intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

BÁO CÁO TỐT NGHIỆP: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NGÃI

Chia sẻ: Nguyễn Nhi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:47

187
lượt xem
29
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tham khảo luận văn - đề án 'báo cáo tốt nghiệp: thực trạng và giải pháp phát triển doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn tỉnh quảng ngãi', luận văn - báo cáo phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: BÁO CÁO TỐT NGHIỆP: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NGÃI

  1. TRƯỜNG ………………… KHOA……………………… ----- ----- BÁO CÁO TỐT NGHIỆP Đề tài: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NGÃI
  2. KHOA MÁC – LÊNIN GVHD: TH.S TRẦN ĐÌNH MAI THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NGÃI CHƯƠNG I CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC I. TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN CỦA VIỆC TỒN TẠI CÁC TH ÀNH PHẦN KINH TẾ NÓI CHUNG VÀ KINH TẾ NHÀ NƯỚC NÓI RIÊNG TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ Ở NƯỚC TA : 1. Tính tất yếu khách quan của việc tồn tại thành phần kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế nhiều thành phần. Thành phần kinh tế là khu vực kinh tế, kiểu quan hệ kinh tế dựa trên hình thức sở hữu nhất định về tư liệu sản xuất. Quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật chung cho mọi phương thức sản xuất. Trong nền kinh tế chưa thực sự phát triển cao, lực lượng sản xuất luôn tồn tại ở nhiều trình độ khác nhau; tương ứng với mỗi trình độ của lực lượng sản xuất sẽ có một kiểu quan hệ sản xuất. Do đó, cơ cấu của nền kinh tế, xét về phương diện kinh tế - xã hội phải là cơ cấu nhiều thành phần. Trong thời kỳ quá độ lên CNXH, lực lư ợng sản xuất tồn tại ở nhiều thang bậc khác nhau, do đó ch ế độ sở hữu về tư liệu sản xuất sẽ có nhiều hình thức, tức là nền kinh tế sẽ có nhiều th ành ph ần. Các thành ph ần kinh tế không tồn tại biệt lập với nhau mà có quan hệ hữu cơ với nhau tạo th ành cơ cấu kinh tế. Xét về vị trí, trong nền kinh tế th ị trường định hướng XHCN kinh tế nhà nư ớc giữ vai trò chủ đạo, nắm giữ những lĩmh vực then chốt, là lực lư ợng vật chất quan trọng và là công cụ để nh à nước định h ướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế và góp phần khắc phục những khiếm khuyết của nền kinh tế thị trường. Kinh tế nhà nước bao gồm các DNNN, các quỹ dự trữ quốc gia, các quỹ bảo hiễm nhà nước và các tài sản thuộc sở hữu nhà nước có thể dựa vào vòng chu chuyển kinh tế. Trong đó DNNN là m ột bộ phận quan trọng nhất của kinh tế nh à nước, giữ vị trí then chốt; đi đầu ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, nêu gương về năng xuất ch ất lượng, hiệu quả kinh tế xã hội và ch ấp hành pháp luật. Sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần nói chung và kinh tế nh à nước nói riêng và mặc nhiên tồn tại DNNN trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta là tất yếu khách quan. Thực tiển ở Việt Nam qua những năm đổi mới đã chứng minh, nhờ phát triển nền kinh tế h àng hoá nhiều th ành phần, chúng ta đã b ước đầu khai thác đư ợc tiềm năng trong nước và thu hút đư ợc vốn, kỹ thuật, công n ghệ của nước ngoài, giải phóng được năng lực sản xuất, góp phần vào quyết định việc đảm bảo tăng trưởng kinh tế với
  3. KHOA MÁC – LÊNIN GVHD: TH.S TRẦN ĐÌNH MAI nhịp độ tương đối cao trong thời gian qua. Điều đó cũng nói lên được tính tất yếu khách quan của nền kinh tế h àng hóa nhiều thành phần. 2. Doanh nghiệp nhà nước và vai trò c ủa Doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế quốc dân . a. Khái niệm chung về doanh nghiệp nhà nước: Doanh nghiệp nhà nư ớc là cơ sở kinh tế do Nhà nước sở hữu hoàn toàn hay một phần quyền sở hữu thuộc về Nhà nước, là đặc điểm để phân biệt DNNN với doanh nghiệp tư nhân, còn hoạt động kinh doanh là đặc điểm để phân biệt DNNN với các tổ chức cơ quan khác của Chính phủ.Tuy nhiên, sự xác định giới hạn của DNNN ở mỗi nước trên thế giới khác nhau. Riêng ở Việt Nam nói về DNNN có thể khái quát ra những đặc trưng cơ bản sau đây: Nhà Nước có một tỷ lệ vốn nhất định trong doanh nghiệp nhờ đó có thể gây ảnh hưởng có tính chi phối trực tiếp hoặc gián tiếp với doanh nghiệp, các doanh nghiệp đều tổ chức theo chế độ công ty là một pháp nhân, n guồn thu chủ yếu từ hoạt động kinh doanh, và phải thực hiện song song các mục tiêu sinh lời lẫn mục tiêu xã hội. Ở Việt Nam, DNNN đ ã có một quá trình hình thành và phát triển trên 50 năm và trải qua nhiều thời kỳ đổi mới, ở mỗi thời kỳ nhận thức về DNNN cũng rất khác nhau. Điều này đư ợc thể hiện rõ qua hai thời kỳ: thời kỳ trước đổi mới ( trước Đại hội lần thứ VI ) và từ năm 1986 cho đến nay. Trước thời kỳ đổi mới doanh nghiệp đư ợc nhìn nhận như cơ quan chính phủ hơn là tổ chức kinh doanh. Mục tiêu của DNNN là thực hiện những chỉ tiêu hiện vật chứ không vì mục tiêu lợi nhuận. Từ những năm đổi mới (từ Đại hội Đảng lần thứ VI, năm 1986 đến nay) nền kinh tế n ước ta đang chuyển sang nền kinh tế h àng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ ch ế thị trường có sự quản lý của nh à nước theo định hư ớng XHCN th ì quan niệm DNNN cũng có sự thay đổi. Trước hết thể hiện qua định nghĩa DNNN trong điều lệ xí nghiệp công nghiệp quốc doanh ban h ành kèm theo Ngh ị định 50/ HĐBT ngày 23/8/1998 qui định: “Xí nghiệp công nghiệp quốc doanh là một đơn vị sản xuất hàng hoá có kế hoạch đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng cho xã hội, có tư cách pháp nhân và hạch toán kinh tế độc lập“. Trong quy chế thành lập - giải thể DNNN ban hành kèm theo Ngh ị định 388/HĐBT, ngày 20/11/1991 của Chủ tịch hội đồng Bộ trưởng quy định “DNNN là một tổ chức kinh doanh do nhà nước th ành lập, đầu tư vốn và quản lý với tư cách chủ sở hữu DNNN là một pháp nhân kinh tế, hoạt động theo pháp Luật và bình đ ẳng trước pháp Luật “. Gần đây, tại điều 1 một doanh nghiệp Nhà nư ớc sửa đổi năm 2003 quy định : “ DNNN là tổ chức kinh tế do nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần ,vốn góp chi phối (trên 50% cổ phần ), được tổ chức dưới hình thức công ty nhà nước ,công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn .Hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công
  4. KHOA MÁC – LÊNIN GVHD: TH.S TRẦN ĐÌNH MAI ích nhằm thực hịên các mục tiêu kinh tế xã hội do nhà nước giao. DNNN có tư cách pháp nhân, có các quyền và ngh ĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh doanh trong phạm vi số vốn nhà nước quản lý. DNNN có tên gọi, có dấu riêng và có trụ sở chính trên lãnh thổ Việt Nam ”. Ngày nay trong điều kiện sản xuất hàng hoá với nhiều thành ph ần kinh tế cùng tồn tại, đan xen, trong xu thế hội nhập quốc tế thu hút vốn đầu tư nước ngoài, việc nhận rõ DNNN là một yêu cầu hết sức cần thiết để có cơ chế quản lý thích hợp. Tuỳ theo góc độ xem xét mà DNNN được phân chia thành các lo ại khác nhau, để định ra thể chế quản lý phù hợp của DNNN, hiện nay được phân chia thành hai loại sau: + Loại thứ nhất: DNNN hoạt động kinh doanh, là doanh nghiệp có chức năng hoạt động tìm kiếm lợi nhuận theo cơ chế thị trường, các doanh nghiệp n ày được nh à nước giao quyền và sử dụng vốn có trách nhiệm bảo toàn và phát triển vốn, các doanh nghiệp này thưc hiện hạch toán kinh doanh tự chủ trong kinh doanh, tự chịu trách nhiệm về mặt tài chính và kết quả sản xuất kinh doanh của m ình, ch ịu sự điều chỉnh của pháp luật như các doanh nghiệp của các thành phần kinh tế khác . + Loại thứ hai: DNNN ho ạt động công ích, là doanh nghiệp hoạt động sản xuất, cung cấp dịch vụ công cộng theo chính sách của nhà nước hoặc trực tiếp thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh. Ngoài ra, loại hình DNNN này còn tổ chức hoạt động kinh doanh bổ sung nhưng không làm ảnh hưởng đến việc thực hiện nhiệm vụ chính sách là hoạt động công ích do nhà nước giao. Đồng thời cũng phải chấp hành và ch ịu sự điêù ch ỉnh của pháp Luật như các doanh nghiệp khác, với loại h ình doanh nghiệp này nhà nước ưu tiên đầu tư vốn, miễn thuế (mức thuế thu nhập doanh nghiệp). b.Vai trò của DNNN trong nền kinh tế quốc dân: Trong cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp, chúng ta thấy vai trò của DNNN được nhấn mạnh ở khía cạnh kinh tế chính trị, vì mục tiêu xây dựng quan hệ sở hữu toàn dân trên toàn bộ n ền kinh tế quốc dân hơn là khía cạnh kinh tế vì mục tiêu tăng trưởng. Hiện nay trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường định hưóng XHCN. Hệ thống kinh tế nhà nước bao gồm đất đai và tài nguyên, hệ thống kết cấu hạ tầng, ngân sách nhà nước, ngân hàng nhà nước, hệ thống dự trữ quốc gia, các DNNN và một phần vốn của DNNN góp vào các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Như vậy DNNN là một bộ phận kinh tế nh à nước, hệ thống kinh tế nh à nước có nghĩa rộng như trên mới có vai trò chủ đạo, chi phối và đ ịnh hướng của nền kinh tế. Hệ thống này được lãnh đạo trực tiếp bởi đại diện sở hữu và phát huy sức mạnh đựơc nhân lên b ởi quyền lực chính trị của nhà nước do pháp luật quy định hoàn toàn có khả năng và cần thiết thực hiện vai trò ch ủ đạo định hướng nói trên . Trong hệ thống kinh tế nhà nước, các DNNN là một hệ phân hợp thành hết sức quan trọng, vẫn giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhiều th ành ph ần. DNNN góp phần thực hiện vai trò chủ đạo của nền kinh tế nh à nước trên các m ặt sau: Một là: DNNN đóng vai trò là một công cụ kinh tế, một lực lượng vật chất trong tay nhà nước để nh à nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế theo các chương trình, kế hoạch, chiến lư ợc phát triển kinh tế xã hội.
