BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
…………/………… ……/……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA NGUYỄN LƢƠNG VIỆT
BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƢỜI CỦA ĐỐI TƢỢNG BỊ TẠM GIỮ, TẠM GIAM TẠI NHÀ TẠM GIỮ CÔNG AN
CẤP HUYỆN – QUA THỰC TIỄN HUYỆN BỐ TRẠCH, TỈNH QUẢNG BÌNH
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2020
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ …………/………… ……/……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
NGUYỄN LƢƠNG VIỆT
BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƢỜI CỦA ĐỐI TƢỢNG BỊ
TẠM GIỮ, TẠM GIAM TẠI NHÀ TẠM GIỮ CÔNG AN CẤP HUYỆN – QUA THỰC TIỄN HUYỆN BỐ TRẠCH, TỈNH QUẢNG BÌNH
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH Mã số: 8 38 01 02 NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. VŨ ĐỨC ĐÁN
THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2020
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi. Các số
liệu nêu trong luận văn là trung thực, chính xác. Kết quả nghiên cứu nêu trong
luận văn chưa được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
ii
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, đầu tiên cho phép em được gửi lời cảm ơn
chân thành nhất đến quý thầy cô trong Học viện hành Chính Quốc Gia đã tận
tình giảng dạy, truyền đạt cho em những kiến thức quý báu trong suốt thời
gian học tập tại trường. Những kiến thức được chỉ dạy cũng như những kỹ
năng được tô luyện trong quá trình học tập nghiên cứu là nền tảng vững chắc
giúp em có thể hoàn thành bài luận văn này.
Đặc biệt, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Thầy PGS.TS. Vũ Đức
Đán, người đã trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ tận tình và có những định hướng,
góp ý quý giá, tạo điều kiện thuận lợi để em có thể hoàn thành luận văn.
Em cũng xin được gửi lời cảm ơn các anh chị, bạn bè đã luôn động
viên, cho em những góp ý chân thành trong quá trình học tập, nghiên cứu và
thực hiện luận văn.
Mặc dù bản thân em đã cố gắng trong suốt quá trình thực hiện bài
luận văn song với kiến thức và kinh nghiệm nghiên cứu còn hạn chế nên
không tránh khỏi những thiếu sót. Bài luận văn như là bước đệm đầu tiên
giúp em có cơ hội tiến gần hơn với tri thức khoa học và cả con đường nghiên
cứu sau này. Kính mong quý thầy cô đóng góp ý kiến để bài luận văn của em
có thể hoàn thiện hơn.
Cuối cùng, em xin kính chúc quý thầy cô nhiều sức khoẻ, hạnh phúc,
thuận lợi trong công việc và tiếp tục tâm huyết với sứ mệnh trồng người cao
cả, truyền đạt những kiến thức bổ ích cho thế hệ mai sau!
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn!
iii
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
QCN: Quyền con người
BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự
TTHS: Tố tụng hình sự
BLHS: Bộ luật hình sự
VKSND: Viện kiểm sát nhân dân
CQCSĐT: Cơ quan cảnh sát điều tra
iv
MỤC LỤC MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 1 1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn ....................................................................... 1 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn ........................................... 3 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn ................................................................... 5 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn ................................................. 6 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn ............................ 6 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn........................................................... 6 7. Kết cấu của luận văn ........................................................................................... 7 NỘI DUNG ................................................................................................................ 8 Chương 1: .................................................................................................................. 8 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA ĐỐI TƯỢNG BỊ TẠM GIỮ, TẠM GIAM TẠI NHÀ TẠM GIỮ CỦA CÔNG AN CẤP HUYỆN ................................................................................ 8 1.1. Lý luận về quyền con người và quyền con người của đối tượng bị tạm giữ, tạm giam tại nhà tạm giữ của Công an cấp huyện .................................................. 8 1.2. Quy định của pháp luật về bảo đảm quyền con người của đối tượng bị tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ của Công an cấp huyện ........................................ 17 1.3. Những yếu tố tác động đến bảo đảm quyền con người của đối tượng bị tạm giữ, tạm giam tại nhà tạm giữ của Công an cấp huyện ......................................... 32 Chương 2: ................................................................................................................ 38 THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA ĐỐI TƯỢNG BỊ TẠM GIỮ, TẠM GIAM TẠI NHÀ TẠM GIỮ CỦA CÔNG AN HUYỆN BỐ TRẠCH, TỈNH QUẢNG BÌNH ............................................................................................. 38 2.1. Đặc điểm tình hình Nhà tạm giữ của Công an huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình và các đối tượng bị tạm giữ, tạm giam ......................................................... 38 2.2. Tình hình bảo đảm quyền con người của đối tượng bị tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ của Công an huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình .............................. 46 2.3. Đánh giá chung về thực trạng bảo đảm quyền con người của đối tượng bị tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ của Công an huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình ....................................................................................................................... 61 Chương 3: ................................................................................................................ 75 QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA ĐỐI TƯỢNG BỊ TẠM GIỮ, TẠM GIAM TẠI NHÀ TẠM GIỮ CỦA CÔNG AN CẤP HUYỆN TỪ THỰC TIỄN HUYỆN BỐ TRẠCH, TỈNH QUẢNG BÌNH ............ 75 3.1. Quan điểm bảo đảm quyền con người của đối tượng bị tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an cấp huyện ........................................................................... 75 3.2. Giải pháp bảo đảm quyền con người của đối tượng bị tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an cấp huyện ........................................................................... 78 KẾT LUẬN ............................................................................................................. 95 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................ 96
v
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Bảng 2.1: Bảng công tác kiểm sát tạm giữ từ năm 2015 đến năm 2020 của
Viện kiểm sát nhân dân huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình ....................... 44
Bảng 2.2: Bảng công tác kiểm sát tạm giam từ năm 2015 đến năm 2020 của
Viện kiểm sát nhân dân huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình ....................... 45
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn
Quyền con người là thành quả phát triển lâu dài của lịch sử nhân loại, là
giá trị chung của các dân tộc. Ngày nay, quyền con người được xem như là
thước đo sự tiến bộ và trình độ văn minh của các xã hội, không phân biệt chế
độ chính trị, trình độ phát triển và bản sắc văn hóa. Con người tồn tại trong xã
hội với những quyền căn bản của mình có sẵn trong tự nhiên hoặc được xã hội
khẳng định, nhưng dù thế nào thì tiến trình của thời gian vẫn chứng minh rằng
các quyền con người này ngày càng được bảo đảm và nâng cao hơn. Về lý
luận cũng như trên thực tế, quyền cơ bản của con người là những quyền không
thể thiếu để cá nhân có thể tồn tại và phát triển bình thường với tư cách là một
thành viên của cộng đồng xã hội trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Những
quyền của con người như quyền được sống, quyền mưu cầu hạnh phúc, quyền
được tôn trọng danh dự, nhân phẩm, được bất khả xâm phạm về thân thể, được
tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng là những điều kiện cần thiết để con người tổ
chức đời sống trong xã hội văn minh và cần phải được Nhà nước thừa nhận và
bảo vệ một cách vô điều kiện. Ở Việt Nam, vấn đề quyền con người là vấn đề
quan trọng luôn được Đảng, Nhà nước và nhân dân quan tâm, bảo vệ bằng
nhiều văn bản pháp luật khác nhau như Hiến pháp, Bộ Luật Hình sự, Bộ luật
Tố tụng hình sự, v.v...Trong lĩnh vực tư pháp hình sự đối tượng bị bắt tạm giữ,
tạm giam sẽ bị hạn chế một phần quyền con người, quyền công dân theo quy
định của pháp luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh
quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng,
nhưng bên cạnh đó những người này họ còn có những quyền con người khác
mà không bị pháp luật hạn chế cần phải được tôn trọng và bảo đảm cho họ.
Những đối tượng bị tạm giữ, tạm giam này họ đã thực hiện những hành vi
nguy hiểm cho xã hội thì sẽ bị pháp luật xử lý thích đáng theo quy định, nhưng
2
trong thời gian bị tạm giữ, tạm giam ở các cơ sở giam giữ, quyền con người cơ
bản của họ không vì thế mà bị tước bỏ hết, họ cần được quan tâm, giáo dục để
cải tạo sửa chữa những lỗi lầm của bản thân để trở thành người có ích cho xã
hội về sau.
Trước sự nghiệp phát triển đổi mới của đất nước ta và xu thế hội nhập
kinh tế quốc tế, bảo đảm quyền con người của đối tượng bị tạm giữ, tạm giam
đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập; đó là sự nhận thức về tính chất, vai trò, và
tầm quan trọng của quá trình giam, giữ người cũng như nhận thức pháp luật về
các trình tự, thủ tục giải quyết vụ án chưa đầy đủ nên đã xâm hại đến quyền
con người của các đối tượng bị tạm giữ, tạm giam tại các nhà tạm giữ của
Công an. Đồng thời, một số Cán bộ, Kiểm sát viên, Điều tra viên, Thẩm phán
trong các cơ quan tiến hành tố tụng có trình độ, năng lực hạn chế, ý thức pháp
luật và ý thức thi hành công vụ chưa được nâng cao dẫn đến vi phạm trong
hoạt động tố tụng làm ảnh hưởng đến quyền lợi của các đối tượng bị tạm giữ,
tạm giam.
Mặt khác, sự kỳ thị của một bộ phận không nhỏ những người làm pháp
luật đối với các đối tượng bị tạm giữ, tạm giam vì họ đã có các hành vi phạm
tội mà pháp luật không cho phép, nên với sự kỳ thị này đã ảnh hưởng phần nào
đến việc bảo đảm quyền con người cho các đối tượng bị tạm giữ, tạm giam tại
các Nhà tạm giữ của Công an ở cấp huyện.
Việc bảo đảm quyền con người của các đối tượng bị tạm giữ, tạm giam
tại Nhà tạm giữ Công an cấp huyện nói chung và tại huyện Bố Trạch, tỉnh
Quảng Bình nói riêng những năm qua còn nhiều tồn đọng, khó khăn, vướng
mắc, xuất phát từ nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu là khâu tổ chức thực hiện
pháp luật trong những điều kiện, hoàn cảnh khác nhau, công tác quản lý giam
giữ chưa được chặt chẽ, đúng quy định; một số quy định của pháp luật còn
chưa sát với thực tiễn; sự nhận thức về tính chất, vai trò, và tầm quan trọng của
3
quá trình giam, giữ chưa được coi trọng nên đã xâm hại tới quyền con người
của các đối tượng bị tạm giữ, tạm giam. Vì vậy, việc chọn nghiên cứu đề tài
“Bảo đảm quyền con ngƣời của đối tƣợng bị tạm giữ, tạm giam tại Nhà
tạm giữ Công an cấp huyện - Qua thực tiễn huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng
Bình” là yêu cầu khách quan và cấp thiết để đưa ra những quan điểm và giải
pháp thích hợp nhằm giải quyết những tồn tại bất cập hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Với cách nhìn nhận về quyền con người trong thế giới hiện đại ngày
càng sâu sắc vì tầm quan trọng của vấn đề này, trên quốc tế và ở Việt Nam
hiện nay có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này, cụ thể:
Ở góc độ luận văn thạc sĩ có nhiều công trình đã công bố liên quan như:
“Pháp luật về bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử hình sự ở Việt
Nam hiện nay”, của Nguyễn Thị Bình, Luận văn thạc sỹ luật học, năm 2012 đã
nghiên cứu làm sáng tỏ một số vấn đề về quyền con người và thực trạng các
quy định của pháp luật hiện nay ở nước ta về bảo đảm quyền con người trong
xét xử các vụ án hình sự, đồng thời đề xuất phương hướng, nội dung hoàn
thiện pháp luật nhằm bảo đảm quyền con người của bị can, bị cáo trong các vụ
án hình sự; “Bảo đảm quyền con người trong hoạt động bắt, tạm giữ, tạm
giam theo luật tố tụng hình sự Việt Nam (Trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn
tỉnh Đăk Lăk)”, của Bùi Văn Tâm, Luận văn thạc sỹ luật học, năm 2015 đã
nghiên cứu đưa ra những kiến nghị để hoàn thiện các quy định của pháp luật tố
tụng hình sự góp phần nâng cao hiệu quả việc bảo đảm quyền con người trong
hoạt động bắt, tạm giữ, tạm giam; “Cơ chế bảo vệ và thúc đẩy quyền con
người ở khu vực Asean”, của Phạm Xuân Hải, Luận văn thạc sỹ luật học, năm
2016 đã nêu và phân tích làm rõ những vấn đề lý luận về cơ chế bảo vệ và thúc
đẩy quyền con người từ đó xem xét đánh giá thực trạng ghi nhận hoạt động
của cơ chế này và đưa ra các đề xuất góp phần cải thiện hoạt động trên trong
4
khu vực Asean…
Về sách gồm: “Giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con người”,
Khoa luật - Đại học quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, 2011;
“Bảo vệ và thúc đẩy quyền con người trong khu vực Asean”, Khoa luật - Đại
học quốc gia Hà Nội, Nxb Lao động - Xã hội, 2012; “Quyền con người, quyền
công dân trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, của Trần
Ngọc Đường, Nxb Chính trị quốc gia, 2004; “Bảo vệ quyền con người trong
luật hình sự, luật tố tụng hình sự Việt Nam”, sách chuyên khảo của TS. Trần
Quang Tiệp, Nxb Chính trị quốc gia, 2004…
Về tạp chí khoa học chuyên ngành luật gồm: Bài viết “Bảo đảm quyền
con người của người bị tạm giữ, tạm giam trong Bộ luật tố tụng hình sự năm
2015” của ThS. Nguyễn Hà Giang ( Trường Chính trị Trần Phú Hà Tĩnh), đã
phân tích quy định của pháp luật về bảo đảm quyền con người của người bị
tạm giữ, tạm giam, từ đó đưa ra một số kiến nghị góp phần hoàn thiện pháp
luật bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực tư pháp hình sự nói chung và
quyền của người bị tạm giữ, tạm giam nói riêng; Bài viết nghiên cứu trao đổi
“Một số vấn đề tạm giam bị can, bị cáo trong trường hợp bị bệnh nặng” của
Hồ Quân - Tòa án quân sự Khu vực 1 Quân khu 4, đã phân tích đánh giá và
đưa ra hướng hoàn thiện pháp luật đối với vấn đề trên theo hướng đảm bảo
quyền lợi cho bị can, bị cáo bị tạm giam mà mắc phải bệnh nặng…
Qua các nghiên cứu trên cho thấy rằng, các nghiên cứu về góc độ thạc
sỹ, sách, tạp chí khoa học chuyên ngành trên đã góp phần gải quyết một số vấn
đề để làm sáng tỏ về quyền con người nói chung và quyền con người trong
việc bắt tạm giữ, tạm giam theo tố tụng hình sự. Tuy nhiên, cho đến nay chưa
có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện, chuyên biệt về bảo đảm
quyền con người của đối tượng bị tạm giữ, tạm giam ở huyện Bố Trạch, tỉnh
Quảng Bình, luận văn là công trình khoa học đầu tiên, nghiên cứu một cách
5
toàn diện và chuyên biệt về “Bảo đảm quyền con ngƣời của đối tƣợng bị
tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an cấp huyện - Qua thực tiễn
huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình”, dưới góc độ Luật Hiến pháp và Luật
Hành chính. Với kết quả nghiên cứu của đề tài luận văn, chúng tôi hy vọng sẽ
tháo gỡ hết được các bất cập và vướng mắc như đã nêu.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích nghiên cứu: Đề tài luận văn có mục đích nghiên cứu là làm
sáng tỏ cơ sở lý luận về quyền con người của đối tượng bị tạm giữ, tạm giam
và thực trạng bảo đảm quyền con người của các đối tượng đó ở Nhà tạm giữ
Công an cấp huyện nói chung và Nhà tạm giữ Công an huyện Bố Trạch, tỉnh
Quảng Bình nói riêng, nhằm đưa ra các quan điểm và giải pháp cơ bản bảo
đảm quyền con người của đối tượng bị tạm giữ, tạm giam tại địa phương.
