intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Báo cáo thực tập: Tăng cường quản lý công nợ phải thu của Công ty Cổ phần Gas Petrolimex

Chia sẻ: Xnbcvxc Cvnvc | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:77

262
lượt xem
58
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Với kết cấu nội dung gồm 3 chương, báo cáo thực tập "Tăng cường quản lý công nợ phải thu của Công ty Cổ phần Gas Petrolimex" giới thiệu đến các bạn những vấn đề cơ bản về quản lý công nợ phải thu của doanh nghiệp, thực trạng quản lý công nợ phải thu tại Công ty Cổ phần Gas Petrolimex, những giải pháp nhằm tăng cường quản lý công nợ phải thu tại Công ty Cổ phần Gas Petrolimex.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Báo cáo thực tập: Tăng cường quản lý công nợ phải thu của Công ty Cổ phần Gas Petrolimex

  1. LỜI MỞ ĐẦU Thị  trường tài chính Việt Nam đang sôi động từng ngày bởi sự  lớn   mạnh của các doanh nghiệp trong và ngoài nước kéo theo đó là sự phát triển  không ngừng của toàn bộ nền kinh tế Việt Nam tạo cho nước ta một vị thế  không nhỏ trên trường quốc tế. Sau một thời gian dài đàm phán để gia nhập  vào tổ  chức thương mại thế giới, ngày 7/11/2006, cả  nước ta hoan hỉ  chào  đón Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ  150 của WTO, đánh dấu   một bước đột phá đối với nền kinh tế  Việt Nam. Cũng chính từ  thời điểm  đó những mối quan hệ thương mại quốc tế mới mở ra trước mắt làm cho   bánh xe kinh tế Việt Nam đã nóng lại càng nóng hơn và như được bôi trơn  dầu mỡ, nó bắt đầu hoạt động nhịp nhàng với tốc độ  ngày càng tăng hứa  hẹn một tương lai vững mạnh cho Việt Nam trên mọi mặt của nền kinh tế.  Để thúc đẩy cỗ máy kinh tế đó hoạt động tốt các doanh nghiệp, các   tổ  chức kinh tế  cũng như  mọi cá nhân đã đang và sẽ  nỗ  lực không ngừng  trong khả  năng có thể  để  làm lành mạnh doanh nghiệp, đưa doanh nghiệp  hoạt động hiệu quả  hơn. Một trong những vấn đề  mà các doanh nghiệp   phải đối mặt khi nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển đó là các quan   hệ tín dụng ngày càng trở nên đa dạng và phức tạp, chính từ đó sự phát sinh   nợ  đã trở  thành một yếu tố  tất nhiên trong hoạt động kinh doanh, trong đó  bao gồm cả tín dụng ngân hàng và tín dụng thương mại. Tình trạng nợ nần   này phải được nhìn từ  cả  hai khía cạnh: từ  phía người cho vay (bên cung   cấp tín dụng hay là chủ  nợ) và phía người đi vay (bên nhận tín dụng hay  khách nợ), và đôi khi phải tính đến cả những yếu tố thị trường nữa (những   tác nhân bên ngoài ảnh hưởng tới quan hệ tín dụng của cả hai bên). Hiện nay  ở nước ta nhiều doanh nghiệp đang phải đối mặt với rủi  ro tín dụng rất cao trong đó rủi ro rủi ro về tổn thất nợ khó đòi là một trong  
  2. những nhân tố  cần được kiểm soát chặt chẽ. Trong nhiều trường hợp, tổn   thất nợ khó đòi giữa các doanh nghiệp đang tiếp tục gia tăng làm suy giảm   năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp, thậm chí dẫn tới nguy cơ  phá  sản. Trước nền kinh tế  đã được hội nhập, trước môi trường cạnh tranh   ngày càng gay gắt, vấn đề quản lý công nợ phải thu và xử lý nợ khó đòi đã   và đang trở nên vô cùng cần thiết đối với các doanh nghiệp  ở nước ta hiện   nay. Nhận thấy tính cần thiết của việc quản lý công nợ  phải thu và xử  lý  nợ  khó đòi  ở  doanh nghiệp, qua quá trình thực tập  ở  công ty cổ  phần gas   Petrolimex em đã đi sâu tìm hiểu tình hình hoạt động của công ty và đã  quyết định chọn đề tài: “Tăng cường quản lý công nợ phải thu của công ty cổ phần gas   Petrolimex”. Đề tài của em gồm ba chương: Chương 1: Những vấn đề  cơ  bản về quản lý công nợ  phải thu của   doanh nghiệp. Chương 2: Thực trạng quản lý công nợ phải thu tại công ty cổ phần  gas Petrolimex. Chương 3: Những giải pháp nhằm tăng cường quản lý công nợ phải  thu tại công ty cổ phần gas Petrolimex.