  5. KHOA MÁC – LÊNIN GVHD: TH.S TRẦN ĐÌNH MAI Nhìn lại chặn đường hình thành và phát triển DNNN của các nền kinh tế trên thế giới cho thấy: sự tồn tại của DNNN tùy thuộc vào sự quy định của chiến lược và chính sách phát triển, cách thức lựa chọn giải pháp, công cụ mỗi nư ớc .Như vậy, vai trò DNNN tăng hay giảm tùy thuộc vào chính sách,chiến lược phát triển trong những giai đo ạn nhất định và còn tùy thuộc vào sự lựa chọn phương thức trực tiếp hay gián tiếp để điều tiết thúc đẩy nền kinh tế . Với nền kinh tế chậm phát triển cũng có ý nghĩa mức độ ,tập trung sản xuất rất thấp, hệ thống kinh doanh nhỏ, phân tán, ít vốn, kỹ thuật công nghệ lạc hậu .Muốn bước khỏi trình trạng trên và hộI nhập vào trào lưu phát triển hiện đại cần phải lựa chọn chiến lược và nh ững giảI pháp cho sự tăng trưởng mang tính chất tăng tốc và lâu bền . Để thực hiện chiến lược trên nhà nước tất yếu phải lựa chọn giải pháp để phát triển DNNN. Ở đây việc lựa chọn này không ph ảI mang tính chủ quan, mà có sự quy định của bản thân nền kinh tế và b ản thân của chế độ chính trị, vì DNNN có nh ững ưu thế tuyệt đối ở thời k ỳ quá độ của sự phát triển, các ưu th ế của DNNN thể hiện ở chỗ có khả năng tiếp nhận chuyển giao công nghệ mới tiên tiến, và có cơ hội hội nhập với nền kinh tế thế giới, những ưu thế này khiến cho DNNN trở thành một yếu tố quyết định cho chiến lược phát triển rút ngắn, tăng tốc. Vì vậy DNNN giữ vai trò then chốt là ‘’bánh lái’’ của nền kinh tế. DNNN là cầu nối, định hư ớng công nghệ và xu hướng phát triển cho các doanh nghiệp thuộc các th ành phần kinh tế khác. Trong giai đoạn hiện nay vị trí, vai trò chủ đạo của DNNN chỉ là tương đối với vị trí và vai trò của các thành phần kinh tế mà thôi, không có sự tồn tại và phát triển các thành phần kinh tế khác th ì ch ẳng có vai trò chủ đạo của DNNN phải thể hiện qua sự phân công và phối hợp một cách hợp lý giữa chức n ăng của khu vực DNNN vớI chức năng doanh nghiệp thuộc các thành ph ần kinh tế khác. Có thể nói rằng DNNN trong việc đầu tư vào những ngành quyết định cho sự phát triển d ài h ạn và hiệu quả sử dụng của nền kinh tế làm cho nó có vai trò. Đặc biệt là vai trò giá đỡ của nền kinh tế. Đây là vai trò lâu b ền của khu vực DNNN ngay cả khi doanh nghiệp tư nhân đã trưởng thành. Khi DNNN thu hẹp lại thì vao trò trong việc cung cấp hàng hoá dịch vụ công cộng, khắc phục khuyết tật thị trường và vai trò làm giá đỡ cho nền kinh tế vẫn được duy trì. Hai là: Vai trò chủ đạo của DNNN phải đư ợc thể hiện không ngừng nâng cao hiệu quả và kh ả năng điều tiết trong nền kinh tế thị trường. Lợi nhuận là mục tiêu cơ b ản, thậm chí là mục tiêu duy nhất của doanh nghiệp tư nhận, do đó không có lợi nhuận thì đối với họ kinh doanh là mục tiêu vô ngh ĩa và đượng nhiên h ọ không đầu tư. Còn DNNN lại khác, lợi nhuận không phải là mục tiêu duy nh ất và thậm chí cũng không phải là mục tiêu chủ yếu. Tuy nhiên nó đóng vai trò động lực để xem xét đến lợi ích chính trị, xã hội, kinh tế của đất nước. Vì thế, hiệu quả của DNNN có thể là hiệu quả tổng hợp kinh tế, chính trị và hiệu quả xã hội. Do đó, trong nhiều trường hợp các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công ích phải đặt mục đích lợi nhuận xuống hàng thứ yếu. Tuy nhiên, nếu xét trên tổng thể toàn bộ khu vực DNNN đều không có lợi nhuận hoặc lợi nhuận thấp th ì tất yếu phải dựa vào sự hỗ trợ của Nh à nước hay tiền thuế của doanh nghiệp tư nh ận đóng
  6. KHOA MÁC – LÊNIN GVHD: TH.S TRẦN ĐÌNH MAI để tồn tại. Điều này sẽ làm cho DNNN m ất sức cạnh tranh thiếu sức sống, trở thành gánh n ặng cho cả Nhà nước và xã hội, vì th ế vai trò chủ đạo của nó khó có thể thực hiện được một cách có hiệu quả. Ba là: Vai trò của DNNN có tính quy định lịch sử cụ thể, n ên vai trò chủ đạo của DNNN phải thay đổi linh hoạt tu ỳ thuộc vào trình độ phát triển của nền kinh tế. Sở dĩ trong thời kỳ quá độ, DNNN đóng vai trò chủ đạo, vì sự phát triển của nó tạo đòn bẩy kinh tế mạnh mẽ cho bước chuyển nền kinh tế chậm phát triển sang phát triển được rút ngắn. Đồng thời nó cũng là công cụ phân bổ hữu hiệu các nguồn lực trong nền kinh tế, khi mà các quan hệ vĩ mô của nền kinh tế thị trường chưa phát triển. Ở thời kỳ này vai trò DNNN gắn với sự phát triển và tăng trư ởng kinh tế của đất nước. Với nền kinh tế phát triển Nh à nước tạo điều kiện cho khu vực doanh nghiệp tư nhân phát triển và tham gia vào các khu vực kinh tế mà trước đây chỉ do DNNN đảm nhận. Như vậy trong tương lại khu vực DNNN có xu hướng giảm dần tỷ trọng trong nền kinh tế phát triển. Tuy nhiên, trong điều kiện xây dựng n ền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta, để đảm bảo sự lãnh đ ạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nư ớc đốI với nền kinh tế thị DNNN vẫn phải giữ một tỷ trọng nhất định, đủ mạnh để chi phối, định hướng các th ành ph ần kinh tế khác theo quỹ đạo của CNXH, vai trò định hướng của DNNN trong việc mở đường ở các ngành mũi nhọn cũng phải thay đổi linh hoạt theo các giai đoạn phát triển, đồng thời tăng cường các công cụ quản lý gián tiếp để điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Bốn là: DNNN có vai trò quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu chính trị - kinh tế - xã hộI theo định hướng XHCN do Đảng và Nhà nước đề ra. Trong việc thúc đẩy phát triển nền kinh tế theo định hướng XHCN và thực hiện những mục tiêu kinh tế - xã hội do Đảng và Nhà nước ta đề ra, thì DNNN là một bộ phận kinh tế nền tảng và là công cụ trực tiếp chi phối cho các thành phần kinh tế khác thực hiện chính sách theo hướng XHCN. Trong quan hệ với công tác an ninh quốc phòng, các DNNN có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc tăng cường quốc phòng ở các vùng chiến lược. Trong việc kết hợp phát triển kinh tế với quốc phòng, thì các DNNN có vai trò quan trọng trong việc cung cấp những hàng hoá, dịch vụ cho các hoạt động quốc phòng mà trong điều kiện tư nhân không được phép làm như: sản xuất vũ khí, thuốc nổ, bưu chính viễn thông. Năm là: DNNN có vai trò quan trọng trong việc khắc phục những khuyết tật do cơ ch ế thị trường tạo ra, đầu tư vào các lĩnh vực cần thiết cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Đó là lĩnh vực kinh doanh lãi ít, nhiều rủi ro, thu hồi vốn ch ậm, nhưng sự tồn tại phát triển của chúng quyết định đến sự phát triển chung của nền sản xuất xã hội, sản xuất đồ dùng cho người tàn tật, các hoạt động nghiên cứu cơ b ản… Như vậy, trong khi chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều th ành phần vận động theo cơ ch ế thị trường m à coi nhẹ DNNN hoặc tư nhân hoá tất cả các tư liệu sản xuất là sai lầm. Song, duy trì DNNN tràn lan, hoạt động không hiệu quả, hạn chế sự phát triển kinh tế, làm lãng phí tài sản của Nhà nước thì thực chất là h ạ thấp vai trò của
