Bàn về quá trình . . .<br />
<br />
Nghiên cứu – Trao đổi<br />
BÀN VỀ QUÁ TRÌNH TỰ HỌC VÀ PHƯƠNG PHÁP<br />
TỰ HỌC CỦA SINH VIÊN<br />
Lê Thị Hiền*<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
<br />
Tự học là hình thức học tập không thể thiếu được của sinh viên đang học tập tại các trường<br />
đại học. Tổ chức hoạt động tự học một cách hợp lý, khoa học, có chất lượng, hiệu quả là trách<br />
nhiệm không chỉ ở người học mà còn là sự nghiệp đào tạo của nhà trường. Bài viết dưới đây đề cập<br />
đến nội dung của phương pháp tự học và phương pháp dạy tự học cho sinh viên, nhằm góp phần<br />
nâng cao chất lượng đào tạo.<br />
Từ khóa: tự học, phương pháp, khoa học, chất lượng đào tạo.<br />
<br />
DISCUSSION ON SELT – STUDY PROCESS AND METHOD<br />
FOR STUDENTS<br />
ABSTRACT<br />
Self - study has become indispensable to students studying in university. Organize a<br />
reasonable, scientific and efficient quality self - study activity constitute a task not only for the<br />
learner but also the school’s cause of training. The following articles will cover the method for self<br />
– study and teaching with the aim of making contributions to enhance the training quality.<br />
Keywords: self – study, method, scientific, training quality<br />
<br />
1. Đặt vấn đề<br />
Trong lịch sử giáo dục nước ta, việc đổi<br />
mới mục tiêu, chương trình, nội dung giáo dục<br />
luôn được quan tâm qua từng giai đoạn phát<br />
triển. Để đạt được mục tiêu giáo dục đòi hỏi<br />
người dạy – người học phải hợp tác với nhau,<br />
trong đó người học phải có phương pháp suy<br />
nghĩ, suy luận, phương pháp giải quyết vấn đề<br />
đúng đắn để tiếp thu kiến thức đã học. Muốn<br />
vậy, người học phải tích cực, chủ động, độc<br />
lập suy nghĩ, phải có cách học tập hợp lí. Chủ<br />
*<br />
<br />
tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Về cách học phải<br />
lấy tự học làm cốt”21.<br />
Để đáp ứng nguồn nhân lực phục vụ sự<br />
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi<br />
chúng ta phải đầu tư cho giáo dục, xem “giáo<br />
dục là quốc sách hàng đầu”. Ngành giáo dục<br />
phải không ngừng nâng cao chất lượng để<br />
thực hiện mục tiêu chiến lược nâng cao dân<br />
trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho<br />
đất nước. Chất lượng giáo dục phụ thuộc vào<br />
quá trình dạy học – hoạt động dạy của thầy<br />
<br />
ThS. GV. Trường Đại học Kinh tế - Kỹ thuật Bình Dương<br />
Hồ Chí Minh toàn tập - tập 5, tr.273, NXB CTQG H.2000<br />
<br />
21<br />
<br />
79<br />
<br />
Taïp chí Kinh teá - Kyõ thuaät<br />
<br />
và hoạt động học của trò. Trong quá trình đó,<br />
dưới sự lãnh đạo của tổ chức, điều khiển của<br />
thầy và trò, thầy và trò tự giác, chủ động tích<br />
cực tự tổ chức quá trình nhận thức nhằm thực<br />
hiện các nhiệm vụ học tập. Trong thư gửi Hội<br />
thảo khoa học nghiên cứu và tự học, nguyên<br />
Tổng Bí thư Trung ương Đảng Đỗ Mười có<br />
viết: “Chất lượng và hiệu quả giáo dục được<br />
nâng lên khi tạo ra được năng lực sáng tạo của<br />
