intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Báo cáo nghiên cứu khoa học " ẢNH HƯỞNG CỦA YẾU TỐ ĐẦU VÀO ĐỐI VỚI KẾT QUẢ NUÔI TÔM CỦA CÁC HỘ GIA ĐÌNH TẠI HUYỆN PHÚ VANG, THỪA THIÊN HUẾ TIẾP CẬN NGHIÊN CỨU TỪ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG "

Chia sẻ: Nguyen Nhi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:11

101
lượt xem
12
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nuôi tôm quảng canh cải tiến là một trong những ngành đã và đang phát triển rầm rộ trong thời gian 10 năm trở lại đây tại tỉnh Thừa Thiên Huế nói chung [1], [3] và huyện Phú Vang nói riêng [2]. Qua thực tiễn sản xuất, tôm sú (Penaeus Monodon) đã trở thành đối tượng nuôi chính của vùng đầm phá Thừa Thiên Huế nói chung và Phú Vang nói riêng nhờ giá trị kinh tế cao và nhờ việc phổ biến kỹ thuật, sản xuất con giống, thức ăn [2]. ...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Báo cáo nghiên cứu khoa học " ẢNH HƯỞNG CỦA YẾU TỐ ĐẦU VÀO ĐỐI VỚI KẾT QUẢ NUÔI TÔM CỦA CÁC HỘ GIA ĐÌNH TẠI HUYỆN PHÚ VANG, THỪA THIÊN HUẾ TIẾP CẬN NGHIÊN CỨU TỪ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG "

  1. ẢNH HƯỞNG CỦA YẾU TỐ ĐẦU VÀO ĐỐI VỚI KẾT QUẢ NUÔI TÔM CỦA CÁC HỘ GIA ĐÌNH TẠI HUYỆN PHÚ VANG, THỪA THIÊN HUẾ TIẾP CẬN NGHIÊN CỨU TỪ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG Thái Thanh Hà Trường Đại học Kinh tế, Đại học Huế 1. Mở đầu: Nuôi tôm quảng canh cải tiến là một trong những ngành đã và đang phát triển rầm rộ trong thời gian 10 năm trở lại đây tại tỉnh Thừa Thiên Huế nói chung [1], [3] và huyện Phú Vang nói riêng [2]. Qua thực tiễn sản xuất, tôm sú (Penaeus Monodon) đã trở thành đối tượng nuôi chính của vùng đầm phá Thừa Thiên Huế nói chung và Phú Vang nói riêng nhờ giá trị kinh tế cao và nhờ việc phổ biến kỹ thuật, sản xuất con giống, thức ăn [2]. Để khuyến khích ngành nuôi tôm, các ngân hàng Thừa Thiên Huế đã cho nhiều hộ gia đình tại huyện Phú Vang vay vốn để họ có thể có nhiều điều kiện tài chính hơn nhằm đầu tư vào quá trình sản xuất [2]. Tuy nhiên, cho đến nay thì chưa có một nghiên cứu thực tế chính thức nào được thực hiện để đánh giá tác động ảnh hưởng của tín dụng ngân hàng đối với kết quả nuôi tôm tại từng hộ. Nghiên cứu này được thực hiện để lượng hóa những tác động của tín dụng đối với các hộ nuôi tôm, mà từ kết quả nghiên cứu này mà các kết luận và kiến nghị có thể được đưa ra nhằm hoàn thiện hơn nữa công tác cho vay tín dụng của các ngân hàng của Thừa Thiên Huế. 2. Phương pháp nghiên cứu: 75
  2. Nghiên cứu này được thực hiện trên 100 hộ gia đình làm nghề nuôi tôm quảng canh cải tiến tại huyện Phú Vang và đều có vay vốn tại ngân hàng. Danh sách các hộ vay vốn tín dụng ngân hàng trong điều tra được lấy trong cơ sở dữ liệu của ngân hàng Vietcombank và được lựa chọn một cách ngẫu nhiên để điều tra phỏng vấn [2]. Dựa theo địa chỉ của các hộ này, phỏng vấn trực tiếp được tiến hành tới các chủ hộ nuôi tôm để thu thập số liệu. Bảng câu hỏi điều tra được sử dụng trong quá trình phỏng vấn để thu thập thông tin. Các chủ hộ cũng được