BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ

…………/………… ……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

LÊ NGỌC LAM ĐIỀN

BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA BI CAN TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính

Mã số: 8 38 01 02

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ

LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

Thành phố Hồ Chí Minh - Năm 2020

Công trình được hoàn thành tại: HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN TUẤN KHANH

Phản biện 1: PGS.TS. Huỳnh Văn Thới – Học viện Hành chính Quốc gia

Phản biện 2: PGS.TS. Võ Trí Hảo – Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh.

Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ, Học viện

Hành chính Quốc gia

Địa điểm: Phòng họp 206, Nhà A – Phân viện Học viện Hành chính

Quốc gia tại Thành phố Hồ Chí Minh.

Số: 10 Đường 3/2, Phường 12, Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh

Thời gian: vào hồi 13 giờ 30 phút ngày 23 tháng 5 năm 2020

Có thể tìm hiểu luận văn tại Thư viện Học viện Hành chính Quốc gia

Hoặc trên trang Web Ban Quản lý đào tạo Sau đại học, Học viện

Hành chính Quốc gia.

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Quyền con người là một trong những vấn đề cơ bản nhất của

nhận thức và thực tiễn chính trị, vì vậy, nó gắn với các thời đại trong

lịch sử cụ thể và chính bản thân nó cũng bị hạn chế bởi lịch sử, bởi

các điều kiện kinh tế - xã hội của từng quốc gia.

Quyền bào chữa trong Hiến pháp 2013 được sắp xếp trong

nhóm quyền cơ bản của công dân, quyền con người. Như vậy, Hiến

pháp đã xác định rõ quyền bào chữa là quyền con người, quyền công

dân nên không chỉ cơ quan xét xử mà tất cả các cá nhân, cơ quan, tổ

chức trong xã hội phải có trách nhiệm tôn trọng và được Nhà nước

đảm bảo thực hiện.

Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 chính thức có hiệu lực từ ngày

01/01/2018 đã quy định luật sư được tham gia tố tụng từ trước khi có

quyết định khởi tố bị can hoặc quyết định tạm giữ, cụ thể tại Điều 74

Bộ luật Tố tụng hình sự.

Như vậy, kể cả khi chưa có quyết định khởi tố bị can hoặc quyết định

tạm giữ của cơ quan điều tra thì người bào chữa là luật sư được

quyền tham gia tố tụng từ khi người phạm tội bị bắt, tạm giữ và được

đưa về trụ sở cơ quan điều tra.

Thực tiễn cho thấy, mặc dù Hiến Pháp và pháp luật Tố tụng

hình sự đã quy định tương đối đầy đủ và chặt chẽ nhưng trong các vụ

án hình sự, quyền của bị can vẫn chưa được các cơ quan tố tụng, cụ

thể là Cơ quan cảnh sát điều tra và người tiến hành tố tụng, cụ thể là

điều tra viên thực sự tôn trọng và bảm đảm thực hiện. Cụ thể là :

Thứ nhất: Vai trò của người bào chữa trong thực tế còn hạn

chế và trong thực tế nhiều khi chưa được một số cơ quan có thẩm

quyền thực sự tôn trọng, chưa tạo điều kiện cho người bào chữa thực

1

hiện nhiệm vụ của mình như việc tham gia tố tụng của người bào

chữa sau khi có quyết định khởi tố bị can còn gặp nhiều khó khăn;

nhiều trường hợp sau khi ra quyết định khởi tố bị can, cơ quan điều

tra đã không giao quyết định này và cũng không giải thích cho bị can

biết rõ quyền và nghĩa vụ của mình. Do vậy, bị can không biết là

mình có quyền nhờ người bào chữa ngay từ khi bị khởi tố mà họ cứ

tưởng khi ra toà mới được mời luật sư.

Thứ hai: Đối với những trường hợp bào chữa chỉ định vì nhiều

lí do khác nhau mà việc bào chữa thường chỉ mang tính hình thức,

qua loa, đại khái.

Thứ ba: Điểm b, Khoản 1, Điều 72 BLTTHS quy định về

quyền và nghĩa vụ của người bào chữa như sau: “Có mặt khi lấy lời

khai của người bị bắt, bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu người

có thẩm quyền tiến hành lấy lời khai, hỏi cung đồng ý thì được hỏi

người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can...”. Theo quy định này thì việc

có cho phép được hỏi bị can hay không là hoàn toàn phụ thuộc vào ý

chí chủ quan của điều tra viên, cho nên có trường hợp điều tra viên

không cho người bào chữa hỏi mà chỉ cho “ngồi nghe” hỏi cung.

Điều tra viên dường như không để ý đến sự có mặt của người bào

chữa và ý kiến đề xuất của họ.

Đối với các hoạt động điều tra khác thì hầu như người bào

chữa cũng không được tham gia mặc dù có trường hợp họ rất muốn

tham gia nhưng đều bị điều tra viên từ chối. Sau khi kết thúc điều tra,

hầu hết cơ quan điều tra không thông báo cho người bào chữa biết về

việc kết thúc điều tra. Việc này đã làm cho người bào chữa gặp khó

khăn trong việc đọc hồ sơ và ghi chép những điều cần thiết sau khi

kết thúc điều tra. Thực tế có nơi cán bộ điều tra khuyên bị can thuê

2

luật sư là vô ích vì tội trạng đã rành rành và vụ án đã được quyết

định.