  7. KHOA MÁC – LÊNIN GVHD: TH.S TRẦN ĐÌNH MAI DNNN. Vai trò chủ đạo của hệ thống kinh tế Nhà nước nói chung và DNNN nói riêng gắn liền với vai trò qu ản lý của Nh à nước đối với nền kinh tế theo định hướng XHCN phục vụ cho sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta. Nó khác với vai trò, qui mô, bản ch ất của DNNN ở các n ước tư bản chủ nghĩa. II/ MỘT SỐ QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MAC-LÊNIN VÀ ĐẢNG TA VỀ KINH TẾ NHÀ NƯỚC NÓI CHUNG VÀ DNNN NÓI RIÊNG VÀ M ỘT SỐ KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƠI: 1. Một số quan điểm của Chủ Nghĩa Mác-Lênin và Đảng ta về kinh tế Nhà nước nói chung, DNNN nói riêng. a. Một số quan điểm của Chủ Nghĩa Mác-Lênin. Trong nền kinh tế chưa thực sự phát triển cao, lực lượng sản xuất luôn tồn tại ở nhiều trình độ khác nhau; tương ứng với mỗi trình độ của lực lượng sản xuất sẽ có một kiểu quan hệ sản xuất. Do đó cơ cấu của nền kinh tế xét về phương diện kinh tế xã hội phải là cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, sự tồn tại cơ cấu kinh tế nhiều thành phần không ch ỉ là một tất yếu khách quan mà còn có vai trò to lớn đối với đời sống kinh tế xã hội, trong đó th ành ph ần kinh tế Nhà nước giữ vị trí chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, là nhân tố mở đường cho sự phát triển kinh tế, là lực lượng vật chất quan trọng và công cụ để Nh à nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Trong đó các DNNN, bộ phận quan trọng nhất của kinh tế, giữ những vị trí then chốt; phải đi đầu trong việc ứng dụng tiến bộ khoa học và công ngh ệ, n êu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế - xã hội và chấp h ành pháp luật trong chính sách kinh tế mới, Lênin có nói rằng “Cần củng cố lại DNNN…”, Lênin đã ch ỉ ra h ình thức phân phối theo lao động trong DNNN là tiền lương. Trong kế hoạch xây dựng CNXH của V.I.Lênin có các nội dung sau: Một là, Nền kinh tế dựa trên chế độ công hữu XHCN về tư liệu sản xuất. Hai là, quốc hứu hóa XHCN nhằm thủ tiêu sở hữu tư nhân của giai cấp bóc lột về tư liệu sản xuất chủ yếu, chuyển nó thành sở hữu toàn dân. Ba là, h ợp tác hóa để chuyển những người lao động cá thể th ành người lao động tập thể. Mặc khác, theo V.I. Lênin chủ nghĩa tư b ản Nh à nước là hình thức kinh tế cao hơn so với “Sản xuất nhỏ’’. Việc sử dụng chủ nghĩa tư bản Nhà nước là cần thiết để phát triển lực lượng sản xuất, nó như nh ững ‘’Cầu nối’’, ‘’Trạm trung gian’’ cần thiết để đưa đ ất nước từ sản xuất nhỏ lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. b. Một số quan điểm của Đảng ta. Vận dụng tư tưởng của Lênin về sự tồn tại tất yếu của các th ành ph ần kinh tế trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH. Đảng ta đã xác đ ịnh ở nước ta hiện nay còn tồn tạI nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế Nh à nước là một bộ phận cấu thành cơ bản, đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân và giữ chức năng là một công cụ quản lý vĩ mô của Nh à nước ta. Các DNNN, một bộ phận quan trọng nhất của kinh tế Nhà nước, giữ những vị trí then chốt phải đi đầu trong việc ứng dụng tiến bộ khoa học và công ngh ệ, nêu
  8. KHOA MÁC – LÊNIN GVHD: TH.S TRẦN ĐÌNH MAI gương về năng suất, chất lư ợng, hiệu quả kinh tế - xã h ội và chấp hành pháp lu ật. Nắm giữ các ngành, các lĩnh vực kinh tế liên quan đến an ninh quốc phòng, chính sách xã hội và các ngành mũi nhọn, trọng yếu nhất của nền kinh tế. Sự có mặt của các DNNN trong các ngành, các lĩnh vực quan trọng có tác dụng điều chỉnh sự cân bằng của nền kinh tế, duy trì ổn định chính trị - xã hội. Khu vực DNNN phải giữ vai trò đòn bẩy, giá đỡ trong nền kinh tế thị trường nhiều thành phần DNNN là công cụ Nhà nước huy động tập trung vốn vào những lĩnh vực mang tính chiến lược của nền kinh tế thực hiện việc chuyển giao công nghệ, tiếp nhận công nghệ hiện đại, tiếp cận nghệ thuật quản lý tiên tiến trên thế giới, tạo cơ sở kinh tế cho các ngành kinh tế khác phát triển. Khu vực DNNN phải đi đầu trong quá trình công nghệp hoá, hiện đại hoá theo hướng mở cửa, hội nhập vào n ền kinh tế thế giới. Vai trò của DNNN phải thay đổi linh hoạt tuỳ thuộc vào từng giai đoạn mà Nhà nước trao cho sứ mệnh phải gánh vác.  Một số quan điểm về DNNN trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Tỉnh Quảng Ngãi: Chủ động đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế Nhà nước. Tiếp tục sắp xếp lại DNNN theo loại hình DNNN làm nhiệm vụ kinh doanh và DNNN làm nhiệm vụ công ích. tiếp tục hoàn thiện tổ chức, quản lý DNNN như: sắp xếp, sáp nhập, giải thể hoặc phá sản doanh nghiệp. Tổ chức các doanh nghiệp phù hợp với quy hoạch ngành, lãnh thổ vào những ngành cần thiết cho sự phát triển có hiệu quả và bền vững của to àn bộ nền kinh tế quốc dân như: kết cấu hạ tầng, tài chính, ngân hàng, an ninh quốc phòng và những DNNN trong một số ngành sản xuất dịch vụ cần thiết trong nền kinh tế. Thông qua đó mà Nhà nước có thể điều tiết, hỗ trợ các DNNN và các thành phần kinh tế khác. Tiếp tục đổi mới công n ghệ, kỹ thuật, tổ chức và quản lý doanh nghiệp theo yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đó là cơ sở và điều kiện để DNNN duy trì vai trò chủ đạo của mình. Trong điều kiện ngày nay sự quản lý của Nhà nước XHCN nhằm sửa chữa ”những thất bại của thị trườn g’’, thực hiện các mục tiêu xã h ội, nhân đạo m à bản thân cơ chế thị trường không thể làm được, đảm bảo cho nền kinh tế thị trường phát triển theo đ ịnh hướng XHCN (b àn tay vô hình của Nhà nước). Vai trò quản lý của nhà nước XHCN là hết sức quan trọng. Nó đảm bảo cho nền kinh tế tăng trư ởng ổn định, đạt hiệu quả cao, đặc biệt là đảm bảo công bằng xã hội. 2. Một số kinh nghiệp của một số nơi. a . Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới. (1) :  Ở Malaixia Malaixia là một nước đang phát triển. Vào năm 1957, sau khi giành được độc lập, Malaixia đ ã có 23 DNNN trong các ngành dịch vụ công cộng, giao thông, thông tin liên lạc, nông nghiệp và tài chính. Vào cuối những năm 60, Chính phủ Malaixia ban hành ‘’Chính sách kinh tế mới’’. Nội dung của chính sách này là tăng cường sự can thiệp của Chính phủ vào phát triển kinh tế, với chính sách kinh tế mới Malaixia đã phát triển mạnh khu vực DNNN trong ngành thương m ại và công nghiệp. Mục tiêu mở rộng DNNN trong những năm 60 chủ yếu nhằm phát triển kinh tế vùng.
