hoạt động chuyển ngữ. Người phiên dịch dù có ghi<br />
động phiên dịch chuyên nghiệp, việc ghi chép luôn chép hết nội dung, họ cũng sẽ không còn nhiều<br />
được tiến hành ngay khi diễn giả bắt đầu hoạt động thời gian cho hoạt động phân tích, lý giải, tìm từ,<br />
nói. Thực tế chứng minh, đây là giải pháp hợp lý, tái cấu trúc và chuyển ngữ, kết quả sẽ ảnh hưởng<br />
trừ khi người phiên dịch đã quá quen thuộc hoặc đến chất lượng phiên dịch. Thêm vào đó, việc giải<br />
từng tham gia phiên dịch nội dung tương tự trước mã các ký hiệu ghi chép bằng tốc ký cũng đòi hỏi<br />
đó. Mặc dù ghi chép rất quan trọng trong dịch nói, phải hết sức tỉ mỉ, cẩn trọng. Thực tế cho thấy, việc<br />
song hoạt động ghi nhớ của não bộ vẫn đóng vai nhận biết được các ký hiệu tốc ký mất nhiều thời<br />
trò chủ đạo, ghi chép luôn là hoạt động hỗ trợ, nếu gian hơn so với ký hiệu ghi chép thông thường,<br />
quá phụ thuộc vào ghi chép sẽ ảnh hưởng đến tốc ngoài ra các yếu tố bất lợi khác như, ký hiệu tốc<br />
độ, chất lượng phiên dịch. ký không thể hiện cách dịch từ khóa, thông tin chủ<br />
yếu, ý tưởng nội dung của ngôn ngữ nguồn…, sẽ<br />
2. ĐẶC ĐIỂM CỦA GHI CHÉP TRONG khiến người phiên dịch mất thời gian, tâm trí đọc<br />
DỊCH NÓI và giải mã rồi mới chuyển ngữ, thậm chí là ê a lần<br />
dịch theo từng ký hiệu. Như vậy, tốc độ phiên dịch<br />
2.1. Phân biệt ghi chép trong dịch nói và tốc của người phiên dịch sẽ chậm lại, họ có thể lúng<br />
ký thông thường túng, ấp úng, dẫn đến nhầm lẫn, bỏ sót, biểu đạt<br />
kém lưu loát và thiếu lôgic. Những đặc điểm trên<br />
Tốc ký là ghi chép tốc độ nhanh, đầy đủ, tường cho thấy kỹ thuật tốc ký không phải là kỹ thuật ghi<br />
tận đến từng từ mà diễn giả đã trình bày (鲍刚, chép dành cho người phiên dịch, và cũng không<br />
口译理论概述, 2005, tr.177). Tất cả các ký hiệu, thay thế được kỹ thuật ghi chép của người phiên<br />
con chữ trong tốc ký đều được giải mã, tránh tối dịch trong hoạt động dịch nói. Nói cách khác, ghi<br />
đa nhầm lẫn, sai sót. Ưu điểm của tốc ký là ghi lại chép trong hoạt động dịch nói là kỹ thuật mang<br />
toàn bộ lời nói của diễn giả, nhưng điều này không tính đặc thù riêng của hoạt động dịch nói.<br />
hoàn toàn phát huy tác dụng với người phiên dịch<br />
trong thực hành dịch nói, ngược lại còn ảnh hưởng 2.2. Ghi chép trong dịch nói mang tính gợi<br />
đến tốc độ hiệu quả chuyển ngữ. Vấn đề ở đây ý, hỗ trợ cho trí nhớ<br />
nghe có vẻ mâu thuẫn, tìm hiểu đặc điểm của tốc<br />
ký, giúp chúng ta có thể hiểu sâu hơn điều này. Tốc Khác với tốc ký thông thường như đã nêu ở<br />
ký thông thường thu hút sự chú ý của người phiên phần trên, ghi chép trong dịch nói là hình thức ghi<br />
dịch vào các ký hiệu âm thanh ngôn ngữ nguồn, chép mang tính gợi ý, thủ pháp chuyên nghiệp<br />
các hình thức biểu đạt, hoặc các hiện tượng ngôn được người phiên dịch thực hiện trong quá trình<br />
ngữ khác của ngôn ngữ nguồn. Do đó, người phiên chỉnh lý, sắp xếp tư tưởng nội dung ngôn ngữ<br />
dịch có thể bị phân tán sức tập trung vốn phải dành nguồn, tìm kiếm từ ngữ, tái cấu trúc và chuyển đổi<br />
cho việc lưu trữ từ khóa, nội dung trọng điểm, tái sang ngôn ngữ đích (王斌华, 2006, tr.305). Đây là<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
38 Số 20 (7/2019)<br />
PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v<br />
<br />
<br />
<br />
hoạt động song song với hoạt động lý giải và ghi phải một hệ thống ký hiệu chung, và chỉ cá nhân<br />
nhớ trong dịch nói và không phải là hình thức ghi người phiên dịch hiểu được.<br />
chép thuần túy nhằm lưu trữ thông tin dài hạn. Hay<br />
nói cách khác, ghi chép trong dịch nói là hình thức Là hệ thống được sắp đặt trước, người phiên<br />
gợi ý, hỗ trợ cho trí nhớ ngắn hạn, hoặc trí nhớ dịch có thể tự tạo trước một hệ thống ký hiệu cố<br />
dài hạn được kích hoạt tại thời điểm diễn ra hoạt định cho riêng mình, và vận dụng trong hoạt động<br />
thực hành dịch nói. Ví dụ, cùng biểu đạt ý nghĩa<br />
động dịch nói của người phiên dịch. Việc ghi chép<br />
quá khứ, có phiên dịch viên dùng ký hiệu “↵” để<br />
không thể thay thế hoàn toàn chức năng ghi nhớ<br />
biểu đạt quá khứ, nhưng với phiên dịch viên khác<br />
của người phiên dịch, nhưng lại có tác dụng gợi ý<br />