  3. CHƯƠNG I  NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ CÔNG NỢ PHẢI  THU CỦA DOANH NGHIỆP 1.1. Khái quát về tài sản của doanh nghiệp  1.1.1. Khái niệm Để tìm hiểu về tài sản của doanh nghiệp trước tiên chúng ta cần biết   doanh nghiệp là gì?  Theo luật doanh nghiệp của nước cộng hoà xã hội chủ  nghĩa Việt  Nam: Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở  ổn  định, được đăng kí kinh doanh theo qui định của pháp luật, nhằm mục đích  thực hiện các hoạt động kinh doanh. Từ đó ta thấy doanh nghiệp là một thực thể kinh doanh đơn vị kinh tế  nắm trong tay các tiềm lực và tiến hành các hoạt động kinh doanh nhằm thu   được lợi nhuận và cần phải ghi chép, tổng hợp cũng như báo cáo. Bất cứ  doanh nghiệp nào khi muốn tiến hành kinh doanh cũng cần   phải có một lượng vốn nhất định. Lượng vốn đó biểu hiện dưới dạng vật  chất hay phi vật chất và được đo bằng tiền gọi là tài sản. Mặt khác,để  có  tài sản đó thì vốn của doanh nghiệp lại được hình thành từ  nhiều nguồn  khác nhau gọi là nguồn vốn. Về mặt kinh tế tài sản phản ánh qui mô và kết   cấu các loại tài sản còn nguồn vốn phản ánh cơ  cấu tài trợ, cơ  cấu vốn  cũng như khả năng độc lập về tài chính của doanh nghiệp. Như vậy tài sản  
  4. và nguồn vốn là hai mặt giá trị  của vốn có mối quan hệ  chặt chẽ  và luôn  được ghi chép trên bảng cân đối kế  toán_một báo cáo tài chính tổng hợp   phản ánh tổng quát tình hình vốn của doanh nghiệp tại một thời điểm nhất  định theo nguồn tình hình tài sản (giáo trình Hạch toán kế  toán trong các   doanh nghiệp). Bảng cân đối kế toán thông thường có các khoản mục sau: Bảng 1.1. BẢNG CÂN ĐỐI KẾ TOÁN TRONG DOANH NGHIỆP TÀI SẢN NGUỒN VỐN Tài sản lưu động Nợ phải trả 1. Tiền 1. Nợ ngắn hạn 2. Các khoản đầu tư tài chính ngắn h2. ạn Nợ dài hạn 3. Các khoản phải thu 3. Nợ khác 4. Hàng tồn kho Nguồn vốn chủ sở hữu 5. Tài sản lưu động khác 1. Nguồn vốn­quỹ 6. Chi sự nghiệp ­4 Nguồn vốn kinh doanh   Tài sản cố định và đầu tư dài hạn­5 Chênh lệch đánh giá lại tài sản  1. Tài sản cố định ­6 Chênh lệch tỷ giá hối đoái ­1 Tài sản cố định hữu hình  ­7 Quỹ đầu tư phát triển ­2 Tài sản cố định thuê tài chính ­8 Quỹ dự phòng tài chính ­3 Tài sản cố định vô hình ­9 Lợi nhuận chưa phân phối 2. Các khoản đầu tư tài chính dài hạn­1 Nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản 3. Chi phí xây dựng cơ bản dở dang 2. Nguồn kinh phí khác 4. Các khoản ký quỹ ký cược dài hạn­1 Quỹ khen thưởng phúc lợi 5. Chi phí trả trước dài hạn ­1 Quỹ quản lý của cấp trên ­1 Nguồn kinh phí sự nghiệp ­1 Nguồn kinh phí đã hình thành tài sản 
  5. cố định TỔNG CỘNG TÀI SẢN  TỔNG CỘNG NGUỒN VỐN Tóm lại, tài sản là toàn bộ  nguồn lực do doanh nghiệp kiểm soát và   có thể  thu được lợi ích kinh tế  trong tương lai hoặc tài sản là những tiềm   năng phục vụ cho hoạt động kinh doanh của đơn vị. Lợi ích kinh tế trong tương lai của một tài sản là tiềm năng làm tăng  nguồn tiền và các khoản tương đương tiền của doanh nghiệp hoặc làm  giảm bớt các khoản tiền mà doanh nghiệp phải chi ra.  Lợi ích kinh tế  trong tương lai của một tài sản được thể  hiện trong  các trường hợp như: Được sử  dụng một cách đơn lẻ  hoặc kết hợp với các tài sản khác   trong sản xuất sản phẩm để bán hay cung cấp dịch vụ cho khách hàng Để bán hoặc trao đổi lấy tài sản khác Để thanh toán các khoản nợ phải trả Để phân phối cho các chủ sở hữu của doanh nghiệp  Như vậy tài sản là tất cả những thứ hữu hình hoặc vô hình gắn với lợi ích  kinh tế trong tương lai của đơn vị thoả mãn các điều kiện sau: +   Thuộc   quyền   sở   hữu   hoặc   quyền   kiểm   soát   lâu   dài   của   doanh   nghiệp. + Có giá trị thực sự đối với doanh nghiệp  + Có giá phí xác định. Độ  lớn, quy mô của doanh nghiệp phụ thuộc vào quy mô tài sản mà doanh  nghiệp đang sở hữu. 1.1.2. Phân loại