  9. KHOA MÁC – LÊNIN GVHD: TH.S TRẦN ĐÌNH MAI Trong kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1966-1970) chi tiêu của Chính phủ dành cho DNNN là 1,4 tỷ đô la, chiếm 32% to àn bộ chi tiêu công cộng. Trong kế hoạch 5 năm lần thứ 2 (1971-1975) con số này là 3,9 và 40%. Xu hướng mở rộng phát triển DNNN tiếp tục duy trì, trong kế ho ạch 5 năm lần thứ 3 (1976 -1980) chi tiêu cho DNNN là 12 tỷ đô la và chiếm 48% chi tiêu công cộng. Các DNNN được th ành lập nhiều trong ngành công nghiệp nặng; trong kế hoạch 5 năm lần thứ 4 (1981 – 1985) con số này tăng lên là 30 tỷ và 50%. Trong kế hoạch 5 năm lần thứ 5 (1986 – 1990) các DNNN được nh à nước kế hoạch hóa và quản lý chi tiêu gọi là các DNNN phi tài chính. Các DNNN phi tài chính với cổ phần của Nhà nước chiếm h ơn 50% và doanh thu hơn 5 tỷ được liệt vào ho ạt động của khu vực công cộng. Vào năm 1986, các DNNN phi tài chính đóng góp 24% GDP, trong đó tất cả các DNNN đóng góp 30%. Nếu không tính nông nghiệp, DNNN đóng góp 40% GDP. Ở Malaixia DNNN có 3 loại, được phân theo cách phân loại của Liên Hiệp Quốc, tức là: 1) Doanh nghiệp h ành chính sự nghiệp; 2) Doanh nghiệp công cộng; 3) Doanh nghiệp sở hữu Nhà nước. Hiệu quả hoạt động của các DNNN ở Malaixia, đặc biệt là của DNNN phi tài chính và DNNN hoạt động vì mục đích xã hội rất kém, tỷ lệ các DNNN hoạt động thua lỗ cao, trong ngành dịch vụ và ngành công nghiệp, DNNN hoạt động không có hiệu quả bằng các ngành khác. Đến năm 1988, tình hình họat động của các DNNN cũng không thay đổi. Trong tổng số 770 DNNN được điều tra về lãi và lỗ, chỉ có 387 doanh nghiệp hoạt động có lãi với tổng lợi nhuận là 4,868 t ỷ đôla và 383 doanh nghiệp làm ăn thua lỗ 5.610 đôla. Phần lớn doanh nghiệp bị thua lỗ là doanh nghiệp có quy mô lớn và ở trong công nghiệp nặng. Nguyên nhân hoạt động kém hiệu quả của DNNN ở Malaixia là yếu kém trong quản lý, kiểm soát và kế hoạch của Chính phủ, những mục tiêu trái ngựơc nhau của các DNNN, thiếu sự linh hoạt trong môi trư ờng kinh tế. Malaixia đang tiến hành cải cách trong công tác kế hoạch hoá, bỏ những cản trở về nguồn nhân lực, giảm can thiệp Chính phủ, cải thiện môi trư ờng hoạt động kinh doanh. Gần đây hệ thống khuyến kích theo cơ chế thị trường đ ược áp dụng trong việc lập chính sách cho các DNNN. *Ở Trung Quốc (2): Giống như các nước XHCN khác, tỷ trọng của khu vực DNNN trong nền kinh tế quốc dân ở Trung Quốc rất cao. DNNN giữ vị trí chủ đạo, hoạt động của DNNN theo cơ ch ế tập trung quan liêu tỏ ra rất kém hiệu quả. Trung Quốc đã tiến hành cảI cách khu vực DNNN vào cuối những năm 70. Từ năm 1978 đến nay, cuộc cải cách các DNNN ở Trung Quốc có thể chia thành 3 giai đoạn: Giai đoạn thứ nhất (từ năm 1978 đến 1984) là giai đoạn Trung Quốc tập trung vào thay đổi cơ ch ế tập trung quan liêu bao cấp. Nội dung chính của cải cách trong giai đoạn n ày là trao quyền tự do cho các DNNN. Cải cách này đã biến doanh nghiệp từ một tổ chức h ành chính của Chính phủ th ành một đ ơn vị sản xuất kinh doanh h àng hoá
  10. KHOA MÁC – LÊNIN GVHD: TH.S TRẦN ĐÌNH MAI và dịch vụ. Tuy nhiên việc mở rộng quyền tự chủ của các DNNN không mang lại kết quả gì về mặt thu nhập tài chính cho Nhà nước, thu nhập tài chính của Nhà nước trong vòng 4 năm gần như không tăng. Giai đoạn thứ hai (từ năm 1984 đến 1991) là giai đo ạn cải cách toàn diện DNNN. Nội dung chính của cải cách trong giai đoạn này là giao quyền tự chủ về tài chính cho DNNN. Năm 1986, Trung Quốc bắt đầu thực hiện chế độ khoán doanh nghiệp. đến năm 1988 những doanh nghiệp nhận thầu chiếm 78% tổng số doanh nghiệp trong n ước và chiếm 96% số doanh nghiệp ở Bắc Kinh, Việc thực hiện chế độ khoán có tác dụng kích thích tính tích cực sản xuất kinh doanh trong các DNNN, làm cho sản xuất tăng trưởng nhanh. Tuy nhiên sau một thời gian cải cách, thuế nộp cho Nhà nước không tăng nếu tính cả yếu tố lạm phát. Một điểm quan trọng của việc thực hiện chế độ khoán là doanh nghiệp xem nhẹ đầu tư phát triển dài hạn, DNNN luôn có xu hướng d ùng lợi nhuận cho tiêu dùng trong thời gian hiện tại. Chế độ khoán đã bộc lộ những hạn chế cần được điều chỉnh. Giai đoạn thứ ba từ năm 1992 đến nay là giai đo ạn xây dựng cơ chế kinh tế thị trường, xây dựng quy chế xí nghiệp hiện đại phù hợp với nhu cầu của cơ chế kinh tế thị trường XHCN, tạo môi trường cho DNNN trở thành một tổ chức pháp nhân độc lập và một đối tượng cạnh tranh trên th ị trường trong và ngoài nước. Trong giai đoạn này Trung Quốc đã tiến hành cổ phần hoá hàng lọat các DNNN. Đến cuối năm 1993, số DNNN tiến hành cổ phần hóa là 3.800. Sau gần 20 năm cải tổ, DNNN ở Trung Quốc giảm đáng kể về số lượng và tỷ trọng trong GDP. Tuy nhiên hiệu quả hoạt động của DNNN vẫn là một vấn đề đáng lo ngại. Năm, 1994, Trung quốc có tới 45,9% DNNN làm ăn thua lỗ với tổng số tiền lỗ là 34,4 tỷ nhân dân tệ (NDT). Việc cải cách các DNNN ở Trung Quốc vẫn còn là vấn đề đang nổi cộm, Nh ững vẫn đề đặt ra đối với việc cải tổ khu vực DNNN cũng là những vấn đề cần phải nghiên cứu và giải quyết ở Việt Nam. b. Kinh nghiệm của một số địa phương trong nước: * Ở ĐăkLăk (3): DNNN tỉnh ĐăkLăk những năm vừa qua đã có những biến đổi đáng kể, tính đến nay có 111 DNNN thuộc tỉnh quản lý. Tình hình hoạt động thích ứng đư ợc với cơ ch ế thị trường, tuy nhiên vẫn còn một số hoạt động kém hiệu quả, bị thua lỗ trong sản xuất kinh doanh, nhìn chung chưa có tính ổn định. Qua đó cho thấy: cơ ch ế bao cấp đ ã ảnh hư ởng không nhỏ tới hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp, trong khi đó bộ máy chỉ đạo của các doanh nghiệp cồng kềnh, chi phí quản lý quá lớn, cơ cấu chủng loại sản phẩm còn nghèo nàn, sản phẩm xuất khẩu chủ yếu là cà phê, cao su, gỗ… Để DNNN giữ được vị trí chủ đạo thực sự, Nh à nước cần phải củng cố để có được sự phát triển đúng hướng, phục vụ tốt cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Tỉnh trong những năm tới. Việc triển khai sắp xếp doanh nghiệp theo chỉ thị 500/TTg của Thủ tướng Chính phủ đ ã thực hiện được công tác quy hoạch tổng thể, sắp xếp lại doanh nghiệp theo ngành kinh tế kỹ thuật gắn với lãnh th ổ phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh và sự kiểm tra giám sát của các cơ quan chức năng Nhà nước về mô hình tổ chức sản xuất kinh doanh ở từng doanh nghiệp rất đa
  11. KHOA MÁC – LÊNIN GVHD: TH.S TRẦN ĐÌNH MAI dạng. Do vậy đã làm cho quá trình sản xuất, lưu thông hàng hoá được mở rộng, đồng thời doanh nghiệp được tự chủ và ch ịu trách nhiệm về kinh tế hoặc sản xuất kinh doanh của mình, đầu tư mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh thông qua các hình thức liên doanh, liên kết với các thành phần kinh tế khác, cung ứng các dịch vụ về kinh tế kỹ thuật, thu mua sản phẩm, góp phần tạo ra bước phát triển ổn định cho n ền kinh tế của tỉnh. Sau khi thực hiện phương án sắp xếp DNNN của tỉnh hiện nay toàn tỉnh gồm có 122 doanh nghiệp. Như vậy có thể nói sự tồn tại của DNNN là một tất yếu khách quan, DNNN được sử dụng như một công cụ điều tiết của Chính phủ, vừa làm chức năng chính trị và xã hội, vừa đảm bảo cho nền kinh tế ngày càng tăng trưởng, xã h ội phát triển công bằng và ổn định. DNNN góp phần thực hiện vai trò chủ đạo của nền kinh tế Nh à nước.