Nhiệm vụ nghiên cứu: Để thực hiện được nội dung trên, luận văn đặt
ra những cách thức, nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể sau:
Thứ nhất, nghiên cứu hệ thống hoá cơ sở lý luận về quyền con người
của đối tượng bị tạm giữ, tạm giam thông qua việc làm rõ khái niệm, đặc điểm,
nội dung và sự cần thiết phải bảo đảm quyền con người trong tạm giữ, tạm
giam; xác định các yếu tố ảnh hưởng đến bảo đảm quyền con người trong tạm
giữ, tạm giam.
Thứ hai, phân tích thực trạng bảo đảm quyền con người trong tạm giữ,
tạm giam ở huyện Bố Trạch trong thời gian từ năm 2015 đến năm 2020, qua
đó đánh giá về những kết quả đạt được; những hạn chế, yếu kém và nguyên
nhân của những hạn chế, yếu kém này.
Thứ ba, đề xuất các quan điểm và giải pháp toàn diện, có hệ thống và
tính khả thi nhằm bảo đảm quyền con người trong tạm giữ, tạm giam ở huyện
Bố Trạch.
6
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tƣợng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy
định của pháp luật hiện hành và tổ chức thực hiện pháp luật về bảo đảm quyền
con người trong tạm giữ, tạm giam ở nhà tạm giữ Công an huyện Bố Trạch
Phạm vi nghiên cứu: Dưới góc độ nghiên cứu của Luật Hiến pháp và
Luật Hành chính, bảo đảm quyền con người trong tạm giữ, tạm giam ở huyện
Bố Trạch là vấn đề có nội dung rộng lớn và phức tạp. Vì vậy, về không gian
luận văn nghiên cứu bảo đảm quyền con người trong tạm giữ, tạm giam ở Nhà
tạm giữ Công an huyện Bố Trạch trong thời gian từ năm 2015 đến năm 2020.
Về nội dung, luận văn nghiên cứu về bảo đảm các quyền con người trong tạm
giữ, tạm giam theo quy định của pháp luật hiện hành.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
Phƣơng pháp luận: Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của
Chủ nghĩa Mác - Lênin về duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; quan điểm,
chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước Việt Nam và tư
tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người và bảo đảm quyền con người trong
tạm giữ, tạm giam.
Phƣơng pháp nghiên cứu: Xuất phát từ mục đích và nội dung nghiên
cứu, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: phân tích, tổng hợp,
thống kê, so sánh pháp luật, dự báo để chọn lọc những tri thức khoa học cũng
như kinh nghiệm thực tiễn về bảo đảm quyền con người trong tạm giữ, tạm
giam ở các địa phương có điều kiện tự nhiên, văn hóa pháp lý tương đồng.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về lý luận, những kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ là những bổ sung
quan trọng vào lý luận và thực tiễn Luật Hiến pháp và Luật Hành chính, góp
phần hoàn thiện hệ thống lý luận về quyền con người và bảo đảm quyền con
người trong tạm giữ, tạm giam - một nhóm chủ thể dễ bị tổn thương bị tước bỏ
7
quyền tự do đi lại và một số quyền khác.
Về thực tiễn, những kết quả nghiên cứu của đề tài luận văn có thể làm tư
liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu về quyền con người; về hoạt động tố
tụng hình sự. Những giải pháp được luận giải thuyết phục từ cơ sở đến nội
dung và các điều kiện bảo đảm thực hiện từng giải pháp trong luận văn sẽ giúp
các nhà quản lý trong tham mưu, đề xuất hoàn thiện chính sách, pháp luật về
bảo đảm quyền con người trong tạm giữ, tạm giam.
7. Kết cấu của luận văn
Bố cục của Luận văn được sắp xếp trình bày gồm: Lời cam đoan, Lời
cảm ơn, Danh mục các từ viết tắt, Mục lục, Phần mở đầu, Phần nội dung, Phần
kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo.
Nội dung của luận văn được chia làm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về bảo đảm quyền con
người của đối tượng bị tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ của Công an cấp
huyện;
Chương 2: Thực trạng bảo đảm quyền con người của đối tượng bị tạm
giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ của Công an huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình;
Chương 3: Quan điểm và giải pháp bảo đảm quyền con người của đối
tượng bị tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ của Công an cấp huyện từ thực
tiễn huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình.
8
NỘI DUNG
Chương 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN
CON NGƢỜI CỦA ĐỐI TƢỢNG BỊ TẠM GIỮ, TẠM GIAM TẠI NHÀ
TẠM GIỮ CỦA CÔNG AN CẤP HUYỆN
1.1. Lý luận về quyền con ngƣời và quyền con ngƣời của đối tƣợng
bị tạm giữ, tạm giam tại nhà tạm giữ của Công an cấp huyện
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm quyền con ngƣời và bảo đảm quyền con
ngƣời
1.1.1.1. Khái niệm quyền con ngƣời
Quyền con người là kết tinh những gì tinh hoa nhất của các dân tộc trên
toàn thế giới, nó có giá trị vĩnh cửu và trường tồn theo thời gian, là thước đo
cho sự phát triển của toàn nhân loại, đây là tiếng nói chung để thúc đẩy hạnh
phúc và nhân phẩm của mọi con người trên toàn thế giới, QCN đã được pháp
điển hóa có tính bắt buộc chung đối với mỗi quốc gia, đây còn là thước đo về
trình độ văn minh của các nước và các dân tộc trên thế giới. Tuy nhiên QCN
có phạm trù rất rộng lớn do đó có rất nhiều khái niệm khác nhau được nhìn
nhận từ nhiều gốc độ nghiên cứu khác nhau. Vì vậy tính phù hợp của khái
niệm phụ thuộc vào sự nhìn nhận chủ quan của mỗi cá nhân, sau đây chúng ta
sẽ làm rõ một số khái niệm QCN như sau: Ở cấp độ quốc tế theo định nghĩa của
Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc “quyền con người là những bảo đảm pháp lý
toàn cầu (universal legal guarantees) có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các
nhóm chống lại những hành động (actions) hoặc sự bỏ mặc (omissions) mà
làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép (entitlements) và tự do cơ
bản (fundamental freedoms) của con người” [7, tr. 37].
9
Bên cạnh đó theo học thuyết về các quyền tự nhiên định nghĩa “quyền con
người là những sự được phép (entitlements) mà tất cả thành viên của cộng
đồng nhân loại, không phân biệt giới tính, chủng tộc, tôn giáo, địa vị xã hội...;
đều có ngay từ khi sinh ra, đơn giản chỉ vì họ là con người” [7, tr. 37]. Ở Việt
Nam, QCN cũng được các chuyên gia nghiên cứu ở nhiều khía cạnh và cũng đưa
ra nhiều định nghĩa khác nhau nhưng tựu chung lại “quyền con người được hiểu là
những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có của con người được ghi nhận và bảo
vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế”. [7, tr. 37-38].
Như vậy, dù ở các góc độ nghiên cứu nào thì QCN là những chuẩn mực
được xã hội, cộng đồng trên thế giới công nhận và thực hiện theo, mặt khác qua đó
phản ánh lên được trình độ văn minh của mỗi quốc gia trên thế giới, qua tiến trình
lịch sử của nhân loại QCN theo từng giai đoạn sẽ có sự kế thừa và phát triển có
chọn lọc để đưa con người lên tầm cao mới có cuộc sống tốt đẹp, công bằng hơn.
1.1.1.2. Đặc điểm quyền con ngƣời
Nhận thức của đại đa số các quốc gia trên thế giới cho rằng QCN có
những tính chất cơ bản sau:
Tính phổ biến: Con người sinh ra là đã có quyền con người không phân
biệt là dân tộc gì, giới tính như thế nào, màu da ra sao mà đây là quyền tự
nhiên, vốn có của mỗi con người được áp dụng bình đẳng cho tất cả mọi thành
viên của nhân loại. Cá nhân được sống trong môi trường xã hội nào, đất nước
nào thì đều được công nhận là con người và được hưởng các quyền con người
mà xã hội đã thừa nhận và áp dụng.
Tính không thể chuyển nhượng: QCN không thể bị giới hạn hay bị tước
bỏ tự nhiên bởi những chủ thể khác một cách tùy tiện, vô căn cứ mà việc hạn
chế hay tước bỏ các QCN này phải do pháp luật quy định nhằm để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, cá nhân, tổ chức…mà người này đã
xâm phạm và chỉ có những chủ thể đặc biệt được pháp luật giao quyền mới có
10
thể thực hiện hoạt động trên. Khác với các quyền khác là không thể chuyển
giao từ ngươi này sang người kia, mỗi cá nhân khi sinh ra mặc nhiên có QCN
và quyền này được pháp luật bảo vệ cho đến khi người đó chết.
Tính không thể phân chia: QCN bao gồm nhiều quyền khác nhau như
quyền được sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc, quyền được bảo vệ
bình đẳng trước pháp luật…nhưng các quyền này có tầm quan trọng ngang
bằng nhau, không phân biệt quyền nào là quan trọng nhất hay có giá trị nhất.
Mỗi quyền có một khía cạnh bảo vệ riêng của mình nên không thể phân chia
và khi các quyền đó bị hạn chế hay tước bỏ đều ảnh hưởng có tính tiêu cực đến
giá trị, nhân phẩm của con người.
Tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau: Các QCN có mối liên hệ phụ thuộc
và tác động lẫn nhau, việc vi phạm đến quyền này sẽ ảnh hưởng đến các quyền
khác một cách trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua hoạt động vi phạm đó và
ngược lại nếu tác động tích cực cũng sẽ đưa lại các mặt tích cực cho các quyền
còn lại. Ví dụ: Nếu quyền dân chủ của mỗi cá nhân được bảo đảm thì họ sẽ
tích cực và chú ý đến việc tham gia bỏ phiếu, tham gia hội họp và có ý kiến
khi được trưng cầu và ngược lại.
1.1.1.3. Khái niệm, đặc điểm bảo đảm quyền con ngƣời
Thứ nhất, khái niệm bảo đảm quyền con ngƣời
Ta có thể hiểu “Bảo đảm” có nghĩa là “Làm cho chắc chắn thực
hiện được, giữ gìn được, hoặc có đầy đủ những gì cần thiết” định nghĩa theo từ
điển Wiktionary tiếng việt. Như vậy “Bảo đảm quyền con người” có nghĩa là
chăm sóc, giữ gìn các quyền của con người hay trình độ văn minh như đã nói ở
trên, theo đó các QCN đã được xã hội và pháp luật quốc tế thừa nhận sẽ được
chuyển hóa thành các quy định của pháp luật để bắt buộc mọi người thực hiện
và tuân theo, nếu vi phạm đến các quyền đó thì sẽ bị pháp luật xử lý, xử phạt.
Hay có thể hiểu “Bảo đảm quyền con người” là tạo ra các điều kiện, tiền đề về
11
mặt pháp lý, chế độ chính trị, kinh tế và xã hội để con người thực hiện được
các QCN mà pháp luật đã ghi nhận.
Thứ hai, đặc điểm bảo đảm quyền con ngƣời
Bảo đảm QCN được cụ thể hóa thành pháp luật bắt buộc mọi người phải
tuân theo. Việc cụ thể hóa các quy định này được thể hiện ở Hiến pháp, Luật
và các văn bản quy phạm pháp luật khác nhằm điều chỉnh các mối quan hệ
trong xã hội nhưng đều hướng tới mục tiêu đó là đảm bảo cho QCN được tôn
trọng, thực hiện tốt và đầy đủ.
Bảo đảm QCN được ghi nhận trong luật quốc tế và luật quốc gia do đó
QCN cũng được bảo đảm và áp dụng toàn cầu, không thay đổi theo thời gian
và đồng nhất trong mọi hoàn cảnh. QCN trong luật quốc tế được chính thức
pháp điển hóa từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, việc bảo đảm QCN đã được
hệ thống hóa thành các tiêu chuẩn pháp luật quốc tế có tính bắt buộc chung đối
với tất cả các nước trên thế giới, bảo đảm các QCN đã trở thành thước đo về
trình độ văn minh của các dân tộc và các nước trên toàn cầu.
Bảo đảm QCN qua các thời kỳ lịch sử có tính kế thừa và chọn lọc những
tinh hoa của các quyền đó, đồng thời được phát triển để phù hợp với đặc điểm
của xã hội, chính trị, kinh tế, văn hóa của nhân loại nhằm hướng tới bảo đảm
QCN được tốt hơn và hoàn thiện hơn. Kể từ khi Liên hợp quốc được thành lập
vào năm 1945 QCN được bảo đảm và ghi nhận trong hàng trăm văn kiện của
pháp luật quốc tế và trở thành tiêu chuẩn pháp lý được tất cả các quốc gia trên
toàn thế giới trong đó có Việt Nam cam kết thực thiện và tôn trọng. Quyền con
người ngày càng được pháp luật bảo vệ chặt chẽ hơn, tiến bộ hơn.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm, tính chất quyền con ngƣời của đối
tƣợng bị tạm giữ, tạm giam trong nhà tạm giữ của Công an cấp huyện
1.1.2.1. Khái niệm về quyền con ngƣời của đối tƣợng bị tạm giữ,
tạm giam trong nhà tạm giữ của Công an cấp huyện
12
Trước tiên để làm rõ khái niệm về QCN của đối tượng bị tạm giữ, tạm
giam trong nhà tạm giữ của Công an cấp huyện thì ta phải hiểu rõ thế nào là
khái niệm về đối tượng bị tạm giữ, tạm giam là những người như thế nào. Đối
tượng bị tạm giữ, tạm giam là những người bị hạn chế về quyền tự do và một
số quyền khác trong một khoảng thời gian nhất định theo quy định của pháp
luật quốc tế và pháp luật của các quốc gia, mặc dù bị cưỡng chế về mặt hình sự
nhưng những người này vẫn được hưởng các quyền con người khác mà pháp
luật không hạn chế như quyền được bầu cử, quyền tự bào chữa, nhờ người bào
chữa, quyền được bảo vệ an toàn tính mạng, thân thể, tôn trọng danh dự, nhân
phẩm…Tại Điều 9, Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền - 1948 đã ghi nhận:
“Không ai bị bắt, giam giữ hay lưu đày một cách tùy tiện [tr. 229]. Và cụ thể
hóa nguyên tắc trên Điều 9, Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị
đã nêu rõ: “Mọi người có quyền tự do và an toàn cá nhân. Không ai bị bắt
hoặc bị giam giữ vô cớ. Không ai bị tước quyền tự do trừ trường hợp việc tước
quyền đó là có lý do và theo đúng thủ tục luật pháp đã quy định” [tr. 232]
Ở Việt Nam, theo Luật thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015 định nghĩa
về người bị tạm giữ, tạm giam như sau: Người bị tạm giữ “là người đang bị
quản lý tại cơ sở giam giữ trong thời hạn tạm giữ, gia hạn tạm giữ theo quy
định của Bộ luật tố tụng hình sự”. Và theo khoản 1 Điều 59 BLTTHS năm
2015 quy định người bị tạm giữ “là người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp,
bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, bị bắt theo quyết định truy nã hoặc
người phạm tội tự thú, đầu thú và đối với họ đã có quyết định tạm giữ”.