phỏng vấn về việc tập huấn nuôi tôm trước khi thực hiện việc nuôi tôm quảng canh cải tiến hay không. Các câu hỏi chi tiết được nêu ra trong bảng câu hỏi để thu thập thông tin về các hộ nuôi tôm có liên quan đến chi phí thức ăn, chi phí cho phòng bệnh, chi phí dầu chạy máy, chi phí công cụ nhỏ. Để thu thập thông tin đối với kết quả kinh doanh của hộ gia đình nuôi tôm tại huyện Phú Vang, trong bảng câu hỏi cũng có các câu hỏi để các chủ hộ cung cấp thông tin về lợi nhuận mà hộ gia đình thực hiện được trong năm vừa qua. Do lợi nhuận thường là các thông tin nhạy cảm nên câu hỏi được thiết kế theo dạng nhóm mức lợi nhuận, và nhóm mức lợi nhuận này được liệt kê từ thấp đến cao [4]. 3. Kết quả nghiên cứu: Để biết được ảnh hưởng của từng nhân tố tới tình hình sản xuất kinh doanh của hộ gia đình nuôi tôm tại huyện Phú Vang, nghiên cứu này sử dụng phân tích hồi quy Logistic. Phương pháp phân tích này có nhiều điểm ưu việt hơn các phương pháp khác bởi vì phương pháp này có thể tận dụng được những ưu điểm của phương pháp phân tích phân lập (discriminant analysis) vừa tận dụng được những ưu điểm của phương pháp phân tích hồi quy tương quan, khi mà biến độc lập của phương pháp hồi quy logistic lại là một biến nhị phân binary chứ không phải là một biến số học (numerical) [5], [6], [7], [8], [9]. Quá trình điều tra các hộ nuôi tôm tại huyện Phú Vang cho thấy kết quả kinh doanh nuôi 76
  3. tôm xét về mặt lợi nhuận của các hộ là một chỉ tiêu cuối cùng về mặt kinh doanh, có thể sử dụng để làm tiêu chuẩn phân loại hộ gia đình, thành các hộ gia đình có kết quả kinh doanh cao và hộ gia đình có kết quả kinh doanh thấp. Do mô hình hồi quy logistic chỉ thích hợp với biến số phụ thuộc nhị phân, nên việc phân loại như trên để sử dụng trong quá trình phân tích tác động của tín dụng ngân hàng là hoàn toàn hợp lý [7]. Trên cơ sở này các hộ trong diện điều tra sẽ được phân ra làm hai loại: nhóm hộ có kết quả kinh doanh thấp, hay lợi nhuận thấp (1-15 triệu đồng, có 54 hộ, và được mật định là 0 trong mô hình hồi quy tương quan logistic) và nhóm hộ có kết quả kinh doanh cao, tức là nhóm hộ có lợi nhuận cao, (trên 15 triệu đồng, có 46 hộ, và được mật định là 1 trong mô hình hồi quy tương quan logistic). Trong điều kiện số lượng hộ nuôi tôm của hai nhóm hộ như đã nêu trên là tương đương nhau, vì vậy hai nhóm hộ gia đình này được sử dụng để kiểm định. Sử dụng phương pháp hồi quy tương quan logistic sẽ làm sáng tỏ sự ảnh hưởng của việc vay tín dụng đối với các hộ nuôi tôm tại huyện Phú Vang, trong điều kiện các yếu tố đầu vào của phương trình hồi quy tương quan logistic gồm có các yếu tố như, số năm kinh nghiệm trong việc nuôi tôm, tập huấn kỹ thuật, thủ tục với ngân hàng, và mức vay vốn của từng hộ. 77
  4. Bảng 1: Phân tích hồi quy tương quan Logistic giữa kết quả kinh doanh của hộ nuôi tôm quảng canh với các biến số độc lập đầu vào Wald statistics Các biến phụ thuộc Hệ số Beta S.E. Sig. X1 (Thời gian làm nghề tôm) 0,349** 0,551 6,551 0,002 X2 (Tập huấn) 0,246* 0,367 4,652 0,041 X3 (Số lao động thường xuyên của hộ) 0,893* 0,411 5,387 0,026 X4 (Chi phí thức ăn) 0,776 1,977 0,169 0,684 X5 (Chi phí phòng bệnh) 0,757* 1,936 1,577 0,038 X6 (Chi phí dầu chạy máy) 0,793* 2,332 3,391 0,005 X7 (Chi phí công cụ nhỏ) 0,077 0,131 0,029 0,857 X8 (Thủ tục vốn vay) 0,278 1,238 0,049 0,819 78