  12. KHOA MÁC – LÊNIN GVHD: TH.S TRẦN ĐÌNH MAI Chương II THỰC TRẠNG DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NGÃI I. THỰC TRẠNG CHUNG CỦA DOANH NGHIỆP NH À NƯỚC TRONG CẢ NƯỚC. Hơn 10 năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện nhiều chủ trương và giải pháp tích cực nhằm sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả hệ thống DNNN. Đến nay đã giải thể 3.450 doanh nghiệp (chiếm trên 50% tổng số doanh nghiệp) chủ yếu là doanh nghiệp địa phương quá nhỏ bé, làm ăn thua lỗ triền miên, sáp nhập 3.100 doanh nghiệp, chủ yếu là doanh nghiệp Trung ương thành những doanh nghiệp có quy mô lớn hơn; đã tổ chức lại các Liên Hiệp xí nghiệp thành tổng Công ty 91 và 77 Công ty 90. Xây dựng thí điểm một số tập đo àn kinh tế mạnh của Nh à nước trên cơ sở các tổng Công ty 91, cổ phần hoá 1.012 DNNN và đa dạng hoá sở hữu (giao, bán, khoán, cho thuê) 65 DNNN. Nh ờ sẵp xếp lại đã nâng được một bước trình đ ộ tập trung hoá và chuyên môn hoá doanh nghiệp. Số vốn bình quân mỗi DNNN tăng từ 3,3 tỷ đồng lên tớI 22,4 tỷ đồng. Số doanh nghiệp vốn dưới 1 tỷ đồng đ ã giảm từ 50% xuống còn 26%, số doanh nghiệp có vốn trên 10 tỷ đồng tăng từ 10% lên 20% DNNN đ ã tập trung h ơn vào những ngành, những lình vực then chốt của nền kinh tế quốc dân. tỷ trọng sản phẩm do các DNNN tạo ra trong GDP tăng từ 35,6% năm 1991 lên 40,7% năm 1999. Cùng thời kỳ n ày, t ỷ lệ nộp ngân sách tăng từ 14,7% lên 27,9%, tỷ suất lợi nhuận trên vốn nhà nước tăng từ 6,8% lên 12,31%. Năm 2000 các DNNN tạo ra 40,2% GDP, trên 50% giá trị xuất khẩu đóng góp 39,25% tổng nôp ngân sách Nhà nước. Các tổng Công ty Nhà nư ớc có tới 1.392 doanh nghiệp th ành viên hạch toán độc lập, chiếm 24% tổng số DNNN, nắm giữ 66% về vốn, 61% về lao động trong toàn khối DNNN. Trong đó, riêng 17 tổng Công ty 91 có 532 doanh nghiệp thành viên hạch toán độc lập bằng 9% số DNNN, chiếm 56% tổng số vốn. Tuy nhiên, nhìn một cách tổng thể, so vớI yêu cầu trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá hệ thống DNNN còn nhiều yếu kém và b ất cập. Quy mô doanh nghiệp còn nhỏ bé dàn trải trên hầu hết các ngành, nghề và địa phương phân tán về vốn, trong khi vốn Nhà nước rất hạn chế. Tính đến nay, trong số 5.655 DNNN, kể cả hàng trăm DNNN m ới đã thành lập trong những năm gần đây, số doanh nghiệp vốn dưới 5 tỷ đồng chiếm tới 65,4%, số doanh nghiệp vốn trên 10 tỷ đồng chiếm 20,89%, ở các địa phương hơn 30% số doanh nghiệp có vốn dư ới 1 tỷ đồng. Tình trạng phổ biến là các doanh nghiệp thiếu vốn nghiêm trọng. Trình độ kỹ thuật, công nghệ các doanh nghiệp còn lạc hậu. Ngoài một số ít doanh nghiệp đ ược trang bị kỹ thuật hiện đại hoặc trung bình, đại bộ phận doanh nghiệp máy móc thiết bị, dây chuyền sản xuất còn lạc hậu so với thế giới từ 10 – 20 năm, các ngành như ngành cơ khí tới 30 năm, thậm chí có 38% số này ở dạng thanh lý. Do tình trạng máy móc như vậy n ên chưa tạo đư ợc nhiều sản phẩm mũi nhọn cho quốc gia, kh ả năng cạnh tranh thấp. Một số mặt hàng trong nước như sắt, thép, phân bón, xi
  13. KHOA MÁC – LÊNIN GVHD: TH.S TRẦN ĐÌNH MAI măng, … có mức giá cáo hơn mặt hàng cùng loại nhập khẩu từ 20-40%, cá biệt mặt hàng đường thô cao hơn tới 70-80%. Ch ỉ khoảng 15% sản phẩm đạt chất lượng xuất khẩu. Tình hình này đang là một thử thách rất lớn đối với các doanh nghiệp nước ta trong bối cảnh to àn cầu hoá mạnh về kinh tế. Một tình trạng khá phổ biến là số lao động dôi dư trong các doanh nghiệp khá lớn, ước tính tổng số lao động không có việc làm ở các DNNN tới khoảng 10 vạn người có tên trong danh sách nhưng đang nghĩ chờ việc hoặc tự bỏ, tự tìm việc ở nơi khác. Công nợ tại các doanh nghiệp quá lớn, theo số liệu kiểm kê năm 2000, tổng số nợ phải trả của DNNN tới 194.841 tỷ đồng, bằng 15,23% tổng số vốn nhà nước trong các DNNN, trong đó nợ quá hạn là 10.716 tỷ đồng, nợ khó đòi là: 2.748 tỷ đ ồng. Mặc dù ngân sách nhà nước luôn thiếu hụt, song nhà nước đã ph ải d ành ra một khoảng vốn lớn hổ trợ cho các doanh nghiệp thông qua nhiều hình thức như đ ầu tư trực tiếp, cấp bổ sung vốn lưu động, bù lổ, miễn trả thuế, xoá nợ, khoanh nợ, giảm nợ giảm thu ế khấu hao, cho vây vốn tín dụng ưu đãi …trong 10 năm lại đây tới gần 127.000 tỷ đồng. Thực hiện chủ trương đa dạng sở hữu một số DNNN không cần thiết 100% vốn nhà nước còn chậm. Đến nay cả n ước mới chỉ cổ phần hoá được 1.012 doanh nghiệp, giao, bán, khoán hoăc cho thuê còn khá nhiều. II. TH ỰC TRẠNG CỦA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NGÃI . 1. Tổng quan về tình hình kinh kế - xã hội tỉnh Quảng Ngãi a. Vị trí địa lý: Qu ảng Ngãi là tỉnh ven biển, nằm trong vùng kinh tế trọng điểm của miền trung (Thừa Thiên Huế - Đà Nẳng - Quảng Nam-Quảng Ngãi) .Diện tích tự nhiên toàn tỉnh 5.135,2 km2 d ân số trung b ình n ăm 2003 là 1245,8 nghìn ngư ờI, chiếm 1,76% diện tích và 1,6% dân số của cả nước. Về hành chính, Qu ảng Ngãi hiện tại có một thị xã, 6 huyện miền núi, 6 huyện đồng bằng ven biển, 1 huyện đảo ( Lý Sơn). Qu ảng Ngãi có đường bờ biển d ài 129 km, ngoài khơi có đ ảo Lý Sơn và một số đảo nhỏ khác, phía bắc giáp tỉnh Quảng Nam, phía nam giáp tỉnh Bình Định, phía tây giáp tỉnh Kontum và Gia Lai, phía đông giáp biển . Ở trung độ đất nước, Quảng Ngãi nằm giữa hai thành phố Đà Nẵng ở phía Bắc, Quy Nhơn ở phía Nam, Quảng Ngãi có đường quốc lộ 1A và đường sắt thống nhất ch ạy qua tỉnh; quốc lộ 24A nối Quảng Ngãi với Kontum và Hạ Lào, đây là một tuyến giao thông quan trong đối với Kontum và Quảng Ngãi trong quan hệ kinh tế, văn hoá giữa Duyên Hải và Tây Nguyên. Trong tương lai sân bay Chu Lai được xây dựng sẽ là điều kiện thuận lợi cho Quảng Ngãi giao lưu hàng hoá, phát triển kinh tế xã hội gắn với an ninh quốc phòng. Phía bắc tỉnh, tại huyện Bình Sơn đã và đang h ình thành khu kinh tế tổng hợp Dung Qu ất, trong khu này có cảng nư ớc sâu Dung Quất khu công nghiệp lọc hoá dầu