người học, khi biến quá trình giáo dục thành<br />
quá trình tự giáo dục. Qui mô giáo dục được<br />
mở rộng khi có phong trào toàn dân tự học”.<br />
Tự học là con đường tốt nhất giúp cho<br />
người học, mỗi sinh viên hiểu biết sâu sắc và<br />
làm phong phú thêm kiến thức của mình, giúp<br />
họ sáng tạo ra những giá trị để góp phần xây<br />
dựng cuộc sống.<br />
Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai, Ban chấp<br />
hành Trung ương Đảng khóa VIII đã khẳng<br />
định: “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo<br />
dục đào tạo, bảo đảm điều kiện và thời gian<br />
tự học, tự nghiên cứu cho học sinh, nhất là<br />
sinh viên đại học phát triển mạnh mẽ phong<br />
trào tự học, tự đào tạo thường xuyên và rộng<br />
khắp trong toàn dân, nhất là thanh niên”.<br />
Luật giáo dục (2005) nêu rõ: Phương pháp<br />
giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác,<br />
chủ động, tư duy sáng tạo của người học; bồi<br />
dưỡng cho người học năng lực tự học, khả<br />
năng thực hành, lòng say mê học tập và y chí<br />
vươn lên.<br />
Trên tinh thần ấy, rõ ràng Đảng ta đã coi<br />
tự học, tự đào tạo là vấn đề mấu chốt có vị<br />
trí cực kì quan trọng trong chiến lược giáo<br />
dục - đào tạo của đất nước. Trong khuôn khổ<br />
bài viết này chúng tôi muốn tập trung đề cập<br />
những vấn đề liên quan đến khái niệm tự học,<br />
nội dung hoạt động tự học, các hình thức dạy<br />
tự học, đặc biệt là quan tâm đến các biện pháp<br />
rèn luyện kĩ năng tự học cho sinh viên. Để từ<br />
<br />
đó thúc đẩy quá trình rèn luyện kĩ năng tự học<br />
cho sinh viên, góp phần vào công cuộc đổi<br />
mới phương pháp dạy học, không ngừng nâng<br />
cao chất lượng đào tạo của nhà trường.<br />
2. Khái niệm tự học<br />
Trong tập bài giảng chuyên đề Dạy tự<br />
học cho SV trong các nhà trường Trung học<br />
chuyên nghiệp và Cao đẳng, Đại học GS –<br />
TSKH Thái Duy Tuyên viết: “Tự học là hoạt<br />
động độc lập chiếm lĩnh kiến thức, kỹ năng, kỹ<br />
xảo, là tự mình động não, suy nghĩ, sử dụng<br />
các năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân<br />
tích, tổng hợp…)cùng các phẩm chất động cơ,<br />
tình cảm để chiếm lĩnh tri thức một lĩnh vực<br />
hiểu biết nào đó hay những kinh nghiệm lịch<br />
sử, xã hội của nhân loại, biến nó thành sở hữu<br />
của chính bản thân người học”.<br />
Tác giả Nguyễn Kỳ ở Tạp chí Nghiên cứu<br />
giáo dục số 7/ 1998 cũng bàn về khái niệm tự<br />
học: “Tự học là người học tích cực chủ động,<br />
tự mình tìm ra tri thức kinh nghiệm bằng hành<br />
động của mình, tự thể hiện mình. Tự học là tự<br />
đặt mình vào tình huống học, vào vị trí nghiên<br />
cứu, xử lý các tình huống, giải quyết các vấn<br />
đề, thử nghiệm các giải pháp…Tự học thuộc<br />
quá trình cá nhân hóa việc học”.<br />
Từ các quan niệm trên đây có thể nhận<br />
thấy rằng: Tự học là quá trình tự thân chiếm<br />
lĩnh những tri thức, tự trau dồi kỹ năng, tự bồi<br />
dưỡng tâm hồn của mình ở mọi lúc, mọi nơi.<br />
3. Vai trò của tự học<br />
3.1 Tự học là mục tiêu cơ bản của quá<br />