lại có thể dùng ký hiệu “ ×” để biểu đạt quá<br />
và có thể ví như những ký hiệu “chỉ đường” (鲍刚, khứ; hay như có phiên dịch viên dùng ký hiệu “∙ /”<br />
2005, tr.180). Nhìn vào nội dung ghi chép, người để biểu thị sự kết thúc, nhưng cũng có phiên dịch<br />
phiên dịch có thể nhớ được những thông tin mình viên dùng ký hiệu “┤” để biểu thị kết thúc... và còn<br />
cần xử lý, tái cấu trúc và truyền đạt lại bằng ngôn rất nhiều ví dụ khác nữa.<br />
ngữ mục tiêu. Điều này có nghĩa, xét từ góc độ<br />
hoạt động tư duy, ghi chép trong dịch nói là hoạt Là những ký hiệu có thể thay đổi ý nghĩa biểu<br />
động song song với hoạt động lý giải và tái cấu đạt khác nhau. Ý nghĩa của các ký hiệu có thể thay<br />
trúc ngôn ngữ. Người phiên dịch vừa ghi chép, vừa đổi tùy theo hoàn cảnh giao tiếp hoặc ngữ cảnh cụ<br />
phân tích lý giải, tái cấu trúc nội dung cần dịch. thể. Ví dụ cùng là một ký hiệu “ ” , tùy vào<br />
Đây cũng là hoạt động nội tại mang tính chuyên hoàn cảnh có thể biểu đạt sự hướng ra bên ngoài<br />
nghiệp của trí nhớ. Sự chuyển đổi chuyên nghiệp hoặc biểu đạt sự mở rộng hay quảng bá mà người<br />
diễn ra trong nội tại trí nhớ này là điểm khác biệt phiên dịch đã quy định trong bộ quy tắc viết tắt<br />
căn bản giữa ghi chép trong dịch nói và các hình của mình.<br />
thức ghi chép khác. Tính chất này phản ánh cơ chế Là hệ thống ký hiệu mang tính giản lược và<br />
nội tại hết sức quan trọng của ghi chép trong dịch có ý nghĩa khái quát. Đây là hệ thống ký hiệu đơn<br />
nói. Các hình thức bên ngoài khác chỉ là các biểu giản có tính khái quát ý nghĩa nội dung cần chuyển<br />
hiện khác nhau trong các hoàn cảnh khác nhau của ngữ, thuận tiện cho việc ghi chép.<br />
cơ chế nội tại này.<br />
Những đặc điểm này cho thấy, ghi chép trong<br />
2.3. Ghi chép trong dịch nói có giá trị tạm thời dịch nói không giống với các hình thức ghi chép<br />
thông thường khác. Không khó để có thể nhận ra,<br />
Ghi chép trong dịch nói mang tính tạm thời, hệ thống ký hiệu người phiên dịch sử dụng đa phần<br />
diễn ra trong thời gian ngắn. Ngoài đặc điểm là được chuẩn bị từ trước. Tuy nhiên, trong thực tế<br />
hình thức ghi chép mang tính gợi ý, ghi chép trong dịch nói, việc xử lý thông tin nhanh, chính xác đòi<br />
dịch nói cho thấy rõ đặc điểm ứng dụng nhất thời hỏi một hệ thống ký hiệu tinh giản, khái quát, hữu<br />
của nó. Ghi chép là để hỗ trợ trí nhớ ngắn hạn hoặc dụng với từng người phiên dịch. Không thể có một<br />
trí nhớ dài hạn được kích hoạt tại thời điểm diễn hệ thống quy tắc, ký hiệu trở thành quy định chung<br />
ra hoạt động dịch nói, đồng thời mang đậm phong cho tất cả các phiên dịch, đây chính là đặc điểm<br />
cách, thói quen cá nhân người phiên dịch (王斌华, khác biệt giữa ghi chép trong dịch nói và các hình<br />
口译:理论、技巧、实践, 2006, tr.309). Điều thức ghi chép khác.<br />
này hoàn toàn có thể nhận thấy qua quan sát các<br />
ký hiệu, tầng bậc lôgic, sơ đồ trình bày nội dung 2.4. Ghi chép trong dịch nói mang tính thực<br />
dụng cao<br />
của các bản ghi chép được khảo sát. Thực tế khảo<br />
sát cho thấy, hệ thống ký hiệu ghi chép trong dịch Ghi chép trong dịch nói chú trọng tính thực<br />
nói mang những đặc điểm sau: dụng. Một bản ghi gọn gàng, rõ chữ, sẽ là rất tốt<br />
với tất cả các hình thức ghi chép. Tuy nhiên, trong<br />
Là hệ thống ký hiệu mang tính cá nhân, không<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
Số 20 (7/2019) 39<br />
v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY<br />
<br />
<br />
dịch nói, do yêu cầu về thời gian, người phiên dịch tải lớn, khổ giấy lớn sẽ bất tiện cho việc lật trang,<br />
không thể nắn nót để có bản ghi thật gọn gàng đẹp hơn thế trong trường hợp phải di chuyển nhiều thì<br />
mắt (梅德明, 2011, tr.465). Yêu cầu đặt ra ở đây đây lại là điều bất tiện. Vì vậy, đa phần các phiên<br />
là thời gian và độ chính xác, vì vậy người phiên dịch thường dùng sổ ghi chép khổ nhỏ, tiện cho di<br />
dịch khó có thể trình bày một bản ghi đẹp mắt với chuyển và mang theo, nhất là phiên dịch ở những<br />
những con chữ ngay ngắn. Trên thực tế, yêu cầu nơi như công trường, nhà máy... Có không ít phiên<br />
một bản ghi rõ ràng dễ nhận biết là điều hết sức dịch, không qua rèn luyện kỹ thuật bài bản chuyên<br />