  5. X9 (Mức vốn vay tín dụng) 0,367* 0,321 4,587 0,037 Hệ số a0 13,325** 4,476 8,790 0,003 2-log likelihood 287,226 Cox & Snell R Square 0,596 Nagelkerde R Square 0,668 19,91 Homer and Lemeshow Test Chi-square 3 Sig 0,029 Ghi chú: Biến phụ thuộc: Hộ có kết quả kinh doanh cao và hộ có kết quả kinh doanh thấp * Mức ý nghĩa thống kê 0,05 ** Mức ý nghĩa thống kê 0,01 Để phân tích số liệu thu thập được, phần mềm thống kê SPSS đã được sử dụng. Kết quả phân tích hồi quy logistics đối với các biến đầu vào của các hộ nuôi tôm tại huyện Phú Vang được thể hiện ở bảng 1. Qua bảng 1 ta thấy các biến số độc lập X1; X2; X3; X5; X6; X9 là các biến số có ý nghĩa về mặt thống kê, còn các biến số độc lập khác như X4; X7; X8; thì các tương quan trong mô hình không có ý nghĩa về mặt thống kê. Cụ thể là, biến số X1 là biến số độc lập về thời 79
  6. gian làm nghề tôm có liên quan thuận đến kết quả kinh doanh của hộ ở mức ý nghĩa thống kê 0,001. Biến số này trong phương trình cho thấy các hộ nuôi tôm ở huyện Phú Vang có kết quả kinh tế cao thường là những chủ hộ có thời gian làm nghề tôm lâu năm. Điều này trên thực tế cũng hoàn toàn đúng bởi do nghề nuôi tôm là một nghề khó, đòi hỏi phải có kinh nghiệm và đó chính là yếu tố quyết định đến sự thành bại của hộ gia đình nuôi tôm tại huyện Phú Vang. Biến số có liên quan đến việc tập huấn kỹ thuật X2 là một biến số quan trọng trong việc dự báo trong mô hình với mức ý nghĩa thống kê 0,05, tức là các hộ nuôi tôm có kết quả kinh doanh cao là những hộ có tham gia tập huấn kỹ thuật. Kết quả mô hình trên cũng cho thấy rằng số lao động thường xuyên của hộ nuôi tôm X3 cũng là một biến số độc lập, dự báo loại hộ gia đình có kết quả kinh doanh khác nhau và đạt mức ý nghĩa thống kê 0,05. Nhũng hộ có kết quả kinh doanh cao thì cũng chính là hộ gia đình có nhiều số lao động thường xuyên tham gia làm nghề tôm. Trên thực tế, kết quả này hoàn toàn hợp lý bởi vì lao động là một yếu tố không thể thiếu được, và đặc biệt là yêu cầu kỹ thuật nuôi tôm đòi hỏi sự có mặt thường xuyên của các lao động trong quá trình sản xuất. Tương tự, các biến số về mặt chi phí như: chi phí phòng bệnh (X5); chi phí dầu chạy máy (X6) mà hộ gia đình sử dụng vốn vay để thực hiện cũng là các nhân tố dự báo có ý nghĩa về mặt thống kê 0,05 trong mô hình hồi quy logistic. Tức là những hộ có kết quả kinh doanh cao thì chắc chắn là những hộ có xu hướng đầu tư nhiều cho chi phí dầu chạy máy; và chi phí phòng bệnh từ nguồn vốn vay ngân hàng. Khi quá trình nuôi tôm quảng canh cải tiến không những đòi hỏi một quy trình kỹ thuật khắt khe mà còn phải có một sự đầu tư đáng kể vào thức ăn thì kết quả tìm thấy trong nghiên cứu này là hoàn toàn hợp lý. Điều này cho thấy, ngân hàng trước khi cho vay cũng cần phải có những hỗ trợ kỹ thuật về các mặt như loại chi phí thức ăn; quy trình sử dụng máy sục khí; và các dịch vụ phòng bệnh cho tôm 80