  6.   Có rất nhiều cách phân loại tài sản trong các doanh nghiệp, nhưng  cách phân loại thông thường nhất là theo cách phân loại về  mặt giá trị  và   tính chất luân chuyển của tài sản. Theo chế độ kế toán và để tiện theo dõi,  toàn bộ tài sản của các doanh nghiệp được chia làm hai loại như sau:    Loại 1: Tài sản lưu động (TSLĐ)   Là những tài sản có thời gian luân chuyển ngắn, tức là vòng đời của  nó khoảng dưới một năm. TSLĐ phản ánh toàn bộ  giá trị  của các loại tài  sản lưu động của doanh nghiệp bao gồm nhiều loại với tính chất công dụng  khác nhau,vì thế  để  tiện lợi cho việc quản lý, tài sản lưu động được phân   theo các cách khác nhau: Theo lĩnh vực tham gia luân chuyển: tài sản lưu động gồm ba loại:   Tài sản lưu động sản xuất, tài sản lưu động lưu thông và tài sản lưu động   tài chính. +  Tài sản lưu động sản xuất gồm những tài sản dự trữ cho quá trình sản  xuất và tài sản trong sản xuất.Nó là những nguyên vật liệu, công cụ  dụng   cụ….  +  Tài sản lưu động lưu thông bao gồm tài sản dự trữ cho quá trình lưu  thông và tài sản trong quá trình lưu thông. Đó là hàng hoá, thành phẩm, hàng  đang chuyển, hàng tồn kho… +  Tài sản lưu động tài chính là các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn với   mục đích kiếm lời. Tài sản lưu động tài chính bao gồm các chứng khoán  đầu tư ngắn hạn… Theo khả  năng thanh khoản tức là khả  năng huy động cho khả  năng  thanh toán,  người ta chia tài sản lưu động thành các loại sau: +  Tiền mặt: là tài sản của đơn vị tồn tại trực tiếp dưới hình thái giá trị.   Thuộc về  tiền của đơn vị  bao gồm tiền mặt, tiền gửi ngân hàng và tiền  
  7. đang chuyển. Tiền mặt là tài sản có tính thanh khoản cao nhất.  +  Các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn: là những khoản đầu tư về vốn   nhằm mục đích kiếm lời có thời hạn thu hồi trong vòng một năm hay một  chu kỳ kinh doanh. Thuộc đầu tư tài chính ngắn hạn gồm các khoản đầu tư  cổ phiếu, trái phiếu,…    +  Các khoản phải thu là số  tài sản của đơn vị  nhưng đang bị  các tổ  chức, tập thể  hay cá nhân khác chiếm dụng mà đơn vị  có trách nhiệm thu   hồi. Các khoản phải thu ngắn hạn bao gồm phải thu người mua, tiền đặt   trước cho người bán, khoản nộp thừa cho Ngân sách, các khoản phải thu   nội bộ…    +  Hàng tồn kho là tài sản lưu động tồn tại dưới hình thái vật chất có   thể cân, đo, đong, đếm được. Hàng tồn kho có thể có do đơn vị tự sản xuất   hay mua ngoài. Hàng tồn kho bao gồm: Vật liệu, dụng cụ, hàng mua đang đi  đường, thành phẩm, hàng hoá, sản phẩm dở dang….     +  Tài sản lưu động khác: là những tài sản lưu động còn lại như  các   khoản tam ứng cho công nhân viên chức, các khoản chi phí trả trước… ­   Căn cứ vào mục đích sử  dụng : tài sản lưu động trong doanh nghiệp  còn có thể phân loại thành tài sản lưu động trong kinh doanh và tài sản lưu  động ngoài kinh doanh. Các loại tài sản lưu động ngoài kinh doanh đều  không tham gia vào quá trình kinh doanh của đơn vị. Loại 2: Tài sản cố định  Tài sản cố định là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản của doanh  nghiệp có thời gian luân chuyển dài (thường là trên một năm hay một chu kỳ  kinh doanh). Tài sản cố  định của doanh nghiệp được chia làm hai loại: Tài  sản cố định hữu hình và Tài sản cố định vô hình. Tài sản cố định hữu hình là các tài sản cố  định có hình thái vật chất, 
  8. có đủ tiêu chuẩn của tài sản cố định về gái trị và thời gian sử dụng theo qui   định trong chế  độ  quản lý tài chính hiện hành như  nàh cửa, máy móc thiết  bị, phương tiện vận tải, phương tiện truyền dẫn… Tài sản cố  định vô hình là những tài sản cố  định không có hình thái  vật chất, thể hiện một lượng giá trị đã được đầu tư, chi trả nhằm có được  các lợi ích hoặc các nguồn có tính chất kinh tế  mà giá trị  của chúng xuất  phát từ  các đặc quyền hoặc quyền của doanh nghiệp như  quyền sử  dụng   đất, bản quyền, bằng phát minh sáng chế….Với loại tài sản này đặc biệt là  những tài sản thuộc quyền sở  hữu của doanh nghiệp nhưng có thể  không  kiểm soát được về  mặt pháp lý như  các bí quyết kỹ  thuật thu được từ  quá   trình sản xuất kinh doanh, phát minh, sáng chế…sẽ chỉ thoả mãn khái niệm   về  tài sản khi nó vẫn còn giữ  được bí mật và doanh nghiệp vẫn thu được   lợi ích kinh tế từ tài sản đó. Tài sản cố  định có thể  được hình thành do đơn vị  tự  đầu tư  hoặc  thuê dài   hạn. Những   tài  sản  thuê  ngoài không  thuộc  quyền  sở  hữu  của   doanh nghiệp nhưng doanh nghiệp kiểm soát được và thu được lợi ích kinh   tế trong tương lai. 1.1.3. Đánh giá và ghi nhận  tài sản của doanh nghiệp  Doanh nghiệp ngay từ  khi được thành lập, quy mô của nó phụ  thuộc  vào vốn hình thành thể hiện qua tài sản và nguồn vốn. Tài sản đóng vai trò   quan trọng trong sự phát triển của doanh nghiệp và trong quá trình sản xuất   kinh doanh thường xuyên có các hoạt động làm tăng, giảm tài sản để  đảm   bảo hiệu quả sản xuất tối ưu do đó đánh giá và ghi nhận tài sản của doanh  nghiệp một cách chính xác và kịp thời là công việc rất có ý nghĩa trong công   tác quản lý, sử dụng đầy đủ và hợp lý tài sản trong doanh nghiệp.