cần thiết, tránh trường hợp sau khi ghi chép xong, nghiệp, họ dùng sổ ghi chép khổ nhỏ và mở ngang<br />
ngay chính tác giả của bản ghi cũng không giải từ phải qua trái, theo thói quen thông thường mà<br />
mã được. Người phiên dịch có thể sử dụng các ký không biết điều đó là bất tiện, có thể ảnh hưởng<br />
hiệu đặc biệt, các ký hiệu do chính bản thân người đến sức tập trung và lãng phí thời gian chuyển ngữ.<br />
phiên dịch quy định từ trước và trình bày theo một Theo khảo sát kinh nghiệm phiên dịch thực tế của<br />
quy tắc riêng của mình, miễn sao khi nhìn vào là nhiều người, nếu sử dụng một cuốn sổ ghi chép<br />
có thể giải mã, chuyển mã được ngay. Mỗi bản ghi khổ nhỏ, lựa chọn tốt nhất là sử dụng sổ lật dọc<br />
đều là hệ thống qui định biểu đạt riêng của từng theo chiều từ dưới lên trên. Nếu người phiên dịch<br />
người phiên dịch, các phiên dịch viên khác có thể thuận tay phải, tay trái sẽ là điểm tựa giữ sổ, tay<br />
không hiểu được, hoặc rất khó có thể luận đọc, giải phải ghi chép và lật trang, các ngón tay bàn tay trái<br />
mã. Bởi lẽ, song song với hoạt động ghi chép là nhịp nhàng phối hợp giữ và kẹp sổ, đảm bảo cho<br />
quá trình bắt tin, giải mã, chuyển mã như đã nêu ở việc ghi chép diễn ra thuận lợi. Thông thường, việc<br />
phần trên. Hoạt động ghi chép mang tính cá nhân, ghi chép như vậy chỉ thực hiện trên một mặt giấy,<br />
vì vậy, quan trọng nó hữu dụng với chính bản thân người phiên dịch có thể để cách trang, sau khi ghi<br />
người phiên dịch, chủ nhân của bản ghi chép. hết một chiều mặt giấy có thể đảo lại sổ, ghi chép<br />
Bản ghi chép không nhất thiết phải đạt đến yêu tiếp mặt còn lại theo một chiều ngược lại. Thực tế<br />
cầu đầy đủ, đẹp mắt, rõ chữ, như vậy sẽ mất nhiều một số thói quen trong công việc không phải lúc<br />
thời gian ảnh hưởng tới quá trình chuyển ngữ. nào cũng ảnh hưởng đến kết quả của công việc và<br />
mỗi người phiên dịch đều có những thói quen làm<br />
2.5. Ghi chép trong dịch nói là hoạt động có việc của mình. Yếu tố quyết định đến chất lượng<br />
qui trình bài bản công việc là ở thái độ, trách nhiệm của người tiếp<br />
nhận công việc. Một người phiên dịch nghiêm túc,<br />
Mỗi người phiên dịch đều tự tạo cho mình trong điều kiện làm việc thuận lợi, họ hoàn toàn có<br />
một hình thức, qui tắc ghi chép riêng. Nhìn chung, thể tác nghiệp theo thói quen yêu thích của mình<br />
trong điều kiện cho phép, những phiên dịch có mà vẫn đảm bảo được chất lượng chuyển ngữ.<br />
kinh nghiệm thường sử dụng một kẹp giấy cứng,<br />
khổ giấy lớn, đặt trực tiếp trên bàn và ghi chép. Khảo sát cho thấy, những phiên dịch có kinh<br />
Tuy nhiên, trường hợp tác nghiệp trong điều kiện nghiệm, được rèn luyện kỹ thuật ghi chép bài<br />
phải đứng, không có điểm tựa như trên mặt bàn, bản, họ đều có đặc điểm chung là ghi chép không<br />
kẹp giấy có thể được tì trên cánh tay tạo thành nhiều, nhưng nội dung đầy đủ bao quát. Đa phần<br />
mặt phẳng cứng, thuận tiện cho ghi chép. Dùng các bản ghi chép đều chú ý đến các ký hiệu như<br />
khổ giấy lớn để ghi chép sẽ thuận tiện cho việc những mốc “chỉ đường” tới nội dung trọng tâm,<br />
tập hợp toàn bộ nội dung diễn giả trình bày trên mạch ý chính. Ghi chép có thể không nhiều, không<br />
cùng một mặt giấy, tránh việc sang trang, lật mặt thể hiện đến từng chi tiết diễn giả trình bày, nhưng<br />
giấy, sẽ làm mất thời gian hoặc phân tán sức tập nhờ những ký hiệu như những mốc “chỉ đường”<br />
trung của người phiên dịch. Song việc sử dụng này, kết hợp với nội dung đã được ghi lại trong não<br />
khổ giấy lớn để ghi chép cũng có mặt hạn chế, bộ, người phiên dịch có thể thực hiện chuyển ngữ<br />
trường hợp nội dung nhiều, dung lượng chuyển một cách suôn sẻ.<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
40 Số 20 (7/2019)<br />
PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v<br />
<br />
<br />
<br />
3. LỰA CHỌN NGÔN NGỮ GHI CHÉP dịch không mấy gặp trở ngại với việc nghe bắt<br />
thông tin, vì vậy thông tin liên tiếp được thu nạp và<br />
Nhiều chuyên gia cho rằng, rèn luyện kỹ thuật người phiên dịch có thể ghi chép liên tục. Sau khi<br />
ghi chép trong thực hành dịch nói luôn đứng trước diễn giả dừng trình bày, người phiên dịch có một<br />