  7. cho các hộ gia đình tại huyện Phú Vang, trước khi các hộ này sử dụng vốn vay để kinh doanh tôm quảng canh cải tiến [2], [3]. Bảng 2: Kết q uả kiểm định tính chính xác của mô hình Loại hộ gia đình Mức độ chính xác Quan sát của kết quả dự báo Hộ gia đình có Hộ gia đình có kết kết quả kinh quả kinh doanh thấp doanh cao Hộ gia đình có kết 29 13 69% Loại hộ gia quả kinh doanh cao đình Hộ gia đình có kết 9 41 82% quả kinh doanh thấp Tỷ lệ dự chính xác dự báo chung của mô hình hồi quy tương 76,1% quan Logistic Kết quả mô hình hồi quy tương quan logistic tại bảng trên cũng cho thấy chi phí thức ăn (X4) và chi phí công cụ nhỏ (X7) không phải là biến số dự báo đối với kết quả kinh doanh của các hộ nuôi tôm quảng canh cải tiến tại huyện Phú Vang bởi vì các biến số này không có ý nghĩa về mặt thống kê. Điều này cho thấy rằng chi phí thức ăn và chi phí công cụ nhỏ là các loại chi phí được thực 81
  8. hiện theo định mức và thông thường là như nhau đối với các hộ nuôi tôm. Thủ tục vay vốn (X8) không phải là biến số dự báo có ý nghĩa về mặt thống kê đến kết quả kinh doanh của hộ gia đình. Điều này cho thấy rằng cơ hội tiếp cận tín dụng của tất cả các hộ nuôi tôm tại huyện Phú Vang là như nhau, và ngân hàng hầu như không có phân biệt đối xử khác nhau đối với các hộ trong vấn đề này. Mức vốn vay ngân hàng (X9) là biến số có ý nghĩa về mặt thống kê, cho thấy rằng mức vốn vay càng lớn thì hộ gia đình nuôi tôm càng có điều kiện để đầu tư để đạt kết quả kinh doanh cao hơn. Mô hình hồi quy logistic mà nghiên cứu này sử dụng cho thấy chỉ số 2-log likelihood đạt tới giá trị 287,226 , và đây là chỉ số thích hợp khẳng định tính chắc chắn của mô hình. Hệ số tương quan Cox& Snell R Square đạt tới 0,596, trong khi đó hệ số tương quan Nagelkerde R Square đạt tới giá trị 0,668, một lần nữa khẳng định rằng khoảng 66,7% variance của mô hình đã được giải thích từ hồi quy logistic, và đây là một hệ số tương quan khá cao. Chỉ số Homer và Lemeshow test cho thấy Chi-square đạt tới giá trị 19,913 với mức ý nghĩa thống kê nhỏ hơn 0,05. Các kết quả kiểm định thống kê này cho thấy tính chắc chắn của mô hình hồi quy tương quan logistic được sử dụng trong phân tích. Bảng 2 cho thấy tỷ lệ dự đoán của mô hình là khá cao, lên tới 76,1%, có thể giúp kết luận mô hình hồi quy tương quan logistic sử dụng trong nghiên cứu là hoàn toàn hợp lý [5]. 4. Kết luận: Qua phân tích trên, có thể kết luận rằng tín dụng đã có tác động khá tích cực đến việc đầu tư và thực hiện các chi phí mang lại lợi ích kinh tế khá cao của các hộ nuôi tôm tại huyện Phú Vang. Điều này thể hiện rõ trong việc mức vốn vay của hộ gia đình càng cao thì hộ gia đình đạt được kết quả kinh doanh cao. Nuôi tôm quảng canh cải tiến là một trong những nghề đang được phát triển tại 82
