intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Báo cáo tài chính của doanh nghiệp nhỏ và vừa đối tượng sử dụng và chất lượng thông tin trên báo cáo tài chính

Chia sẻ: ViSatori ViSatori | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

67
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Báo cáo tài chính (BCTC) lập bởi các doanh nghiệp, bao gồm doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV), về cơ bản nhằm mục đích cung cấp thông tin hữu ích cho người sử dụng. Do sự khác biệt về quy mô và đặc điểm kinh doanh nên đối tượng sử dụng thông tin trên BCTC của DNNVV thường khác với doanh nghiệp lớn.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Báo cáo tài chính của doanh nghiệp nhỏ và vừa đối tượng sử dụng và chất lượng thông tin trên báo cáo tài chính

<br /> <br /> QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP <br /> <br /> Báo cáo tài chính của doanh nghiệp nhỏ và vừađối tượng sử dụng và chất lượng thông tin trên<br /> báo cáo tài chính<br /> Nguyễn Bích Ngọc<br /> Ngày nhận: 07/03/2018 <br /> <br /> Ngày nhận bản sửa: 20/03/2018 <br /> <br /> Ngày duyệt đăng: 23/04/2018<br /> <br /> Báo cáo tài chính (BCTC) lập bởi các doanh nghiệp, bao gồm doanh<br /> nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV), về cơ bản nhằm mục đích cung cấp<br /> thông tin hữu ích cho người sử dụng. Do sự khác biệt về quy mô và<br /> đặc điểm kinh doanh nên đối tượng sử dụng thông tin trên BCTC<br /> của DNNVV thường khác với doanh nghiệp lớn. Vì vậy việc xác định<br /> nhóm đối tượng chính sử dụng BCTC của DNNVV cũng như yêu cầu<br /> và đánh giá của họ về chất lượng thông tin trên BCTC là rất quan<br /> trọng nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu người sử dụng. Qua đó, tạo điều<br /> kiện thuận lợi cho các hoạt động của DNNVV liên quan đến người<br /> sử dụng thông tin. Sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng, tác<br /> giả xác định đối tượng chủ yếu sử dụng BCTC của DNNVV là ngân<br /> hàng và cơ quan thuế. Hai nhóm đối tượng này đánh giá không cao<br /> về chất lượng thông tin trên BCTC, đặc biệt là đặc điểm “trình bày<br /> trung thực” và “khách quan”.<br /> Từ khóa: đối tượng sử dụng BCTC, DNNVV, chất lượng thông tin<br /> <br /> 1. Giới thiệu<br /> <br /> đối tượng chính sử dụng BCTC của DNNVV,<br /> cũng như những đánh giá của họ về chất lượng<br /> thông tin trên BCTC. Nghiên cứu cũng so sánh<br /> đánh giá về chất lượng thông tin trên BCTC<br /> của người sử dụng với người cung cấp- những<br /> người trực tiếp tạo ra sản phẩm BCTC của<br /> DNNVV để từ đó doanh nghiệp có những điều<br /> chỉnh nhất định trong lập và trình bày BCTC,<br /> đáp ứng tốt hơn nhu cầu người sử dụng.<br /> <br /> ới vai trò ngày càng quan trọng<br /> của DNNVV trong nền kinh tế thì<br /> chất lượng thông tin trên BCTC<br /> của DNNVV ngày càng được<br /> các đối tượng sử dụng quan tâm.