  9. Đánh giá và ghi nhận tài sản của doanh nghiệp là quá trình theo dõi   nắm bắt tình hình biến động của tài sản về  số  lượng và chất lượng cũng  như tình hình sử dụng tài sản đó. Giá trị  tài sản cũng như  nguồn vốn được phản ánh trong sổ  sách kế  toán thông qua phương pháp hạch toán kế toán. Tài sản được ghi nhận trong  sổ sách kế toán lần đầu tiên theo đúng toàn bộ giá trị thực tế của nó tại thời  điểm đó (với tài sản cố định, nó chính là nguyên giá). Tài sản được ghi nhận  trong bảng CĐKT khi doanh nghiệp có khả năng chắc chắn thu được lợi ích  kinh tế trong tương lai từ tài sản đó và giá trị của tài sản đó được xác định   một cách đáng tin cậy. Tuy nhiên trong quá trình sử  dụng thì giá trị  của  những tài sản trong doanh nghiệp sẽ có sự thay đổi về giá trị do một số yếu   tố khác nhau làm giá của nó tăng, giảm liên tục. Cụ thể như: + Cung và cầu về  tài sản trên thị  trường thường xuyên biến động làm   giá trị của nó tăng, giảm liên tục. Trong trường hợp này kế  toán hạch toán   làm tăng, giảm TSCĐ. + Quá trình sử  dụng tài sản (đặc biệt là TSCĐ) làm hao mòn tài sản   khiến cho giá trị của nó giảm đi đáng kể. Trong trường hợp này kế toán sẽ  hạch toán trích khấu hao TSCĐ vào cuối kỳ hoạt động. + Công nghệ  ngày càng hiện đại làm cho tài sản tài sản nhanh chóng  trở nên lạc hậu vào một thời gian ngắn sau đó, điều này tất yếu làm cho thị  giá của tài sản sẽ giảm xuống. +  Ảnh hưởng của lạm phát làm đồng tiền mất giá gây nên sự  biến   động trong giá trị của tài sản.  Do vậy việc xác định nên đầu tư  vào tài sản nào là rất quan trọng và  trong quá trình sử  dụng phải thường xuyên đánh giá lại và ghi nhận những   sự thay đổi về giá trị của nó để phản ánh đúng giá trị thực của tài sản, từ đó  
  10. đưa ra những quyết định tài chính của doanh nghiệp được chính xác. 1.2. Công nợ phải thu của doanh nghiệp  1.2.1. Khái niệm Công nợ  là biểu hiện mối quan hệ  giữa chủ  nợ, khách nợ  thông qua   một hoặc nhiều đối tượng nợ. Chủ nợ và khách nợ có thể là những tổ chức  kinh tế  hay những cá nhân có mối quan hệ  làm ăn mua bán, trao đổi với   nhau. Công nợ bao gồm công nợ phải thu và công nợ phải trả trong đó công   nợ  phải thu được theo dõi bên Tài sản của bảng CĐKT trong khi công nợ  phải trả được  theo dõi bên Nguồn vốn. Qua bảng CĐKT ta nhận thấy công nợ  phải thu là một bộ  phận quan  trọng trong tài sản của doanh nghiệp. Nó phát sinh trong quá trình hoạt động  của doanh nghiệp khi thực hiện việc cung cấp sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ  cũng như  một số  trường hợp khác liên quan đến bộ  phận vốn của doanh   nghiệp bị chiếm dụng tạm thời như cho mượn ngắn hạn, chi hộ cho đơn vị  bạn hoặc cấp trên, giá trị tài sản thuế mà chưa xử lý… Nói một cách ngắn gọn, công nợ  phải thu là số  tài sản của đơn vị   nhưng đang bị các tổ chức hay tập thể, cá nhân khác chiếm dụng mà đơn vị   có trách nhiệm thu hồi. Những tài sản đó là những khoản phát sinh trong   các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp với các đối tác. 1.2.2. Phân loại công nợ phải thu  Vì công nợ phải thu là mối quan hệ giữa chủ nợ ­ khách nợ thông  qua đối tượng nợ. Đối tượng nợ ở đây chính là những khoản tiền, giá trị  mà khách nợ  đang chiếm dụng của công ty và chưa thanh toán. Để  tiện   theo dõi các khoản phải thu ta có thể  phân loại nợ  phải thu theo khách  
  11. nợ. Nợ phải thu bao gồm: phải thu khách hàng, trả trước cho người bán,  thuế GTGT được khấu trừ, phải thu nội bộ và các khoản phải thu khác.   Trong đó phải thu khách hàng chiếm tỷ  trọng lớn nhất trong công nợ  phải thu thường xuyên phát sinh trong quá trình mua bán, trao đổi hàng  hoá và cũng là khoản phải thu gặp nhiều rủi ro về khả năng thu hồi vốn.  Chính vì thế  nghiệp vụ  quản lý công nợ  tập trung chủ  yếu về  quản lý   các khoản phải thu khách hàng và các khoản trả trước cho nhà cung cấp.  Do đó trong đề  án này em xin đi sâu phân tích về  khoản phải thu khách   hàng và quản lý công nợ phải thu khách hàng. Công nợ phải thu bao gồm: 1.2.2.1. Phải thu khách hàng Phải thu khách hàng là khoản tiền mà khách hàng đã mua nợ  doanh  nghiệp khi khách hàng này đã được doanh nghiệp cung cấp hàng hoá, dịch  vụ nhưng chưa thanh toán tiền cho doanh nghiệp.  