Tình trạng vi phạm các quyền tố tụng của bị can vẫn còn diễn

ra. Một số người tiến hành tố tụng còn chưa nhận thức được việc bảo

vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và minh oan cho người

vô tội cũng như xử lý nghiêm minh đối với người phạm tội. Ở giai

đoạn điều tra, nhiều điều tra viên cho rằng người bị tạm giữ không

cần mời người bảo vệ/luật sư vì chưa cần thiết. Trong quá trình điều

tra thường chú ý đến việc không bỏ lọt tội phạm hơn là việc không

làm oan cho người vô tội và coi việc tham gia tố tụng của người bào

chữa/bảo vệ chỉ là để cho đủ thủ tục mà thôi. Điều đó đã ảnh hưởng

không nhỏ đến việc bảo vệ quyền của bị can, dẫn đến tình trạng oan

sai trong tố tụng.

Vì vậy, việc nghiên cứu về bảo đảm quyền của bị can trong

giai đoạn điều tra có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ quyền và

lợi ích hợp pháp của công dân, giúp cơ quan tiến hành tố tụng giải

quyết vụ án đúng người đúng tội, đúng pháp luật, hạn chế tối đa tình

trạng oan sai.

Với nhận thức trên, học viên chọn đề tài : Bảo đảm quyền của bị can

trong giai đoạn điều tra từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh làm đề

tài nghiên cứu cho luận văn của mình.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Vấn đề bảo đảm quyền của bị can trong tố tụng hình sự đã được

nhiều tác giả nghiên cứu như :

- Luận án tiến sĩ luật học “Bảo đảm quyền con người trong hoạt

động tư pháp ở Việt nam hiện nay” của tác giả Nguyễn Huy

Hoàng.

3

- Luận án tiến sĩ luật học “Bảo vệ quyền con người trong tố tụng

hình sự Việt nam “ của tác giả Nguyễn Quang Hiền.

- Luận án tiến sĩ luật học “Bảo đảm quyền con người của người bị

tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự Việt nam” của tác

giả Lại Văn Trình.

- Đề tài khoa học cấp Đại học Quốc gia Hà nội – khoa luật 2006

“Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật hình sự và pháp luật tố

tụng hình sự trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền

Việt nam” do GS.TSKH Lê Văn Cảm, TS. Nguyễn Ngọc Chí,

Ths. Trịnh Quốc Toàn đồng chủ biên.

- Chuyên khảo “Bảo vệ quyền con người trong luật hình sự, luật tố

tụng hình sự Việt nam” của TS. Trần Quang Tiệp.

Trong thực tiễn điều tra, xử lý các vụ án hình sự vẫn còn

những vi phạm nhân quyền. Vì vậy, việc nghiên cứu để bảo đảm

quyền của bị can trong giai đoạn điều tra theo quy định của Bộ luật

tố tụng hình sự từ góc độ lập pháp và thực tiễn áp dụng pháp luật có

vai trò rất quan trọng trong quá rình thực hiện xây dựng nhà nước

pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh hội nhập quốc tế cũng như

công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta. Đây là lý do để học viên quyết

định chọn đề tài : “Bảo đảm quyền của bị can trong giai đoạn điều

tra từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh” làm luật văn thạc sĩ cho

mình.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Kế thừa một cách có chọn lọc kết quả nghiên cứu các công

trình khoa học đã được công bố, người viết hướng đến mục đích

muốn làm rõ hơn những vấn đề lý luận và thực tiễn về bảo đảm

quyền của bị can trong giai đoạn điều tra theo Bộ luật tố tụng hình sự

4

hiện hành, chỉ ra những bất cập còn tồn tại khi thực hiện quyền và

nghĩa vụ của bị can ở nước ta hiện nay mà cụ thể là ở địa bàn Thành

phố Hồ Chí Minh. Qua đó, đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu

quả áp dụng trong thực tiễn và hoàn thiện pháp luật, đảm bảo phát

huy tối đa tính dân chủ, chính xác, khách quan, toàn diện trong hoạt

động tố tụng hình sự, đảm bảo xu hướng bảo đảm quyền của bị can

trong giai đoạn điều tra.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Với mục đích nghiên cứu như trên, người viết tập trung vào

giải quyết những nhiệm vụ chính như sau :

a. Làm rõ khái niệm bị can, khái niệm quyền và nghĩa vụ

pháp lý của bị can.

b. Tìm hiểu sơ lược các quyền và nghĩa vụ của bị can trong

giai đoạn điều tra theo luật pháp quốc tế

c. Tìm hiểu sơ lược quy định pháp luật Việt nam qua các

thời kỳ về quyền và nghĩa vụ của bị can trong giai đoạn điều tra.

d. Đi sâu vào phân tích các quy định của Bộ luật tố tụng

hình sư Việt nam hiện hành về quyền và nghĩa vụ của bị can trong

giai đoạn điều tra.

e. Nghiên cứu thực trạng áp dụng pháp luật về bảo đảm

quyền và nghĩa vụ của bị can trong giai đoạn điều tra trên địa bàn

Thành phố Hồ Chí Minh.

f. Đưa ra các kiến nghị và giải pháp nhằm đảm bảo quyền

của bị can trong giai đoạn điều tra trong tố tụng hình sự, hoàn thiện

pháp luật tố tụng hình sự, nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ

quan tiến hành tố tụng.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

5

Là quyền và nghĩa vụ pháp lý của bị can trong giai đoạn điều tra

tại địa bàn Tp Hồ Chí Minh.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi không gian: Thành phố Hồ Chí Minh

Phạm vi thời gian: giai đoạn 2018 đến quý 1/2020

Luận văn nghiên cứu là các quy định của pháp luật tố tụng

hình sự trong thời kỳ từ năm 1945-1988, thời kỳ pháp luật tố tụng

hình sự năm 1988 – 2003, thời kỳ pháp luật tố tụng năm 2003 – 2015

và pháp luật tố tụng hiện nay.