<br /> Bởi đây là nguồn thông tin cốt yếu giúp người<br /> sử dụng đưa ra những quyết định kinh tế liên<br /> quan đến DNNVV như cho vay vốn, hợp tác<br /> kinh doanh… Nghiên cứu này tập trung làm rõ<br /> © Học viện Ngân hàng<br /> ISSN 1859 - 011X<br /> <br /> 2. Tổng quan nghiên cứu<br /> <br /> 28<br /> <br /> Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng<br /> Số 192- Tháng 5. 2018<br /> <br /> <br /> <br /> 2.1. Đối tượng chính sử dụng BCTC của<br /> DNNVV<br /> Trong IFRS for SMEs, người sử dụng BCTC<br /> là các ngân hàng, nhà cung cấp, các tổ chức<br /> chấm điểm tín dụng, khách hàng và các cổ đông<br /> không tham gia quản lý (ACCA, 2008). Tuy<br /> nhiên, kết quả từ nghiên cứu thực nghiệm về<br /> người sử dụng BCTC SMEs đã chỉ ra các nhóm<br /> đối tượng sử dụng khác nhau và phạm vi hẹp<br /> hơn. Một nghiên cứu tương đối sớm về BCTC<br /> thực hiện với các kiểm toán viên và giám đốc<br /> của các công ty nhỏ ở Ai Len và Anh (Barker<br /> và Noonan, 1996, Page, 1981, Page, 1984) đã<br /> chỉ ra rằng tác dụng quan trọng nhất của BCTC<br /> SME là cung cấp thông tin cho giám đốc doanh<br /> nghiệp, sau đó đến các cơ quan thuế, ngân hàng<br /> hoặc chủ nợ; còn cổ đông, nhà cung cấp và các<br /> bên có liên quan khác ít quan trọng hơn. Tuy<br /> nhiên, theo nghiên cứu của Page, M. (1984),<br /> hầu hết giám đốc của các công ty nhỏ cũng là<br /> các cổ đông chính.<br /> Trong bảng hỏi thực hiện bởi Collis và Jarvis<br /> (2000), những báo cáo bắt buộc của công ty<br /> được lập chủ yếu cho ngân hàng và các nhà<br /> cung cấp tài chính (69,1%), cơ quan thuế<br /> (45,2%), và giám đốc công ty không phải là<br /> chủ sở hữu (19%). Sian và Roberts (2009) lại<br /> khẳng định rằng chủ sở hữu doanh nghiệp, cơ<br /> quan thuế và ngân hàng là những đối tượng<br /> chính sử dụng BCTC. Tương tự, trong khảo sát<br /> bảng hỏi 589 DNNVV của Thái Lan tại Băngcốc, cơ quan thuế, cổ đông và nhà quản lý được<br /> xem là các đối tượng chính sử dụng BCTC của<br /> DNNVV (Srijunpetch, 2009). Ở Việt Nam,<br /> các nghiên cứu chỉ ra rằng, đối tượng sử dụng<br /> BCTC của DNNVV bao gồm các ngân hàng<br /> (Đặng Đức Sơn và cộng sự, 2006) và cơ quan<br /> thuế (Huge và D.Linh, 2003; Trần Thị Thanh<br /> Hải, 2015).<br /> 2.2. Đánh giá về chất lượng thông tin trên<br /> BCTC của DNNVV<br /> Ở các DNNVV, phạm vi sử dụng thông tin thu<br /> hẹp đáng kể so với doanh nghiệp lớn, các thông<br /> tin trên BCTC chủ yếu phục vụ cho ngân hàng<br /> và công tác điều hành quản lý, do đó cần thiết<br /> <br /> Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng<br /> <br /> QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP<br /> <br /> phải có những bộ BCTC khác nhau tùy theo<br /> quy mô doanh nghiệp (Stainbank, 2010). Mặt<br /> khác, để đáp ứng yêu cầu người sử dụng, BCTC<br /> của DNNVV cần đơn giản hơn so với BCTC<br /> của doanh nghiệp lớn, nhờ đó tính hữu ích sẽ<br /> được nâng lên (Sorin Briciu và cộng sự, 2009).