  14. KHOA MÁC – LÊNIN GVHD: TH.S TRẦN ĐÌNH MAI và các khu công nghiệp khác, khu đô thị mới Vạn Tưòng, đây sẽ là khu kinh tế lớn của đất nư ớc ở Miền Trung. b. Khí hậu: Năm trong vùng khí hậu nhiệt đới điển hình, nên nhiệt độ cao và ít biến động. Chế độ ánh sáng, mưa ẩm phong phú nhiệt độ trung bình năm trên 250c. Bình quân 4 năm có một cơn bão ho ặc ấp thấp nhiệt đới ảnh hưởng trực tiếp đến Quảng Ngãi, thường gây nên lũ lụt. Tổng lượng bức xạ trong năm lớn tới 1400-1500Kcal/năm; số giờ nắng kho ãng 2000giờ/năm. Khí hậu Quảng Ngãi với lư ợng bức xạ lớn thuận lợi về ph ơi sấy, sử dụng năng lượng mặt trời trong công nghiệp chế biến Nông Lâm Sản làm muối sản xuất điện năng. Tuy nhiên do địa hình dốc, mưa tập trung theo mùa vào tháng 9,10,11 và 12 hàng năm nên thường xuyên bị lũ lụt làm ảnh hưởng sản xuất, thiệt hại về ngư ời và vật ch ất cho nhân dân trong vùng. c. Khái quát về kinh tế -xã hội: Trải qua một thập kỷ, từ một tỉnh nền kinh tế có điểm xuất phát thấp, chúng ta đã cố gắn phát triển một cách to àn diện, cơ sở vật chất kỹ thuật kinh tế và xã hội được tăng cường đời sống nhân dân từng bước được cải thiện số hộ đói nghèo giảm đáng kể. Nền kinh tế từng b ước được ổn định và phát triển đạt được tốc độ tăng trưởng khá so với mức bình quân chung cả nước. Đặc biệt từ năm 2002 trở lại đây tốc độ phát triển kinh tế tăng ở “ 2 con số “. (Năm 2002: 10,6 %; năm 2003 : 10,3%; ước thực hiện năm 2004 : 11- 11,5 % ). Năm 2003 tổng thu ngân sách trên đ ịa b àn tỉnh đạt 420.000 triệu đồng. GDP bình quân đ ầu người tăng năm 2002 là 2,628 triệu đồng (192 USD), năm 2003 là 3,562 triệu đồng (230 USD), ước thực hiện 2004 khoảng 3,838 triệu đồng (246 USD) thể hiện bằng bản như sau: Chỉ tiêu 2002 2003 Đơn vị Ước 2004 -Tốc độ phát triển kinh tế ( GDP ) % 10,6 10,3 11 – 11,5 -GDP bình quân đ ầu người Tr.đồng 2,628 3,562 3,838 (Nguồn: Sở Kế Hoạch và Đầu Tư Quảng Ngãi ) Cùng với sự tăng trưởng là sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng ngày càng giảm tỷ trọng ngành nông - lâm - n gư nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp – xây dựng và dịch vụ, cụ thể: Đơn vị tính: % Chỉ tiêu 2001 2002 2003 -Tổng sản phẩmGDP: 100 100 100 +Nông-Lâm-Ngư nghiệp 38,80 38,66 36,70 +Công nghiệp-xây dựng 22,20 23,43 24,60 +Dịch vụ 39,00 37,91 38,70 (Nguồn: Sở Kế Hoạch và Đầu Tư Quảng Ngãi )
  15. KHOA MÁC – LÊNIN GVHD: TH.S TRẦN ĐÌNH MAI Tuy nhiên tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm, tỷ trọng nông-Lâm-Ngư nghiệp còn cao, tỷ trọng công nghiệp –xây dựng còn ở mức thấp. Kết cấu hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội ngày càng được hoàn thiện, hằng năm tạo việc làm và thêm việc làm mới cho khoảng 29-30 ngàn lao động, đời sống nhân dân từng bước được cải thiện, giảm tỷ lệ hộ đói nghèo 23,7% (miền núi 50,1%) năm 2001 xuống còn 14,8% (miền núi 41%) năm 2003, tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Mặc dù tốc độ tăng trương kinh tế của tỉnh hằng năm tăng cao hơn so với tốc độ tăng trương kinh tế của cả nước và một số tỉnh trong vùng Duyên Hải Trung Trung Bộ cũng như vung kinh tế trọng điểm miền Trung nhưng do điểm xuất phát của nền kinh tế tỉnh còn thấp nên GDP bình quân đầu người qua các năm xấp xỉ một số tỉnh điều kiện tương tự như: Qu ảng Nam, Quảng Trị, Phú Yên và chỉ bằng 47,2% so với b ình quân cả nước. Bên cạnh đó, việc triển khai xây dựng nhà máy lọc dầu số 1 chậm tiến độ đã ảnh hưởng đến tốc độ tăng tưởng của khu vực công nghiệp – xây dựng và dịch vụ làm cho cơ cấu kinh tế của tỉnh chuyển dịch chậm. Năm 2003 tổng thu ngân sách trên địa bàn tỉnh đạt 420.000 triệu đồng. 2. Thực trạng DNNN tr ên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi : Hầu hết các DNNN thuộc tỉnh Quảng Ngãi đã hình thành từ thời quản l ý tập trung bao cấp, phát triển tràn lan thiếu quy hoạch, quy mô nhỏ bé, thiết bị lạc hậu. Qua các đợi sắp xếp theo Quyết định 315/HĐBT, Nghị định 388/HĐBT từ 155 DNNN thuộc tỉnh quản lí đến năm 1996 còn 63 doanh nghiệp, trong đó có 61 DNNN được đăng ký lại theo Nghị định 388/HĐBT và các DNNN sau khi sắp xếp đ ã có bước tăng trưởng khá về doanh số, lợi nhuận, nộp ngân sách …Đến năm 1998 tỉnh chỉ còn 43 doanh nghiệp. Cuối năm 2003, sau khi thực hiện chỉ thị 20/1998/TTg của Thủ Tướng Chính phủ, số lượng DNNN của tỉnh đ ã giảm từ 43 doanh nghiệp xuống còng 34 doanh nghiệp ( năm 2003) nhưng thực chất chỉ còn 32 doanh nghiệp hoạt động (2 doanh nghiệp ngưng hoạt động đang làm thủ tục giải thể), 16 DNNN trung ưong và 60 chi nhánh DNNN Trung ương trên địa bàn Tỉnh. DNNN được thành lập để cung cấp h àng hoá và dịch vụ công cộng, là bộ phận quan trọng của nền kinh tế, chiếm giữ tỷ phần lớn trong các ngành mũi nhọn, trọng yếu nhất của nền kinh tế, giữ vị trí then chốt. Có tác dụng điều chỉnh sự cân bằng của nền kinh tế. Bên cạnh đó, DNNN cũng được thành lập để thực hiện những mục tiêu xã hội như tạo công ăn việc làm, kh ắc phục sự mất cân bằng về phát triển kinh tế vùng, đồng thời có mối quan hệ thúc đẩy các thành phần kinh tế khác phát triển. Điều đó sẽ được chứng minh bằng các chỉ tiêu kinh tế -xã hội cụ thể của tỉnh như sau:
  16. KHOA MÁC – LÊNIN GVHD: TH.S TRẦN ĐÌNH MAI Chỉ tiêu 2001 2002 2003 I.Tổng sản phẩm GDP 3 .390.887 3 .953.948 4 .404.862 Trong đó : - Kinh tế nhà nước 850.211 1 .000.034 1 .340.012 + Trung ương quản lý 515.156 613.603 803.850 + Địa phương quản lý 335.055 386.431 536.162 - Kinh tế tập thể 419.354 460.881 500.235 - Kinh tế cá thể, tiêu chủ 2 .005.942 2 .346.941 2 .439.620 - Tư bản tư nhân 44.661 79.599 82.075 - Tư bản hổn hợp 63.408 37.700 40.305 - Khu vực kinh tế có vốn đầu tư 2.039 2.180 2.615 nước ngoài II.Tổng thu ngân sách nhà nước 200.000 220.000 420.000 Trong đó : - Thu từ kinh tế quốc doanh + Trung ương 67.920 71.984 93.881 + Địa phương 15.260 17.079 19.689 (Nguồn: Cục thống kê tỉnh Quảng Ngãi) Qua danh mục trên cho ta thấy tổng sản phẩm kinh tế quốc dân luôn tăng lên qua các năm, trong 6 thành phần kinh tế thì riêng kinh tế quốc doanh chiếm 30,4% trong tổng sản phẩm (GDP) của tỉnh. Bên cạnh đó hằng năm tỉ lệ đóng góp trong ngân sách nhà nước của kinh tế quốc doanh cũng tăng lên. Điều đó sẽ cho ta thấy đư ợc một loạt các vấn đề xã hội đ ược điều chỉnh theo hướng tích cực như: Lao động được giải quyết, việc làm tăng (hằng năm tạo việc làm và thêm việc làm mới cho khoảng 29 - 30 ngàn lao động) đời sống nhân dân từng bước đ ược cải thiện, giảm tỉ lệ hộ nghèo từ 23,7% xuống còn 14,8% năm 2003. Cụ thể h ơn, đươc thể hiện qua tình hình hoạt đông của DNNN trên địa bàn Tỉnh như sau : a. Hình thức tổ chức và tình hình hoạt động của DNNN trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi. + Về phát triển công nghiệp của DNNN: DNNN hoạt động mạnh trong lãnh vực công nghiệp chiếm tỉ trọng lớn trong tổng sản phẩm công nghiệp của tỉnh. Năm 2003 giá trị sản xuất công nghiệp (giá trị so sánh 1994) đạt 1.164.000 triệu đồng thì công nghiệp quốc doanh đạt 775.000 triệu đồng (tăng 22,45% so với năm 2002). Trong đó công nghiệp quốc doanh Trung ương đạt 731.500 triệu đồng (tăng 23,31% so với năm 2002) công nghiệp quốc doanh địa phương đ ạt 43.500 triệu đồng tăng (tăng 9,57% so với năm 2002) sản phẩm công nghiệp dần tăng cao về số lư ợng, chủng loại chất lư ợng, tiêu biểu: - Năng lực chế biến hải sản đạt 5.000 tấn /năm. - Công suất chế biến mía đường đạt 4000 tấn/ngày. Nhu cầu nguyên liêu mía từ 750.000 tấn – 800.000 tấn/năm và m ở rộng đầu tư các tỉnh Gia Lai, Kontum công suất 2.500 tấn/ngày.