5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của

luận văn

Luận văn sử dụng phương pháp luận là chủ nghĩa duy vật biện

chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử của triết học Mác-Lênin, tư tưởng

Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng ta về nhà nước và pháp

luật, về xây dựng nhà nước pháp quyền, về cải cách tư pháp và

quyền con người.

- Phương pháp thu thập và hồi cố thông tin dữ liệu từ các

nguồn khác nhau.

- Phương pháp hệ thống.

- Phương pháp tổng hợp, phân tích, lịch sử

- Phương pháp so sánh và thống kê.

Ngoài ra người viết cũng khảo sát thực tiễn tố tụng và tham

khảo ý kiến chuyên gia để làm rõ các vấn đề nghiên cứu.

6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn

Luận văn khi hoàn thành dự kiến sẽ góp phần:

- Làm rõ hơn các vấn đề lý luận về bị can, quyền và nghĩa vụ

của bị can trong giai đoạn điều tra trong pháp luật tố tụng hình sự

Việt nam hiện hành và qua các thời kỳ.

6

- Đi vào phân tích việc bảo đảm quyền và nghĩa vụ pháp lý

của bị can trong giai đoạn điều tra theo quy định của Bộ luật tố tụng

hình sự Việt nam hiện hành.

- Chỉ ra được các vấn đề, các khó khăn vướng mắc trong việc

thực thi pháp luật bảo vệ, bảo đảm quyền của bị can trong pháp luật

tố tụng hình sự hiện hành.

- Chỉ ra những điểm mới của Bộ luật tố tụng hình sự 2015 về

quyền và nghĩa vụ của bị can.

- Đưa ra được các kiến nghị và giải pháp nhằm hoàn thiện

pháp luật, nâng cao chất lượng áp dụng các quy định của Bộ luật tố

tụng hình sự góp phần bảo đảm quyền của bị can trong tố tụng hình

sự Việt nam.

7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Luận văn là công trình nghiên cứu khoa học cấp độ thạc sĩ về

bảo đảm quyền của bị can trong giai đoạn điều tra trong tố tụng hình

sự. Luận văn đi sâu nghiên cứu các vấn đề lý luận về bảo đảm quyền

của bị can, phân tích thực trạng, chỉ ra khó khăn và đề xuất các giải

pháp để nâng cao hiệu quả của việc bảo đảm quyền của bị can trong

giai đoạn điều tra.

Luận văn sẽ đóng góp một phần vào việc giải quyết về mặt

khoa học các khái niệm về bị can, quyền và nghĩa vụ của bị can trong

giai đoạn điều tra. Đồng thời, luận văn là một tài liệu có giá trị tham

khảo cho những người làm công tác nghiên cứu, cho những người

hoạt động tư pháp cũng như thực tiễn điều tra các vụ án hình sự.

7

PHẦN MỞ ĐẦU

CHƯƠNG I: LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA BỊ CAN

TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA

1.1. Quan niệm, đặc điểm về bảo đảm quyền của bị can

trong giai đoạn điều tra

Một trong các hình thức thực hiện quyền cơ bản của công

dân được nhà nước đảm bảo thực hiện là quyền được bảo vệ mình

trước cơ quan pháp luật trong đó có quyền bào chữa. Điều 12

BLTTHS quy định: “Cơ quan điều tra, viện kiểm sát, toà án có

nhiệm vụ đảm bảo cho bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của

mình”.

1.1.1 . Quan niệm về bảo đảm quyền của bị can trong giai

đoạn điều tra

Quan điểm của BLTTHS Việt Nam hiện nay là quyền bào

chữa chỉ thuộc về bị can, bị cáo chứ không thuộc về đối tượng nào

khác và quyền này chỉ giới hạn trong việc bác bỏ một phần hay toàn

bộ lời buộc tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm cho bị can, bị cáo.

Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là tổng thể các quyền mà

pháp luật quy định bị can, bị cáo có thể sử dụng nhằm bác bỏ một

phần hay toàn bộ sự buộc tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm cho họ.

1.1.2 Đặc điểm bảo đảm quyền của bị can trong giai

đoạn điều tra

Quy định tại khoản 2 Điều 60 BLTTHS năm 2015

1.2. Nội dung, trình tự, thủ tục bảo vệ quyền của bị can trong

giai đoạn điều tra

1.2.1 Nội dung về quyền của bị can trong giai đoạn điều

tra

8

a) Đặc điểm quyền của bị can trong việc bị tạm giữ, tạm

giam

- Trong giai đoạn điều tra, nghi can có thể bị tạm giữ, tạm giam

để đảm bảo cho việc điều tra vụ án.

 Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam mới đã cụ thể hoá là “Người

bị tạm giữ là người đang bị quản lý tại cơ sở giam giữ trong thời hạn

tạm giữ, gia hạn tạm giữ theo quy định của BLTTHS”

 Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam nay đã quy định cụ thể về

những quyền cơ bản nhất, bổ sung một số quyền quan trọng cho

người bị tạm giữ, người bị tạm giam tại Điều 9, Điều 19 và Điều 22.

b) Quyền của bị can trong giai đoạn hỏi cung

- Không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc

buộc phải nhận mình có tội; được đề nghị giám định, định giá; được

đọc, ghi chép tài liệu được số hóa liên quan đến việc buộc tội hoặc

bản sao tài liệu khác liên quan đến việc bào chữa kể từ khi kết thúc

điều tra khi có yêu cầu...

- Quyền được giải thích quyền và nghĩa vụ:

- Giải thích quyền và nghĩa vụ của bị can là việc làm bắt buộc

của Điều tra viên trước khi tiến hành hỏi cung bị can.

- Quyền yêu cầu khi hỏi cung:

Là việc ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh.

- Quyền đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;

- Quyền yêu cầu có người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi

ích hợp pháp:

Người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can.

1.2.2 Trình tự, thủ tục bảo về quyền của bị can trong giai

đoạn điều tra

9

- Quyền bào chữa, bảo vệ của bị can (Bảo đảm quyền bào chữa

của người bị buộc tội, quyền bào chữa của người bị giữ trong trường

hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị cáo,…); Người bào

chữa; Cơ chế bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, người

bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố (thời điểm tham gia tố tụng,

đăng ký bào chữa).

- Người bào chữa

- Cơ chế bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, người

bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố:

 Thời điểm tham gia tố tụng: Người bào chữa tham gia tố tụng

từ khi khởi tố bị can.Trường hợp bắt, tạm giữ người thì người bào

chữa tham gia tố tụng từ khi người bị bắt có mặt tại trụ sở của Cơ

quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt

động điều tra hoặc từ khi có quyết định tạm giữ.

 Đăng ký bào chữa

1.3 Những yếu tố tác động đến bảo đảm quyền của bị can

trong giai đoạn điều tra

1.3.1 Quy định của pháp luật về bảo đảm quyền của bị can

trong giai đoạn điều tra

Giải thích rõ quyền và nghĩa vụ cho người bị bắt; Tiếp nhận

xử lý đơn yêu cầu nhờ người bào chữa; Tổ chức cho người bào chữa

gặp người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp; Đề nghị thay đổi người

tiến hành tố tụng, người giám định; Đề nghị thay đổi, huỷ bỏ biện

pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế của người bào chữa.

1.3.2 Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan điều tra

và cơ quan tư pháp

- Cơ quan điều tra – Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của

Cơ quan điều tra:

10

 Cơ quan điều tra của Công an nhân dân

 Cơ quan điều tra của Quân đội nhân dân

 Cơ quan điều tra của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao

 Nhiệm vụ: tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm hoặc phát

hiện hành vi phạm tội đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự thì

tiến hành các hoạt động kiểm tra, xác minh và điều tra theo quy định

của Bộ luật tố tụng hình sự và Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự.

- Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Viện Kiểm sát nhân

dân: Thực hiện quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp (Điều 3,

Điều 13 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân).

1.3.3 Mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức

Quy định tại Điều 11, 12 Luật tổ chức cơ quan điều tra hình

sự số 99/2015/QH13.

1.3.4 Năng lực, chuyên môn, ý thức trách nhiệm của điều

tra viên

Xác định Điều tra viên là người đóng vai trò quyết định đến

chất lượng, hiệu quả điều tra vụ án hình sự là có cơ sở lý luận, thực

tiễn. Muốn nâng cao chất lượng hoạt động tư pháp hình sự, cần nhận

thức, hoạt động điều tra tội phạm là cái gốc của cả hoạt động này và

hoạt động đó do điều tra viên tiến hành với vai trò chủ đạo.

1.3.5 Nhận thức, ý thức pháp luật của bị can

Bị can có quyền biết mình bị khởi tố về tội gì, đưa ra chứng

cứ và yêu cầu; đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám

định, người phiên dịch; có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác

bào chữa. Bị can được giao nhận bản sao quyết định khởi tố, quyết

định áp dụng biện pháp ngăn chặn; được giao nhận bản kết luận điều

tra, bản cáo trạng sau khi viện kiểm sát quyết định truy tố; được giao

11

nhận quyết định đình chỉ điều tra hoặc tạm đình chỉ điều tra; có

quyền khiếu nại các quyết định của cơ quan điều tra và viện kiểm sát.

1.3.6 Sự giám sát của các cơ quan nhà nước có thẩm

quyền và sự giám sát của xã hội

Được quy định tại Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự tại

Điều 11 về chức năng giám sát của Viện kiểm sát Kiểm sát việc tuân

theo pháp luật trong hoạt động điều tra; Điều 12 về trách nhiệm giám

sát của cơ quan, tổ chức và cá nhân trong hoạt động điều tra hình sự;

Điều 13 về chức năng Giám sát của cơ quan, tổ chức, đại biểu dân cử

đối với hoạt động điều tra hình sự.

