intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Báo cáo trường hợp thủng khí quản sau đặt nội khí quản hai nòng

Chia sẻ: Hạnh Lệ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:4

65
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Thủng khí quản do đặt nội khí quản là một trong những tai biến nặng nề mà bản thân tất cả những người làm công tác gây mê hồi sức cần phải quan tâm và phòng tránh. Bài viết nhằm báo cáo Báo cáo trường hợp thủng khí quản sau đặt nội khí quản hai nòng.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Báo cáo trường hợp thủng khí quản sau đặt nội khí quản hai nòng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 <br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br /> BÁO CÁO TRƯỜNG HỢP THỦNG KHÍ QUẢN  <br /> SAU ĐẶT NỘI KHÍ QUẢN HAI NÒNG <br /> Phạm Văn Đông*, Nguyễn Quốc Khang* <br /> <br /> TÓM TẮT <br /> Thủng khí quản do đặt nội khí quản là một trong những tai biến nặng nề mà bản thân tất cả những người <br /> làm công tác gây mê‐hồi sức cần phải quan tâm và phòng tránh. Chúng tôi báo cáo trường hợp bệnh nhân nữ 50 <br /> tuổi được chẩn đoán trước mổ là: U nấm thùy dưới phổi phải và có chỉ định mổ hở cắt thùy dưới phổi phải. <br /> Trong trường hợp này chúng tôi chọn phương pháp vô cảm là gây mê cân bằng qua ống nội khí quản hai nòng. <br /> Trong quá trình đặt nội khí quản hai nòng đã xảy ra tai biến thủng khí quản. Nhận biết sớm các dấu hiệu lâm <br /> sàng nhằm hướng tới chẩn đoán xác định và tìm hiểu nguyên nhân để phòng tránh thủng khí quản là mục tiêu <br /> vô cùng quan trọng để nâng cao hiệu quả chăm sóc sức khỏe của bệnh nhân. <br /> Từ khóa: nội khí quản hai nòng; đặt nội khí quản; nội soi thanh khí quản; thủng khí quản <br /> <br /> SUMMARY <br /> A TRACHEAL RUPTURE COMPLICATION OWING TO DOUBLE LUMEN INTUBATION TUBE <br /> ANESTHESIA <br /> Pham Van Dong, Nguyen Quoc Khang <br /> * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2013: 475 ‐ 478 <br /> Tracheal rupture is one of the most severe complications owing to intubation that all anesthesiologists have <br /> to pay attention and prevent.  We report a 50 year‐old patient, diagnosed Aspergilloma and indicated for right <br /> lower lobectomy. In this case, we choose double lumen intubation tube anesthesia as a method. In the diagnose <br /> and prevent tracheal rupture is an important objective to improve the effectiveness in improving the outcome for <br /> the patients. <br /> Keywords: double lumen tube, Tracheal intubation, pharyngotracheal endoscopy, tracheal rupture <br /> 07/11/2011  vì  đau  ngực,  khó  thở  kèm  thỉnh <br /> ĐẶT VẤN ĐỀ <br /> thoảng  có  ho  ra  máu  trên  hai  tháng.  Qua  thăm <br /> Phẫu thuật cắt thùy phổi là một phẫu thuật <br /> khám  lâm  sàng  ghi  nhận:  cân  nặng  55kg,  cao <br /> lớn. Để cho cuộc phẫu thuật thuận lợi bệnh nhân <br /> khoảng  160cm,  không  có  dấu  hiệu  đặt  nội  khí <br /> cần  phải  được  gây  mê  với  nội  khí  quản  hai <br /> quản  khó,  Mallampaty:  I,  hiện  tại  không  dùng <br /> nòng.  Tại  Bệnh  viện  Chợ  Rẫy  từ  năm  01/  2007 <br /> thuốc  gì  khác,  các  xét  nghiệm  sinh  hóa,  huyết <br /> đến  10/2011  có  ghi  nhận  03  trường  hợp  thủng <br /> học  trong  giới  hạn  bình  thường,  chức  năng  hô <br /> khí  quản  nhưng  chưa  xác  định  chính  xác  được <br /> hấp  hạn  chế  nhẹ.  