Người bị tạm giam theo định nghĩa của Luật thi hành tạm giữ, tạm giam
năm 2015 “là người đang bị quản lý tại cơ sở giam giữ trong thời hạn tạm
giam, gia hạn tạm giam theo quy định của bộ luật tố tụng hình sự, bao gồm bị
can; bị cáo; người bị kết án phạt tù, người bị kết án tử hình mà bản án chưa
có hiệu lực pháp luật hoặc đang chờ thi hành án; người bị tạm giam để thực
13
hiện việc dẫn độ”. Như vậy qua các định nghĩa của pháp luật quốc tế và luật
Việt Nam ta đã có thể hiểu như thế nào là người bị tạm giữ, tạm giam.
Kết hợp định nghĩa về QCN, định nghĩa người bị tạm giữ, tạm giam của
pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam đối với nhóm người bị hạn chế quyền
tự do và một số quyền khác ta có thể định nghĩa khái quát về QCN của đối
tượng bị tạm giữ, tạm giam tại nhà tạm giữ của Công an như sau: “Quyền con
người của đối tượng bị tạm giữ, tạm giam là những lợi ích, nhu cầu mang
thuộc tính tự nhiên của nhóm những người bị hạn chế tự do có thời hạn được
pháp luật quốc gia quy định và trong các thỏa thuận mang tính quốc tế”. QCN
ở đây là những giá trị cơ bản chỉ dành riêng cho nhóm người khi họ bị các cơ
quan tiến hành tố tụng tạm giữ, tạm giam và quyền này được Nhà nước ghi
nhận trong các văn bản luật và được bảo đảm thực hiện trong thực tế, chẳng
hạn ta có thể thấy được một số quyền được bảo đảm như: Quyền được bảo
đảm chế độ ăn, ở, mặc, đồ dùng sinh hoạt cá nhân, chăm sóc y tế; Quyền được
gặp thân nhân, người bào chữa, tiếp xúc lãnh sự; Quyền được bồi thường thiệt
hại nếu bị giam, giữ trái pháp luật…
1.1.2.2. Đặc điểm, tính chất về quyền con ngƣời của đối tƣợng bị
tạm giữ, tạm giam trong nhà tạm giữ của Công an cấp huyện
QCN của đối tượng bị tạm giữ, tạm giam cũng có những đặc điểm, tính
chất cơ bản của QCN nói chung như đã nêu ở trên như mang tính phổ biến,
tính không thể chuyển nhượng, tính không thể phân chia, tính liên hệ và phụ
thuộc lẫn nhau,... Nhưng do đối tượng bị tạm giữ, tạm giam là những người bị
pháp luật hạn chế một số QCN như hạn chế tự do đi lại, hạn chế gặp gỡ nên
đối tượng bị tạm giữ, tạm giam còn có những đặc điểm, tính chất về QCN
riêng biệt cụ thể:
Thứ nhất, QCN của các đối tượng bị tạm giữ, tạm giam có đặc điểm,
tính chất đó là mọi sinh hoạt của các đối tượng này bị giám sát 24/24 giờ và họ
14
phải chấp hành các quyết định, yêu cầu, hướng dẫn của cơ quan, người có
thẩm quyền quản lý thi hành tạm giữ, tạm giam và phải chấp hành nội quy Nhà
tạm giữ của Công an, chấp hành các quy định của pháp luật có liên quan. Việc
thực hiện một số QCN của các đối tượng bị tạm giữ, tạm giam này phải dựa
trên cơ sở pháp luật chứ không thể tùy tiện vô căn cứ. Chẳng hạn pháp luật
quy định Nhà tạm giữ là nơi giam giữ những người bị buộc tội có hành vi vi
phạm pháp luật hình sự và những cán bộ trong Nhà tạm giữ này họ có quyền
quản lý, thực hiện các biện pháp quản lý giam giữ những đối tượng bị tạm giữ,
tạm giam; phối hợp với các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc điều tra, truy
tố, xét xử, thi hành án các đối tượng bị tạm giữ, tạm giam.
Thứ hai, QCN của các đối tượng bị tạm giữ, tạm giam còn có đặc điểm,
tính chất là các quyền tự do cá nhân bị hạn chế và chỉ được thực hiện trong
phạm vi khuôn viên của nhà tạm giữ và các buồng giam giữ, việc thực hiện
QCN ở đây phải thông qua cơ quan, người quản lý giam giữ và cơ quan tiến
hành tố tụng, những người tiến hành tố tụng. Đồng thời các đối tượng bị tạm
giữ, tạm giam này họ còn sẽ được hưởng các quyền công dân nếu không bị
hạn chế bởi các quy định của pháp luật liên quan, trừ những trường hợp các
quyền đó không thể thực hiện được do họ đang bị tạm giam, tạm giữ.
Thứ ba, QCN trong tạm giữ, tạm giam là những quyền cơ bản gắn với
hoạt động TTHS. Những người bị tạm giữ, tạm giam là những người bị cơ
quan tiến hành tố tụng áp dụng biện pháp ngăn chặn, vì vậy họ tạm thời mất
một số quyền tự do về chính trị, kinh tế, xã hội và nhân thân như không thể tự
do đi lại, không thể tham gia hội họp... Như vậy các đối tượng bị tạm giữ, tạm
giam một số quyền con người của họ tạm thời bị mất đi nhưng các quyền cơ
bản của con người, của công dân của họ vẫn được bảo đảm như quyền được
thực hiện bầu cử, được bảo đảm chế độ ăn, ở, mặc, chăm sóc y tế, được gặp
thân nhân...và được pháp luật quy định một cách chặt chẽ tránh việc xâm
15
phạm tới quyền lợi cơ bản đối với nhóm người này của các cơ quan tiến hành
tố tụng và những người tiến hành tố tụng.
1.1.3. Khái niệm bảo đảm quyền con ngƣời của đối tƣợng bị tạm
giữ, tạm giam và trách nhiệm của Công an cấp huyện trong bảo đảm
quyền con ngƣời của đối tƣợng bị tạm giữ, tạm giam
Khái niệm bảo đảm quyền con ngƣời của đối tƣợng bị tạm giữ, tạm
giam:
Bảo đảm QCN của đối tượng bị tạm giữ, tạm giam là những cách thức,
biện pháp tạo ra tiền đề về mặt pháp lý phù hợp giúp cho các đối tượng này
được bảo vệ trước việc họ bị nghi ngờ đã thực hiện hành vi phạm tội, họ đang
bị các cơ quan tiến hành tố tụng buộc tội và giúp cho họ được thực hiện các
quyền và nghĩa vụ tố tụng đã được pháp luật quy định.
Những đối tượng đang bị tạm giữ, tạm giam là những người đang bị
nghi ngờ thực hiện hành vi phạm tội, việc xây dựng cơ sở pháp lý và các điều
kiện trên thực tế nhằm bảo đảm các QCN cho họ để họ có khả năng chứng
minh và bác bỏ sự nghi ngờ đã thực hiện hành vi phạm tội đối với mình của
những người tiến hành tố tụng, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, đồng
thời những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng xác minh, buộc tội đối với
họ một cách khách quan và áp dụng các quy định của pháp luật có liên quan
một cách thận trọng và chính xác để giải quyết vụ án.
Trách nhiệm của Công an cấp huyện trong bảo đảm quyền con
ngƣời của đối tƣợng bị tạm giữ, tạm giam:
Các chủ thể trong Công an nhân dân cấp huyện bảo đảm QCN cho đối
tượng bị tạm giữ, tạm giam ở Nhà tạm giữ của Công an huyện chính là Cơ
quan, cá nhân tiến hành TTHS; Cơ quan, cá nhân quản lý thi hành tạm giữ,
tạm giam trong Công an cấp huyện; Các chủ thể trong Công an cấp huyện
16
tham gia bảo đảm QCN của các đối tượng bị tạm giữ, tạm giam là những
người có địa vị pháp lý khác nhau và họ có trách nhiệm khác nhau, bao gồm:
Những người tiến hành tố tụng trong Công an cấp huyện: Là những
người được pháp luật TTHS giao cho nhiệm vụ tiến hành giải quyết vụ án hình
sự bao gồm Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan điều tra, Điều tra viên, Cán
bộ điều tra.
Trách nhiệm của những người tiến hành tố tụng trong bảo đảm QCN đối
với người bị tạm giữ, tạm giam được thể hiện ở việc những cá nhân này tùy
theo vị trí công tác mà tham mưu hoặc đưa ra các lệnh, quyết định về thi hành
tạm giữ, tạm giam hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giữ, tạm giam theo đúng quy
định pháp luật.
Những người quản lý thi hành tạm giữ, tạm giam trong Công an cấp
huyện: Là những người được pháp luật giao nhiệm vụ quản lý cơ sở giam giữ
bao gồm Trưởng nhà tạm giữ, phó trưởng nhà tạm giữ, sĩ quan, hạ sĩ quan,
chiến sĩ, công nhân, viên chức làm nhiệm vụ quản giáo, bảo vệ, trinh sát, tham
mưu tổng hợp, hỗ trợ tư pháp, kỹ thuật, hậu cần, y tế, giáo dục, hồ sơ.
Đây chính là những người trực tiếp thực hiện việc quản lý giam giữ, vì
vậy họ là chủ thể có vai trò trực tiếp và quan trọng nhất trong việc thực hiện
các quy định về tạm giữ, tạm giam. Chính những người quản lý thi hành tạm
giữ, tạm giam là người thực thi các quy định về giam giữ, nên việc bảo đảm
QCN đối với người bị tạm giữ, tạm giam phụ thuộc chủ yếu vào những chủ thể
này.
Ngoài các chủ thê trên thì còn có chủ thể kiểm sát việc tạm giữ, tạm
giam: Thực hiện kiểm sát việc thi hành tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ
Công an cấp huyện chính là nhiệm vụ, quyền hạn mà Đảng mà nhà nước ta
giao cho VKSND nói chung và VKSND cấp huyện nói riêng. VKSND thông
qua hoạt động kiểm sát phát hiện các vi phạm của cơ quan quản lý thi hành
17
tạm giữ, tạm giam làm ảnh hưởng đến QCN của người bị tạm giữ, tạm giam;
căn cứ theo quy định pháp luật đưa ra các biện pháp như trực tiếp nhắc nhở
chấn chỉnh, kiến nghị yêu cầu Trưởng nhà tạm giữ khắc phục vi phạm, kháng
nghị yêu cầu chấm dứt vi phạm, hủy bỏ các biện pháp vi phạm xâm phạm
nghiêm trọng đến QCN của người bị tạm giữ, tạm giam. Ngoài ra còn có đại
diện Mặt trận Tổ quốc Việt Nam huyện phối hợp với VKSND tham gia kiểm
sát việc thi hành tạm giữ, tạm giam của Nhà tạm giữ Công an cấp huyện. Hoạt
động giám sát qua xem xét báo cáo và chất vấn của Hội đồng nhân dân cấp
huyện. Hoạt động bảo vệ quyền lợi cho người bị tạm giữ, tạm giam của Luật
sư, người bào chữa theo quy định pháp luật.
1.2. Quy định của pháp luật về bảo đảm quyền con ngƣời của đối
tƣợng bị tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ của Công an cấp huyện
1.2.1. Nội dung, phƣơng thức bảo đảm quyền con ngƣời của đối
tƣợng bị tạm giữ, tạm giam
1.2.1.1. Nội dung bảo đảm quyền con ngƣời của đối tƣợng bị tạm
giữ, tạm giam
Nội dung bảo đảm QCN của đối tượng bị tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm
giữ của Công an huyện được bảo đảm bằng việc ghi nhận trong Hiến pháp, Bộ
luật tố tụng hình sự, Bộ luật hình sự, Luật thi hành tạm giữ, tạm giam…cơ chế
bảo đảm QCN cho các đối tượng này được biểu hiện cụ thể thông qua các
quyền và nghĩa vụ của những người tiến hành tố tụng, người quản lý thi hành
tạm giữ, tam giam và những người tham gia tố tụng khác trong quá trình xử lý
vụ án hình sự. Trong từng giai đoạn giải quyết vụ án hình sự thì những người
này có những quyền và nghĩa vụ khác nhau sẽ tác động đến QCN của các đối
tượng bị tạm giữ, tạm giam khác nhau, một số nội dung cụ thể như sau:
Bảo đảm quyền không bị bắt giam tuỳ tiện vô căn cứ
18
Quyền không bị bắt giam tùy tiện vô căn cứ là một trong những quyền
cơ bản của con người nói chung và của công dân nói riêng trên toàn thế giới,
nó được tất cả các quốc gia trên thế giới ghi nhận. Ở nước ta, quyền này được
bảo đảm chắc chắn bằng việc pháp luật ghi nhận rõ không bị bắt hoặc bị giam
giữ vô cớ, không bị tước quyền tự do trừ trường hợp việc tước tự do đó là có
lý do và theo đúng những thủ tục mà pháp luật đã quy định và yêu cầu bảo
đảm rằng bất kỳ người bị bắt giữ đều được thông báo vào lúc bị bắt và phải
được thông báo không chậm trễ về sự buộc tội đối với họ. Quyền không bị bắt
giam tùy tiện vô căn cứ được ghi nhận trong nhiều đạo luật khác nhau.
Thứ nhất, quyền này được ghi nhận trong Hiến pháp nước ta. Cụ thể tại
Khoản 2, Điều 20 Hiến pháp năm 2013 quy định rõ không ai bị bắt nếu không
có quyết định của Tòa án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm
sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt, giam, giữ người do
luật định.
Thứ hai, quyền không ai bị bắt, tạm giữ, tạm giam tùy tiện, vô căn cứ
được ghi nhận trong BLTTHS năm 2015. BLTTHS năm 2015 của nước ta ghi
nhận bảo đảm quyền không ai bị bắt, tạm giữ, tạm giam tùy tiện, vô căn cứ
bằng việc quy định rõ điều kiện bắt tạm giữ, tạm giam; thẩm quyền tạm giữ,
tạm giam; thời hạn tạm giữ, tạm giam.
Thứ ba, nội dung bảo đảm quyền không bị bắt giam tùy tiện vô căn cứ
còn được thể hiện ở việc quy định thẩm quyền hủy bỏ biện pháp tạm giữ, tạm
giam không có căn cứ của Viện kiểm sát, của thủ trưởng cơ quan Điều tra.
Thứ tư, bảo đảm quyền không ai bị bắt giam tùy tiện vô căn cứ còn
được bảo đảm bằng việc pháp luật quy định các chế tài xử lý đối với cá nhân,
người có thẩm quyền khi vi phạm. Việc bảo đảm quyền tự do, bất khả xâm
phạm về thân thể là căn cứ cho các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành
tố tụng thực hiện nghiêm chỉnh các quy định về việc tạm giữ, tạm giam. Đây là
19
cơ sở để hạn chế tới mức thấp nhất vi phạm về tạm giữ, tạm giam hoặc hạn chế
những oan, sai, bồi thường thiệt hại về tạm giữ, tạm giam của các cơ quan,
người có thẩm quyền trong tố tụng hình sự và bảo đảm QCN trong tiến trình
cải cách tư pháp. Bộ Luật hình sự Việt Nam có những chế tài xử lý rất nghiêm
khắc các hành vi xâm phạm quyền tự do thân thể của con người. Bất kỳ chủ
thể nào thực hiện hành vi bắt, giữ, giam người trái pháp luật thì có thể bị xử lý
với khung hình phạt cao nhất đến 12 năm tù giam.