<br /> Tại Việt Nam, kết quả khảo sát của Đặng Đức<br /> Sơn và cộng sự (2006) cho thấy đối tượng bên<br /> ngoài tỏ ra lo ngại về tính trung thực của thông<br /> tin do DNNVV cung cấp. Ngoài ra, thông tin<br /> về dòng tiền cũng như các thông tin mang tính<br /> dự báo cũng được xem khá quan trọng nhưng<br /> các thông tin này lại không được cung cấp hoặc<br /> được cung cấp một cách sơ sài. Từ đó, nhóm<br /> tác giả đi tới kết luận, BCTC của DNNVV ở<br /> Việt Nam cung cấp thông tin không hữu ích cho<br /> việc ra quyết định.<br /> Trần Thị Thanh Hải (2015), sau khi thực hiện<br /> khảo sát với 2 nhóm đối tượng là bên cung cấp<br /> và bên sử dụng thông tin đã khẳng định, đa số<br /> ý kiến đồng ý với quan điểm DNNVV cung cấp<br /> thông tin kịp thời, đầy đủ. Tuy nhiên nhận định<br /> “thông tin kế toán DNNVV cung cấp thường<br /> xuyên được sử dụng cho việc ra quyết định”<br /> không nhận được tỷ lệ đồng thuận cao. Điều<br /> này cũng phản ánh đúng thực trạng hiện nay<br /> dường như BCTC của DNNVV chưa được coi<br /> là kênh thông tin chính, là cơ sở đáng tin cậy để<br /> ra các quyết định kinh tế.<br /> Như vậy, từ tổng quan nghiên cứu trên có thể<br /> thấy rằng, đối tượng sử dụng thông tin, cũng<br /> như đánh giá về chất lượng thông tin trên<br /> BCTC của DNNVV tại những quốc gia khác<br /> nhau, vào những thời điểm, hoàn cảnh khác<br /> nhau, sử dụng phương pháp nghiên cứu khác<br /> nhau có thể không giống nhau. Tuy nhiên,<br /> những nghiên cứu này mới tập trung chủ yếu<br /> vào các nước phát triển, hoặc những vấn đề<br /> phát sinh tại Việt Nam nhưng mang tính lý<br /> thuyết chủ quan, chưa kiểm nghiệm trên diện<br /> rộng. Đây chính là khoảng trống cho những<br /> nghiên cứu tiếp theo.<br /> 3. Phương pháp nghiên cứu<br /> Trong phạm vi nghiên cứu này, tác giả tìm hiểu<br /> đối tượng chính sử dụng BCTC của DNNVV<br /> tại Việt Nam bằng cách khảo sát trên diện rộng<br /> <br /> Số 192- Tháng 5. 2018<br /> <br /> 29<br /> <br /> QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP <br /> <br /> Bảng 1. Đối tượng sử dụng thông tin trên BCTC của DNNVV<br /> <br /> Tần suất Phần trăm Phần trăm hợp lệ Phần trăm dồn tích<br /> Frequency Percent<br /> Valid Percent<br /> Cumulative Percent<br /> <br /> Giám đốc/ quản lý doanh nghiệp<br /> <br /> 24<br /> <br /> 12,5<br /> <br /> 12,5<br /> <br /> 12,5<br /> <br /> Ngân hàng<br /> <br /> 68<br /> <br /> 35,4<br /> <br /> 35,4<br /> <br /> 47,9<br /> <br /> 63<br /> <br /> 32,8<br /> <br /> 32,8<br /> <br /> 80,7<br /> <br /> 12<br /> <br /> 6,3<br /> <br /> 6,3<br /> <br /> 87,0<br /> <br /> 25<br /> <br /> 13,0<br /> <br /> 13,0<br /> <br /> 100,0<br /> <br /> 192<br /> <br /> 100,0<br /> <br /> 100,0<br /> <br /> Hợp Cơ quan thuế<br /> lệ Người lao động<br /> Nhà đầu tư<br /> Tổng<br /> <br /> Nguồn: Tác giả tổng hợp<br /> <br /> thông qua 544 phiếu khảo sát (bảng hỏi) đến kế<br /> toán viên của các DNNVV trên địa bàn thành<br /> phố Hà Nội. Tác giả lựa chọn cách tiếp cận với<br /> người làm kế toán thông qua danh sách các đối<br /> tượng đăng ký học lớp kế toán trưởng tại các<br /> cơ sở đào tạo trên khu vực Thành phố Hà Nội.