CT  Scaner  ngực  nghi  u  nấm <br /> nguyên nhân. Tuy nhiên trong y văn có một số <br /> thùy dưới phổi phải (P). Bệnh được chẩn đoán: <br /> tác giả đã đề cập đến biến chứng thủng khí quản <br /> U nấm thùy dưới phổi P, có chỉ định mổ hở cắt <br /> do đặt nội khí quản. <br /> thùy dưới phổi P. Xếp loại ASA mức độ II <br /> <br /> CA LÂM SÀNG <br /> <br /> Diễn tiến lúc gây mê <br /> <br /> Bệnh nhân Nguyễn. T. T, 50 tuổi, ở Trí Hải ‐ <br /> Thái  Bình  ‐  Cà  Mau,  làm  nông,  vào  viện  ngày <br /> <br /> Phòng  mổ  nhận  bệnh  nhân  ghi  nhận  sinh <br /> hiệu trước mổ ổn định. Bệnh được dẫn đầu gây <br /> <br /> * Khoa gây mê hồi sức ‐ BV Chợ Rẫy <br /> Tác giả liên lạc: BS. Phạm Văn Đông   <br /> <br /> ĐT: 0903919391 <br /> <br />  Email: donghieugmcr@gmail.com <br /> <br /> Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012<br /> <br /> 475<br /> <br /> Nghiên cứu Y học <br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013<br /> ‐ Phổi phẫu thuật, phổi P: sử dụng CPAP, cài <br /> PEEP bằng 5 cmH2O. <br /> <br /> mê  với:  Sulfentanyl  20μg  (TMC),  Propofol  1% <br /> 150mg (TMC), Esmeron 40mg (TMC) sau 3 phút <br /> được  bác  sĩ  gây  mê  đặt  nội  khí  quản  2  nòng <br /> Robertshow  37F  (T),  không  đặt  được  qua  vạch <br /> 18cm,  thay  bằng  ống  35F  đặt  rất  khó  khăn  và <br /> cũng không qua được vạch 18cm. Tiếp tục thay <br /> bằng  ống  28F,  đặt  vào  được  nhưng  thông  khí <br /> khó khăn sau khoảng 15 phút điều chỉnh thì ghi <br /> nhận  xuất  hiện  tràn khí dưới da vùng cổ  và  ngực <br /> kèm theo SpO2 giảm dần còn 82%. Lúc này bác sĩ <br /> gây  mê  rút  nội  khí  quản  2  nòng,  úp  mask  bóp <br /> bóng, SpO2 có cải thiện, bác sĩ gây mê gọi giúp <br /> đỡ từ các đồng nghiệp. Các bác sĩ gây mê cùng <br /> phẫu thuật viên hội chẩn và đi đến kết luận nghi <br /> ngờ  thủng  khí  quản.  Chúng  tôi  quyết  định  nội <br /> soi với ống soi mềm khí ‐ phế quản tại phòng mổ <br /> để  chẩn  đoán  xác  định.  Nội  soi  khí  quản  ghi <br /> nhận  “  rách  thành  sau  khí  quản  #  1cm,  cách <br /> Carina 2cm” (hình 01). Bệnh được chuyển sang <br /> gây mê Propofol TCI 1% nồng độ # 3μg/ml, đặt <br /> nội  khí  quản  thường  số  8.0.  Nội  soi  thực  quản <br /> bình  thường.  Bệnh  nhân  được  tiếp  tục  gây  mê <br /> với:  Sulfentanyl    20μg  (TMC),  Esmeron  50mg <br /> (TMC), tiến hành thay nội khí quản thường bằng <br /> nội  khí  quản  hai  nòng  Robertshow  số  32F  (T), <br /> phân  lập  được  hai  phổi  tốt,  SpO2  >  96%.  Tiến <br /> hành phẫu thuật <br /> <br /> Khí  máu  động  mạch  trong  giới  hạn  bình <br /> thường, tiếp tục  duy  trì  mê  bằng  Propofol  TCI, <br /> thuốc giảm đau và giãn cơ như trên. Độ mê dao <br /> động  (BIS)  25  ‐  30,  sinh  hiệu  ổn  định  (có  HA <br /> động  mạch  xâm  lấn).  Mở  ngực  phải  qua  liên <br /> sườn V, vào lồng ngực thấy phổi P xẹp tốt, phân <br /> lập hai phổi và thông khí một phổi thành công. <br /> Thấy  phổi  P  dày  dính  màng  phổi  nhiều,  gỡ <br /> dính, kiểm tra u nấm thùy dưới phổi phải gọn, <br /> cắt  thùy  dưới  không  điển  hình.  