Như vậy, ta thấy việc bảo đảm quyền không bị bắt giam tùy tiện vô căn
cứ được Đảng và nhà nước ta quan tâm và nó được bảo đảm bằng việc pháp
luật quy định rất rõ quyền này trong pháp luật và có cơ chế để quyền này được
bảo đảm thi hành trong thực tiễn.
Bảo đảm quyền không phân biệt đối xử và đối xử bình đẳng
Quyền không phân biệt đối xử và đối xử bình đẳng đối với những người
bị tạm giữ, tạm giam là quyền mà theo đó những người tạm giữ, tạm giam
được hưởng những quyền lợi và phải thực hiện nghĩa vụ như nhau, không ai bị
đối xử trái với quy định pháp luật. Trong hoạt động tạm giữ, tạm giam phải
bảo đảm công bằng, không được có sự phân biệt giữa người nước ngoài với
người Việt Nam; không có sự phân biệt các thành phần dân tộc, tín ngưỡng,
tôn giáo; không có sự phân biệt đối xử giữa nam và nữ...mọi người bị tạm giữ,
tạm giam đều có các quyền như nhau. Tất cả những người bị tạm giữ, tạm
giam đều có chung một chế độ ăn uống, ở, mặc, cấp phát, thăm gặp, gửi thư,
nhận quà và chế độ được chăm sóc y tế như nhau những chế độ này được ghi
nhận cụ thể tại các Điều 27 đến Điều 35 Luật thi hành tạm giữ, tạm giam năm
2015. Các quyền này được bảo đảm bằng hai nội dung đó là quy định cụ thể
trong luật và có cơ chế để đảm bảo quyền này được thực thi trong thực tế.
Nếu như các quyền lợi nêu trên của người bị tạm giữ, tạm giam bị vi
phạm thì Viện kiểm sát nhân dân - cơ quan kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam
20
của cơ quan Công an cấp huyện sẽ kịp thời nhắc nhở, kiến nghị, kháng nghị
theo quy định đối với Nhà tạm giữ yêu cầu chấm dứt, khắc phục các vi phạm
nhằm bảo đảm cho việc tạm giữ, tạm giam được thực hiện theo đúng quy định
pháp luật. Cụ thể, khi xác định vi phạm pháp luật về quyền bình đẳng, không
phân biệt đối xử mà mức độ vi phạm nghiêm trọng trong việc tạm giữ, tạm
giam, Viện kiểm sát nhân dân thực hiện việc kháng nghị, yêu cầu cơ quan,
người có thẩm quyền khắc phục, xử lý vi phạm, bảo đảm việc quản lý, thi hành
tạm giữ, tạm giam được thực hiện nghiêm chỉnh, thống nhất, bảo vệ lợi ích
Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân, qua đó,
bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Theo quy định tại điểm d khoản 1
Điều 42 và Điều 43 Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015 và Luật Thi
hành án hình sự năm 2019 quy định về thẩm quyền kháng nghị của Viện kiểm
sát trong kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam. Theo đó, Viện kiểm sát kháng nghị
yêu cầu cơ quan, người có thẩm quyền trong việc tạm giữ, tạm giam, đình chỉ
việc thi hành, sửa đổi hoặc bãi bỏ quyết định có vi phạm pháp luật trong quản
lý, thi hành tạm giữ, tạm giam, chấm dứt hành vi vi phạm pháp luật và yêu cầu
xử lý người vi phạm pháp luật.
Ngoài ra, nếu các vi phạm quyền đối xử không bình đẳng trong tạm giữ,
tạm giam mà mức độ vi phạm không nghiêm trọng, thì Viện kiểm sát có quyền
kiến nghị yêu cầu trưởng nhà tạm giữ, tạm giam khắc phục, chấm dứt vi phạm.
Quyền không bị tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân
đạo hoặc bị hạ nhục
Tra tấn là bất kỳ hành động nào tạo ra sự đau đớn nặng nề hoặc đau khổ
- dù thể xác hay tâm thần - do cố ý gây ra cho một người nhằm các mục đích là
đạt được thông tin hay một lời thú nhận từ anh ta hoặc một người thứ ba, trừng
phạt anh ta vì một hành động mà anh ta hoặc người thứ ba đã phạm hoặc bị
nghi là đã phạm, hoặc đe dọa, ép buộc anh ta hoặc một người thứ ba, hoặc đối
21
với bất kỳ lý do nào dựa trên sự phân biệt đối xử bất kỳ loại nào, khi nỗi đau
đớn hay đau khổ như vậy gây ra bởi - hoặc theo sự xúi giục - hoặc với sự đồng
ý - hoặc chấp thuận - của một quan chức hoặc người khác hành động trên
cương vị chính quyền. Nó không bao gồm sự đau đớn hoặc đau khổ ngẫu
nhiên hoặc vốn có khi bị các hình phạt đúng theo luật. Đây là nội dung tại
Điều 1, Công ước chống Tra tấn và Trừng phạt hoặc Đối xử tàn nhẫn, vô nhân
đạo làm mất phẩm giá khác.
Quyền không bị tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo
hoặc bị hạ nhục đối với người bị tạm giữ, tạm giam được bảo đảm thực hiện
trong thực tiễn bởi các nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, quyền không bị tra tấn đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô
nhân đạo hoặc bị hạ nhục được bảo đảm trước hết bằng việc quyền này được
ghi nhận trong văn bản quy phạm pháp luật. Quyền không bị tra tấn đối xử
hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc bị hạ nhục được ghi nhận trong đạo
luật có giá trị pháp lý cao nhất là Hiến pháp, theo quy định tại khoản 1 Điều 20
Hiến pháp năm 2013 thì mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể,
được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn,
bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm
thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm. Như vậy, ta thấy đây là
một trong những quyền cơ bản và quan trọng của con người nói chung, của đối
tượng bị tạm giữ, tạm giam nói riêng; Quyền này được Đảng và nhà nước ta
quan tâm, chú trọng, vì vậy nó được ghi nhận trong Hiến pháp nước ta.
Thứ hai, quyền không bị tra tấn đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân
đạo hoặc bị hạ nhục còn được bảo đảm bằng việc pháp luật quy định cấm cơ
quan có thẩm quyền tố tụng, người có thẩm quyền tố tụng thực hiện hành vi
xâm phạm đến quyền trên của người bị tạm giữ, tạm giam. Các bộ luật khác
nhau cùng quy định về hành vi cấm tra tấn đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô
22
nhân đạo hoặc bị hạ nhục. Cụ thể, BLTTHS năm 2015 quy định thành nguyên
tắc cơ bản của Bộ luật, tại Điều 10 quy định nghiêm cấm tra tấn, bức cung,
dùng nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, tính
mạng, sức khỏe con người.
Luật thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015 quy định tại Điều 4, Điều 8
về việc cấm tra tấn, truy bức, dùng nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào
khác xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, tạm giam.
Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015 quy định nghiêm cấm
cá nhân có thẩm quyền điều tra thực hiện hành vi bức cung, dùng nhục hình và
các hình thức tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo, hạ nhục con
người hay bất kỳ hình thức nào khác xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của
cơ quan, tổ chức, cá nhân tại Điều 14.
Thứ ba, biện pháp bảo vệ quyền không bị tra tấn đối xử hoặc trừng phạt
tàn bạo, vô nhân đạo hoặc bị hạ nhục còn được bảo đảm bằng việc BLHS nước
ta quy định các hành vi tra tấn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Tùy
theo tính chất mức độ hành vi tra tấn đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân
đạo hoặc bị hạ nhục của người tiến hành tố tụng đối với người bị tạm giữ, tạm
giam cấu thành tội danh nào trong BLHS thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự
theo tội danh đó. Cụ thể BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định
các tội danh do xâm phạm quyền này gồm tội dùng nhục hình, tội bức cung,
tội mua chuộc hoặc cưỡng ép người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu
sai sự thật. Ngoài ra hành vi có tính chất tra tấn còn có thể bị truy cứu trách
nhiệm hình sự theo các tội danh như: tội giết người; tội làm chết người trong
khi thi hành công vụ; tội bức tử; tội đe dọa giết người; tội gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong khi thi hành công vụ; tội
hành hạ người khác; tội làm nhục người khác; tội bắt, giữ hoặc giam người trái
pháp luật; tội làm nhục, hành hung người chỉ huy hoặc cấp trên; tội làm nhục
23
hoặc dùng nhục hình đối với cấp dưới; tội làm nhục, hành hung đồng đội; tội
ngược đãi tù binh, hàng binh.
Quyền đƣợc bào chữa
Quyền được bào chữa là một trong những QCN nói chung và quyền của
người bị tạm giữ, tạm giam nói riêng, nó được ghi nhận trong các văn kiện
pháp lý quốc tế như Tuyên ngôn nhân quyền 1948, Công ước quốc tế về quyền
dân sự và chính trị 1966 và được hiến pháp và pháp luật nhiều Quốc gia trong
trên thế giới công nhận.
Quyền bào chữa của người bị tạm giữ, tạm giam được bảo đảm thực
hiện bằng việc pháp luật nước ta ghi nhận và quy định về việc thực hiện quyền
này. Cụ thể tại khoản 4 Ðiều 31 Hiến pháp năm 2013 quy định người bị bắt,
tạm giữ, tạm giam, có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào
chữa. Như vậy, quyền được bào chữa của người bị tạm giữ, tạm giam là một
trong những quyền cơ bản của con người, nó được Hiến pháp - văn bản quy
phạm pháp luật có giá trị cao nhất ghi nhận.
Cũng như Hiến pháp, BLTTHS năm 2015 của nước ta quy định rất rõ về
quyền bào chữa của người bị tạm giam, theo đó người bị buộc tội có quyền tự
bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa. Như vậy ta thấy người bị
buộc tội có quyền tự bào, nhờ luật sự hoặc nhờ người khác đủ điều kiện bào
chữa cho mình. Tuy nhiên một số trường hợp dù đối tượng bị tạm giữ, tạm
giam dù không yêu cầu người bào chữa nhưng do đặc điểm nhân thân người bị
tạm giữ, tạm giam; do tính chất mức độ nguy hiêm của hành vi mà pháp luật
bắt buộc phải có người bào chữa.
Quyền bào chữa của người bị tạm giữ, tạm giam được bảo đảm thực
hiện bằng việc pháp luật nước ta quy định luật sư, người bào chữa có có quyền
gặp, hỏi người bị tạm giữ, tạm giam để thực hiện quyền bào chữa. Theo đó
khoản 1 Ðiều 73 BLTTHS năm 2015 quy định người bào chữa có quyền gặp,
24
hỏi người bị buộc tội; có quyền có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm
giữ, khi hỏi cung bị can và nếu người có thẩm quyền tiến hành lấy lời khai, hỏi
cung đồng ý thì được hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can. Ngoài ra
người bào chữa có thể hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can sau mỗi lần
lấy lời khai, hỏi cung của người có thẩm quyền kết thúc.
Quyền bào chữa của người bị tạm giữ, tạm giam được bảo đảm thực
hiện bằng việc pháp luật nước ta quy định người tiến hành tố tụng có trách
nhiệm để thực hiện nghiêm chỉnh quyền này. BLTTHS năm 2015 của nước ta
quy định Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm
thông báo, giải thích và bảo đảm cho người bị buộc tội, bị hại, đương sự thực
hiện đầy đủ quyền bào chữa, quyền và lợi ích hợp pháp của họ theo quy định
của Bộ luật này.
Quyền không bị coi là có tội khi chƣa có bản án kết tội đã có hiệu
lực pháp luật của Toà án
Theo nội dung quyền này thì người bị buộc tội phải được coi là vô tội
cho tới khi tội và lỗi của người đó được chứng minh và bị Tòa án kết tội có
hiệu lực, quyền này hoàn toàn phù hợp với Công ước của Liên hợp quốc về
quyền dân sự và chính trị năm 1966 “…Người bị buộc là phạm một tội hình sự
có quyền được coi là vô tội cho tới khi tội của người đó được chứng minh theo
pháp luật”.
Quyền không bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội đã có hiệu lực
pháp luật của Tòa án được pháp luật nước ta quy định trong nhiều đạo luật
khác nhau. Tại khoản 1, Điều 31 Hiến pháp năm 2013 quy định rõ: “Người bị
buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự
luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”. Như vậy,
đây là quyền cơ bản của con người trong tố tụng và được ghi nhận trong Hiến
pháp - Đạo luật có giá trị pháp lý cao nhất của nước ta.
25
BLTTHS năm 2015 của nước ta cụ thể nội dung của quyền không bị coi
là có tội khi chưa có bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án tại Điều
13, cụ thể luật đã quy định một nguyên tắc “suy đoán vô tội”; Theo đó người
bị tạm giữ, tạm giam được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh
theo trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã
có hiệu lực pháp luật. Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc
tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định thì cơ quan, người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị tạm giữ, tạm giam không
có tội.
Nội dung quyền không bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội đã có
hiệu lực pháp luật của Tòa án trong tạm giữ, tạm giam được thể hiện ở việc
người bị tạm giữ, tạm giam chỉ bị hạn chế quyền con người, quyền công dân
mà không bị mất quyền con người, quyền công dân; do đó họ vẫn được hưởng
những quyền nhất định theo quy định của Luật thi hành tạm giữ, tạm giam
năm 2015 như quyền tự bào chữa hoặc nhờ người bào chữa, quyền thăm gặp,
nhận quà, quyền khiếu nại, tố cáo...
Quyền này được thể hiện ở việc người bị tạm giữ, tạm giam được pháp
luật quy định là người bị buộc tội, vì vậy họ được hưởng nhiều quyền lợi hơn
phạm nhân. Việc tạm giữ, tạm giam chỉ là biện pháp ngăn chặn để điều tra,
truy tố, xét xử mà không phải là hình phạt; người bị tạm giữ, tạm giam không
phải có nghĩa vụ học tập, cải tạo, lao động sản xuất như phạm nhân. Do đó
Luật thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015 không có bất cứ quy định nào về
nghĩa vụ học tập, cải tạo, lao động của người bị tạm giữ, tạm giam như luật
Thi hành án hình sự 2019 đối với phạm nhân.
1.2.1.2. Các phƣơng thức bảo đảm quyền con ngƣời của đối tƣợng
bị tạm giữ, tạm giam
Thứ nhất, Bảo đảm bằng pháp luật:
26
- Hệ thống pháp luật tố tụng phải được xây dựng trên cơ sở tiêu chí quốc
tế về quyền con người. Quyền con người liên quan trong hoạt động tố tụng,
hoạt động tư pháp rất đa dạng, quan trọng và đặc biệt đó là các quyền dân sự
cơ bản của mỗi con người như quyền được sống, quyền được công bằng khi
xét xử, quyền được tự do, quyền được bảo vệ không bị tra tấn đối xử hay trừng
phạt tàn bạo vô nhân đạo hay bị hạ nhục, quyền được bảo vệ khỏi bị bắt giữ
tuỳ tiện… Đây là những quyền rất quan trọng mà pháp luật quốc tế hướng tới,
vì vậy pháp luật quốc gia cũng phải học hỏi và thực hiện theo các tiêu chí sau:
+ Bên cạnh mục đích bảo vệ công lý trong hoạt động tố tụng thì cũng
cần phải có mục đích bảo đảm, tôn trọng QCN cho các đối tượng bị tạm giữ,
tạm giam và phải cụ thể hoá trong các nguyên tắc của điều luật.