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA

BỊ CAN TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA TẠI THÀNH PHỐ

HỒ CHÍ MINH

2.1 Những yếu tố chính trị, kinh tế, xã hội ảnh hưởng đến

bảo đảm quyền của bị can tại giai đoạn điều tra tại TP.HCM

 Lịch sử hình thành và yếu tố lịch sử từng thời kì và Sài Gòn

– Thành phố Hồ Chí Minh trải qua;

 Được xem là thủ đô kinh tế của cả nước;

 Địa bàn tiêu thụ ma tuý lớn;

 Văn bản pháp luật mới có nhiều điểm hạn chế thẩm quyền

của cơ quan thực thi pháp luật. 2.2 Tình hình tội phạm trong giai đoạn từ năm 2018 đến

quý 1/2020 tại Tp. Hồ Chí Minh

2.2.1 Tình hình tội phạm của năm 2018

(Số liệu từ báo cáo của Thiếu tướng Lê Đông Phong, giám đốc

công an TP.HCM tại buổi gặp mặt báo chí ngày 05/01/2019)

2.2.2 Tình hình tội phạm của năm 2019

12

2.2.3 Tình hình tội phạm tại Quý 1/2020

(Số liệu lấy từ Báo cáo của Ban chỉ đạo 138 – Công an TP.HCM 0 đã được duyệt sử dụng)

BẢNG THỐNG KÊ VỀ TÌNH HÌNH TỘI PHẠM

TRONG CÁC NĂM 2017 ĐẾN quý I/2020

(Số liệu đã được thu thập theo nguồn chính thức do

CATPHCM duyệt cung cấp)

Năm Nguồn Tổng số vụ Đối tượng Tỉ lệ phá án Thiệt hại Số liệu Tỉ lệ giảm so với tài sản Tỉ lệ tăng so với Hình sự bị bắt và xử lý Năm (tỷ đồng) năm liền kề trước

liền kề trước

2018 3.405 3.818 74,41% 4,85% Báo cáo của CATP

2019 3.080 1.188 76,98% 8,25% Báo cáo của CATP

19 10% 1.001 Quý 1/2020 Báo cáo của ban chỉ đạo 138

13

2.3 Thực tiễn về bảo đảm quyền của bị can trong giai đoạn

điều tra tại TP.HCM

2.3.1 Về việc tạm giam – tạm giữ:

Nghị định 89/1998/NĐ-CP, Nghị định 98/2002/NĐ-CP và

Luật thi hành tạm giữ, tạm giam quy định:

 Về tiếp nhận, hồ sơ quản lý người bị tạm giữ, tạm giam;

 Phân loại người bị tạm giữ, tạm giam để quản lý;

 Về chế độ thăm gặp của người bị tạm giữ, người bị tạm giam;

 Kỷ luật người bị tạm giữ, người bị tạm giam;

 Chế độ đối với người bị tạm giữ, người bị tạm giam là người

dưới 18 tuổi;

 Chế độ đối với người bị tạm giữ, người bị tạm giam là phụ nữ

có thai hoặc nuôi con dưới 36 tháng tuổi.

2.3.2 Về bảo đảm quyền bào chữa của bị can, người bị tạm

giữ tạm giam trong giai đoạn điều tra:

- Giải thích rõ quyền và nghĩa vụ cho người bị bắt;

- Tiếp nhận, xử lý đơn yêu cầu nhờ người bào chữa;

- Tổ chức cho người bào chữa gặp người bị giữ trong trường

hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can đang bị tạm

giam;

- Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định;

- Đề nghị thay đổi, huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp

cưỡng chế của người bào chữa.

2.4 Đánh giá chung về bảo đảm quyền của bị can trong giai

đoạn điều tra tại TP.HCM

2.4.1 Kết quả đạt được và nguyên nhân của kết quả đạt

được

14

Việc đảm bảo quyền của bị can, người bị tạm giữ, người bị

tạm giam để điều tra đã được nâng cao nhờ sự sửa đổi của pháp luật

hình sự, cụ thể là những tiến bộ của Bộ luật TTHS 2015 so với Bộ

luật TTHS 2003. Thể chế hoá các quy định của Hiến pháp về quyền

con người, quyền công dân bằng những quy định cụ thể (Khoản 2

Điều 60 BLTTHS năm 2015).

Một là quyền “Được biết lý do mình bị khởi tố”, hai là quyền

được “Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu đồ vật liên quan và yêu

cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá, ba là

quyền được “Đọc, ghi chép bản sao tài liệu hoặc tài liệu được số hoá

liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội hoặc bản sao tài liệu khác liên

quan đến việc bào chữa kể từ khi kết thúc điều tra khi có yêu cầu”.

2.4.2 Bất cập, hạn chế và nguyên nhân của những bất cập,

hạn chế

- Bất cập và hạn chế trong việc tạm giữ, tạm giam:

- Người tiến hành tố tụng vẫn mặc nhiên hiểu là người bị tình

nghi phạm tội, người bị buộc tội là tội phạm nên phải tạm giam để

trừng phạt, mà chưa hiểu thấu đáo nguyên tắc suy đoán vô tội trong

tố tụng hình sự “người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến

khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định

và có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật”

- Nguyên nhân chủ yếu do vướng mắc bởi các quy định của

pháp luật, vướng mắc do các yếu tố khác (trang thiết bị phương tiện

kỹ thuật, nhận thức về quyền con người của người tiến hành tố tụng,

trình độ năng lực của một số bộ phận các bộ trong cơ quan tố tụng,

nhận thức về quyền con người của người dân).