Tuỳ  theo khả  năng thu hồi, thời gian thu hồi, hình thức bảo lãnh,   khách nợ thì các khoản phải thu khách hàng lại được phân ra như sau: a. Theo khả năng thu hồi, phải thu khách hàng bao gồm: ­ Nợ có khả năng thu hồi: Đây là những khoản phải thu vẫn còn  hạn thanh toán và khách hàng vẫn đang hoạt động kinh doanh tốt. Những   khoản phải thu như  thế  này có thể  đem lại cho doanh nghiệp những mối   quan hệ tốt với khách hàng là động lực thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm. ­ Nợ không có khả năng thu hồi (nợ khó đòi): đây là những khoản  nợ  đã quá hạn thanh toán mà khách hàng vẫn không trả  được hoặc những   khoản nợ  mà doanh nghiệp sau khi thẩm định thấy khách hàng không thể  trả  được ngay cả  khi thời hạn thanh toán vẫn còn do khách hàng gặp phải 
  12. một số những khó khăn không thể tiếp tục kinh doanh để trả nợ. Việc xếp loại nợ phải thu khách hàng vào nợ  khó đòi rất quan trọng  vì nó liên quan tới việc xử lý khoản nợ đó khi khách hàng không thể trả nợ  được, doanh nghiệp sẽ  phải bỏ  ra khoản chi phí cho việc thu hồi và phải  trích lập dự phòng đề phòng rủi ro không thu hồi được nợ và có những biện   pháp xử  lý kịp thời tránh tổn thất cho doanh nghiệp. Ta có thể  đi sâu tìm   hiểu nợ khó đòi như sau: Khái niệm: Nợ  khó đòi là các khoản nợ  đã quá thời hạn thanh toán,   doanh nghiệp đã áp dụng các biện pháp xử lý như đối chiếu, xác nhận, đôn   đốc thanh toán nhưng vẫn chưa thu hồi được. Các khoản phải thu được coi là các khoản nợ khó đòi khi nó đảm bảo   các điều kiện sau: + Nợ  phải thu đã quá hạn thanh toán ghi trên hợp đồng kinh tế, các  khế ước vay nợ hoặc các cam kết nợ khác. + Nợ  phải thu chưa đến thời hạn thanh toán nhưng các tổ  chức kinh  tế  (các công ty, doanh nghiệp tư  nhân, hợp tác xã, tổ  chức tín dụng…) đã  lâm vào tình trạng phá sản hoặc đang làm thủ  tục giải thể; người nợ  mất   tích, bỏ  trốn, đang bị  các cơ  quan pháp luật truy tố, giam giữ, xét xử, đang   thi hành án hoặc đã chết. + Những khoản nợ  quá hạn từ  3 năm trở  lên coi như  không có khả  năng thu hồi và được xử lý theo qui định. Phân loại nợ quá hạn: Ta có thể  dựa vào “tuổi” của các khoản nợ  cùng với tình hình hoạt   động của doanh nghiệp để phân loại nợ  khó đòi. Theo cách đó ta có 2 loại  nợ khó đòi sau: Nợ  phải thu đã quá hạn thanh toán: đây là những khoản nợ  của 
  13. khách hàng đã qua hạn phải trả nhưng do một lý do nào đó mà khách hàng   đó không thể trả được. Đối với khoản nợ khó đòi này, ta có thể phân ra làm  các loại sau: + Khoản nợ phải thu quá hạn thanh toán từ 3 tháng đến dưới 1 năm. + Khoản nợ phải thu quá hạn thanh toán từ 1 năm đến dưới 2 năm. + Khoản nợ phải thu quá hạn thanh toán từ 2 năm đến dưới 3 năm + Khoản nợ phải thu quá hạn thanh toán từ 3 năm trở lên. Nợ phải thu chưa đến hạn thanh toán nhưng tổ chức kinh tế đã lâm  vào tình trạng phá sản hoặc đang làm thủ  tục giải thể; người nợ mất tích,  bỏ  trốn, đang bị  các cơ  quan pháp luật truy tố, giam giữ, xét xử  hoặc đang   thi hành án… Các khoản nợ  đã quá hạn thanh toán trên 3 năm hoặc chưa quá hạn   thanh toán nhưng tổ  chức kinh tế  vay nợ  không có khả  năng trả  nợ  được  nữa thì được coi như khoản nợ không có khả năng thu hồi. b. Theo thời gian thu hồi, nợ phải thu bao gồm: ­ Nợ   trong   hạn:   những   khoản   tiền   hàng   mà   khách   hàng   chưa   thanh toán cho doanh nghiệp nhưng vẫn còn trong thời hạn qui định trong   hợp đồng mua bán thì được coi là những khoản phải thu trong hạn. Thời   hạn qui định trong hợp đồng được doanh nghiệp và khách hàng thoả  thuận  khi bắt đầu ký hợp đồng mua bán trao đổi hàng hoá. Thời hạn này được qui   định tuỳ theo từng đối tượng khách hàng. ­ Nợ quá hạn: là những khoản nợ phải thu đã vượt quá thời hạn  qui định trả  nợ  trong hợp đồng trao đổi hàng hoá mà khách nợ  vẫn chưa  thanh toán tiền cho doanh nghiệp. Đối với những khoản nợ  này thì rủi ro  không thu hồi được nợ  là rất cao do khi gần đến hạn thanh toán thường   doanh nghiệp sẽ  có những biện pháp thúc giục khách nợ  thanh toán tiền 