trình dạy học<br />
Từ lâu các nhà sư phạm đã nhận thức rõ<br />
ý nghĩa của phương pháp dạy tự học. Trong<br />
quá trình hoạt động dạy học giảng viên không<br />
chỉ dừng lại ở việc truyền thụ những tri thức<br />
có sẵn, chỉ cần yêu cầu sinh viên ghi nhớ mà<br />
quan trọng hơn là phải định hướng, tổ chức<br />
cho sinh viên tự mình khám phá ra những qui<br />
80<br />
<br />
Bàn về quá trình . . .<br />
<br />
luật, thuộc tính mới của các vấn đề khoa học,<br />
giúp sinh viên không chỉ nắm bắt được tri thức<br />
mà còn biết cách tìm đến những tri thức ấy.<br />
3.2. Bồi dưỡng năng lực tự học là<br />
phương pháp tốt nhất để tạo ra động lực<br />
mạnh mẽ cho quá trình học tập<br />
Một trong những phẩm chất quan trọng<br />
của mỗi cá nhân là tính tích cực, sự chủ động<br />
sáng tạo trong mọi hoàn cảnh.Và, một trong<br />
những nhiệm vụ quan trọng của giáo dục<br />
là hình thành phẩm chất đó cho người học.<br />
Bởi từ đó nền giáo dục mới mong đào tạo ra<br />
những lớp người năng động, sáng tạo, thích<br />
ứng với mọi thị trường lao động, góp phần<br />
phát triển cộng đồng. Có thể xem tính tích cực<br />
(hình thành từ năng lực tự học) như một điều<br />
kiện, kết quả của sự phát triển nhân cách thế<br />
hệ trẻ trong xã hội hiện đại. Trong đó hoạt<br />
động tự học là những biểu hiện sự gắng sức<br />
cao về nhiều mặt của từng cá nhân người học<br />
trong quá trình nhận thức thông qua sự hưng<br />
phấn tích cực. Mà hưng phấn chính là tiền đề<br />
cho mọi hứng thú trong học tập. Có hứng thú<br />
người học mới có được sự tự giác say mê tìm<br />
tòi nghiên cứu khám phá. Hứng thú là động<br />
lực dẫn tới tự giác. Tính tích cực của con<br />
người chỉ được hình thành trên cơ sở sự phối<br />
hợp ngẫu nhiên giữa hứng thú với tự giác. Nó<br />
bảo đảm cho sự định hình tính độc lập trong<br />
học tập.<br />
3.3. Tự học giúp cho mọi người có thể<br />
chủ động học tập suốt đời<br />
Học tập để khẳng định năng lực phẩm<br />
chất và để cống hiến. Tự học giúp con người<br />
thích ứng với mọi biến cố của sự phát triển<br />
kinh tế - xã hội. Bằng con đường tự học mỗi<br />
cá nhân sẽ không cảm thấy bị lạc hậu so với<br />
thời cuộc, thích ứng và bắt nhịp nhanh với<br />
những tình huống mới lạ mà cuộc sống hiện<br />
đại mang đến, kể cả những thách thức to lớn<br />
<br />
từ môi trường nghề nghiệp. Nếu rèn luyện<br />
cho người học có được phương pháp, kĩ năng<br />
tự học, biết linh hoạt vận dụng những điều<br />
đã học vào thực tiễn thì sẽ tạo cho họ lòng<br />
ham học, nhờ đó kết quả học tập sẽ ngày càng<br />
được nâng cao.<br />
Với những lý do nêu trên có thể nhận thấy,<br />
nếu xây dựng được phương pháp tự học, đặc<br />
biệt là sự tự giác, ý chí tích cực chủ động sáng<br />
tạo sẽ khơi dậy năng lực tiềm tàng, tạo ra động<br />
lực nội sinh to lớn cho người học.<br />
4. Nội dung của quá trình tự học<br />
4.1. Xây dựng động cơ học tập<br />
Khơi gợi hứng thú học tập để trên cơ sở<br />
đó ý thức tốt về nhu cầu học tập. Người học<br />
tự xây dựng cho mình động cơ học tập đúng<br />