- Bất cập và hạn chế trong việc thực hiện nguyên tắc bảo đảm

quyền bào chữa của bị can.

15

 Về quyền của bị can khi hỏi cung;

 Về quyền và nghĩa vụ cho bị can: Bộ luật TTHS 2015 chỉ yêu

cầu giải thích quyền và nghĩa vụ cho bị can khi tiến hành hỏi cung bị

can lần đầu tiên.

 Về quyền yêu cầu của bị can khi hỏi cung: Bộ luật TTHS năm

2015 về hỏi cung bị can là việc ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh.

 Về quyền bào chữa: vai trò của người bào chữa trong thực tế

còn hạn chế và chưa được tôn trọng; Bào chữa chỉ đỉnh mang tính

hình thức; quyền được hỏi bị can phụ thuộc vào ý chí chủ quan của

điều tra viên.

CHƯƠNG III: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM

QUYỀN CỦA BỊ CAN TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA

3.1 Quan điểm về bảo đảm quyền của bị can trong giai

đoạn điều tra

Nghiên cứu hoàn thiện các quy định của Bộ luật tố tụng hình

sự (BLTTHS) liên quan đến bảo đảm quyền con người, đánh giá việc

thực hiện các quy định đó trên thực tế để từ đó đưa ra các giải pháp

hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả hoạt động tố tụng là một

trong những nội dung quan trọng của việc nghiên cứu bảo đảm

quyền con người trong tố tụng hình sự hiện nay.

3.1.1 Quy định của Hiến pháp 2013 về quyền con người

Ngoài các quy định về quyền con người, Hiến pháp cũng có

những quy định để bảo đảm thực hiện quyền con người.

Thứ nhất, Hiến pháp ghi nhận các quyền con người đồng thời quy

định các bảo đảm cũng như trách nhiệm của Nhà nước để các quyền

đó được thực hiện.

16

Thứ hai, Hiến pháp quy định rõ ràng, đầy đủ quyền của

người bị buộc tội.

3.1.2 Cơ chế Hiến định bảo vệ, bảo đảm quyền con người

Cùng với việc quy định quyền con người, Hiến pháp cũng

quy định những bảo đảm quan trọng cho việc bảo vệ quyền con

người nói chung và trong tố tụng hình sự nói riêng. Hiến pháp quy

định về trách nhiệm của Nhà nước tôn trọng, bảo vệ quyền con

người. Cùng với các quy định về quyền con người, bao giờ cũng có

quy định về trách nhiệm của Nhà nước hoặc bảo hộ của pháp luật

nhằm thực hiện các quyền đó trên thực tế. Quy định chức năng chính

của Viện kiểm sát nhân dân là thực hành quyền công tố, kiểm sát

hoạt động tư pháp. Hiến pháp năm 2013 về quyền con người đã có

bước phát triển vượt bậc trong tư duy cũng như thực tiễn về bảo đảm

quyền con người ở nước ta, phù hợp với xu thế phát triển của thời

đại.

3.1.3 Những bảo đảm về quyền con người trong tố tụng hình

sự

- Các quy định về quyền con người và bảo đảm quyền con

người trong hiến pháp là cơ sở Hiến định quan trọng để xây dựng hệ

thống pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật ở nước ta.

 Thứ nhất, Bộ luật đã quy định các nguyên tắc cơ bản liên quan

đến bảo vệ quyền con người.

 Thứ hai, BLTTHS năm 2015 đã hoàn thiện các quy định về

các biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự, nhất là các biện pháp bắt,

tạm giữ, tạm giam; quy định cụ thể thẩm quyền, căn cứ và thời hạn

áp dụng theo nguyên lý bảo đảm cho hoạt động tố tụng hiệu quả với

việc hạn chế quyền con người khi thật cần thiết và ở mức tối thiểu

nhất.

17

 Thứ ba, Quy định tương đối rõ ràng địa vị tố tụng của các chủ

thể tố tụng hình sự; đặc biệt là địa vị tố tụng của người tham gia tố

tụng nói chung, của người bị buộc tội nói riêng.

- Xem xét từ góc độ bảo vệ quyền con người, pháp luật TTHS

hiện hành đã phần nào đáp ứng được các đảm đảm về bảo vệ quyền

con người.

 Một là, đã xác định bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người là

một trong những nhiệm vụ của BLTTHS.

 Hai là, đã từng bước hoàn thiện các quy định về nguyên tắc tố

tụng hình sự, trong đó có các nguyên tắc liên quan trực tiếp đến bảo

vệ quyền con người.

 Ba là, hoàn thiện địa vị tố tụng của các chủ thể tố tụng hình sự

theo hướng tăng cường các quyền tố tụng của người tham gia tố

tụng, nhất là bên bào chữa.

 Bốn là, hoàn thiện các quy định về các thời hạn tố tụng.

 Năm là, hoàn thiện các quy định về biện pháp ngăn chặn, nhất

là các biện pháp hạn chế quyền tự do của con người.