<br /> Cách lựa chọn mẫu này được cho là ưu việt<br /> nhất vì các lý do sau:<br /> - Đây là những người đang thực hiện công tác<br /> kế toán tại doanh nghiệp.<br /> - Quá trình chọn mẫu có thể diễn ra thuận lợi<br /> với tỷ lệ phản hồi cao.<br /> Sau khi gửi, số phiếu thu về là 205 và số phiếu<br /> hợp lệ là 192. Kết quả thu được được xử lý<br /> trên phần mềm thống kê SPSS 22. Từ kết quả<br /> này, tác giả xác định đối tượng chủ yếu sử<br /> dụng BCTC DNNVV để tiếp tục gửi bảng hỏi<br /> cho nhóm đối tượng này với tổng số phiếu là<br /> 628, số phiếu thu về là 253, và số phiếu hợp lệ<br /> là 248. Mục tiêu khảo sát nhằm đánh giá chất<br /> lượng thông tin trên BCTC từ góc độ người sử<br /> dụng, sau đó so sánh với đánh giá về chất lượng<br /> thông tin của người cung cấp là kế toán viên để<br /> DNNVV có những điều chỉnh nhất định trong<br /> lập và trình bày BCTC, đáp ứng tốt hơn nhu cầu<br /> người sử dụng.<br /> Tác giả sử dụng thang đo Likert 1-5 để chia<br /> đánh giá của người cung cấp cũng như người<br /> sử dụng BCTC thành 5 cấp độ từ “rất không<br /> đồng ý” đến “rất đồng ý” tương ứng với 1 và 5,<br /> mức độ trung bình tương ứng với điểm 3. Ngoài<br /> ra, tác giả cũng tiến hành thực hiện kiểm định<br /> independent sample t test, kiểm định hai mẫu<br /> độc lập để so sánh trung bình mức độ đánh giá<br /> về đặc điểm của thông tin trên BCTC giữa hai<br /> <br /> 30 Số 192- Tháng 5. 2018<br /> <br /> nhóm đối tượng. Thời gian gửi tất cả các phiếu<br /> khảo sát được tiến hành trong 3 tháng, từ tháng<br /> 6 đến tháng 9/2017.<br /> 4. Kết quả và thảo luận<br /> 4.1. Đối tượng sử dụng BCTC của DNNVV<br /> Với câu hỏi “Ai là đối tượng sử dụng chính<br /> những thông tin trên BCTC của doanh nghiệp<br /> anh/chị?”, thì kết quả thu được chỉ ra rằng<br /> doanh nghiệp xác định Ngân hàng và cơ quan<br /> thuế là 2 đối tượng chính cần thông tin trên<br /> BCTC của mình, với tỷ lệ tương ứng là 35,4%<br /> và 32,8%. Các đối tượng khác như nhà quản<br /> lý doanh nghiệp, nhà đầu tư và người lao động<br /> không được xác định là đối tượng chủ yếu ở<br /> đây.<br /> Điều này cũng hoàn toàn phù hợp với kết quả<br /> thu được từ câu hỏi BCTC được sử dụng cho<br /> mục đích gì (Bảng 2).