đắn là việc cần làm đầu tiên. Bởi vì, thành<br />
công không bao giờ là kết quả của một quá<br />
trình ngẫu hứng tùy tiện thiếu tính toán, kể cả<br />
trong học tập lẫn nghiên cứu. Nhu cầu xã hội<br />
và thị trường lao động hiện tại đặt ra cho mỗi<br />
người những tố chất cần thiết chứ không phải<br />
là những điểm số đẹp, những chứng chỉ như<br />
vật trang sức vào đời mà không có thực lực vì<br />
động cơ học tập lệch lạc. Có động cơ học tập<br />
tốt khiến cho người ta luôn tự giác say mê,<br />
học tập với những mục tiêu cụ thể rõ ràng với<br />
một niềm vui sáng tạo bất tận.<br />
Trong rất nhiều động cơ học tập của SV,<br />
có thể khuôn tách thành hai nhóm cơ bản:<br />
- Các động cơ hứng thú nhận thức.<br />
- Các động cơ trách nhiệm trong học tập.<br />
Thông thường các động cơ hứng thú nhận<br />
thức hình thành và đến được với người học<br />
một cách tự nhiên khi bài học có nội dung mới<br />
lạ, thú vị, bất ngờ và chứa nhiều những yếu tố<br />
nghịch lý, gợi sự tò mò. Động cơ này sẽ xuất<br />
hiện thường xuyên khi giảng viên biết tăng<br />
cường tổ chức các trò chơi nhận thức, các<br />
cuộc thảo luận hay các biện pháp kích thích<br />
81<br />
<br />
Taïp chí Kinh teá - Kyõ thuaät<br />
<br />
tính tự giác tích cực từ người học.<br />
Động cơ nhiệm vụ và trách nhiệm thì bắt<br />
buộc người học phải liên hệ với ý thức về ý<br />
nghĩa xã hội của sự học. Giống như nghĩa<br />
vụ đối với Tổ quốc, trách nhiệm đối với gia<br />
đình, thầy cô, uy tín danh dự trước bạn bè…<br />
Từ đó các em mới có ý thức kỉ luật trong học<br />
tập, nghiêm túc tự giác thực hiện mọi nhiệm<br />
vụ học tập, những yêu cầu từ giảng viên, phụ<br />
huynh, tôn trọng mọi chế định của xã hội và<br />
sự điều chỉnh của dư luận.<br />
Cả hai động cơ trên không phải là một<br />
quá trình hình thành tự phát, cũng chẳng được<br />
đem lại từ bên ngoài mà nó hình thành và phát<br />
triển một cách tự giác thầm lặng từ bên trong.<br />
Do vậy người giảng viên phải tùy đặc điểm<br />
môn học, tùy đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi<br />
của đối tượng để tìm ra những biện pháp thích<br />
hợp nhằm khơi dây hứng thú học tập và năng<br />
lực tiềm tàng nơi sinh viên. Và, điều quan<br />
trọng hơn là tạo mọi điều kiện để các em tự<br />
kích thích động cơ học tập của mình.<br />
Đối với phần đông những người trẻ, việc<br />
tạm gác những thú vui, những trò giải trí hấp<br />
dẫn nhất thời để toàn tâm toàn sức cho việc<br />
học là hai điều có ranh giới vô cùng mỏng<br />
manh. Nó đòi hỏi sự quyết tâm cao và một ý<br />
chí mạnh mẽ cùng nghị lực đủ để chiến thắng<br />
chính bản thân mình. Đối với người trưởng<br />
thành, khi mục đích cuộc đời đã rõ, ý thức<br />
trách nhiệm đối với công việc đã được xác<br />
định và sự học đã trở thành niềm vui thì việc<br />
xác định động cơ thái độ học tập nói chung<br />
không khó khăn như thế hệ trẻ. Tuy nhiên<br />
không phải là hoàn toàn không có. Vì suy cho<br />
cùng ai cũng có những nhu cầu riêng và từ<br />
đó có những hứng thú khác nhau. Vấn đề là<br />
phải biết kết hợp biện chứng giữa nội sinh và<br />