câu hỏi “ghi chép bằng ngôn ngữ mẹ đẻ hay ghi bản ghi chép tương đối đầy đủ, rõ ràng. Công việc<br />
chép bằng ngôn ngữ mục tiêu” hiệu quả sẽ tốt hơn.<br />
lúc này của người phiên dịch là ung dung nhìn bản<br />
Như trên đã phân tích, hoạt động ghi chép trong<br />
ghi chép và tiến hành chuyển ngữ. Nói vậy không<br />
thực hành dịch nói được tiến thành đồng thời với<br />
các hoạt động: Nghe bắt thông tin, lý giải, phân có nghĩa ghi chép bằng tiếng mẹ đẻ không có mặt<br />
tích, tái tổ hợp cấu trúc. Trên thực tế, người phiên hạn chế. Chính vì nghe được hầu hết nội dung<br />
dịch có thể ghi chép bằng ngôn ngữ nguồn, cũng thông điệp của diễn giả trình bày, người phiên dịch<br />
có thể ghi chép bằng ngôn ngữ đích, đồng thời kết có thể bị cuốn vào ghi chép từ, hoặc ghi chép toàn<br />
hợp với hệ thống ký hiệu phổ quát, kể cả những bộ lời nói của diễn giả, làm cho bản ghi trở nên rối<br />
cách viết tắt, những từ viết tắt đã trở thành hệ mắt, nặng nề. Trong khi ghi chép trong thực hành<br />
thống và được chấp nhận trong một cộng đồng, dịch nói phải chú trọng tóm bắt mạch ý của diễn<br />
hoặc trên toàn thế giới. Ngoài ra người phiên dịch giả, phân tích, tìm kiếm giải pháp chuyển ngữ. Với<br />
cũng có thể ghi chép bằng ngữ nguồn hoặc ngữ một bản ghi như vậy, người phiên dịch dễ mắc<br />
đích kết hợp với hệ thống ký hiệu do chính người phải lỗi dịch từng từ, lần theo từng hàng chữ đã<br />
phiên dịch xây dựng riêng cho mình theo những ghi chép để chuyển ngữ, dẫn đến câu dịch không<br />
nguyên tắc nhất định (Nguyễn Quốc Hùng, 2007, thoát khỏi cấu trúc tiếng Việt, ê a thiếu lôgic. Vì<br />
tr.107). Hệ thống ký hiệu cá nhân do người phiên vậy người phiên dịch cần phải kết hợp giữa ghi<br />
dịch tự xây dựng thường hết sức phong phú, nó chép với nghe bắt tin, phân tích, tái tạo cấu trúc,<br />
phục vụ riêng cho từng cá nhân người phiên dịch. chuyển ngữ. Ví dụ ghi chép nội dung đoạn băng<br />
Tuy nhiên, khi sử dụng hệ thống ký hiệu riêng, đầy<br />
diễn giả trình bày sau đây bằng tiếng Việt:<br />
sáng tạo này, người phiên dịch cũng phải hết sức<br />
thận trọng, tránh tình trạng luận giải sai, hiểu sai “Theo nhận định chung của các nhà khoa học,<br />
ý hoặc sau khi ghi chép, chính người phiên dịch<br />
Việt Nam được xác định là một trong những nước<br />
cũng không luận giải được những ký hiệu mình<br />
bị tác động nặng nề nhất của biến đổi khí hậu. Đặc<br />
đã ghi chép. Vì vậy, dù là hệ thống ký hiệu do<br />
biệt là khu vực đồng bằng sông Cửu Long, nơi có<br />
chính bản thân người phiên dịch sáng tạo, cũng<br />
phải được xây dựng theo một qui tắc nhất định, trên 80% diện tích mặt đất có độ cao thấp hơn 2,5m<br />
khoa học, có hệ thống, dễ nhận biết, tính ổn định so với mặt nước biển. Kịch bản nước biển dâng mà<br />
cao. Tránh những ký hiệu chỉ mang tính bột phát, Bộ Tài nguyên và Môi trường công bố cảnh báo<br />
biểu đạt ý nghĩa vào một thời điểm nhất định nào vào năm 2100, mực nước Biển Đông sẽ cao hơn<br />
đó, rồi lại quên đi, như vậy sẽ không có tác dụng hiện nay khoảng 1m. Mức nước lũ của đồng bằng<br />
hỗ trợ cho quy trình gợi nhớ và lý giải. Chẳng hạn sông Cửu Long sẽ tăng thêm khoảng gần 2m so<br />
như những phiên dịch là người Việt Nam khi thực với mức lũ hiện nay, hậu quả của nước biển dâng<br />
hành dịch nói từ tiếng Việt sang tiếng Hán, họ có cao không phải chỉ có ngập tĩnh, các vùng ven bờ<br />
thể lựa chọn tiếng mẹ đẻ là tiếng Việt hoặc tiếng và cửa sông bị xâm thực làm cho cơ sở hạ tầng ven<br />
nước ngoài là tiếng Hán để ghi chép. Tuy nhiên dù biển bị đe dọa lớn hơn…”<br />
là ghi chép bằng tiếng Việt hay tiếng Hán cũng đều<br />
có những thuận lợi và khó khăn nhất định.<br />
Bảng 1. Sơ đồ ghi chép nội dung đoạn văn<br />
3.1. Ghi chép bằng tiếng Việt trong phiên diễn giả trình bày bằng tiếng Việt<br />
dịch Việt-Hán<br />
<br />
Ghi chép bằng tiếng Việt trong phiên dịch Việt<br />
- Hán, với người Việt Nam có thể nói có rất nhiều<br />
thuận lợi. Khi nghe diễn giả trình bày, người phiên<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
Số 20 (7/2019) 41<br />
v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY<br />
<br />
<br />
3.2. Ghi chép bằng tiếng Hán trong phiên sau, người phiên dịch có thể kết hợp cả tiếng Việt và<br />