  17. KHOA MÁC – LÊNIN GVHD: TH.S TRẦN ĐÌNH MAI - Số lư ợng thiết bị sản xuất hàng may m ặc xuất khẩu từ 4 chuyền lên 16 chuyền. - Sản lượng điện hằng năm từ 65 triệu KWh lên mức 200 tri ệu KWh. - Về chế biến lâm sản: sản lượng gổ khai thác năm 2002 đạt 57.943 m 3 chủ yếu là gổ rừng trồng. Quảng Ngãi đang nghiên cứu quy hoạch phát triển nhiều loại cây công nghiệp nh ư: cao su, ca cao, chè …đặc biệt rừng Trà Bồng thích hợp cho việc phát triển cây quế công nghiệp, chế biến các mặc hàng từ cây quế, còn nhiều tiềm năng mời gọi đầu tư. Đây là m ột điều kiện và đông lực để phát triển hoạt đông trong lãnh vực này. Bảng 1: Danh mục các sản phẩm chủ yếu của công nghiệp quốc doanh. Các sản phẩm chủ yếu 2001 2002 2003 Đơn vị tính Xi măng Tấn 12.200 45.000 50.000 1000m3 Đá xây dựng các loại 327 400 500 Đường RS Tấn 37.867 40.000 47.000 Điện thương phẩm 1000kwh 160.000 180.000 210.000 Bánh kẹo các loại Tấn 2 .864 3.500 3.800 Nước khoáng 1000lít 19.921 24.000 23.500 Bia 1000lít 14.158 18.000 20.000 Thu ỷ sản đông lạnh xuất khẩu Tấn 2 .681 36.000 3.600 Tinh bột mỳ Tấn 15.000 22.000 25.000 Gạch các loại 1000v 145.737 170.000 200.000 1000m3 Nước máy 3 .990 8.000 9.000 (Nguồn: Sở Kế Hoạch và Đầu Tư Quảng Ngãi ) - Nhiều công trình nhà máy đựoc đầu tư mới, đầu tư bổ sung, góp phần tạo nhiều giá trị và sản phảm nh ư: nhà máy nước khoáng, nhà máy khí công nghiệp, nh à máy gạch Bình Nguyên (Cty An Ngãi), xương nuớc quả đóng hộp (vilex), nhà máy bia, nhà máy bánh kẹo, nh à máy sữa, nh à máy tinh bột mỳ. Đến nay tính đ ã hình thành và phát triển 3 khu công nghiệp: khu công nghiệp Tịnh Phong, khu công nghiệp Quảng Phú, khu công nghiệp Dung Quất. Là điều kiên thu ận lợi, đồng thời thúc đẩy sự phát triển của các ngành d ịch vụ góp phần giải quyết việc làm cho nhân dân, củng cố đời sống cho nhân dân tỉnh, thu hút vốn đầu tư từ nhiều nguồn khác nhau là động lực phát triển kinh tế xã hội của tỉnh: - Đối với khu công nghiệp Tịnh Phong: hiện đã có 11 dự án được cấp giấy phép, tổng vốn đầu tư 96 t ỷ đồng, diện tích chiếm đất 18 ha. - Đối với khu công nghiệp Quảng Phú: hiện có 25 dự án đang hoạt động tổng vốn đầu tư 827 tỷ đồng, tổng diện tích chiếm đất là 40 ha. - Đặc biệt khu công nghiệp Dung Quất là trung tâm lọc hoá dầu cảng biển nước sâu, nơi thu hút nhiều nh à đ ầu tư, triển khai nhiều dự án có quy mô lớn mang tầm cở quốc gia và khu vực, với diện tích 10.300 ha. Thực sự lợi thế cho sự vươn lên phát triển kinh tế của Quảng Ngãi và là đ ộng lực thúc đẩy sự phát triển của miền Trung nhằm từng bư ớc rút ngắn sự cách biệt về phát triển so với hai đầu đất nư ớc.
  18. KHOA MÁC – LÊNIN GVHD: TH.S TRẦN ĐÌNH MAI Hiện nay Dung Quất đang thực sự hình thành quy mô 1 khu kinh tế, với nhiều dự án đầu tư quan trọng, nhất là nhà máy lọc dầu số 1 (Công suất 6,5 triệu tấn/năm).Đến cuối năm 2003 tổng số dự án đư ợc cấp giấp phép đầu tư vào khu công nghiệp Dung Quất là 33 dự án, tổng vốn đầu tư là 28.000 tỷ đồng. Hiện nay có 10 dự án đi vào hoạt động sản xuất, 10 dự án đang xây dựng, còn lại đang triển khai các thủ tục đền bù và chu ẩn bị thi công, giải quyết trên 2.000 lao động. Đến nay các công trình h ạ tầng ngo ài hàng rào Nhà máy lọc dầu số 1 và khu công nghiệp đ ã cơ bản hoàn thành và đang tiếp tục đầu tư, chuẩn bị đầu tư, ph ục vụ ngay cho quá trình Xây dựng, vận h ành các nhà máy trong khu công nghiệp ( vớI 60,96 km giao thông ), bến cản chuyên dùng cho tàu 10.000 tấn, xây dựng nh à máy nước 15000 m 3/ngày đêm; cấp điện, b ưu điện Dung Quất với tổng đ ài điện tử 512 số) hiện đ ã có 2 trạm biến áp 110 và 220 KV tại Dung Quất và Dốc sỏi theo tổng sơ đồ 5 trình Chính phủ ph ê duyệt, thì từ nay đến hết 2005 tại Dung Quất sẽ có trạm BA 500 KV và đường dây cao thế 500 KV Playcu – Dung Quất (là giai đoạn hai của dự án mạch 500 KV thứ hai đất nước - g iai đoạn một đ ường đây 500 KV Plâycu – Phú Lâm sắp hoàn thành ). Tóm lại khu công nghiệp quốc doanh có 1 đóng góp tích cực về mặt xã hội là đã giải quyết đ ược 5.398 lao động, đã làm giảm bớt nổi lo của Đảng và nhà nước ta nói chung và tỉnh Quảng Ngãi nói riêng. Song, thực trạng phát triển công nghiệp của kinh tế quốc doanh còn chậm, chưa vững chắc. Trong giai đoạn n ày giá trị sản xuất của ngành còn phụ thuộc nhiều vào giá trị sản xuất cuả công ty đư ờng nhưng hiện nay sản phẩm đư ờng đang gặp khó khăn trên thị trường, do đó chất lượng và giá cả còn hạn chế trong cạnh tranh đối với các sản phẩm cùng loại và các sản phẩm thay thế. Nguồn nguyên liệu mía hiện nay chỉ đáp ứng khoảng 60% công suất chế biến. Bên cạnh đó việc triển khai dự án nhà máy lọc dầu số 1 chậm so với kế hoạch đề ra nhất là gói th ầu 5a và gói th ầu số 1 là gói thầu chính của nhà máy. Hiện nay đã ch ậm khoảng 5 -6 tháng và n ếu không có giải pháp tích cực thì khả năng cuối 2005 nh à máy mới hoàn thành. Điều n ày đã ảnh h ưởng lớn đến tiến độ phát triển của cả khu công nghiệp Dung Quất và nền kinh tế của tỉnh. + Về đầu tư phát triển xây dựng: Trong những năm vừa qua DNNN đã hoàn thành nhiều công trình cho tỉnh góp phần làm hiện đại hơn cơ sở hạ tầng cho tỉnh nhà. Bảng 2: Danh mục dầu tư cơ bản của DNNN 2001 2002 2003 -Vốn nhà nước đầu tư 946.526 1.255.415 1.523.689 vào xây dựng Trong đó: - Vốn ngân sách nhà nư ớc 347.992 423.400 493.012 +Trung ương 160.651 126.415 142.023 + Địa phuong 187.271 296.985 350.989 - Vốn tín dụng 185.429 172.015 159.201 - Vốn tự có của DNNN 413.175 660.800 871.476