ngoại sinh, tức là hứng thú nhận thức, hứng<br />
thú trách nhiệm được đánh thức, khơi dậy trên<br />
<br />
cơ sở những điều kiện tốt từ bên ngoài. Trong<br />
đó người thầy đóng vai trò chủ đạo.<br />
4.1.1 Xây dựng kế hoạch học tập<br />
Đối với bất kỳ ai muốn việc học thật sự có<br />
hiệu quả thì mục đích, nhiệm vụ và kế hoạch<br />
học tập phải được xây dựng cụ thể, rõ ràng.<br />
Trong đó kế hoạch phải được xác định với tính<br />
hướng đích cao. Tức là kế hoạch ngắn hạn,<br />
dài hơi thậm chí từng môn, từng phần phải<br />
được tạo lập thật rõ ràng, nhất quán cho từng<br />
thời điểm từng giai đoạn cụ thể sao cho phù<br />
hợp với điều kiện hoàn cảnh của mình. Vấn<br />
đề kế tiếp là phải chọn đúng trọng tâm, cái<br />
gì là cốt lõi là quan trọng để ưu tiên tác động<br />
trực tiếp và dành thời gian công sức cho nó.<br />
Nếu việc học dàn trải thiếu tập trung thì chắc<br />
chắn hiệu quả sẽ không cao. Sau khi đã xác<br />
định được trọng tâm, phải sắp xếp các phần<br />
việc một cách hợp lý logic về cả nội dung lẫn<br />
thời gian, đặc biệt cần tập trung hoàn thành<br />
dứt điểm từng phần, từng hạng mục theo thứ<br />
tự được thể hiện chi tiết trong kế hoạch. Điều<br />
đó sẽ giúp quá trình tiến hành việc học được<br />
trôi chảy thuận lợi.<br />
4.1.2 Tự mình nắm vững nội dung tri thức<br />
Đây là giai đoạn quyết định và chiếm<br />
nhiều thời gian công sức nhất. Khối lượng<br />
kiến thức và các kỹ năng được hình thành<br />
nhanh hay chậm, nắm bắt vấn đề nông hay<br />
sâu, rộng hay hẹp, có bề vững không… tùy<br />
thuộc vào nội lực của chính bản thân người<br />
học trong bước mang tính đột phá này. Nó bao<br />
gồm các hoạt động:<br />
- Tiếp cận thông tin: Lựa chọn và chủ động<br />
tiếp nhận thông tin từ nhiều nguồn khác nhau<br />
và từ những hoạt động đã được xác định như<br />
đọc sách, nghe giảng, xem truyền hình, tra cứu<br />
từ Internet, seminar, hội thảo, làm thí nghiệm,<br />
quan sát, điều tra… Trong hoạt động này rất<br />
cần có sự tỉnh táo để chọn lọc thông tin một<br />
82<br />
<br />
Bàn về quá trình . . .<br />
<br />
cách thông minh và linh hoạt. Xã hội hiện đại<br />
đang khiến phần lớn sinh viên rời xa sách và<br />
chỉ quan tâm đến các phương tiện nghe nhìn<br />
khác. Đơn giản vì nó thỏa mãn trí tò mò, giúp<br />
cho tai nghe, mắt thấy tức thời. Đó là chưa kể<br />
đến sự nhiễu loạn thông tin mà nếu không vững<br />
vàng thì giới trẻ sẽ rất dễ sa vào những cạm bẫy<br />
thiếu lành mạnh, ảnh hưởng trực tiếp đến sự<br />
phát triển nhân cách, tâm hồn. Trong lúc từ cổ<br />
chí kim, muốn làm chủ tri thức nhân loại thì<br />
con đường tốt nhất của mọi người là đọc sách.<br />
Đọc sách là phương pháp tự học rẻ tiền và hiệu<br />
quả nhất. Khi làm việc với sách ta phải sử dụng<br />
năng lực tổng hợp toàn diện và có sự xuất hiện<br />
của hoạt động của trí não, một hoạt động tối ưu<br />
trong quá trình tự học. Do vậy, rèn luyện thói<br />
quen đọc sách là một công việc không thể tách<br />
rời trong yêu cầu tự học. Ngoài việc tiếp nhận<br />