dịch Việt-Hán tiếng Hán:<br />
<br />
Ngược lại với hình thức ghi chép ở phần trên, “中国和越南山水相连,两国人民长期互相<br />
khi sử dụng tiếng Hán ghi chép lời diễn giả trình 支持,结下了深厚情谊。我曾经于2011年12月<br />
bày trong thực hành dịch nói Việt-Hán cũng có 访问越南,并会见了参加第十二届中越青年友<br />
những thuận lợi nhất định. Bởi lẽ, quá trình ghi 好会见的两国青年代表。几百名年轻人同唱歌<br />
chép đồng thời là quá trình dịch. Mặc dù người 颂两国传统友谊的歌曲《越南—中国》,给我<br />
phiên dịch nghe được đầy đủ nội dung diễn giả 留下了深刻印象。听说有部分代表今天也来到<br />
trình bày, nhưng vì vừa ghi vừa phải sắp ý theo 了人民大会堂,欢迎你们!<br />
ngôn ngữ mục tiêu, nên người phiên dịch không<br />
thể ghi chép từng từ, mà phải trình bày theo sơ đồ 当前,中国人民正在为全面建成小康社<br />
ý với các ký hiệu giản tiện, rõ ràng. Tuy nhiên, ghi 会、实现中华民族伟大复兴的中国梦而团结奋<br />
chép bằng tiếng Hán cũng có những hạn chế nhất 斗,协调推进全面建成小康社会、全面深化改<br />
định. Chữ Hán là hệ chữ vuông, đa phần các con 革、全面依法治国、全面从严治党,越南也在<br />
chữ được cấu tạo từ nhiều nét khác nhau, vì vậy, 全力推进革新事业。在发展道路上,双方应该<br />
việc ghi chép bằng tiếng Hán không phải là việc 继续加强人文交流、增进睦邻友好,使中越传<br />
thuận tiện dễ dàng với người phiên dịch là người 统友谊在两国人民中代代相传” 。<br />
Việt Nam dù người đó có biết qui tắc viết chữ thảo.<br />
Khảo sát cho thấy, các bản ghi chép thông thường Bảng 2. Sơ đồ ghi chép nội dung đoạn văn<br />
kết hợp cả tiếng tiếng Việt và tiếng Hán với hệ diễn giả trình bày bằng tiếng Hán<br />
thống ký hiệu phổ quát và hệ thống ký hiệu do<br />
người phiên dịch tự sáng tạo. Ví dụ: “人d ” nghĩa<br />
là “người dân, nhân dân”; “人d中” nghĩa là người<br />
dân Trung Quốc hoặc nhân dân Trung Quốc.<br />
<br />
Tương tự như trên, ghi chép khi phiên dịch từ<br />
tiếng Hán sang tiếng Việt, người phiên dịch là người<br />
Việt Nam cũng gặp những thuận lợi và khó khăn Lưu trữ nội dung thông tin diễn giả trình bày<br />
nhất định. Khi diễn giả trình bày bằng tiếng Hán, được người phiên dịch thực hiện dựa vào hai cách,<br />
người phiên dịch chịu áp lực về nghe và nắm bắt ghi nhớ trong não bộ và ghi chép trên giấy. Trong<br />
thông tin. Họ phải tập trung cao độ để bắt ý, lý giải hoạt động dịch nói, trí nhớ được phát huy tối đa, khi<br />
phân tích nội dung diễn giả trình bày. Cũng vì lý đó, diễn giả trình bày nội dung quá phạm vi lưu trữ của<br />
việc ghi chép buộc phải tập trung vào ghi ý, người trí nhớ ngắn hạn, người phiên dịch phải nhờ vào sự<br />
phiên dịch phải trình bày mạch ý của diễn giả theo hỗ trợ của ghi chép. Có thể thấy ghi chép đóng vai<br />
một sơ đồ lôgic, rõ ràng. Tuy nhiên, trong trường trò quan trọng, hỗ trợ cho trí nhớ, giúp hoạt động<br />
hợp này, việc ghi chép bằng tiếng Việt đồng thời là phiên dịch diễn ra suôn sẻ, đầy đủ và chính xác.<br />
quá trình phiên dịch, khi diễn giả dừng trình bày, Người phiên dịch chỉ ghi chép ý chính, không nặng<br />
người phiên dịch nhìn vào bản ghi chép và thực hiện về ghi chép toàn bộ như tốc ký thông thường, quá<br />
chuyển ngữ. Nhìn chung, trong trường hợp dịch từ sa đà vào ghi chép đầy đủ sẽ ảnh hưởng đến việc<br />
tiếng Hán sang tiếng Việt, đa phần các phiên dịch là lý giải, cấu trúc lại ngôn ngữ nguồn và chuyển ngữ.<br />
người Việt Nam đều lựa chọn ghi chép bằng tiếng Nội dung ghi chép trong hoạt động dịch nói chủ yếu<br />
Việt, họ chỉ sử dụng tiếng Hán trong những trường là các khái niệm, mệnh đề, tên riêng, con số, cơ cấu<br />
hợp con chữ ít nét, có tính khái quát và nằm trong hệ tổ chức, các mối quan hệ lôgic. Ghi chép trong dịch<br />
thống qui tắc tự xác lập của mình. Ví dụ, ghi chép nói thường dùng những từ ngữ, ký hiệu biểu đạt một<br />
lại đoạn băng diễn giả trình bày có nội dung như tập hợp ý.<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
42 Số 20 (7/2019)<br />
PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v<br />
<br />
<br />
<br />
4. MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP RÈN KỸ THUẬT 4.2. Ghi chép có giới hạn thời gian<br />
GHI CHÉP TRONG GIẢNG DẠY DỊCH NÓI<br />
Ghi chép có giới hạn thời gian là hình thức<br />
Để ghi chép hiệu quả trong hoạt động dịch nói, ghi chép diễn ra trong khoảng thời gian xác định.<br />
người phiên dịch cần rèn luyện kỹ thuật ghi chép Thông thường sau khi dừng băng hình, người học<br />
thật nghiêm túc và bài bản. Kỹ thuật ghi chép là hoàn thành việc ghi chép trong khoảng thời gian<br />