3.2 Giải pháp bảo đảm quyền của bị can trong giai đoạn

điều tra từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh

3.2.1 Hoàn thiện pháp luật

- Cần phải tiếp tục hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự thông

qua việc sửa đổi, bổ sung các quy định về các căn cứ áp dụng biện

pháp tạm giam với bị can, bị cáo

- Cần bổ sung các quy định rõ hơn về trách nhiệm của Cơ quan

điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án khi xem xét quyết định áp dụng biện

pháp tạm giam

18

- Cần quy định việc gắn hệ thống camera giám giát trong các

buồng giam, trong các phòng hỏi cung, trong khuôn viên nhà tạm

giữ, trại tạm giam

- Nên sửa đổi, bổ sung Điều 57 BLTTHS về 3 nội dung:  Thứ nhất, liên quan đến quyền lựa chọn người bào chữa  Thứ hai, sửa đổi, bổ sung nội dung liên quan đến quyền từ

chối người bào chữa.

 Thứ ba, nên quy định về việc cử người bào chữa dự bị cho

người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong trường hợp họ gặp khó khăn

về việc tự bào chữa do trước đó đã từ chối người bào chữa. Đây là

quy định được nhiều nước áp dụng.

3.2.2 Nâng cao năng lực, hoàn thiện tổ chức, bộ máy cơ quan

điều tra

- Nhận thức được việc bảo đảm thực hiện quyền bào chữa của

người bị tạm giữ, bị can, bị cáo chính là giúp họ giải quyết vụ án

khách quan, toàn diện và đầy đủ.

- Am hiểu thấu đáo những quy định của pháp luật về quyền có

người bào chữa.

- Thường xuyên đào tạo, bồi dưỡng và tập huấn cho những

người tiến hành tố tụng.

- Thay đổi nhận thức chưa đúng đắn của những người tiến hành

tố tụng về vai trò, vị trí của người bào chữa trong tố tụng hình sự.

- Hoàn thiện tổ chức – bộ máy cơ quan điều tra

3.2.3 Tăng cường kiểm sát hoạt động điều tra

- Cần phát huy sức mạnh của mô hình Cơ quan điều tra theo

quy định của Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự năm 2004.

- Không được “hoà tan” giữa hai khâu điều tra trinh sát và điều

tra tố tụng làm một, nhất là phải khắc phục tình trạng khép kín, thoát

19

ly khỏi sự quản lý về hoạt động tố tụng hình sự của Thủ trưởng Cơ

quan điều tra.

- Đẩy nhanh việc nghiên cứu, xây dựng Luật tổ chức Cơ quan

điều tra hình sự nhằm hoàn thiện một bước cơ sở pháp lý để bảo đảm

các điều kiện về tổ chức bộ máy.

- Phân công hợp lý thẩm quyền điều tra, nâng cao khả năng hợp

tác quốc tế trong điều tra tội phạm.

- Tiếp tục nghiên cứu tổ chức lại các Cơ quan điều tra cho gọn

đầu mối, thống nhất chỉ đạo hoạt động điều tra.

- Kết hợp chặt chẽ giữa công tác trinh sát và hoạt động điều tra

theo tố tụng.

- Cơ quan điều tra có chức năng, nhiệm vụ chủ yếu là điều tra,

phát hiện và xử lý tội phạm theo quy định của pháp luật.

- Cơ quan điều tra là cơ quan tư pháp, không làm nhiệm vụ

quản lý Nhà nước vì vậy không nên giao thẩm quyền xử phạt vi

phạm hành chính.

- Điều tra viên là một chức danh tư pháp độc lập, hoạt động của

Điều tra viên là hoạt động, đó là điều tra, khám phá tội phạm.

- Tiến hành rà soát, đánh giá, bố trí lại lực lượng Cảnh sát điều

tra trong toàn quốc.

3.2.4 Nâng cao trình độ, năng lực, ý thức trách nhiệm của

điều tra viên

- Thứ nhất, tuyển chọn đúng người để đào tạo Điều tra viên.

- Thứ hai, cần xây dựng chương trình đào tạo nghề điều tra hình

sự trong các trường Công an nhân dân đáp ứng yêu cầu của thực tiễn.

- Thứ ba, đổi mới, nâng cao chất lượng quản lý, sử dụng cũng

như bảo đảm các điều kiện cho hoạt động của Điều tra viên.

20

- Cuối cùng là vấn đề bảo đảm kinh phí và cơ sở vật chất, vũ

khí, công cụ hỗ trợ, trang thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ cho hoạt động

điều tra tội phạm nói chung cũng như phương tiện cần thiết cho điều

tra viên nói riêng.

3.2.5 Tăng cường sự giám sát của cơ quan quyền lực nhà

nước và giám sát của xã hội đối với hoạt động điều tra

- Tuân thủ các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và Luật tổ

chức cơ quan điều tra hình sự.

- Cơ quan Điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một

số hoạt động Điều tra thực hiện yêu cầu, quyết định của Viện kiểm

sát.

- Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền và nghĩa vụ phát hiện, tố

giác, báo tin về tội phạm, vụ việc phạm tội, kiến nghị khởi tố.

- Cơ quan nhà nước có trách nhiệm thông báo ngay cho Cơ

quan Điều tra mọi hành vi phạm tội xảy ra trong cơ quan và trong

lĩnh vực quản lý của mình.