  19. KHOA MÁC – LÊNIN GVHD: TH.S TRẦN ĐÌNH MAI Vốn nh à nước đầu tư vào xây dựng tăng lên qua các năm, trong đó là do vốn ngân sách nhà nư ớc và vốn tự có của DNNN tăng; vốn tín dụng giảm. Điều đó chứng tỏ năng lực cuả DNNN tăng lên. Đến nay đã có 177/179 xã có đường ôtô đến trung tâm xã, đã có 100% tuyến đường trung tâm huyện đến các xã đồng bằng được nhựa hoá, đua vào sử dụng 10.885 km đường giao thông; trong đó cứng hoá, nhựa hoá 808,5 km, bê tông hoá hơn 200 km, hàng trăm cầu cống đư ợc xây dựng. Nâng cấp và làm mới đưa vào sử dụng 38 công trình thu ỷ lợi (tổng công suất tưới h ơn 2070ha); nâng cấp trên 50 km tuyến kênh chính và kênh cấp 2 thuộc công trình thu ỷ lợi Thạch Nham; kiên cố hoá 137 km tuyến kênh mương nội đồng; đưa trung tâm y tế Đức Phổ sử dụng với 150 giường bệnh, xây dựng trên 1000 phòng học ở các địa phương. Về điện đ ã nâng cấp, cảI tạo, mở rộng và xây dựng mới, nhiều trại biến áp 35 KV ở h ầu hết các huyện trong tỉnh, xây dựng trạm điện diezel tại Lý Sơn và củng cố các nguồn diezel dự phòng tại chỗ. Mạng lưới điện nông thôn phát triển, cung cấp điện cho sản xuất và sinh hoạt ở 131 xã, phường, đạt tỷ lệ 73,2% so vớI tổng số xã, phường toàn tỉnh, mức tiêu thụ địên bình quân đạt 127 KWh/người/ năm. Hiện tỉnh đang tiến hành xây dựng các dự án trọng điểm như: d ự án đường Trà Bồng –Trà Phong; Cầu cộng hoà; dự án bảo tàng tổng hợp, dự án bệnh viện đa khoa mới . Tuy nguồn vốn đầu tư của ngân sách nhà nước vốn tự có của DNNN có tăng hằng năm nhưng chưa đủ mạnh tác động thúc đẩy nhanhj chuyển dịch cơ cấu kinh tế .cón nhiều mặt hạn chế trong công tác quản lý lãnh đạo như: xét đơn ký -duyệt phải qua nhiều cửa, nhiều khâu, trang thiết bị máy móc lạc hậu, đa ph ần là được “ hậu sử dụng “ của các nước phat triển thanh lý lại. thường là chậm h ơn từ 3 đến 4 lần thế hệ, còn gặp khó khăn trong việc giải toả mặt bằng (như người dân không chịu tách rời nhau do truyền thống th ương yêu, đùm bọc của ngườidân Quảng Ngãi …). + Về phát triển Thương mại -d ịch Vụ của DNNN: DNNN hoạt động Thương m ại khá, đảm bảo nhu cầu cung ứng hàng hoá trong tỉnh. Năm 2003 giá trị sản xuất thương m ại, du lịch và khách sạn nhà hàng đạt 142.620 triệu đồng, trong đó Trung ương đạt 52.083 triệu đồng, địa phương đạt 90.537 triệu đồng. Hoạt động vận tải, thông tin liên lạc, ngân hàng đã cơ bản đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế xã hộI của tỉnh. Tổng mức bán lẻ h àng hoá năm 2003 đạt 462.960 triệu đồng (năm 2001: 298.219 triệu đồng; năm 2002: 386.515 triệu đồng). Trong đó Trung ương đ ạt 161.967 triệu đồng, địa phương đạt 300.993 triệu đồng. Doanh thu du lịch tăng từ 16.950 triệu đồng lên 19.692 triệu đồng năm 2003. Song, tuy thương mại quốc doanh hoạt động có phần tăng trưởng h ơn các năm trước nhưng còn yếu, ch ưa chi phối được các thành ph ần kinh tế khác, chiếm tỷ trọng quá nhỏ trong tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ toàn tỉnh. Hoạt động du lịch còn đơn điệu, chưa khai thác hết tiềm năng, nhất là du lịch sinh thái, văn hoá. Về bưu chính viễn thông đã thể hiện được vai trò chủ đạo, phát triển mạnh theo hướng hiện đạI hoá. Đã xây dựng được công trình tổng đài điện tử kỹ thuật, hệ thống
  20. KHOA MÁC – LÊNIN GVHD: TH.S TRẦN ĐÌNH MAI truyền dẫn cáp xuyên việt, hệ thống vi ba số và vi ba nộI tỉnh, Bưu điện Dung Qu ất…đáp ứng nhu cầu thông tin của các cơ quan, doanh nghiệp và nhân dân. Đến nay, có 91,1% xã, phư ờng sử dụng máy điện thoạI, bình quân đạt 2,05 máy/100dân Các d ịch vụ ngân h àng củng đã thể hiện được vai trò ch ủ đạo của mình, thúc đẩy được các thành ph ần kinh tế khác phát triển .Năm 2003 các dịch vụ ngân h àng đ ã đ áp ứng đư ợc 86% nhu cầu tín dụng của các doanh nghiệp, tăng 28 % so vớI năm 2000. Kim ngạch xuất khẩu năm 2002 đạt 11.119 ngàn USD,năm 2003 tăng lên 16.006 ngàn USD, kim ngạch nhập khẩu giảm từ 9.033 ngàn USD năm 2002 xuống còn 6500 ngàn USD năm 2003 Những mặt hàng xuất khẩu chủ yếu: Bạch Đàn, đá xây dựng, đường RS … hoạt động xuất khẩu có sự chuyển biến khá tích cực trong giai đoạn này,lần đầu tiên sau nhiều năm tỉnh đã đạt đư ợc kim ngạch xuất khẩu “ 2 con số “. Tuy vậy giá trị vẫn còn nhỏ bé.Thiết bị công nghệ lạc hậu chưa đủ sức để đầu tư các công nghệ hiện đại, chưa mạnh dạng tìm kiếm thị trường. Bên cạnh đó sự hỗ trợ của các cơ quan quản lý nhà nước cho các doanh nghiệp còn quá ít trong công tác xuất nhập khẩu , tìm kiếm thị trưòng … + Về Nông -Ngư-Lâm nghiệp: Năm 2003 giá trị sản xuất nông nghiệp của DNNN đạt 15.246 triệu đồng. Sản lượng mía cây giảm qua các năm do tình hình giá cả thị trư ờng giảm nên nông dân chuyển sang canh tác loại khác làm ảnh hưởng đến năng xuất và chất lượng hoạt động chế biến thực phẩm sau đường của công ty đường Quảng Ngãi .Nguồn nguyên liệu mía hiện nay chỉ đáp ứng khoảng 60% công suất chế biến cho 2 nhà máy trong tỉnh. Cây cao su, cây qu ế, dâu tằm được tập trung phát triển nhưng ch ất lượng và hiệu quả chưa cao. Đến năm 2003 diện tích cao su khoảng 1400 ha, quế gần 4200 ha, sản lượng vỏ quế khai thác hằng năm từ 100 đến 200 tấn, giá trị sản xuất /ha canh tác năm 2003 đạt khoảng 163 triệu đồng ,tăng 26% so với năm 2000. Thực hiện các chương tình dự án về lâm nghiệp, trong năm qua đã trồng và chăm sóc 15,3 ngh ìn ha rừng tập trung, quản lý, bảo vệ chăm sóc 49,8 nghìn ha, khoanh nuôi tái sinh 31,75 nghìn ha rừng; nâng độ che phủ rừn g từ 27,6% năm 2000 lên 34,9% năm 2003.Sản lượng khai thác gỗ hằng năm có xu h ướng giảm, năm 2003 đạt 57.000m3 (năm 2000 đạt 63.4000m 3). Do chủ trương hạn chế khai thác rừng tự nhiên nên từ năm 2000 đến nay sản lượng khai thác gỗ rừng tự nhiên có chiều hướng giảm dần, từ 14.190 m 3 năm 2000 xuống còn 7.000m3 năm 2003. sản lượng khai thác gỗ rừng nguyên liệu ( chủ yếu là gỗ bạch đàn) giữ ở mức ổn định, ở khoảng 50.000m3. Sản lượng thuỷ sản khai thác năm 2003 đạt 80.121 tấn .diện tích nuôi tôm năm 2000 là 804 tấn,năm 2003 tăng lên 895 tấn. Thuỷ sản đông lạnh năm 2000 là 1612 tấn, năm 2003 tăng lên 2980 tấn. Trong giai đoạn n ày đã hình thành được mô hình nuôi tôm trên cát ,tuy vậy sản lượng nuôi trồng hằng năm tăng chậm ,tình trạng tự phát trong nuôi trồng thuỷ sản còn phổ biến ,dịch bệnh tôm chưa có biện pháp khắc phục hữu hiệu ,kịp thời Hiện nay đ ã và đ ang triển khai xây dựng các công trình phục vụ cho ngành thu ỷ sản như: công ty xu ất nhập khẩu thuỷ sản Quảng Ngãi ( trước đây là xí nghiệp chế
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
8=>2