<br /> Tác giả sử dụng thang đo Likert 1-5 trong<br /> bảng hỏi để chia mức độ thường xuyên sử<br /> dụng BCTC từ “Không bao giờ” đến “Rất<br /> thường xuyên” cho các mục đích lập BCTC của<br /> DNNVV. Kết quả thu được cho thấy, kế toán<br /> viên thường xuyên cung cấp BCTC cho ngân<br /> hàng trong hồ sơ xin vay vốn và thể hiện việc<br /> tuân thủ yêu cầu khoản vay với mức độ thường<br /> xuyên được đánh giá ở thang điểm 3,92. Ngược<br /> lại, người trả lời cho rằng họ ít khi sử dụng<br /> BCTC để xin tín dụng thương mại từ nhà cung<br /> cấp và hỗ trợ việc đấu thầu, mức độ thường<br /> xuyên tương ứng được đánh giá ở thang điểm<br /> 2,26 và 2,48. Điều này phù hợp với những<br /> <br /> Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng<br /> <br /> QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP<br /> <br /> <br /> <br /> Bảng 2. Mục đích sử dụng BCTC của DNNVV<br /> Vay<br /> vốn từ<br /> ngân<br /> hàng<br /> N<br /> <br /> Hợp lệ<br /> Thiếu<br /> <br /> Trung bình<br /> Độ lệch chuẩn<br /> <br /> Vay tín<br /> So sánh<br /> Hỗ trợ<br /> dụng<br /> kết quả<br /> đấu thầu<br /> thương<br /> hoạt động<br /> hoặc xin<br /> mại từ nhà<br /> với đối thủ<br /> giấy phép<br /> cung cấp<br /> cạnh tranh<br /> <br /> Tuân thủ<br /> những<br /> ràng buộc<br /> trong hợp<br /> đồng vay<br /> <br /> Hoàn<br /> thành<br /> nghĩa vụ<br /> với cơ<br /> quan thuế<br /> <br /> Quyết định<br /> trong doanh<br /> nghiệp (lập kế<br /> hoạch, chia<br /> lương..)<br /> <br /> 192<br /> <br /> 192<br /> <br /> 192<br /> <br /> 192<br /> <br /> 192<br /> <br /> 192<br /> <br /> 192<br /> <br /> 0<br /> <br /> 0<br /> <br /> 0<br /> <br /> 0<br /> <br /> 0<br /> <br /> 0<br /> <br /> 0<br /> <br /> 3,92<br /> <br /> 2,26<br /> <br /> 2,48<br /> <br /> 3,17<br /> <br /> 3,73<br /> <br /> 3,86<br /> <br /> 3,25<br /> <br /> 1,022<br /> <br /> ,984<br /> <br /> 1,015<br /> <br /> ,999<br /> <br /> ,967<br /> <br /> ,943<br /> <br /> 1,030<br /> <br /> Nguồn: Tác giả tổng hợp<br /> <br /> nghiên cứu trước đây (Sian và Roberts, 2009;<br /> Đặng Đức Sơn và cộng sự., 2006) về đối tượng<br /> sử dụng chính BCTC của DNNVV, trong đó<br /> ngân hàng được xác định là người sử dụng quan<br /> trọng BCTC doanh nghiệp.<br /> Bên cạnh đó, đa số người trả lời cho rằng họ<br /> lập BCTC để hoàn thành nghĩa vụ về thuế, với<br /> giá trị mean xấp xỉ 4 (3,86). Do DNNVV phải<br /> nộp BCTC và tờ khai thuế cho cơ quan thuế nên<br /> đây là một trong những lý do chính khiến doanh<br /> nghiệp phải lập BCTC. Điều này hoàn toàn<br /> phù hợp với nghiên cứu của Sutthirat (2012) về<br /> DNNVV ở Thái Lan khi 79,1% các kế toán viên<br /> trả lời đều cho rằng họ lập BCTC nhằm mục<br /> đích phục vụ đối tượng bên ngoài như cơ quan<br /> thuế chứ không phải cho mục đích quản trị.<br /> Kết quả tương tự cũng được tìm thấy trong một<br /> nghiên cứu ở Đức, khi đa số DNNVV cho rằng<br /> BCTC là quan trọng cho việc tính thuế (Haller<br /> &Eierle, 2007).<br /> <br /> Mức độ sử dụng BCTC nhằm so sánh kết quả<br /> hoạt động với các đối thủ cạnh tranh và đưa<br /> ra các quyết định trong doanh nghiệp như lập<br /> kế hoạch, chia lương, thưởng còn tương đối<br /> hạn chế (ở mức độ trung bình là 3,17 và 3,25).