Mở  vùng  phổi <br /> trung thất trước, vào khe thực quản ‐ khí quản, <br /> khâu  lỗ  thủng  thành  sau  bên  phải  khí  quản, <br /> kiểm tra cầm máu kỹ, đặt dẫn lưu ngực P, thời <br /> gian mổ khoảng 2g30 phút. <br /> <br /> Diễn tiến hậu phẫu <br /> Bệnh nhân sau mổ xong được thay ống nội <br /> khí  quản  hai  nòng  bằng  ống  nội  khí  quản <br /> thường,  hậu  phẫu  được  cho:  kháng  sinh,  an <br /> thần, giảm đau và thở máy. Đến ngày thứ 3 thì <br /> rút dẫn lưu màng phổi phải, ngày thứ  7 thì cai <br /> máy thở  (hình  2)  và  đến  ngày  thứ  8  thì  rút  nội <br /> khí  quản  và  10  ngày  sau  bệnh  nhân  ra  viện. <br /> Hiện  tại  bệnh  nhân  sinh  hoạt  cá  nhân  bình <br /> thường,  không  còn  ho,  không  đau  ngực  và <br /> không ghi nhận cơn khò khè hay khó thở nào, có <br /> tái khám lại tại bệnh viện một lần. <br /> <br />  <br /> Hình.1: Vị trí rách khí quản mặt sauhkhhnmk <br /> <br /> Mô  tả  phương  thức  thông  khí  và  phẫu <br /> thuật <br /> Với sự kết hợp 2 phương thức thông khí:  <br /> ‐ Phổi không phẫu thuật, phổi trái (T): mode <br /> AC kiểm soát thể tích, chế độ thông khí bảo vệ <br /> phổi, cài PEEP bằng 5cmH2O. <br /> <br /> 476<br /> <br />  <br /> <br /> Hình 2: HP7 bệnh nhân tự thở qua nội khí quản <br /> BÀN LUẬN <br /> Thông  khí  một  phổi  với  nội  khí  quản  hai <br /> nòng ngày càng có nhiều chỉ định nhất là trong <br /> phẫu  thuật  lồng  ngực  mạch  máu.  Người  làm <br /> công  tác  gây  mê  ngoài  việc  cần  phải  có  nhiều <br /> kinh  nghiệm  trong  việt  cải  thiện  oxy  máu  với <br /> <br /> Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 <br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 <br /> thông khí một phổi còn đòi hỏi khi thực hiện kỹ <br /> thuật đặt nội khí quản hai nòng phải:  <br /> ‐ Lựa chọn ống nội phế quản phù hợp. <br /> ‐ Khởi mê yên tĩnh, nên phổi hợp thuốc mê <br /> hô hấp với thuốc mê tĩnh mạch, độ mê (BIS) sâu, <br /> tránh co thắt. <br /> ‐ Thao tác nhẹ nhàng, đúng kỹ thuật… <br /> Tránh  biến  chứng  rách  khí  –  phế  quản  do <br /> thủ thuật của người làm công tác gây mê gây ra. <br /> Theo  tác  giả  Dr  Divatia.J.V&  Dr  Bhowmick <br /> thì  có  khoảng  40  tai  biến  do  đặt  nội  khí  quản <br /> trong đó có tai biến thủng khí quản xảy ra ngay <br /> trong lúc chúng ta thực hiện kỹ thuật này. Theo <br /> tác giả Elliot H(1) tỷ lệ rách khí quản sau khi đặt <br /> nội khí quản được thực hiện bởi người làm công <br /> tác  gây  mê  là  55t ); 4/ Cổ ngắn; 5/  Có bệnh phổi tắc <br /> nghẽn mãn tính; 6/ Có điều trị Corticoid; 7/ Trình độ <br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br /> kỹ thuật người thực hiện;  8/  Loại ống nội khí quản. <br /> Còn về nguyên nhân gây rách: 1/ Cỡ ống nội khí <br /> quản; 2/ Cây thông nòng luồn trong ống nội khí quản <br /> đã  không  được  rút  bớt  ra  khi  ống  nội  khí  quản  qua <br /> dây thanh âm; 3/ Trong khi đặt gặp khó khăn phải đặt <br /> đi đặt lại nhiều lần; 4/ Áp lực bóng chèn quá cao. <br /> Theo  các  tác  giả  Elvin  J.  