+ Từng quốc gia tùy thuộc vào điều kiện thực tế của mình để lựa chọn
trình tự, thủ tục, hình thức TTHS cho phù hợp và chặt chẽ ngăn ngừa các vi
phạm của các cơ quan tiến hành tố tụng, những người tiến hành tố tụng ảnh
hưởng đến quyền con người của các đối tượng bị tạm giữ, tạm giam
+ Các chủ thể tố tụng hình sự cần được quy định, phân định rõ chức
năng, nhiệm vụ và nghĩa vụ trong bảo đảm quyền con người cho các đối tượng
bị tạm giữ, tạm giam
+ Phải thực hiện công khai, minh bạch các quyền lợi của đối tượng bị
tạm giữ, tạm giam trong hoạt động TTHS và thực hiện việc bồi thường oan sai
trong hoạt động tố tụng nếu vi phạm làm ảnh hưởng đến quyền lợi của nhóm
các đối tượng này một cách công bằng và khách quan.
Trong các hoạt động TTHS để đảm bảo quyền con người cho đối tượng
bị tạm giữ, tạm giam thì ở Việt Nam có nhiều đạo luật quan trọng điều chỉnh
như Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật hình sự, Luật thi hành tạm giữ tạm giam,
Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Luật tổ chức Toà án nhân dân, Luật tổ
chức cơ quan điều tra hình sự…và cũng đang tiếp tục điều chỉnh các quy định
27
trong các luật áp dụng này để phù hợp với tình hình quốc gia và phù hợp với
pháp luật quốc tế trong việc bảo đảm QCN cho đối tượng bị tạm giữ, tạm
giam.
- Bảo đảm các nguyên tắc cơ bản đối với người bị tạm giữ, tạm giam để
họ được bảo vệ về tính mạng thân thể, về danh dự, nhân phẩm, quyền được trợ
giúp từ các luật sư, từ người trợ giúp viên pháp lý, người bào chữa trong quá
trình họ bị giam giữ…
- Phải bảo đảm các tiêu chuẩn cơ bản cho người bị tạm giữ, tạm giam
như việc phân loại buồng giam, giữ theo từng đối tượng như nam nữ phải phân
buồng riêng, buồng tạm giữ riêng buồng tạm giam riêng; việc ăn, ở, sinh hoạt,
được cấp phát áo quần chăn chiếu màn, thực phẩm, được thể dục thể thao,
được chăm sóc y tế, được khen thưởng khi có thành tích tốt và bị kỷ luật khi vi
phạm nội quy giam giữ, và được tiếp xúc với thế giới bên ngoài qua sách báo,
được gặp thân nhân, được nhận quà…
Thứ hai, Bảo đảm cho việc thực thi pháp luật:
- Bảo đảm cho việc thực thi pháp luật thông qua hệ thống các cơ quan
tiến hành tố tụng. Quyền của đối tượng bị tạm giữ, tạm giam sẽ được thể hiện
thông qua hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng như Cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát, Toà án, vì vậy quyền của người bị tạm giữ, tạm giam sẽ gắn
liền với các giai đoạn tiến hành tố tụng. Ở các nước hiện đại việc tách bạch các
nhánh quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp nhằm đảm bảo tính công bằng, dân
chủ, khách quan và kiểm soát kiềm chế lẫn nhau…Nhánh tư pháp ở đây là chỉ
hệ thống các cơ quan tiến hành tố tụng thông qua chức năng, nhiệm vụ của
mình bảo đảm cho việc thực thi pháp luật một cách khách quan, đúng đắn và
bảo đảm cho QCN nói chung, quyền của những người bị tạm giữ, tạm giam
nói riêng được thực hiện đầy đủ.
28
Mục đích mà các cơ quan tiến hành tố tụng hướng tới là giải quyết vụ án
một cách nhanh chóng, chính xác, khách quan, đúng người, đúng tội và không
để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, bảo đảm sự công bằng và QCN
được thi hành. Sự kiểm soát đối trọng lẫn nhau là hướng xây dựng đối với các
cơ quan tiến hành tố tụng nhằm bảo đảm cho QCN của các đối tượng bị tạm
giữ, tạm giam được bảo đảm tôn trọng thực hiện và không bị xâm phạm. Pháp
luật quốc tế cũng như pháp luật quốc gia đều lấy sự vô tư khách quan làm nền
tảng trong hoạt động TTHS. Các cơ quan tiến hành tố tụng mỗi cơ quan đều có
các chức năng riêng biệt nhưng chức năng đó có sự kiểm soát đối trọng từ các
cơ quan tiến hành tố tụng khác. Ví dụ ở Việt Nam giai đoạn điều tra do cơ
quan điều tra thực hiện nhưng lại có sự kiểm soát đối trọng của Viện kiểm sát
chẳng hạn như khởi tố bị can, tạm giam bị can phải có sự phê chuẩn của Viện
kiểm sát…giai đoạn xét xử toà án cũng có thể bị Viện kiểm sát kháng nghị bản
án, quyết định nếu thấy có vi phạm pháp luật, mặt khác khi Viện kiểm sát đề
nghị mức hình phạt toà án cũng có thể bác bỏ và tuyên một mức hình phạt
khác mức đề nghị của Viện kiểm sát. Tóm lại, trên tiêu chí về quyền con người
của quốc tế, các quốc gia trên thế giới phải dựa vào đó để xây dựng nên chức
năng, nhiệm vụ và hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng ở nước mình
nhằm bảo đảm QCN theo pháp luật quốc tế đã được thừa nhận và tuân theo.
- Bảo đảm cho việc thực thi pháp luật thông qua con người thực thi pháp
luật, vì vậy cần tuyển dụng đào tạo những người có lương tâm và có trách
nhiệm với công việc đây là một vấn đề rất cần thiết. Đầu tiên những người này
họ phải có kiến thức pháp luật liên quan đến lĩnh vực tạm giữ, tạm giam, và họ
phải nắm được chức năng nhiệm vụ của mình cũng như quyền lợi, nghĩa vụ
của những người bị tạm giữ, tạm giam. Họ phải hiểu mình không được phép
làm việc gì và được phép làm việc gì trong quản lý tạm giữ, tạm giam đồng
thời họ phải có lương lâm trong công việc. Sở dĩ phải có lương tâm là vì do
29
đặc thù công việc của họ khác biệt với các công việc khác, nghề nghiệp này
đòi hỏi sự vất vả nên phải có tính kiên nhẫn thì mới hoàn thành tốt công việc
và mới bảo đảm quyền lợi cho những đối tượng bị giam, giữ. Nếu những cán
bộ này không có phẩm chất đạo đức tốt sẽ dẫn đến việc lạm dụng công quyền
để thoả mãn cho nhu cầu cá nhân dẫn đến việc QCN của các đối tượng này bị
xâm phạm và không được bảo đảm. Việc quản lý tốt một cơ sở giam giữ đòi
hỏi người đó phải có sự nhân đạo, có trách nhiệm và chuyên môn hoá cao,
nắm được tâm sinh lý từng đối tượng để hiểu rõ tâm tư nguyện vọng của họ rồi
có những biện pháp thích hợp áp dụng đối với từng đối tượng bị tạm giữ, tạm
giam. Ví dụ: có đối tượng nghiện ma tuý cần sử dụng biện pháp gì khi giam
giữ họ, có đối tượng hay phá phách, quấy rối thì nên sử dụng biện pháp gì để
vừa bảo đảm quyền lợi của họ không bị xâm phạm vừa giải quyết tốt các vấn
đề trên mà họ sẽ tự nguyện, tự giác chấp hành nội quy của cơ sở giam giữ.
Việc đào tạo để người thực thi công vụ thực hiện chuyên môn một cách
tốt hơn cần được chú trọng và có phương pháp khoa học. Những cán bộ tư
pháp trong các cơ sở giam giữ này họ phải có tâm lý vững vàng và phải có sức
khoẻ thể lực đạt tiêu chuẩn vì có những tình huống bất ngờ làm mất an ninh
trật tự tại cơ sở giam giữ cần phải giải quyết nhanh gọn và dứt điểm, mặt khác
một số xung đột khiêu khích từ những đối tượng bị tạm giữ, tạm giam nên các
cán bộ này họ phải có tâm lý luôn luôn phải kiềm chế và kìm hãm tự ái cá
nhân để tránh làm ảnh hưởng đến quyền lợi của các đối tượng này. Việc
thường xuyên kiểm tra, tập luyện có bài bản cho những cán bộ này là rất cần
thiết, sự rèn luyện kiên trì và liên tục sẽ nâng cao trình độ chuyên môn qua đó
sẽ hạn chế đến mức thấp nhất những thiệt hại khi có những tình huống xảy ra
bất ngờ và phục vụ cho mục đích công tác chung.
Ngoài ra những cán bộ tư pháp này họ còn phải có kiến thức về giáo
dục, họ phải có kiến thức về sư phạm vì ngoài mục đích của pháp luật là trừng
30
trị những kẻ phạm tội thì còn có mục đích giáo dục cải tạo để họ nhận thấy tội
lỗi mà sửa chữa lỗi lầm trở thành những người có ích cho xã hội. Vì vậy các
cán bộ tư pháp có kiến thức về giáo dục sẽ có những biện pháp động viên,
khích lệ, giáo dục ý thức cho các đối tượng này để họ hướng thiện và yên tâm
cải tạo tốt để trở về với cuộc sống cộng đồng xã hội.
Thứ ba, có cơ chế kiểm soát việc thực thi pháp luật
- Cơ chế kiểm soát trong: Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan có nhiệm
vụ quyền hạn kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam; trong đó VKSND dân cấp
huyện là cơ quan có thẩm quyền kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam của Nhà tạm
giữ Công an cấp huyện. Theo đó hàng ngày Kiểm sát viên thuộc VKSND cấp
huyện được lãnh đạo phân công thực hiện nhiệm vụ kiểm sát việc thi hành tạm
giữ, tạm giam của Nhà tạm giữ Công an cấp huyện. Định kỳ hàng quý, 06
tháng VKSND cấp huyện thực hiện công tác kiểm sát toàn diện công tác thi
hành việc tạm giữ, tạm giam của Nhà tạm giữ Công an cấp huyện; Ngoài ra
khi xét thấy cần thiết VKSND có thể tiến hành các cuộc kiểm sát đột xuất đối
với Nhà tạm giữ Công an cấp huyện.
Thông qua công tác Kiểm sát thường kỳ, kiểm sát toàn diện, kiểm sát
đột xuất VKSND cấp huyện kiểm sát việc thực hiện các quy định pháp luật về
tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện; qua đó kịp thời phát hiện ra
các vi phạm của cơ quan quản lý tạm giữ, tạm giam; kịp thời nhắc nhở, chấn
chỉnh, kiến nghị khắc phục vi phạm hoặc kháng nghị yêu cầu hũy bỏ các quyết
định vi phạm nghiêm trọng đến quyền của người bị tạm giữ tạm giam. Như
vậy, VKSND là cơ quan trực tiếp kiểm sát việc thực hiện hiện các quy định
của pháp luật về tạm giữ, tạm giam bao đảm thực hiện trên thực tế các quyền
con người đối với người bị tạm giữ, tạm giam.
- Cơ chế kiểm soát ngoài: Các cơ quan đại diện cho nhân dân ngày càng
được Đảng và Nhà nước coi trọng và nâng cao vai trò giám sát của các cơ
31
quan này, hệ thông các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh được ban hành
nhiều hơn và quy định chặt chẽ hơn mở rộng thẩm quyền, chức năng cho hoạt
động giám sát của nhân nhân đối với các cơ quan nhà nước.
Đầu tiên kiểm soát hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng thông
qua cơ quan quyền lực Nhà nước, các cơ quan tiến hành tố tụng phải chịu sự
chất vấn của Đại biểu quốc hội, của hội đồng nhân dân, theo định kỳ phải báo
cáo các hoạt động của cơ quan mình với quốc hội và hội đồng nhân dân.
Tiếp theo sự kiểm soát bên ngoài của nhân dân đối với các cơ quan tiến
hành tố tụng là các tổ chức đoàn thể quần chúng như mặt trận tổ quốc, đoàn
thanh niên, hội nông dân thông qua sự giám sát của các cơ quan tổ chức này
mà quyền lực Nhà nước sẽ được sử dụng hiệu quả, đúng mục đích, ngăn ngừa
các tình trạng lạm quyền, có thể nói đây là phương tiện kiểm soát quyền lực
Nhà nước rất hữu hiệu và nhanh chóng. Tiếp nữa, nhân dân giám sát thông qua
phương tiện thông tin đại chúng, báo, đài, internet…qua hình thức này đã phản
ánh được tâm tư nguyện vọng của nhân dân cũng như phản ánh các vi phạm
của các cơ quan tiến hành tố tụng, nhờ đó đã hạn chế giảm bớt việc lạm dụng
quyền lực và cố ý làm trái ảnh hưởng đến QCN của các đối tượng nói trên.
Tóm lại, các yếu tố nói trên đại diện cho sự kiểm soát của nhân dân
trong việc thực thi pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng, thông qua các
hình thức kiểm soát trên người dân sẽ kiểm soát một cách khách quan và đầy
đủ nhất, đó có thể là quyền tố cáo, khiếu nại hành vi tố tụng làm ảnh hưởng
đến quyền lợi của người bị tạm giữ, tạm giam, đó cũng có thể là việc mời
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, đề nghị thay đổi những
người tiến hành tố tụng nếu họ không khách quan hay có lý do khác theo quy
định pháp luật…
32
1.3. Những yếu tố tác động đến bảo đảm quyền con ngƣời của đối
tƣợng bị tạm giữ, tạm giam tại nhà tạm giữ của Công an cấp huyện
Bảo đảm QCN đối với những người bị tạm giữ, tạm giam là một trong
những nguyên tắc hiến định, là nguyên tắc bắt buộc trong TTHS và thi hành
tạm giữ, tạm giam. Về cả lý luận và thực tiễn nhận thấy việc bảm đảm QCN
của đối tượng bị tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ của Công an huyện chịu sự
tác động của những yếu tố sau:
Thứ nhất, quy định của pháp luật về bảo vệ quyền con người trong
tạm giữ, tạm giam
Một nguyên tắc quan trọng hàng đầu trong áp dụng pháp luật được
Đảng, nhà nước ta xây dựng và thực hiện nghiêm chỉnh đó là nguyên tắc pháp
chế xã hội chủ nghĩa, mọi tổ chức cá nhân, cơ quan phải tôn trọng, tuân thủ,
chấp hành nghiêm chỉnh hiến pháp, pháp luật. Trong thi hành tạm giữ, tạm
giam cũng bắt buộc phải tuân theo nguyên tác pháp chế, cụ thể các quy định
của pháp luật làm nền tảng cho việc bảo vệ QCN trong lĩnh vực tạm giữ, tạm
giam. Với việc pháp luật quy định chặt chẽ các quyền của người bị tạm giữ,
tạm giam chính là yếu tố bảo đảm việc thi hành pháp luật trong tạm giữ, tạm
giam nhằm bảo vệ quyền con người của đối tượng bị tạm giữ, tạm giam.
Pháp luật về tạm giữ, tạm giam quy định rõ các quyền của đối tượng bị
tạm giữ, tạm giam về nội dung của quyền, phương thức thực hiện quyền, phạm
vi cụ thể của các quyền đó đối với đối tượng bị tạm giữ, tạm giam.