kỹ thuật sử dụng hệ thống ký hiệu, cách nói tắt và ít nhất bằng thời gian chạy băng hình hoặc hơn<br />
những qui tắc riêng, tạo nên hệ thống sơ đồ ý, kết một chút. Ví dụ, sau khi xem một đoạn băng hình<br />
hợp nội dung lưu trữ bằng trí nhớ ngắn hạn, dài hạn, dài 1 phút 30 giây, người học có thể hoàn thành<br />
nhằm phục vụ cho quá trình chuyển ngữ (王斌华, ghi chép nội dung đoạn băng trong 1 phút 45 giây,<br />
2006, tr.312). Nhìn chung để có kỹ thuật ghi chép tính từ thời điểm dừng băng. Sau khi hoàn thành<br />
tốt, người phiên dịch phải có kế hoạch rèn luyện kỹ việc ghi chép, người học thuật lại nội dung đoạn<br />
thuật ghi chép một cách nghiêm túc. Xác định được băng vừa xem bằng ngôn ngữ nguồn, hoặc ngôn<br />
tầm quan trọng của ghi chép, trong các giờ học thực ngữ đích. Nếu người học hoàn thành việc ghi chép<br />
hành dịch nói tại nhà trường, giảng viên có thể thiết trong 1 phút 45 giây, lần luyện tập tiếp theo sẽ rút<br />
kế các bài học, lựa chọn các băng hình, xác định ngắn thời gian ghi chép xuống 1 phút 35 giây. Sau<br />
mục tiêu yêu cầu cụ thể, lựa chọn phương pháp phù khi đạt được mục tiêu luyện tập, tiếp tục rút ngắn<br />
hợp, giúp người học rèn luyện và từng bước nâng thời gian lần ghi chép tiếp theo xuống 1 phút 30<br />
giây, hoặc 1 phút 25 giây và thuật lại nội dung sau<br />
cao kỹ thuật ghi chép, đặt nền móng vững chắc cho<br />
mỗi lần ghi chép. Hình thức luyện tập này tạo cho<br />
công việc thực tế sau này.<br />
người học áp lực về thời gian, trên cơ sở đó, người<br />
4.1. Ghi chép không giới hạn thời gian học rèn luyện năng lực nhận biết, nắm bắt thông<br />
tin, sắp xếp chỉnh ý, điều chỉnh cách ghi chép,<br />
Ghi chép không giới hạn thời gian là hoạt động nâng cao kỹ thuật ghi chép.<br />
ghi chép được tiến hành từ khi bắt đầu bật băng<br />
hình, người học vừa xem băng hình, vừa phân tích 4.3. Luyện tập ghi chép băng hình tiếng Việt<br />
lôgic nội dung, vừa ghi chép, cho đến khi hoàn theo các cấp độ thời gian<br />
thành việc ghi chép. Sau khi hoàn thành việc ghi<br />
Luyện tập ghi chép băng hình tiếng Việt là hình<br />
chép, người học nhìn vào bản ghi chép và thuật lại thức xem băng hình tiếng Việt, ghi chép lại nội<br />
bằng lời. Trước hết, người học thuật lại nội dung dung, sau khi hoàn thành việc ghi chép, người học<br />
băng hình bằng ngôn ngữ nguồn, tiếp đến thuật lại sẽ dùng tiếng Hán để thuật lại nội dung mình vừa<br />
bằng ngôn ngữ mục tiêu. Việc thuật lại nội dung ghi chép. Cùng một đoạn băng hình, người học<br />
ghi chép có thể diễn ra nhiều lần, sau mỗi lần tiến hành luyện tập nhiều lần, đồng thời tiến hành<br />
người học có thể chỉnh sửa, rút kinh nghiệm sao so sánh việc ghi chép giữa các lần thực hành, từ đó<br />
cho có bản dịch ngắn gọn, đủ ý nhất. Hình thức rút kinh nghệm, chỉnh sửa để có bản ghi chép hiệu<br />
luyện tập này không chịu áp lực về nghe bắt thông quả. Với người học là người Việt Nam, việc xem<br />
tin, không bị giới hạn về thời gian, đây là hình băng hình tiếng mẹ đẻ sẽ không mấy khó khăn,<br />
thức dễ nắm bắt và thuần thục đối với những người không ảnh hưởng đến hoạt động nắm bắt thông<br />
mới học. Yêu cầu của hình thức này là người học tin. Việc rèn luyện kỹ thuật ghi chép nên bắt đầu<br />
phải rèn kỹ thuật bắt ý, tóm ý, trình bày ý theo tiến hành từ ghi chép nội dung các băng hình bằng<br />
một sơ đồ ý đầy đủ và vắn tắt. Giảng viên có thể tiếng Việt, chú ý cách phân bố sức tập trung, phối<br />
lựa chọn băng hình luyện tập ghi chép bằng tiếng hợp nhịp nhàng giữa nghe và ghi chép, luyện tập<br />
Việt hoặc tiếng Hán phù hợp. Trên cơ sở luyện tập, từ không giới hạn thời gian, đến có giới hạn thời<br />
người học rút kinh nghiệm và bắt đầu hình thành gian, chú trọng rèn luyện biểu đạt nội dung sơ đồ ý<br />
cho mình hệ thống ký hiệu và bộ qui tắc ghi chép. đã ghi chép từ tiếng Việt sang tiếng Hán.<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
Số 20 (7/2019) 43<br />
v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY<br />
<br />
<br />
4.4. Ghi chép nội dung băng hình tiếng Hán phiên dịch, nhưng cơ bản nằm trong hệ thống ký<br />
tốc độ chậm hiệu phổ quát, đa số mọi người có thể hiểu được.<br />
Và dù bộ quy tắc ký hiệu có gọn nhẹ đến mức<br />