  14. hàng nhưng khách hàng vẫn chưa thanh toán được khi thời hạn thanh toán đã  hết chứng tỏ những khoản nợ này có vấn đề và cần phải theo dõi để  xử lý   kịp thời. c. Theo hình thức bảo lãnh, nợ phải thu bao gồm: Theo hình thức này, doanh nghiệp khi trao đổi hàng hoá việc thu tiền  về ngay hay còn cho đối tác nợ lại dựa trên uy tín của đối tác đối với doanh   nghiệp. Có hai hình thức nợ như sau: ­ Nợ  có bảo lãnh: thường áp dụng với những khách hàng mới  xuất hliện trên thị  trường mà doanh nghiệp chưa nắm được tình hình hoạt  động kinh doanh của nó; với những khách hàng mà đã từng có những dấu   hiệu làm ăn thua lỗ  hay có những bằng chứng chứng minh khách hàng này  thường hay thiếu nợ  với những đối tác khác trong kinh doanh. Với những  khách hàng này doanh nghiệp cần phải theo dõi sát sao quá trình hoạt động  để  kịp thời nắm bắt tình hình và xử  lý khi những khách hàng này có biểu  hiện không bình thường trong kinh doanh.  ­ Nợ  không có bảo lãnh: thường áp dụng với những khách hàng  lâu năm của doanh nghiệp; những khách hàng có uy tín trong hoạt động kinh  doanh, trong mối quan hê với đối tác. Đây là những khách hàng lớn không  chỉ có uy tín với doanh nghiệp mà còn có uy tín với các doanh nghiệp khác  trên thị  trường hoạt động của nó. Đối với những khách hàng như  thế  này,  trong quan hệ mua bán doanh nghiệp không cần đòi hỏi phải có tài sản đảm  bảo hay những khoản cầm cố, bảo lãnh. Làm việc dựa trên uy tín như  thế  này sẽ giữ được mối quan hệ hợp tác lâu dài, từ đó cũng sẽ  làm tăng uy tín   của  doanh  nghiệp  do  doanh  nghiệp  có   những   đối  tác  rất  uy  tín  trên  thị  trường hoạt động kinh doanh. d. Theo tính chất của khách nợ
  15. Đối với quản lý công nợ phải thu việc phân loại khách hàng theo mối   quan hệ  làm ăn lâu dài là rất quan trọng bởi nó  ảnh hưởng tới các quyết  định trong chính sách tín dụng cũng như  thời hạn tín dụng, hạn mức tín  dụng mà doanh nghiệp quyết định đưa ra cho khách hàng trong các trao đổi. ­ Phải thu của khách hàng mới ­ Phải thu của khách hàng lâu năm. 1.2.2.2. Trả trước cho người bán Trả  trước cho người bán là khoản tiền mà doanh nghiệp đặt trước  cho người bán để nhận hàng nhằm mục đích nhận chiết khấu từ phía khách   hàng là nhà cung cấp. Doanh nghiệp trả tiền hàng trước cho người bán còn   nhằm mục đích đảm bảo nhận được hàng khi thị  trường đang khan hiếm   hàng hoá đó, khi nhà cung cấp có quá nhiều đối tượng muốn mua hàng. Tuy  nhiên trong quá trình hoạt động ít doanh nghiệp đặt tiền hàng trước mà   thường có xu hướng chiếm dụng vốn của đối tác hơn. 1.2.2.3. Thuế  GTGT được khấu trừ (đối với các doanh nghiệp trả  thuế  GTGT theo phương pháp khấu trừ). Là phần thuế GTGT đầu vào được hoàn lại nhưng NSNN chưa hoàn   trả. Thông thường các doanh nghiệp sản xuất hàng hoá thường mua nguyên  vật liệu bao gồm cả  thuế  GTGT đầu vào. Doanh nghiệp sử  dụng những   nguyên vật liệu đó để sản xuất ra hàng hoá bán ra thị  trường với giá thanh   toán bao gồm cả thuế GTGT đầu ra. Nếu thuế GTGT đầu ra > thuế GTGT   đầu vào thì doanh nghiệp sẽ nộp lại cho NSNN khoản dôi ra đó. Ngược lại,   thuế  GTGT đầu ra 
  16. trừ thuế GTGT. Nhưng trong kỳ hoạt động doanh nghiệp chưa được NSNN  hoàn trả  thì khoản thuế  GTGT được khấu trừ đó sẽ  được ghi vào công nợ  phải thu NSNN.  1.2.2.4. Phải thu nội bộ  Thường phát sinh trong các doanh nghiệp có sự phân cấp kinh doanh,  quản lý và công tác kế  toán. Nó bao gồm các khoản vốn , kinh phí đã cấp   cho cấp dưới, các khoản thu hộ, chi hộ  giữa cấp trên và cấp dưới trực  thuộc và các khoản khác. 1.2.2.5. Các khoản phải thu khác Là các khoản phải thu không thuộc các khoản phải thu trên. Cụ  thể  các khoản phải thu khác bao gồm khoản thu do bắt bồi thường, khoản thu   về khoản nợ tiền hoặc vật tư có tính chất tạm thời, trị giá tài sản thuế chưa   xử lý…. 1.2.3. Nguyên nhân dẫn tới công nợ phải thu của doanh nghiệp Đối  với  mỗi doanh nghiệp,  để  quản lý nợ  một cách có hiệu quả  không những phải thực hiện những biện pháp kiểm soát chính mình mà còn  phải hiểu rõ những nguyên nhân phát sinh công nợ từ những công nợ thông   thường đến những khoản nợ phải thu khó đòi. 1.2.3.1. Nguyên nhân hình thành công nợ trong hạn Trong quá trình hoạt đông kinh doanh hầu hết các doanh nghiệp đều  phát   sinh   các   khoản   phải   thu   nhưng   ở   các   mức   độ   nhiều   ít   khác   nhau.  