Pháp luật quy định rõ trách nhiệm, nghĩa vụ tôn trọng và bảo vệ quyền
con người, quyền công dân và các chủ thể tiến hành tố tụng; chủ thể quản lý
tạm giữ, tạm giam; nhiệm vụ quyền hạn của cơ quan kiểm sát việc thi hành
tạm giữ, tạm giam...
Pháp luật về tạm giữ, tạm giam còn quy định rõ những hành vi xâm hại
quyền của công dân, quyền con người trong tạm giữ, tạm giam tùy mức độ mà
33
phải chịu trách nhiệm, bị xử lý tương xứng với hành vi đó.
Như vậy, qua tìm hiểu ta thấy việc hoàn thiện của các quy định về
quyền con người, bảo đảm quyền con người đối với đối tượng bị tạm giữ tạm
giam là một trong những yếu tố quan trọng, ảnh hưởng đến việc bảo đảm
quyền con người đối với người bị tạm giữ, tạm giam.
Thứ hai, tổ chức bộ máy
Tổ chức bộ máy các cơ quan có trách nhiệm bảo vệ QCN trong tạm giữ,
tạm giam cũng là nhân tố ảnh hưởng tới việc bảo vệ QCN trong tạm giữ tạm
giam. Các cơ quan này bao gồm Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Cơ
quan Điều tra và các cơ quan thực hiện nhiệm vụ thi hành tạm giữ, tạm giam.
Đối với Nhà tạm giữ: Cơ cấu tổ chức gồm Trưởng nhà tạm giữ, phó
trưởng nhà tạm giữ, sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ, công nhân, viên chức làm
nhiệm vụ quản giáo, bảo vệ, trinh sát, tham mưu tổng hợp, hỗ trợ tư pháp, kỹ
thuật, hậu cần, y tế, giáo dục, hồ sơ. Trong đó Trưởng nhà tạm giữ, phó trưởng
nhà tạm giữ chịu trách nhiệm chính và toàn diện về hoạt động thi hành tạm
giữ, tạm giam. Do đó sự lãnh đạo, chỉ đạo công tác thi hành tạm giữ, tạm giam
kịp thời, đúng quy định pháp luật, sẽ bảo đảm QCN đối với người bị tạm giữ,
tạm giam. Ngược lại nếu Trưởng nhà tạm giữ, phó trưởng nhà tạm giữ lơ là,
chỉ đạo thực hiện sai quy định pháp luật giam giữ thì sẽ gây ảnh hưởng đến
QCN của đối tượng bị tạm giữ, tạm giam. Như vậy, chính những người quản
lý thi hành tạm giữ tạm giam là người thực thi các quy định về giam giữ, nên
việc bảo đảm QCN đối với người bị tạm giữ, tạm giam phụ thuộc chủ yếu vào
những chủ thể này.
Đối với Viện kiểm sát nhân dân: Việc bảo đảm QCN trong tạm giữ, tạm
giam của VKSND thể hiện ở chức năng kiểm sát tạm giữ, tạm giam. Khi thực
hiện công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tạm giữ, tạm giam,
VKSND cấp huyện có Viện trưởng là người đứng đầu, chịu trách nhiệm về
34
hoạt động của đơn vị. Trong kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam Viện trưởng có
quyền cử Kiểm sát viên, kiểm tra viên thực hiện công tác kiểm sát thường kỳ
ngày một lần công tác thi hành tạm giữ, tạm giam của Nhà tạm giữ Công an
cấp huyện; Viện trưởng có quyền phân công cán bộ, Kiểm sát viên tiến hành
trực tiếp tiến hành kiểm sát đột xuất nhà tạm giữ, trại tạm giam vào bất kỳ thời
gian nào, không kể là ngày hay đêm. Định kỳ khi thực hiện các đợt kiểm sát
toàn diện tại Nhà tạm giữ, Viện trưởng lãnh đạo đơn vị quyết định kế hoạch, ra
quyết định kiểm sát Nhà tạm giữ và phân công cán bộ, Kiểm sát viên, Kiểm tra
viên tham gia đoàn kiểm sát. Nếu phát hiện có hành vi vi phạm pháp luật gây
ra thì VKSND có quyền nhắc nhở, yêu cầu Trưởng nhà tạm giữ, có biện pháp
chấm dứt việc làm vi phạm pháp luật và xử lý người vi phạm pháp luật.
VKSND thực hiện quyền kháng nghị với cơ quan cùng cấp và cấp dưới,
yêu cầu đình chỉ việc thi hành, sửa đổi hoặc bãi bỏ quyết định có vi phạm pháp
luật trong việc tạm giữ, tạm giam; chấm dứt việc làm vi phạm pháp luật và yêu
cầu xử lý người vi phạm pháp luật trong trường hợp quyết định của Trưởng
Nhà tạm giữ, về việc tạm giữ, tạm giam, trái pháp luật. Khi xác định được
nguyên nhân, điều kiện dẫn đến vi phạm pháp luật hoặc những việc nếu không
có biện pháp khắc phục sẽ dẫn đến vi phạm pháp luật, VKSND kiến nghị cơ
quan có thẩm quyền và người có trách nhiệm có biện pháp tích cực để khắc
phục, phòng ngừa vi phạm pháp luật.
Đối với Tòa án: Việc tổ chức của Tòa án, các Thẩm phán và thành viên
của Hội đồng xét xử phải có vai trò độc lập với nhau và độc lập với bên ngoài;
Chánh án có quyền quyết định biện pháp ngăn chặn như tạm giam; Thẩm phán
là chủ tọa phiên tòa có quyền thay mặt Hội đồng xét xử quyết định áp dụng
các biện pháp tạm giam và quyết định hình phạt. Các Thẩm phán phải hoàn
toàn độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
Đối với cơ quan Điều tra: Cơ quan điều tra là chủ thể có quyền áp dụng
35
các biện pháp ngăn chặn hạn chế tự do hay một số biện pháp liên quan, ảnh
hưởng đến QCN trong quá trình điều tra. Nếu hoạt động điều tra đúng quy
định pháp luật sẽ bảo vệ được QCN, nếu hoạt động điều tra sai quy định sẽ có
nguy cơ dẫn tới hậu quả tiêu cực xâm phạm đến quyền con người của các đối
tượng bị tạm giữ, tạm giam.
Thứ ba, đội ngũ cán bộ chiến sỹ ở Nhà tạm giữ, Điều tra viên, Kiểm
sát viên, Thẩm phán
Đội ngũ những người tiến hành tố tụng và đội ngũ trực tiếp quản lý tạm
giữ, tạm giam là những người trực tiếp áp dụng biện pháp ngăn chặn, kiểm sát
việc áp dụng biện pháp ngăn chặn, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn. Vì vậy đội
ngũ này có ảnh hưởng, tác động đến việc bảo đảm QCN đối với người bị tạm
giữ, tạm giam. Cụ thể: năng lực trình độ; phẩm chất đạo đức; và số lượng của
đội ngũ cán bộ chiến sỹ, Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán sẽ ảnh
hưởng đến chất lượng bảo đảm QCN trong tạm giữ, tạm giam.
Đội ngũ cán bộ chiến sỹ, Điều tra viên, Kiểm sát Viên, Thẩm phán trước
hết phải có đủ năng lực và trình độ hiểu biết về pháp luật, có trình độ nhận
thức về pháp luật hình sự, pháp luật TTHS, pháp luật về tạm giữ, tạm
giam...chỉ trên cơ sở đó mới thực hiện đúng, bảo đảm tính hợp pháp của mọi
hoạt động tố tụng trong xác định sự thật của vụ án. Việc tinh thông pháp luật,
áp dụng đúng các quy định pháp luật thì mới có thể bảo đảm được QCN đối
với người bị tạm giữ, tạm giam. Đội ngũ cán bộ chiến sỹ, Điều tra viên, Kiểm
sát Viên, Thẩm phán không chỉ cần nắm rõ các quy định pháp luật, giỏi về
nghiệp vụ mà còn phải là những người có phẩm chất đạo đức và đạo đức nghề
nghiệp. Ý thức trách nhiệm của những người liên quan đến công tác tạm giữ,
tạm giam đòi hỏi phải luôn có thái độ khách quan, thận trọng, tỉ mỉ khi giải
quyết vụ án hình sự, có tinh thần trách nhiệm cao về phần việc được giao và
trong mọi trường hợp tôn trọng và bảo vệ quyền cơ bản của công dân được đặt
36
lên hàng đầu. Cán bộ làm công tác TTHS và quản lý tạm giữ, tạm giam cần
phải có bản lĩnh kiên định vững vàng trước các cám dỗ về vật chất, tinh thần.
Nếu đội ngũ này có tư tưởng không đúng đắn, không kiên định, tham lam tư
lợi, đạo đức không trong sáng về lương tâm nghề nghiệp để vượt qua những
cám dỗ tầm thường thì dễ bị sa ngã và sẵn sàng làm sai lệch sự thật sẽ làm ảnh
hưởng đến việc bảo đảm QCN của người bị tạm giữ, tạm giam.
Ngoài ra lực lượng đội ngũ những người trên cần phải đáp ứng đủ cả về
số lượng và chất lượng để giải quyết các nhiệm vụ đặt ra trong quá trình giải
quyết vụ án nói chung và thực hiện nhiệm vụ tạm giữ, tạm giam nói riêng để
bảo đảm QCN trong tạm giữ, tạm giam được thực hiện đầy đủ và có hiệu quả.
Thứ tư, về cơ sở vật chất và nguồn lực kinh phí
Việc bảo đảm QCN trong tạm giữ, tạm giam phụ thuộc vào nhiều yếu tố
khác nhau; một trong số những yếu tố đó còn phụ thuộc vào điều kiện cơ sở
vật chất, nguồn kinh phí phục vụ công tác tạm giữ, tạm giam.
Mặc dù pháp luật tạm giữ, tạm giam quy định rất rõ QCN đối với đối
tượng bị tạm giữ, tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện tuy nhiên nếu như
cơ sở vật chất tại Nhà tạm giữ không đảm bảo quy định thì không bảo đảm
được QCN cho người bị tạm giữ, tạm giam. Ví dụ: Phòng tạm giữ, tạm giam
quá tải không đảm bảo diện tích theo quy định; cán bộ y tế phải kiêm nhiệm
nên không đảm bảo chế độ chăm sóc y tế; căng tin Nhà tạm giữ quy mô nhỏ,
vì vậy hàng hóa phục vụ nhu cầu người tạm giữ, tạm giam không đầy đủ,..Với
những hạn chế về cơ sở vật chất như vậy thì dù cơ quan quản lý tạm giữ, tạm
giam; cơ quan kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam có nổ lực bao nhiêu thì QCN
của người bị tạm giữ, tạm giam vẫn bị ảnh hưởng. Ngoài ra, các chế độ chính
sách đối với cơ quan, cá nhân thực hiện công tác bảo đảm QCN trong tạm giữ,
tạm giam cũng có ảnh hưởng đến thái độ, trách nhiệm trong công tác bảo đảm
QCN.
37
Tiểu kết chƣơng 1
Như vậy, qua tìm hiểu ta thấy bảo đảm quyền con người của đối tượng
bị tạm giữ, tạm giam là những cách thức, biện pháp tạo ra tiền đề về mặt pháp
lý phù hợp giúp cho các đối tượng này được bảo vệ trước việc họ bị nghi ngờ
đã thực hiện hành vi phạm tội; họ đang bị các cơ quan tiến hành tố tụng buộc
tội và giúp cho họ được thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng đã được pháp
luật quy định. Nội dung bảo đảm quyền con người của đối tượng bị tạm giữ,
tạm giam tại các nhà tạm giữ của Công an huyện được bảo đảm bằng việc ghi
nhận trong Hiến pháp, Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật hình sự, Luật thi hành
tạm giữ, tạm giam, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Luật tổ chức Tòa án
nhân dân, Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự…cơ chế bảo đảm quyền con
người cho các đối tượng này được biểu hiện cụ thể thông qua bảo đảm bằng
pháp luật, bảo đảm cho việc thực thi pháp luật qua việc thực hiện quyền và
nghĩa vụ của những người tiến hành tố tụng, người quản lý thi hành tạm giữ,
tam giam và những người tham gia tố tụng khác trong quá trình xử lý vụ án
hình sự và bảo đảm bằng cơ chế kiểm soát việc thực thi pháp luật của các cơ
quan như Viện kiểm sát nhân dân, Hội đồng nhân dân, Mặt trận tổ quốc Việt
Nam, đoàn thanh niên…qua đó đã cho chúng ta thấy được ý nghĩa của việc
quy định và thực hiện quy định bảo đảm quyền con người của đối tượng bị tạm
giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ của Công an cấp huyện.
38
Chương 2:
THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƢỜI CỦA ĐỐI TƢỢNG
BỊ TẠM GIỮ, TẠM GIAM TẠI NHÀ TẠM GIỮ CỦA CÔNG AN
HUYỆN BỐ TRẠCH, TỈNH QUẢNG BÌNH
2.1. Đặc điểm tình hình Nhà tạm giữ của Công an huyện Bố Trạch,
tỉnh Quảng Bình và các đối tƣợng bị tạm giữ, tạm giam
2.1.1. Đặc điểm tình hình Nhà tạm giữ của Công an huyện Bố
Trạch, tỉnh Quảng Bình
Huyện Bố Trạch là một huyện nằm về phía Đông Bắc của tỉnh Quảng
Bình, có diện tích tự nhiên 2.124,1 km2. Toàn huyện có 28 xã, thị trấn, trong
đó có 9 xã miền núi và 2 xã vùng rẻo cao; có 24 km bờ biển và trên 40 km
đường biên giới Việt - Lào. Huyện có các tuyến đường giao thông huyết mạch
quan trọng đi qua như QL1A, các tuyến quốc lộ 15A, tỉnh lộ 2, 2B, 3, tỉnh lộ
20 nối liền các tuyến đường dọc huyện, có 2 nhánh Đông và Tây đường Hồ
Chí Minh; có đường sắt đi dọc từ đầu đến cuối huyện theo hướng Bắc Nam; có
cửa khẩu Cà Roòng - Noọng Ma (Lào); có Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ
Bàng được UNESCO công nhận là di sản thiên nhiên thế giới. Đó chính là
những thế mạnh để thúc đẩy phát triển kinh tế, du lịch, dịch vụ trên địa bàn
huyện nhà, góp phần nâng cao đời sống cho các tầng lớp nhân dân.
Nhà tạm giữ Công an huyện là cơ sở giam giữ có cơ cấu, tổ chức gồm:
có các buồng tạm giữ, buồng tạm giam, buồng kỷ luật, buồng quản lý phạm
nhân; có các công trình phục vụ việc quản lý giam giữ, hoạt động TTHS. Tùy
quy mô giam giữ, Nhà tạm giữ có thể có các công trình phục vụ sinh hoạt,
chăm sóc y tế, giáo dục người bị tạm giữ, người bị tạm giam, thi hành án phạt
tù; có các công trình làm việc, sinh hoạt của sĩ quan, quân nhân chuyên
nghiệp, hạ sĩ quan, chiến sĩ, công nhân, viên chức công tác tại Nhà tạm giữ; Tổ
39
chức bộ máy của Nhà tạm giữ trong Công an nhân dân gồm có Trưởng nhà
tạm giữ, Phó Trưởng nhà tạm giữ, sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ, công nhân,
viên chức làm nhiệm vụ quản giáo, trinh sát, bảo vệ, hỗ trợ tư pháp, tham mưu
tổng hợp, hậu cần, kỹ thuật, giáo dục, y tế, hồ sơ; Trưởng nhà tạm giữ, Phó
Trưởng nhà tạm giữ phải là người có trình độ đại học cảnh sát, đại học an ninh
hoặc cử nhân luật trở lên và bảo đảm các tiêu chuẩn khác do Chính phủ quy
định.