Ghi chép theo băng hình tiếng Hán tốc độ nào, thì nó phải là hệ thống ký hiệu mà bộ não con<br />
chậm là hình thức xem băng hình tiếng Hán với người dễ nhận biết, tránh những phiền toái không<br />
tốc độ chậm và tiến hành ghi chép lại nội dung. cần thiết dẫn đến làm chậm tốc độ phiên dịch, thậm<br />
Sau khi hoàn thành việc ghi chép, người học thuật<br />
chí dẫn đến sai lệch ảnh hưởng chất lượng phiên<br />
lại nội dung băng hình bằng tiếng Việt. Cùng một<br />
dịch. Người phiên dịch có thể dựa vào hệ thống<br />
đoạn băng hình, có thể luyện tập lặp lại nhiều lần,<br />
các ký hiệu quốc tế để hình thành cho mình bộ quy<br />
với yêu cầu khác nhau về mặt thời gian và so sánh<br />
kết quả ghi chép sau mỗi lần, tìm ra những điểm tắc viết tắt riêng. Đây là bộ quy tắc riêng của từng<br />
tồn tại, rút kinh nghiệm, chỉnh sửa cho đến khi có người phiên dịch, không phải hệ thống qui tắc viết<br />
bản ghi chép đạt hiệu quả trong thời gian ngắn tắt mặc định cho tất cả mọi người. Tuy nhiên, đó<br />
nhất. Mặc dù tốc độ nói trong băng hình chậm, là hệ thống qui tắc mang tính gợi ý, có thể áp dụng<br />
nhưng vì tiếng Hán với người Việt Nam là ngoại rộng rãi, ví dụ một số ký hiệu dưới đây có thể biểu<br />
ngữ, nên đòi hỏi người học phải có khả năng nghe đạt ý theo một quy tắc nhất định:<br />
hiểu, sàng lọc thông tin và sắp xếp ý tốt. Việc phân<br />
bố sức tập trung giữa nghe và ghi chép là hết sức Bảng 3. Một số ký hiệu phổ quát có thể áp<br />
quan trọng, cần rèn luyện sao cho hoạt động ghi dụng ghi chép trong dịch nói<br />
chép không ảnh hưởng đến hoạt động nghe, nắm<br />
bắt thông tin và ngược lại. Ký Ký<br />
hiệu Ý biểu đạt Ý biểu đạt<br />
hiệu<br />
<br />
4.5. Luyện tập ghi chép băng hình tiếng Hán ↑ Tăng lên, phát triển, gia ⃝ Quốc gia, đất nước<br />
tăng<br />
tốc độ chuẩn<br />
↓ Giảm xuống, đi xuống, Ω Bao gồm trong đó, bao<br />
thụt lùi hàm cả, thâu tóm trọn vẹn<br />
Về mặt hình thức, luyện tập ghi chép băng<br />
↑↑ Ngày càng mạnh, tăng ≠ Không giống với, khác so<br />
hình tiếng Hán tốc độ chuẩn cũng tương tự như mạnh, nỗ lực hết mức với, biến đổi<br />
các hình thức luyện tập trên. Để khắc phục áp lực ↓↓ Ngày càng yếu, giảm = Bằng với, đồng nghĩa với,<br />
nghe để nắm bắt thông tin, cần phải lựa chọn các mạnh, trượt mạnh có nghĩa là<br />
băng hình tiếng Hán từ dễ đến khó, từ băng hình ↕ Xuyên suốt trên dưới Mãi mãi, dài lâu, trường<br />
tồn<br />
có nội dung quen thuộc đến băng hình có nội dung<br />
→ Suy ra, dẫn đến, kéo theo ≈ Tương đương với, ngang<br />
mới, từ không giới hạn thời gian đến có giới hạn<br />
với<br />
thời gian, từng bước giảm áp lực nghe bắt thông<br />
← Nhìn lại phía trước, trở về ≡ Tồn tại<br />
tin. Nội dung băng hình cũng có thể tăng dần độ trước<br />
khó, từ những bài phát biểu, đối thoại có kết cấu rõ ↔ Tác động hai chiểu, tương √ Chính xác, đạt tiêu chuẩn<br />
ràng, đến những bài có kết cấu lôgic nội dung phức quan<br />
tạp hơn, đòi hỏi sự phân tích như phỏng vấn, đưa * Xuất sắc, ưu tú, tuyệt vời × Không chính xác, sai, bỏ<br />
đi<br />
tin, phát biểu hội nghị... Luyện tập lặp lại nhiều<br />
*: Cảnh báo ϴ Đe dọa<br />
lần với cùng một băng hình, khi đã thuần thục, tiếp<br />
~ Liên quan đến, có quan hệ ≤ Nhỏ hơn hoặc ngang<br />
tục luyện tập vừa nghe vừa ghi, cho đến khi hoạt với, quan hệ, liên hệ bằng với<br />
động ghi chép kết thúc cùng lúc với hoạt động nói ≥<br />
ø Vô tác dụng, ko có gì, Lớn hơn hoặc ngang bằng<br />
của diễn giả. trống rỗng với<br />
? Nguyên nhân, nghi vấn, є Thuộc về, qui về<br />
4.6. Một số ký hiệu phổ quát có thể áp dụng tại sao<br />
vào ghi chép trong dịch nói Δ Đại diện cho, tượng trưng ˃˂ Trái ngược với, mâu thuẫn,<br />
cho xung đột, đối đầu<br />
Các ký hiệu hoặc viết tắt dùng ghi chép trong ++ Cực mạnh, cực tốt, cực || Tuy nhiên, vả lại<br />
dịch nói tuy mang tính cá nhân của mỗi người nhiều<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
44 Số 20 (7/2019)<br />
PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v<br />
<br />
<br />
<br />
˗˗ Vô cùng yếu, vô cùng tệ // Song song với, đồng thời lựa chọn các phương pháp rèn luyện phù hợp, đặt<br />
với, cùng lúc với ra yêu cầu và hướng dẫn người học từng bước rèn<br />
/ bên cạnh đó § Sự kết nối<br />