  9. huyện Phú Vang trong thời gian qua và vì vậy tín dụng ngân hàng đóng một vai trò hết sức quan trọng [2]. Kết quả nghiên cứu cũng đã gián tiếp cho thấy các ngân hàng trước khi triển khai tín dụng tại huyện Phú Vang cần phải chú ý nhiều đến công tác tập huấn kỹ thuật nuôi tôm. Các chương trình tập huấn cần chú trọng đến việc bồi dưỡng kiến thức cho các chủ hộ nuôi tôm về các loại bệnh thường thấy trong việc nuôi tôm. Việc tập huấn có thể được kết hợp một cách tốt nhất với việc tham quan các mô hình điển hình để các chủ hộ gia đình có thể tham khảo. Qua nghiên cứu cho thấy, thủ tục vay vốn không phải là một nhân tố có ảnh hưởng tới kết quả kinh doanh của hộ nuôi tôm tại huyện Phú Vang, tuy nhiên, trên thực tế đây là một vấn đề cần có những nghiên cứu sâu và trên diện rộng hơn nữa để có thể đưa ra một kết luận chắc chắn. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Văn Lạc. Nâng cao hiệu quả kinh tế nuôi cá nước ngọt trên địa bàn huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế. Luận văn Thạc sĩ khoa học kinh tế (2004) 2. Nguyễn Trí Dũng. Những giải pháp tín dụng ngân hàng góp phần phát triển nghề nuôi tôm nước lợ ở huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế. Luận văn Thạc sĩ khoa học kinh tế (2004). 3. Lê Sĩ Hùng. Phân tích ảnh hưởng của một số nhân tố đầu vào đối với các hộ nuôi trồng thủy sản tại đầm phá Cầu Hai, Thừa Thiên Huế. Báo cáo nghiên cứu khoa học cấp Bộ. (2001) 4. Susan C. Access to capital: comparison of men and women-owned small business, http://www.babson.edu/entrep/fer/papers98/V/V_B/V_B.html (2003) 83
  10. 5. Hair, Anderson Tatham, and Black et al. Multivariate Data Analysis. 5th Ed, Prentice Hall (2004) 6. Alsos G & Ljunggren E. Does the Business Start - Up Process Differ by Gender? A Longitudinal Study of Nascent Entrepreneurs (1998). http://www.babson.edu/entrep/fer/papers98/V/V_A/V_A.html 7. Neils J. S. Exploring research. 4th Ed, Prentice Hall. (2000) 8. Mason R. & Lind D. & Marchal W. (2000). Statistical Techniques for Business and Economics, 10th Ed, McGraw-Hill International Edition 9. Cooper D. & Schindler P. Business Research Methods. 7th Ed. McGraw - Hill International Edition (2002) THE IMPACTS OF INPUTS ON BUSINESS PERFORMANCE OF SHRIMP-RAISING HOUSEHOLDS IN PHU VANG DISTRICT OF THUA THIEN HUE PROVINCE A RESEARCH FROM BANK CREDIT PRESPECTIVE 84
  11. Thai Thanh Ha College of Economics, Hue University SUMMARY This research was conducted to figure out the impact of bank loans on the profits of the households raising shrimps. The inputs factors such as breeding costs. Expenses for oil and gas to be used for ventilation, expenses to deal with shrimp diseases as well as payment for regular employees are also analyzed as independent variables in the multiple logistic regression. It was revealed that the business performance of the shrimp-raising households in Phu Vang District were positively related so some of those input factors, which lend several implications for policy makers in boosting the shrimp-raising industry in Thua Thien-Hue Province in general, and in Phu Vang District in particular. 85
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2