Huyện Bố Trạch có 01 Nhà tạm giữ nằm trong khuôn viên trụ sở Công
an huyện Bố Trạch, Nhà tạm giữ có diện tích 1.100 m2 được xây dựng năm
1994 với 09 buồng và năm 2005 thêm 07 buồng, hiện nay có tổng cộng 16
buồng giam giữ được chia làm 02 dãy, dãy A có 09 buồng, dãy B có 07 buồng.
Ngoài ra Nhà tạm giữ còn được bố trí thêm 01 phòng bếp để nấu ăn cho các
đối tượng giam giữ và thi hành án. Đối tượng giam giữ và thi hành án tại Nhà
tạm giữ thường dao động từ 30-50 người, lực lượng cán bộ chiến sỹ làm công
tác giam giữ và Thi hành án hình sự tại Nhà tạm giữ gồm 12 đồng chí trong đó
có 01 đồng chí được phân công kiêm nhiệm làm cán bộ y tế. Nhà tạm giữ
Công huyện nằm tại trung tâm địa bàn huyện và gần bệnh viện nên thuận lợi
cho giao thông và đưa các đối tượng đi khám chữa bệnh nhanh chóng kịp thời.
Về tình hình tội phạm và vi phạm pháp luật trên địa bàn huyện Bố
Trạch:
Năm 2015 CQCSĐT công an huyện Bố Trạch đã tiếp nhận 123 tố giác,
tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố (giảm 29 tin so với năm 2014), đã xử
lý 112 tin, trong đó: Khởi tố vụ án 65 tin, ra quyết định không khởi tố vụ án 28
tin, chuyển tỉnh xử lý theo thẩm quyền 10 tin, xếp lưu 09 tin, tỷ lệ giải quyết tố
giác tin báo tội phạm đạt 91.1% (chỉ tiêu Quốc hội đề ra 90%). Về giải quyết
các vụ án hình sự: ở giai đoạn điều tra tổng thụ lý 91 vụ/150 bị can (Số cũ 14
vụ/16 bị can, Số mới 77 vụ/134 bị can, Tỉnh chuyển về điều tra 03 vụ/13 bị
40
can), so với năm 2014 giảm 08 vụ, đã giải quyết: 83 vụ/126 bị can (trong đó
kết thúc điều tra 74 vụ/120 bị can, Tạm đình chỉ điều tra 05 vụ/03 bị can, Đình
chỉ điều tra 04 vụ/03 bị can), tỷ lệ giải quyết án hình sự ở giai đoạn điều tra đạt
92.1%; Ở giai đoạn truy tố tổng thụ lý 84 vụ/134 bị can (Mới - Tỉnh chuyển về
truy tố 10 vụ/14 bị can) (So với năm 2014 giảm 15 vụ, giảm 23 bị can); Đã xử
lý 83 vụ/128 bị can (Truy tố 82 vụ/127 bị can; Đình chỉ 01 vụ/01 bị can); Tồn
01 vụ/06 bị can, tỷ lệ giải quyết đạt 99% (chỉ tiêu 95%); Ở giai đoạn xét xử
tổng thụ lý 97 vụ/163 bị cáo (trong đó cũ 14 vụ/24 bị cáo; mới 83 vụ/139 bị
cáo - Tỉnh chuyển về xét xử lại 01 vụ/12 bị cáo). So với năm 2014 giảm 16 vụ,
giảm 18 bị cáo, Đã giải quyết 94 vụ/158 bị cáo (Xét xử 93 vụ/157 bị cáo, Đình
chỉ 01 vụ/01 bị cáo), tỷ lệ giải quyết đạt 97%.
Năm 2016 CQCSĐT công an huyện Bố Trạch đã tiếp nhận 115 tố giác,
tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố (trong đó cũ 11 tin, mới 104 tin), đã
xử lý 105 tin, trong đó: khởi tố vụ án 61 tin, ra quyết định không khởi tố vụ án
41 tin, chuyển tỉnh 03 tin, hiện tồn 10 tin, tỷ lệ giải quyết đạt 91,3%. Về giải
quyết các vụ án hình sự: Ở giai đoạn điều tra tổng thụ lý 91 vụ/163 bị can (cũ
08 vụ/24 bị can, mới 83 vụ/139 bị can - trừ đi 03 vụ/03 bị can chuyển tỉnh giải
quyết theo thẩm quyền), đã xử lý: 82 vụ/149 bị can, trong đó kết thúc điều tra
79 vụ/146 bị can, tạm đình chỉ điều tra 02 vụ/01 bị can, đình chỉ điều tra 01
vụ/02 bị can, tỷ lệ giải quyết đạt 90,1%; Ở giai đoạn truy tố tổng thụ lý 88 vụ
/166 bị can (cũ 01 vụ/06 bị can, mới 87 vụ/160 bị can, trong đó có 08 vụ/ 14 bị
can tỉnh chuyển về truy tố), đã giải quyết: 88 vụ/166 bị can, trong đó: truy tố
vụ án 86 vụ/160 bị can, đình chỉ vụ án 02 vụ/05 bị can, tạm đình chỉ 01 bị can,
tỷ lệ giải quyết đạt 100%; Ở giai đoạn xét xử tổng thụ lý 89 vụ/ 165 bị can
(trong đó cũ 03 vụ/05 bị can, mới 86 vụ/160 bị can), đã giải quyết xét xử 86
vụ/ 162 bị can, tỷ lệ giải quyết đạt 96,6%.
41
Năm 2017 CQCSĐT công an huyện Bố Trạch đã tiếp nhận 169 tố giác,
tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố (trong đó cũ 10 tin, mới 159 tin), đã
xử lý 159 tin, trong đó: Khởi tố vụ án 93 tin, ra quyết định không khởi tố vụ án
52 tin, chuyển tỉnh 02 tin, xếp lưu 12 tin, tỷ lệ giải quyết đạt 94,1%. Về giải
quyết các vụ án hình sự: Ở giai đoạn điều tra tổng thụ lý 98 vụ/145 bị can (cũ
09 vụ/14 bị can, mới 89 vụ/131 bị can), đã xử lý 88 vụ/135 bị can, trong đó kết
thúc điều tra 79 vụ/131 bị can, tạm đình chỉ vụ án 01 vụ/00 bị can, đình chỉ vụ
án 01 vụ/00 bị can, chuyển tỉnh 07 vụ/04 bị can giải quyết theo thẩm quyền, tỷ
lệ giải quyết đạt 89,8%; Ở giai đoạn truy tố tổng thụ lý 86 vụ /142 bị can (mới,
trong đó có 07 vụ/ 11 bị can tỉnh chuyển về truy tố), đã giải quyết 86 vụ/142 bị
can (truy tố chuyển tòa), tỷ lệ giải quyết đạt 100%; Ở giai đoạn xét xử tổng thụ
lý 89 vụ/ 145 bị can (Trong đó cũ 03 vụ/03 bị can, mới 86 vụ/142 bị can), đã
giải quyết xét xử 83 vụ/ 131 bị can, tỷ lệ giải quyết đạt 96,6%.
Năm 2018 CQCSĐT công an huyện Bố Trạch đã tiếp nhận 115 tố giác,
tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố (trong đó cũ 10 tin, mới 105 tin), đã
xử lý 110 tin, trong đó: Khởi tố vụ án 66 tin, ra quyết định không khởi tố vụ án
39 tin, xếp lưu 05 tin, tỷ lệ giải quyết đạt 95,6%. Về giải quyết các vụ án hình
sự: Ở giai đoạn điều tra tổng thụ lý 76 vụ/110 bị can (trong đó cũ 10 vụ/10 bị
can, mới 66 vụ/100 bị can- tỉnh chuyển về điều tra 01 vụ/0 bị can), đã xử lý 64
vụ/91 bị can, trong đó (kết thúc điều tra 60 vụ/87 bị can, tạm đình chỉ vụ án 01
vụ/01 bị can, đình chỉ vụ án 03 vụ/03 bị can), tỷ lệ giải quyết đạt 84,4%; Ở giai
đoạn truy tố tổng thụ lý 63 vụ /92 bị can (trong đó mới 63 vụ/92 bị can, trong
đó có 03 vụ/ 05 bị can tỉnh chuyển về truy tố), đã giải quyết: Truy tố 61 vụ/89
bị can, tỷ lệ giải quyết đạt 97%; Ở giai đoạn xét xử tổng thụ lý 69 vụ/ 105 bị
can (trong đó cũ 06 vụ/14 bị can, mới 63 vụ/91 bị can- Tòa án cấp cao chuyển
về xét xử lại theo hướng tăng hình phạt 02 vụ/02 bị cáo), đã giải quyết xét xử
68 vụ/ 104 bị can, tỷ lệ giải quyết đạt 98,5%
42
Năm 2019 CQCSĐT công an huyện Bố Trạch đã tiếp nhận 108 tố giác,
tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố (trong đó cũ 05 tin, mới 103 tin), đã
xử lý 98 tin, trong đó: khởi tố vụ án 64 tin, ra quyết định không khởi tố vụ án
34 tin, tỷ lệ giải quyết đạt 91%. Về giải quyết các vụ án hình sự: Ở giai đoạn
điều tra tổng thụ lý 107 vụ/167 bị can (trong đó cũ 12 vụ/19 bị can, mới 95
vụ/148 bị can, phục hồi điều tra 01 vụ/0 bị can), đã xử lý: 94 vụ/136 bị can,
trong đó (kết thúc điều tra 91 vụ/133 bị can, tạm đình chỉ vụ án 01 vụ/01 bị
can, đình chỉ vụ án 02 vụ/02 bị can), tỷ lệ giải quyết đạt 88%; Ở giai đoạn truy
tố tổng thụ lý 93 vụ/136 bị can (trong đó cũ 02 vụ/03 bị can, mới 91 vụ/133 bị
can), đã giải quyết: 92 vụ/134 bị can (truy tố 91 vụ/133 bị can, truy tố rút gọn
01 vụ/01 bị can), tỷ lệ giải quyết đạt 99%; Ở giai đoạn xét xử tổng thụ lý 99
vụ/142 bị can (trong đó cũ 01 vụ/01 bị can, mới 98 vụ/141 bị can - Tỉnh
chuyển về xét xử 06 vụ/07 bị cáo), đã giải quyết: 96 vụ/138 bị cáo (trong đó
xét xử 68 vụ/ 104 bị cáo, đình chỉ vụ án 01 vụ/01 bị cáo), tỷ lệ giải quyết đạt
96,9%.
Năm 2020 CQCSĐT công an huyện Bố Trạch đã tiếp nhận 74 tố giác,
tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố (trong đó cũ 10 tin, mới 64 tin), đã xử
lý 68 tin, trong đó: khởi tố vụ án 30 tin, ra quyết định không khởi tố vụ án 31
tin, xếp lưu 07 tin, tỷ lệ giải quyết đạt 92%. Về giải quyết các vụ án hình sự: Ở
giai đoạn điều tra tổng thụ lý 115 vụ/194 bị can (trong đó cũ 13 vụ/31 bị can,
mới 102 vụ/163 bị can), đã xử lý: 99 vụ/165 bị can, trong đó (kết thúc điều tra
85 vụ/144 bị can, tạm đình chỉ vụ án 03 vụ/02 bị can, đình chỉ vụ án 01 vụ/01
bị can, chuyển vụ án 09 vụ/17 bị can, nhập vụ án 01 vụ/ 01 bị can), tỷ lệ giải
quyết đạt 86%; Ở giai đoạn truy tố tổng thụ lý 86 vụ/146 bị can (trong đó cũ
01 vụ/02 bị can, mới 85 vụ/144 bị can), đã giải quyết: Truy tố 84 vụ/144 bị
can, tỷ lệ giải quyết đạt 98%; Ở giai đoạn xét xử tổng thụ lý 91 vụ/156 bị can
(trong đó cũ 03 vụ/04 bị can, mới 84 vụ/144 bị can - Tỉnh chuyển về xét xử 04
43
vụ/08 bị cáo), đã giải quyết: xét xử 86 vụ/142 bị cáo, tỷ lệ giải quyết đạt
94,5%.
2.1.2. Tình hình đối tƣợng bị tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ
của Công an huyện Bố Trạch
Về tình hình đối tượng bị tạm giữ: Các đối tượng bị tạm giữ ở đây nhìn
chung đều là nam giới chiếm tỷ lệ 98 %, nữ giới chiếm tỷ lệ 2%, các trường
hợp tạm giữ các đối tượng đều đảm bảo đúng thẩm quyền, trình tự và có căn
cứ, tạm giữ được áp dụng đối với người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp,
người phạm tội tự thú, đầu thú, người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả
tang, người bị bắt theo quyết định truy nã. Các trường hợp bắt người bị giữ
trong trường hợp khẩn cấp và gia hạn tạm giữ lần thứ nhất, gia hạn tạm giữ lần
thứ hai của CQCSĐT Công an huyện đều được VKSND huyện phê chuẩn theo
đúng quy định của pháp luật. Trong trường hợp xét thấy việc tạm giữ không có
căn cứ hoặc không cần thiết thì VKSND ra quyết định hủy bỏ quyết định tạm
giữ và người ra quyết định tạm giữ phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ.
Tổng số người bị tạm giữ trong các năm từ 2015 đến 2020 tại Nhà tạm giữ
công an huyện Bố Trạch là 294 người, tỷ lệ giải quyết người bị tạm giữ bị khởi
tố hình sự là 100%, không có trường hợp nào người bị tạm giữ được trả tự do
không xử lý hình sự.
Về tình hình đối tượng tạm giam: Các đối tượng bị tạm giam ở đây là
các bị can đã bị khởi tố đang nằm trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử hoặc
đang bị tạm giam để chờ thi hành án, nhìn chung các đối tượng bị tạm giam ở
đây đa phần cũng là nam giới, và các bị can là người dưới 18 tuổi, phụ nữ có
thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, người già yếu, người bị mắc bệnh
nặng mà có nơi cư trú, lý lịch rõ ràng được các cơ quan tiến hành tố tụng hạn
chế việc tạm giam đối với họ, việc tạm giam những người này được pháp luật
TTHS quy định rất chặt chẽ nếu họ có các hành vi tiếp tục phạm tội, đã bỏ trốn
44
và có quyết định truy nã, có hành vi mua chuộc cưỡng ép xúi dục người khác
khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật, họ thực hiện hành vi thuộc các
loại tội xâm phạm an ninh quốc gia… Tổng số người bị tạm giam trong các
năm từ 2015 đến 2020 tại Nhà tạm giữ công an huyện Bố Trạch là 582 người,
tỷ lệ giải quyết người bị tạm giam bị xét xử hình sự và tuyên có tội là 100%,
không có trường hợp nào người bị tạm giam được trả tự do vì lý do không có
hành vi thực hiện tội phạm.
Công tác quản lý người bị tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an
huyện Bố Trạch đã được quan tâm và chú trọng hơn, do vậy đã hạn chế đến
mức thấp nhất các vi phạm làm ảnh hưởng quyền con người của các đối tượng
bị tạm giữ, tạm giam, qua các năm từ 2015 đến 2020 không có khiếu nại, tố
cáo nào liên quan đến công tác này.