  17. Nguyên nhân chủ  yếu hình thành nên các khoản phải thu chính là từ  chính  sách hoạt động của doanh nghiệp. Trong đó chính sách bán chịu ảnh hưởng   mạnh nhất đến các khoản phải thu và sự kiểm soát của giám đốc tài chính   trong doanh nghiệp. Giám đốc tài chính có thể thay đổi mức độ bán chịu để  kiểm soát khoản phải thu sao cho phù hợp với sự  đánh đổi giữa lợi nhuận   và rủi ro và kiểm soát các khoản phải thu liên quan chặt chẽ tới việc đánh  đổi giữa lợi nhuận và roi ro. Nếu không bán chịu hàng hoá thì sẽ  mất đi cợ  hội bán hàng, do đó mất đi lợi nhuận. Nếu bán chịu hàng hoá nhiều thì chi  phí cho khoản phải thu tăng và nguy cơ  phát sinh các khoản nợ  khó đòi, vì  vậy, rủi ro không thu hồi được nợ cũng gia tăng. Từ đó vấn đề đặt ra ở đây  là doanh nghiệp cần có chính sách bán chịu hàng hoá thích hợp. Và đương  nhiên để  kích thích tiêu thụ  hàng hoá không một doanh nghiệp nào lại thu  tiền hàng ngay khi giao hàng cho khách hàng, bao giờ cũng có chính sách tín  dụng ưu đãi cho khách hàng với hạn mức tín dụng, thời hạn tín dụng, chính  sách chiết khấu… hợp lý. Chính vì thế  trong một kỳ  kinh doanh bao giờ  doanh nghiệp cũng có các khoản phải thu khách hàng. Ngoài ra còn có một số yếu tố làm phát sinh các khoản phải thu như  tình hình nền kinh tế, giá cả  sản phẩm, chất lượng sản phẩm….Tuy nhiên  khi các yếu tố  này xảy ra thì nó tác động đến toàn bộ  hoạt động sản xuất  của doanh nghiệp chứ không riêng gì các khoản phải thu và phải có những  biện pháp điều chỉnh trong toàn doanh nghiệp. 1.2.3.2. Nguyên nhân dẫn tới nợ khó đòi ở doanh nghiệp  Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến nợ  khó đòi mà ta có thể  thống kê  được như sau: Các nguyên nhân chủ quan (từ phía doanh nghiệp):
  18. Do chính sách của doanh nghiệp như  chính sách bán chịu, chính  sách chiết khấu hay thời hạn thu hồi nợ…. Như  đã nêu  ở  trên khi doanh   nghiệp muốn đẩy mạnh việc tiêu thụ  sản phẩm, tăng doanh thu, tăng lợi  nhuận nên đã nới lỏng các tiêu chuẩn tài chính, hạ  thấp các tiêu chuẩn này  xuống tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có tiêu chuẩn tài chính thấp cũng   có thể  mua chịu hàng hoá. Điều này mở  rộng mạng lưới khách hàng cho   doanh nghiệp nhưng đồng thời cũng làm tăng rủi ro trong việc thu hồi nợ.  Do năng lực yếu kém của nhân viên quản lý công nợ và nhân viên   thẩm định tài chính khách hàng của doanh nghiệp. Các nhân viên có năng lực  yếu kém có thể đưa ra những nhận định sai về năng lực tài chính của khách   hàng dẫn tới sai sót trong chính sách cho vay hay bán chịu của doanh nghiệp,  điều này ảnh hưởng tới giá trị các khoản phải thu của doanh nghiệp. nó sẽ  làm tăng các khoản phải thu nếu như khách hàng của doanh nghiệp có khả  năng tài chính kém nhưng lại được  ưu đãi trong chính sách tín dụng của   doanh nghiệp. Hoặc cũng có những nhân viên thiếu trách nhiệm trong công  việc. Làm việc không đúng với trách nhiệm cũng như sự tín nhiệm của công   ty dẫn tới những thiếu sót trong chính sách tín dụng cũng ảnh hưởng tới giá  trị các khoản phải thu. Đây là nguyên nhân xuất phát tự đạo đức trong công  việc hay còn gọi là đạo đức nghề nghiệp. Nguyên nhân khách quan: Thứ nhất, từ phía doanh nghiệp là khách hàng: Do năng lực yếu kém của bản thân doanh nghiệp vay nợ. Trong nhiều   trường hợp, phía người mua trả chậm có những sai sót chủ  quan, thậm chí   cố  ý không hoàn trả  món nợ; các khoản này thuộc nhóm rủi ro đạo đức.  Một số  công ty trong ngành xây dựng trúng thầu công trình với giá trúng  thầu quá thấp, thua lỗ  và không thể  trả  nợ  đúng hạn thậm chí có nguy cơ 