Cruz‐Zero  Lesley <br /> Strachan, Yanping Duan, thì các size của nội khí <br /> quản hai nòng hiện nay là 26 ‐ 41 và người lớn <br /> thường chỉ dùng size 35, 37, 39, 41. Trong đó 39 <br /> cho  hầu  hết  nam  và  37  cho  hầu  hết  bệnh  nhân <br /> nữ,  nhưng  với  thể  trạng  trung  bình  của  người <br /> Việt  Nam  hiện  nay  thì  size  này  chúng  tôi  cho <br /> rằng là còn quá lớn và tại phòng mổ Bệnh viện <br /> Chợ Rẫy chúng tôi thường chọn size 28 ‐ 32 cho <br /> nữ và 35 ‐ 37 cho nam. Trong trường hợp bệnh <br /> nhân  này  chúng  tôi  nghĩ  nhiều  đến  nguyên <br /> nhân  thủng  khí  quản  là  do  chọn  ống  nội  khí <br /> quản hai nòng lớn (size 37 lúc đầu), làm cho việc <br /> đặt  gặp  khó  khăn  và  phải  đặt  đi  đặt  lại  nhiều <br /> lần, trong lúc đặt có thể  kèm theo thao tác đặt <br /> thô  bạo.  Chúng  tôi  không  nghĩ  đến  nguyên <br /> nhân là do cây thông  nòng  cũng  như  bơm  cuff <br /> quá căng vì khi chọn ống bác sĩ gây mê đã chọn <br /> ống  nội  khí  quản  hai  nòng  mới  hoàn  toàn  với <br /> cây thông nòng bên trong được luồn và cố định <br /> theo tiêu chuẩn của nhà sản xuất. Trong ba lần <br /> đặt  đầu  tiên  điều  thất  bại  nên  chúng  tôi  không <br /> nghĩ  nhiều  đến  nguyên  nhân  do  bơm  cuff  quá <br /> căng gây thủng khí quản. <br /> Từ  những  nhận  định  trên  chúng  tôi  có <br /> khuyến cáo cho các trường hợp phải gây mê đặt <br /> nội  khí  quản  hai  nòng  như  sau:  1/  Luôn  luôn <br /> thăm khám tiền mê kỹ càng; 2/ Chuẩn bị đầy đủ <br /> nhân lực và trang thiết bị; 3/ Dẫn đầu đủ độ mê <br /> và  đủ  độ  dãn  cơ;  4/  Chọn  cỡ    ống  phù  hợp;  5/ <br /> Thao tác đặt phải nhẹ nhàng và đúng kỹ thuật; <br /> 6/  Nhận  biết  sớm  các  dấu  hiệu  lâm  sàng  của <br /> thủng  khí  quản  để  hướng  tới  chẩn  đoán  xác <br /> định  nhằm  phối  hợp  điều  trị  đạt  hiệu  quả  tốt <br /> nhất. <br /> <br /> KẾT LUẬN <br /> Thủng khí quản sau khi đặt nội khí quản và <br /> đặc  biệt  đối  với  nội  khí  quản  hai  nòng  là  một <br /> <br /> Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012<br /> <br /> 477<br /> <br /> Nghiên cứu Y học <br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013<br /> <br /> biến  chứng  ít  gặp  nhưng  khi  đã  xảy  ra  thường <br /> rất  nặng  nề  vì  ngoài  việc  làm  giảm  oxy  máu <br /> trong quá trình thông khí một phổi nó còn làm <br /> cho cuộc mổ trở nên khó khăn và dự hậu bệnh <br /> nhân rất nặng có thể ảnh hưởng tới tính mạng. <br /> Việc  thăm  khám  tiền  mê,  chuẩn  bị  tốt  về  nhân <br /> lực  và  trang  thiết  bị  y  tế  để  phòng  tránh  cũng <br /> như  phát  hiện  sớm  tai  biến  thủng  khí  quản  và <br /> <br /> phối  hợp  điều  trị  là  vô  cùng  quan  trọng  giúp <br /> nâng cao hiệu quả chăm sóc người bệnh. <br /> <br /> TÀI LIỆU THAM KHẢO <br /> 1.<br /> <br /> 2.<br /> <br /> Chen EH, Logman ZM et al (2001), A case of the tracheal injury <br /> after  emergent  endotracheal  intubation:  a  review  of  the <br /> literture and causalities, Anesth Analg.93(5):1270‐1. <br /> Mĩnambres E et al (2009), Tracheal rupture after endotracheal <br /> intubation:  a  literture  systematic  review,  Uropean  Joumal  of <br /> Cardio‐Thoracic 35, pp 1056‐1062. <br /> <br />  <br /> <br /> 478<br /> <br /> Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 <br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2