<br /> Điều này có nghĩa là tính hữu ích của BCTC<br /> liên quan đến khía cạnh quản trị doanh nghiệp<br /> dường như không phù hợp với đa số DNNVV<br /> trong mẫu khảo sát.<br /> 4.2. Đánh giá về chất lượng BCTC của<br /> DNNVV<br /> Để đánh giá chất lượng thông tin trên BCTC,<br /> tác giả phân tích đánh giá của cả bên cung cấp<br /> và bên sử dụng. Kết quả khảo sát qua xử lý<br /> thống kê mô tả được thể hiện trong Bảng 3.<br /> Kết quả khảo sát cho thấy các đối tượng được<br /> khảo sát nhìn chung đồng ý một phần với các<br /> nhận định đưa ra (do mức điểm bình quân theo<br /> <br /> Bảng 3. Đặc điểm thông tin trình bày trên BCTCĐánh giá của người cung cấp và người sử dụng<br /> Tiêu chí đánh<br /> giá<br /> <br /> Đặc điểm thông tin trình bày trên BCTC<br /> <br /> Trung thực<br /> <br /> Khách quan<br /> <br /> Đầy đủ<br /> <br /> Đúng kỳ<br /> <br /> Dễ hiểu<br /> <br /> Có thể so sánh<br /> <br /> Đánh giá của người cung cấp<br /> Trung bình<br /> Độ lệch chuẩn<br /> <br /> 3,41<br /> <br /> 3,49<br /> <br /> 3,51<br /> <br /> 3,71<br /> <br /> 3,46<br /> <br /> 3,44<br /> <br /> 1,333<br /> <br /> 1,202<br /> <br /> 1,396<br /> <br /> 1,222<br /> <br /> 1,068<br /> <br /> 1,360<br /> <br /> Đánh giá của người sử dụng<br /> Trung bình<br /> Độ lệch chuẩn<br /> <br /> 3,02<br /> <br /> 3,05<br /> <br /> 3,11<br /> <br /> 3,95<br /> <br /> 3,14<br /> <br /> 3,21<br /> <br /> 1,339<br /> <br /> 1,372<br /> <br /> 1,403<br /> <br /> 1,142<br /> <br /> 1,342<br /> <br /> 1,402<br /> <br /> Nguồn: Tác giả tổng hợp<br /> <br /> Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng<br /> <br /> Số 192- Tháng 5. 2018<br /> <br /> 31<br /> <br /> QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP <br /> <br /> Bảng 4. So sánh đánh giá về chất lượng thông tin của người cung cấp và người sử dụng<br /> <br /> Tiêu chí đánh giá<br /> Trung thực<br /> Khách quan<br /> Đầy đủ<br /> Đúng kỳ<br /> Dễ hiểu<br /> Có thể so sánh<br /> <br /> Chủ thể đánh giá<br /> <br /> Trung bình<br /> <br /> Độ lệch chuẩn<br /> <br /> p<br /> <br /> Người cung cấp TT<br /> <br /> 3,41<br /> <br /> 1,333<br /> <br /> Người sử dụng TT<br /> <br /> 3,02<br /> <br /> 1,339<br /> <br /> Người cung cấp TT<br /> <br /> 3,49<br /> <br /> 1,202<br /> <br /> Người sử dụng TT<br /> <br /> 3,05<br /> <br /> 1,372<br /> <br /> Người cung cấp TT<br /> <br /> 3,51<br /> <br /> 1,396<br /> <br /> Người sử dụng TT<br /> <br /> 3,11<br /> <br /> 1,403<br /> <br /> Người cung cấp TT<br /> <br /> 3,71<br /> <br /> 1,222<br /> <br /> Người sử dụng TT<br /> <br /> 3,95<br /> <br /> 1,142<br /> <br /> Người cung cấp TT<br /> <br /> 3,46<br /> <br /> 1,068<br /> <br /> Người sử dụng TT<br /> <br /> 3,14<br /> <br /> 1,342<br /> <br /> Người cung cấp TT<br /> <br /> 3,44<br /> <br /> 1,360<br /> <br /> Người sử dụng TT<br /> <br /> 3,21<br /> <br /> 1,402<br /> <br /> 0,000<br /> 0,000<br /> 0,003<br /> 0,039<br /> 0,000<br /> 0,004<br /> <br /> Nguồn: Tác giả tổng hợp<br /> <br /> thang đo Likert hơn 3, trong khoảng từ 3 đến<br /> 4), trong đó, mức đồng ý cao hơn dành cho ý<br /> kiến DNNVV cung cấp thông tin “Đúng kỳ”<br /> và DNNVV cung cấp thông tin “Đầy đủ”; mức<br /> đồng ý thấp nhất đối với ý kiến cho rằng thông<br /> tin trên BCTC của DNNVV được “trình bày<br /> trung thực” và “khách quan” với mức điểm<br /> trung bình do người cung cấp đánh giá tương<br /> ứng là 3,41 và 3,49, người sử dụng đánh giá<br /> tương ứng là 3,02 và 3,05. Điều này cũng phản<br /> ánh đúng thực trạng hiện nay dường như BCTC<br /> của DNNVV chưa được coi là kênh thông tin<br /> chính, là cơ sở đáng tin cậy để ra các quyết<br /> định kinh tế.<br /> Kết quả kiểm định trong Bảng 4 giúp đánh giá<br /> sự khác biệt ý kiến giữa một bên là kế toán<br /> viên, người tạo lập thông tin với một bên là<br /> chuyên viên thuế, nhân viên ngân hàng, những<br /> người sử dụng thông tin.<br /> Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê trong<br /> đánh giá của người cung cấp thông tin so với<br /> người sử dụng thông tin trong việc đánh giá<br /> những đặc điểm của thông tin được cung cấp<br /> trên BCTC của DNNVV về mức độ trung thực,<br /> khách quan, đầy đủ, dễ hiểu và có thể so sánh<br /> (p< 0,05). Trong đó, người cung cấp thông tin<br /> có đánh giá cao hơn trong tất cả các mặt so với<br /> người sử dụng thông tin. Điều này hoàn toàn<br /> <br /> 32 Số 192- Tháng 5. 2018<br /> <br /> phù hợp vì kế toán viên là người tạo ra sản<br /> phẩm thông tin kế toán, do đó việc đánh giá sản<br /> phẩm do bản thân tạo ra sẽ tốt hơn so với đánh<br /> giá của đối tượng sử dụng sản phẩm.<br /> 5. Kết luận và khuyến nghị giải pháp<br /> Từ kết quả nghiên cứu cho thấy BCTC của<br /> DNNVV chủ yếu phục vụ nhu cầu vay vốn từ<br /> các NHTM và nộp cho cơ quan thuế để hoàn<br /> thành nghĩa vụ pháp lý. Tuy nhiên, theo đánh<br /> giá của những đối tượng thường xuyên sử dụng<br /> thông tin của DNNVV bao gồm ngân hàng<br /> và cơ quan thuế thì BCTC chưa đáp ứng nhu<br /> cầu thông tin của họ, cụ thể tính trung thực và<br /> khách quan bị đánh giá ở mức trung bình. Điều<br /> này làm giảm tác dụng cung cấp thông tin hữu<br /> ích của BCTC DNNVV.<br /> Nguyên nhân của thực tế này một phần là do hệ<br /> thống các văn bản pháp lý hướng dẫn về việc<br /> lập và trình bày BCTC có những điểm chưa<br /> thực sự hợp lý, đầy đủ và sát với thực tiễn nên<br /> đôi khi còn gây khó khăn cho người thực hiện<br /> cũng như người sử dụng. Có thể kể đến một số<br /> điểm như sau:<br /> - Một là, người sử dụng thông tin, cụ thể là các<br /> ngân hàng rất quan tâm đến sự thay đổi vốn<br /> chủ sở hữu để đánh giá khả năng thu hồi vốn,<br /> <br /> Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
6=>0