- Cơ quan Điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một

số hoạt động Điều tra có trách nhiệm tiếp nhận, xem xét, giải quyết

tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố.

3.2.6 Nâng cao nhận thức, ý thức pháp luật cho người dân

- Tuyên truyền và nâng cao ý thức pháp luật đối với người dân:

 Thay đổi nhận thức của người dân nói chung và người bị tạm

giữ, bị can, bị cáo nói riêng khi cho rằng, sự tham gia tố tụng của

người bào chữa là không cần thiết và tốn kém;

 Đưa Đề án đưa nội dung quyền con người vào chương trình

giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân;

 Cần tập huấn, nâng cao nhận thức về quyền con người cho đội

ngũ các nhà báo, các phóng viên.

21

KẾT LUẬN Quyền con người là những quyền cơ bản nhất của con người,

được có một cách tự nhiên gắn bó mật thiết với con người - một

động vật cao cấp có lý trí, và có tình cảm làm cho con người khác

với các động vật khác, mà nhà nước thành lập với một trong những

nhiệm vụ quan trọng bậc nhất của mình là phải bảo vệ những quyền

đó. Cũng vì lẽ tự nhiên đó, quyền con người luôn là mục tiêu của

Hiến pháp mỗi quốc gia. Quyền con người luôn gắn liền với Hiến

pháp. Hiến pháp không những chỉ là văn bản quy định việc tổ chức

nhà nước, mà còn bảo đảm việc thực hiện quyền con người, quyền

công dân. Do vậy, việc thực thi Hiến pháp cũng chính là bảo đảm

thực thi quyền con người. Cả bốn bản Hiến pháp (Hiến pháp 1946,

1959, 1980, 1992) đều khẳng định nguyên tắc: tất cả quyền lực nhà

nước thuộc về nhân dân, xác định bản chất Nhà nước là nhà nước

của dân, do dân và vì dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp

công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức. Bên cạnh đó, bốn bản Hiến

pháp là bốn nấc thang về việc ghi nhận và phát triển các quyền cũng

như cơ chế bảo vệ các quyền con người, quyền công dân ở Việt

Nam. Ngày 28/12/2013 Quốc hội đã thông qua Hiến pháp sửa đổi.

Bản Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã có

hiệu lực từ ngày 01/01/2014. Hiến pháp sửa đổi lần này có nhiều

điểm mới về nội dung và cách thức thể hiện. Trong đó có những

điểm mới, những điểm đã được sửa đổi, bổ sung trong chế định

quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân của Hiến

pháp sửa đổi. Có thể nói, lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến nước ta,

22

Hiến pháp trực tiếp quy định nhiệm vụ của Chính phủ, Tòa án nhân

dân, Viện kiểm sát nhân dân về bảo vệ quyền con người, quyền công

dân- một nhiệm vụ hiến định. Từ đây, xã hội, nhân dân, mọi người

có quyền đặt ra yêu cầu ngày càng cao hơn đối với Chính phủ, Tòa

án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân trong việc thực hiện nhiệm vụ

hiến định về bảo vệ quyền con người, quyền công dân.

Hiến pháp năm 2013 đã dự liệu việc xây dựng cơ chế bảo vệ

Hiến pháp ở Việt Nam: Cơ chế bảo vệ Hiến pháp do luật định (khoản

2 Điều 119). Cơ chế bảo vệ Hiến pháp cũng chính là cơ chế bảo vệ

quyền con người vì Hiến pháp là văn bản tôn vinh con người, công

nhận, bảo đảm, bảo vệ và thúc đẩy quyền con người ở nước ta. Một

cơ chế bảo hiến hiện đại, phù hợp với nguyện vọng nhân dân phải là

cơ chế bảo vệ quyền con người đã được long trọng công nhận trong

Hiến pháp.

Hoạt động tố tụng hình sự gồm các giai đoạn: Khởi tố, điều

tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Mỗi giai đoạn tố tụng hình sự đều

quan trọng và góp phần giải quyết vụ án khách quan, đúng pháp luật.

Là một luật sư, với vai trò là người bào chữa cho bị can bị cáo, tuân

thủ nguyên tắc Thượng tôn pháp luật, làm việc theo Hiến Pháp và

Pháp luật, người viết đã thực hiện luận văn này với mục đích làm rõ

các nguyên tắc bảo đảm quyền con người của Hiến Pháp, bảo đảm

quyền của bị can ở giai đoạn điều tra, là một giai đoạn rất quan trọng

trong toàn bộ quá trình tố tụng hình sự. Luận văn này có những

nghiên cứu về thực tiễn về đảm bảo quyền của bị can, người bị tạm

giữ, tạm giam tại địa bàn thành phố Hồ Chí Minh là nơi mà người

23

viết sống và làm việc chủ yếu. Từ thực tiễn này, người viết đưa ra, đề

xuất các giải pháp để có thể hoàn thiện hơn cho hoạt động hành nghề

của mình và các đồng nghiệp, hiểu rõ hơn và quyền và nghĩa vụ của

bản thân mình để bảo đảm quyền của bị can, người bị tạm giữ, người

bị tạm giam trong giai đoạn điều tra, vì đây là quyền con người của

công dân mà Hiến Pháp năm 2013 đã công nhận.

24