tri thức còn phải biết đối thoại, gợi mở, thắc<br />
mắc hay đề xuất những vấn đề cần lưu ý sau<br />
khi đọc sách, hoặc chí ít là học cách viết, lối<br />
diễn đạt từ những cuốn sách hay. Đó là cách<br />
đọc sáng tạo. Khác với sự giải trí đơn giản hay<br />
cảm nhận thông thường.<br />
- Xử lý thông tin: Việc xử lý thông tin<br />
trong quá trình tự học không bao giờ diễn ra<br />
trong vô thức mà cần có sự gia công, xử lí<br />
mới có thể sử dụng được. Quá trình này có thể<br />
được tiến hành thông qua việc phân tích, đánh<br />
giá, tóm lược, tổng hợp, so sánh…<br />
- Vận dụng tri thức, thông tin: Trong việc<br />
vận dụng thông tin tri thức khoa học để giải<br />
quyết các vấn đề liên quan như thực hành bài<br />
tập, thảo luận, xử lý các tình huống, viết bài<br />
thu hoạch, báo cáo khoa học, tổng thuật… sinh<br />
viên thường gặp rất nhiều khó khăn. Có lúc tìm<br />
được một khối lượng lớn tư liệu nhưng việc tập<br />
hợp phân loại nội dung để kiến giải một vấn<br />
đề lại không thực hiện được. Trong trường hợp<br />
này cần khoanh vùng vấn đề trong một giới<br />
<br />
hạn đừng quá rộng. Chỉ cần tập trung đào sâu<br />
một vấn đề nào đó nhằm phát hiện ra cái mới<br />
có giá trị thực tiễn là đáp ứng yêu cầu. Trong<br />
khâu này việc lựa chọn và thay đổi hình thức<br />
tư duy để tìm ra cách thức tối ưu nhất cho đối<br />
tượng nghiên cứu cũng rất cần thiết.<br />
- Trao đổi, phổ biến thông tin: Việc trao<br />
đổi kinh nghiệm, chia sẻ thông tin tri thức hay<br />
diễn ngôn theo yêu cầu thông qua các hình<br />
thức: hội thảo, báo cáo khoa học, thảo luận,<br />
thuyết trình, tranh luận… là công việc cuối<br />
cùng của quá trình tiếp nhận tri thức. Hoạt<br />
động này giúp người học có thể hình thành và<br />
phát triển kỹ năng trình bày (bằng lời nói hay<br />
văn bản) cho người học. Giúp người học chủ<br />
động, tự tin trong giao tiếp ứng xử, phát triển<br />
năng lực hợp tác và làm việc nhóm tốt.<br />
4.2. Tự kiểm tra đánh giá kết quả học tập<br />
Việc nhìn nhận kết quả học tập được thực<br />
hiện bằng nhiều hình thức: Dùng các thang<br />
đo mức độ đáp ứng yêu cầu của GV, bản thân<br />
tự đánh giá, sự đánh giá nhận xét của tập thể<br />
thông qua thảo luận, tự đối chiếu so sánh với<br />
mục tiêu đặt ra ban đầu… Tất cả đều mang<br />
một ý nghĩa tích cực, cần được quan tâm<br />
thường xuyên. Thông qua nó người học tự đối<br />
thoại để thẩm định mình, hiểu được cái gì làm<br />
được, điều gì chưa thỏa mãn nhu cầu học tập<br />
nghiên cứu để từ đó có hướng khắc phục hay<br />
phát huy.<br />
Vấn đề tự học rõ ràng không hề đơn giản.<br />
Muốn hoạt động học tập có hiệu quả nhất thiết<br />
sinh viên phải chủ động tự giác học tập bất<br />
cứ lúc nào có thể bằng chính nội lực của bản<br />
thân. Vì nội lực mới chính là nhân tố quyết<br />
định cho sự phát triển. Ngoài ra, rất cần tới<br />
vai trò của người thầy với tư cách là ngoại lực<br />
trong việc trang bị cho sinh viên một hệ thống<br />
tri thức, kỹ năng, thái độ cùng với phương<br />
pháp tự học cụ thể, khoa học. Nhờ đó hoạt<br />
83<br />
<br />