  19. phá sản. Nhiều doanh nghiệp không dự đoán đúng thị trường, mức bán hàng   và doanh số, quyết định mua một khối lượng hàng hoá quá lớn, thanh toán  trả chậm nhưng không thể bán được hàng hoặc các nguyên nhân khác làm ứ  đọng hàng háo dẫn tới việc không thể  thanh toán các khoảnt nợ  phải trả.  Nhiều doanh nghiệp chưa có khả  năng kiểm soát nguồn tiền của doanh  nghiệp, mất cân đối về luồng tiền, dẫn đến mất khả năng thanh toán. Do đối tác của doanh nghiệp là khách hàng vay nợ lâm vào tình trạng  không thể hoàn trả nợ làm cho khách hang của doanh nghiệp khó có khoản   tiền để trả cho doanh nghiệp. Thứ hai: Sự biến động của thị trường và các rủi ro trong kinh doanh.   Trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt làm cho doanh nghiệp không  có khả năng thích ứng kịp thời, kinh doanh khó khăn dẫn đến tình trạng mấu  khả năng thanh toán. Trong điều kiện hội nhập và cạnh tranh quốc tế hiện   nay, cần đặc biệt chú ý đến những biến động trong ngoại thương, chẳng  hạn như  sự  biến động của tỷ  giá, biến động giá xăng dầu, vật liệu xây  dựng, nguyên liệu… Thứ ba: Sự thay đổi trong chính sách kinh tế vĩ mô có ảnh hưởng rất lớn tới   tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, nó có thể là nguồn động  lực thúc đẩy doanh nghiệp hoạt động hiệu quả  nhưng cũng có thể  là rào  cản trong sự  phát triển của các doanh nghiệp. Tuy nhiên khi đề  cập đến  phát sinh nợ tồn đọng ta chỉ đề cập các bất lợi mà chính sách kinh tế vĩ mô   mang tới cho khách hàng. Các thay đổi trong chính sách kinh tế  vĩ mô quan  trọng nhất đó là thay đổi về thuế quan. Ví dụ như Việt Nam tăng thuế nhập  khẩu sẽ  làm tăng giá sản phẩm nhập khẩu vào=>giảm tiêu dùng=>doanh  thu của các doanh nghiệp bán các mặt hàng nhập khẩu giảm xuống. Nhưng   khi chính phủ  giảm thuế  nhập khẩu các mặt hàng nước ngoài thì các mặt 
  20. hàng này lại bán chạy trong nước làm cho các doanh nghiệp trong nước   phải cạnh tranh mạnh hơn trên thị  trường trong nước. Khi đó các doanh  nghiệp sẽ thúc đẩy mạnh hơn các chính sách nhằm tăng tiêu thụ sản phẩm  và chính sách tín dụng trong đó có chính sách bán chịu cũng không nằm  ngoài   sự   thay   đổi   đó.  Điều  này   làm  cho   khoản  phải  thu   của  các   doanh  nghiệp chư nợ sẽ tăng lên. Môi trường pháp lý cũng có thể làm phát sinh nợ khó đòi nếu sự thay   đổi về pháp lý ảnh hưởng tới hoạt động của người vay, làm cho người vay  gặp khó khăn trong hoạt động kinh doanh và dẫn tới những khó khăn trong  việc thanh toán nợ. Như vậy bất cứ nguyên nhân nào cũng có khả năng dẫn tới khoản nợ  phải thu tuy nhiên tình hình hoạt đông kinh doanh của khách hàng là nguyên  nhân trực tiếp và quan trọng nhất trong việc nảy sinh các khoản nợ khó đòi  ở  doanh nghiệp. Do đó việc thường xuyên theo dõi, đánh giá năng lực của   bạn hàng là điều vô cùng cần thiết trong công tác quản lý các khoản nợ  phải thu khó đòi. 1.3. Quản lý công nợ phải thu ở doanh nghiệp 1.3.1. Mục tiêu quản lý Nợ   phải   thu   là   một   bộ   phận   quan   trọng   trong   tài   sản   của   doanh  nghiệp, liên quan đến các đối tượng bên trong lẫn bên ngoài doanh nghiệp,  trong đó có các cơ quan chức năng của Nhà nước (chủ yếu là cơ quan thuế)   đồng thời nội dung các khoản phải thu cũng có tính chất đa dạng gắn liền   với sự  đa dạng trong các giao dịch phát sinh trong hoạt động của doanh   nghiệp . Đặc biệt nợ phải thu của các đối tượng bên ngoài xảy ra trong các  giao dịch kinh doanh có thể  xảy ra những rủi ro làm chậm hoặc thậm chí 
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2