luyện, đi đến thuần thục kỹ thuật này.<br />
| chấm dứt, ngăn chặn $ Tiền bạc<br />
)+ Ngoài giới hạn, đã vượt ∑ Tổng cộng 5. KẾT LUẬN<br />
mức<br />
+) Trong giới hạn, chưa vượt ∞ Vô cùng, vô tận<br />
Trong dịch nói, ghi chép đóng vai trò hỗ trợ rất<br />
mức<br />
⃝ Xâm nhập, xâm lấn ∀ Tất cả, mọi thứ lớn cho ghi nhớ, giúp giảm áp lực và bù đắp những<br />
→ hạn chế cho trí nhớ ngắn hạn của người phiên dịch.<br />
: Nhận định, cho rằng, thể ┤ Dừng lại ở…, tính đến… Bên cạnh đó, trong quá trình dịch nói, ghi chép còn<br />
hiện dừng lại<br />
+ Nổ lực phát triển, nỗ lực - Tăng trưởng âm, thụt lùi...<br />
là quá trình sắp xếp, tái cấu trúc ngôn ngữ nguồn,<br />
phấn đấu giúp hoạt động ghi nhớ chuyển từ bị động sang chủ<br />
động, nâng cao hiệu quả hoạt động ghi nhớ. Nắm<br />
Ghi chép trong dịch nói đòi hỏi tốc độ nhanh, bắt đặc điểm, vai trò của ghi chép, thiết kế chương<br />
ý cô đọng, tránh tối đa sự cẩu thả, rối rắm khó trình rèn luyện kỹ thuật ghi chép hợp lý sẽ góp<br />
nhận biết. Nội dung thông tin thu được từ ngôn phần nâng cao chất lượng đào tạo phiên dịch. Trên<br />
ngữ nguồn qua đi rất nhanh, người phiên dịch phải<br />
cơ sở nghiên cứu, áp dụng thành quả của người đi<br />
có ý thức rèn luyện khả năng ghi chép nhanh, ký<br />
trước, tổng kết thực tiễn giảng dạy và học tập môn<br />
hiệu rõ ràng dễ nhận biết. Ghi chép có thể dùng<br />
ngôn ngữ nguồn hoặc ngôn ngữ đích để lưu lại nội thực hành dịch nói tiếng Trung Quốc tại Học viện<br />
dung của diễn giả, cũng có thể kết hợp cùng lúc Khoa học Quân sự, chúng tôi tóm tắt một số đặc<br />
cả ngôn ngữ nguồn và ngôn ngữ đích. Ngoài ra hệ điểm và phương pháp rèn luyện kỹ thuật ghi chép<br />
thống ký hiệu phổ quát, hệ thống ký hiệu riêng do trong dịch nói. Hy vọng, nội dung đề cập trong bài<br />
mỗi cá nhân tự tạo nên cũng có thể được tận dụng viết sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển hoạt động<br />
để đẩy nhanh tốc độ ghi chép. Có nhiều phương giảng dạy, đào tạo phiên dịch tại Học viện Khoa<br />
pháp rèn luyện kỹ thuật ghi chép, giảng viên có thể học Quân sự./.<br />
<br />
<br />
<br />
Tài liệu tham khảo:<br />
Phan Vũ Tuấn Anh (2013), Giáo trình Phiên dịch Trung-Việt đối ngoại, Học viện Ngoại giao, Hà Nội.<br />
Nguyễn Hữu Cầu (2007), Lý thuyết đối dịch Hán-Việt, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.<br />
Nguyễn Quốc Hùng (2007), Hướng dẫn kỹ thuật phiên dịch Anh-Việt Việt-Anh, NXB Tổng hợp TP Hồ Chí Minh.<br />
Hồ Đắc Túc (2012), Dịch thuật và tự do, NXB Hồng Đức, Hà Nội.<br />
鲍刚(2005),口译理论概述,中国对外翻译出版公司,北京。<br />
刘和平(2005),口译理论与教学,中国对外翻译出版公司,北京。<br />
刘建珠(2012),口译技能训练教程,武汉大学出版社,武汉。<br />
桂诗春(1985),心理语言学,上海外语教育出版社,上海。<br />
王斌华(2006),口译:理论、技巧、实践,武汉大学出版社,武汉。<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
Số 20 (7/2019) 45<br />
v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY<br />
<br />
<br />
<br />
SOME METHODS FOR NOTE-TAKING SKILL PRACTICE IN INTERPRETATION<br />
TEACHING BY CHINESE FACULTY, MILITARY SCIENCE ACADEMY<br />
NGUYEN THI THIEM<br />
Abstract: In translating activity, for a limited amount of time, when the amount of information<br />
exceeds the memory capacity of the brain, the translator must rely on the support of the note-<br />
taking. Techniques of note-taking in spoken translation have specific characteristics, training note-<br />
taking techniques contribute to assure quality and improve translation efficiency. Determining the<br />
importance of taking notes, in teaching practice of speaking, the design of lessons that trains note-<br />
taking technique for learners, training a team of interpreters with good skills to translate to meet<br />
practical requirements is essential. Basing on the study of summarizing the results of previous<br />
people, combined with a review of practical experience, we summarize the characteristics of<br />
note-taking techniques and some methods of training note-taking techniques for Chinese major<br />
students at Military Science Academy.<br />
Keywords: translation, methods, note-taking techniques, memorizing, system of symbols<br />
Received: 11/01/2019; Revised: 14/02/2019; Accepted: 15/5/2019<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
46 Số 20 (7/2019)<br />