Bảng 2.1: Công tác kiểm sát tạm giữ từ năm 2015 đến năm 2020
Còn
Quá
Năm
Tạm giữ
Giải quyết
lại
hạn
Tổng
Khẩn
Quả
Truy
Tổn
Khởi tố
Khởi tố áp
Trả tự do
số
Cấp
tang
nã
g số
chuyển
dụng biện
(VKS
tạm
pháp ngăn
không phê
giam
chặn khác
chuẩn)
37
14
20
03
37
20
17
0
0
0
Năm 2015
39
20
18
01
39
21
18
0
0
0
Năm 2016
44
19
22
03
44
22
22
0
0
0
Năm 2017
54
22
28
04
54
27
27
0
0
0
Năm 2018
52
23
25
04
52
26
26
0
0
0
Năm 2019
68
02
65
01
68
37
31
0
0
0
Năm 2020
Nguồn: Báo cáo công tác bắt tạm giữ, tạm giam từ năm 2015 đến năm
2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bố Trạch.
45
Việc bắt, tạm giữ qua các năm đảm bảo đúng quy định của pháp luật,
không có trường hợp oan sai hay lạm dụng giữ người trong trường hợp khẩn
cấp sau đó phải trả tự do vì không có hành vi phạm tội. Tỷ lệ bắt, tạm giữ
chuyển xử lý hình sự đạt tỷ lệ 100%. Không có tạm giữ quá hạn.
Bảng 2.2: Công tác kiểm sát tạm giam từ năm 2015 đến năm 2020
Tạm
Quá
Năm
Đã giải quyết
giam
hạn
Tổng số
Tổng số
Chuyển
Áp dụng
Hủy bỏ
Hội đồng
giải quyết
Thi hành
Biện pháp
tạm
xét xử trả
án
ngăn chặn
giam
tự do
khác
95
90
76
11
01
02
0
Năm 2015
80
78
69
07
02
0
0
Năm 2016
86
85
75
10
0
0
0
Năm 2017
77
77
65
08
01
03
0
Năm 2018
120
92
81
09
02
0
0
Năm 2019
124
113
98
15
0
0
0
Năm 2020
Nguồn: Báo cáo công tác bắt tạm giữ, tạm giam từ năm 2015 đến năm
2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bố Trạch.
Việc bắt, tạm giam qua các năm đều có Lệnh và phê chuẩn của Viện
kiểm sát, không có trường hợp nào bắt tạm giam oan, sai hoặc không có căn cứ
pháp luật hay không đúng trình tự thủ tục của BLTTHS quy định. Việc xử lý
giải quyết theo đúng quy định của pháp luật, trong đó có 06 trường hợp huỷ bỏ
biện pháp tạm giam do đình chỉ điều tra vụ án (lý do bị hại rút đơn yêu cầu
khởi tố); Hội đồng xét xử trả tự do 05 trường hợp (lý do Hội đồng xét xử tuyên
mức án phạt tù bằng thời gian tạm giam).
46
2.2. Tình hình bảo đảm quyền con ngƣời của đối tƣợng bị tạm giữ,
tạm giam tại Nhà tạm giữ của Công an huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình
2.2.1. Thực trạng bảo đảm quyền không bị bắt giam tuỳ tiện vô căn
cứ
Quá trình thi hành tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Bố
Trạch các cơ quan tiến hành tố tụng cơ bản tuân thủ và thực hiện tốt các quy
định về điều kiện, thẩm quyền, thủ tục tạm giữ, tạm giam như sau: Theo Điều
10 BLTTHS năm 2015 quy định “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về
thân thể. Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Tòa án, quyết định hoặc
phê chuẩn của VKSND, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc giữ người
trong trường hợp khẩn cấp, việc bắt, tạm giữ, tạm giam người phải theo quy
định của Bộ luật này. BLTTHS quy định rõ về căn cứ bắt tạm giữ, tạm giam”;
Điều 117 BLTTHS năm 2015 quy định rõ “Tạm giữ chỉ có thể áp dụng đối với
người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt trong trường hợp phạm
tội quả tang, người phạm tội tự thú, người đầu thú hoặc đối với người bị bắt
theo quyết định truy nã”. Và Điều 119 BLTTHS năm 2015 quy định về điều
kiện tạm giam “Tạm giam có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội đặc biệt
nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng. Tạm giam có thể áp dụng đối với bị can, bị
cáo về tội nghiêm trọng, tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù
trên 02 năm khi có căn cứ xác định người đó thuộc một trong các trường hợp:
Đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng vi phạm; Không có nơi cư trú
rõ ràng hoặc không xác định được lý lịch của bị can; Bỏ trốn và bị bắt theo
quyết định truy nã hoặc có dấu hiệu bỏ trốn; Tiếp tục phạm tội hoặc có dấu
hiệu tiếp tục phạm tội; Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác
khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài
liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế,
trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của
47
những người này. Ngoài ra tạm giam có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo về
tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù đến 02 năm nếu
họ tiếp tục phạm tội hoặc bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã...”
Quá trình thi hành việc tạm giữ, tạm giam CQCSĐT và Nhà tạm giữ
Công an huyện Bố Trạch cơ bản đã thi hành tốt các quy định trên, không để cá
nhân, công dân nào bị bắt tạm giữ, tạm giam tùy tiện, vô căn cứ, xâm phạm
đến quyền con người của công dân. Tuy nhiên quá trình thi hành cũng có một
số thiếu sót tồn tại trong tạm giữ, tạm giam cần khắc phục, chấn chỉnh qua đó
để bảo đảm cho quyền lợi của các đối tượng ngày càng được tốt hơn, sau đây
một số thực trạng về việc bảo đảm quyền không bị bắt giam tuỳ tiện vô căn cứ
như sau:
Về tạm giữ: Từ năm 2015 đến năm 2020 tại nhà Tạm giữ Công an
huyện Bố Trạch đã tạm giữ 294 người, trong đó giữ người trong trường hợp
khẩn cấp 100 người, bắt quả tang tạm giữ 178 người, bắt truy nã tạm giữ 16
người. Đã giải quyết 294 người; trong đó khởi tố chuyển tạm giam 153 người,
khởi tố áp dụng biện pháp ngăn chặn khác 141 người; trả tự do 0 người. Như
vậy tỷ lệ giải quyết tạm giữ chuyển xử lý hình sự đạt tỷ lệ 100%. Không có
tạm giữ quá hạn.
Về tạm giam: Từ năm 2015 đến năm 2020 tại Nhà tạm giữ Công an
huyện Bố Trạch có tổng số người bị tạm giam là 582 người, trong đó: số cũ 05
người, số mới 577 người. Đã giải quyết 535 người; Cụ thể: hủy bỏ biện pháp
tạm giam 06 người (lý do bị hại rút đơn yêu cầu khởi tố), thay đổi biện pháp
ngăn chặn khác 60 người, Hội đồng xét xử trả tự do 05 người (tuyên mức án
phạt tù bằng thời hạn tạm giam 05 người), án có hiệu lực pháp luật chuyển trại
giam 464 người; hiện còn 42 người. Như vậy, tỷ lệ giải quyết người bị tạm
giam bị xét xử hình sự và tuyên có tội là 100%, không có trường hợp nào
48
người bị tạm giam được trả tự do vì lý do không có hành vi thực hiện tội
phạm.
Từ năm 2015 đến năm 2020 việc ra quyết định tạm giữ, tạm giam của
CQCSĐT Công an huyện Bố Trạch 100% đúng quy định về căn cứ tạm giữ,
tạm giam theo quy định tại điều 117 và Điều 119 BLTTHS năm 2015; Trong
đó có 10 trường hợp CQCSĐT Công an huyện Bố Trạch ra quyết định tạm
giam mà VKSND nhận thấy không cần thiết phải tạm giam người phạm tội, vì
vậy VKSND huyện Bố Trạch đã không phê chuẩn quyết định tạm giam và
người bị tạm giữ được áp dụng biện pháp ngăn chặn khác. Các quyết định tạm
giữ, tạm giam đều đúng thẩm quyền ra lệnh tạm giam, không có trường hợp
nào tạm giữ, tạm giam quá hạn theo luật định.
Từ năm 2015 đến nay CQCSĐT Công an huyện Bố Trạch đã đình chỉ
điều tra vụ án đối với 06 bị can do bị hại rút đơn yêu cầu khởi tố; Ngay lập tức
CQCSĐT Công an huyện Bố Trạch đã có văn bản đề nghị VKSND huyện Bố
Trạch hủy bỏ 06 quyết định tạm giam mà VKSND đã phê chuẩn đối với các bị
can được đình chỉ điều tra, sau đó Nhà tạm giữ đã trả tự do ngay cho người bị
tạm giam, đảm bảo quyền không bị giam giữ tùy tiện vô căn cứ. Trong kỳ,
VKSND huyện Bố Trạch đã thực hiện việc gia hạn tạm giữ đối với 80 người;
Gia hạn tạm giam 100 người. Đối với những trường hợp CQCSĐT đề nghị gia
hạn nhưng VKSND không gia hạn nêu trên 100% cơ quan Điều tra trả tự do,
Nhà tạm giữ đã thực hiện việc thả người bị tạm giữ, tạm giam nêu trên theo
đúng quy định của pháp luật.
Trong quá trình thi hành việc tạm giam Cơ quan cảnh sát Điều tra, Viện
kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân huyện Bố trạch nhận thấy không còn cần
thiết tiếp tục tạm giam nên đã thay đổi biện pháp ngăn chặn từ tạm giam sang
bảo lĩnh đối với 48 người, từ tạm giam sang lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú đối
với 12 người.
49
Quá trình kiểm sát điều tra, Kiểm sát viên VKSND huyện Bố Trạch đã
phát hiện 03 trường hợp bị can bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Bố
Trạch bị khởi tố vụ án, khởi tố bị can sai điểm, khoản trong cùng điều luật, vì
vậy việc ra Lệnh tạm giam đối với 03 bị can trên là quá thời hạn tạm giam theo
quy định; VKSND huyện Bố Trạch đã kịp thời kiến nghị yêu cầu CQCSĐT
Công an huyện Bố Trạch sửa đổi quyết định khởi tố vụ án, quyết định khởi tố
bị can, thay đổi thời hạn điều tra và thay đổi Lệnh tạm giam cho đúng với thời
hạn điều tra và tương xứng với tính chất mức độ của hành vi phạm tội.
CQCSĐT Công an huyện Bố trạch đã thay đổi các quyết định nêu trên theo
kiến nghị yêu cầu của VKSND huyện Bố Trạch. Nhà tạm giữ Công an huyện
đã thi hành quyết định tạm giam mới theo đúng quy định.
Ngoài ra qua kiểm sát hoạt động giam giữ tại nhà tạm giữ Công an
huyện Bố Trạch từ năm năm 2015 đến năm 2020 nhận thấy vẫn còn tình trạng
chưa tuân thủ các quy định của pháp luật trong tạm giữ, tạm giam: Một số
trường hợp vi phạm về thủ tục tạm giữ, tạm giam như hồ sơ còn thiếu biên bản
xác định tình trạng sức khỏe ban đầu, lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp
khẩn cấp không ghi bắt theo điểm, khoản nào của Điều 110 BLTTHS…Vẫn
còn tình trạng tạm giữ, tạm giam chung giữa những người trong cùng một vụ
án có nguy cơ dẫn đến thông cung, khai báo gian dối… Mặt khác, công tác
quản lý người bị tạm giữ, bảo vệ Nhà tạm giữ chưa được chú trọng dẫn tới vẫn
xảy ra tình trạng đánh nhau giữa những người bị tạm giữ, tạm giam đang còn.
Như vậy một số trường hợp thủ tục hồ sơ bắt tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm
giữ Công an huyện Bố Trạch còn vi phạm, thiếu sót dẫn đến việc giam giữ
chưa chặt chẽ, có nguy cơ gây ảnh hưởng đến quyền con người của người bị
tạm giữ, tạm giam.
Đối với các vi phạm nêu trên VKSND huyện Bố Trạch qua kiểm sát
thường kỳ, kiểm sát trực tiếp theo kế hoạch đã kịp thời phát hiện chấn chỉnh;
50
trong đó đã ban hành 15 kết luận, 15 kiến nghị yêu cầu Trưởng nhà tạm giữ
Công an huyện Bố Trạch chấm dứt vi phạm nêu trên; Nhờ hoạt động kiến
nghị của VKSND trong các năm từ 2015 đến nay về cơ bản các vi phạm nêu
trên đã được Nhà tạm giữ chấm dứt, khắc phục góp phần tránh tình trạng
giam giữ người tùy tiện, không có căn cứ.
2.2.2. Thực trạng bảo đảm quyền không phân biệt đối xử và đối xử
bình đẳng
Nhìn chung việc thực hiện chế độ đối với người bị tạm giữ, tạm giam tại
nhà tạm giữ Công an huyện Bố Trạch từ năm 2015 đến nay luôn thực hiện
đúng các chế độ, không để xảy ra tình trạng phân biệt đối xử đối với đối với
người bị giam giữ. Cụ thể về chế độ ăn: Chế độ ăn của người bị tạm giữ, tạm
giam được đảm bảo về tiêu chuẩn và định lượng như gạo, rau xanh, thịt cá,
nước mắm, bột ngọt; luôn bảo đảm tiêu chuẩn ăn trong một tháng của một
người bị tạm giữ, tạm giam được tính theo định lượng là 17 kg gạo, 0,5 kg
đường loại trung bình, 15 kg rau, 0,7 kg thịt, 0,8 kg cá, 01 kg muối, 0,75 lít
nước chấm, 0,1 kg bột ngọt và chất đốt tương đương 17 kg củi hoặc 15 kg than, 45 kw/h điện, 3 m3 nước để đảm bảo phục vụ ăn, uống và sinh hoạt.
Người bị tạm giữ, tạm giam là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36
tháng tuổi được hưởng định mức ăn như người bị tạm giữ, tạm giam khác và
được ăn tăng thêm 30% định lượng về thịt, cá. Trong các ngày lễ, tết dương
lịch được ăn thêm gấp 3 lần tiêu chuẩn ăn ngày thường; trong các ngày tết
nguyên đán được ăn thêm gấp 5 lần tiêu chuẩn ăn ngày thường. Ngoài ra còn
nhận thêm quà của thân nhân theo quy định của pháp luật và được bảo đảm vệ
sinh an toàn thực phẩm trong ăn uống, được cung cấp nước sạch cho sinh hoạt
hàng ngày.
Về chế độ ở, Nhà tạm giữ Công an huyện Bố Trạch ngày càng được xây
dựng, trang bị cơ sở vật chất đảm bảo điều kiện tốt cho nhu cầu ở, sinh hoạt
51
của người bị tạm giữ, tạm giam. Từ trước 2005 có 09 buồng, đến năm 2005 đã
được xây dựng thêm 07 buồng, nên hiện nay có tổng cộng 16 buồng giam giữ
được chia làm 02 dãy, dãy A có 09 buồng, dãy B có 07 buồng. Trong kỳ Nhà
tạm giữ thực hiện đúng quy định về bố trí phòng giam riêng đối với 04 phạm
nhân và 120 người người chờ thi hành án.
Qua hoạt động kiểm sát toàn diện từ năm 2015 đến nay VKSND huyện
Bố Trạch đã kiến nghị Nhà tạm giữ Công an huyện Bố Trạch đã tiến hành lắp
đặt, sử dụng hệ thống truyền thanh; cấp báo Quảng Bình cho người bị giam
giữ; Nhà tạm giữ Công an huyện Bố Trạch đã chấp nhận tiếp thu và thực hiện
lắp đạt hệ thống truyền thanh và cấp báo Quảng Bình mỗi số 02 tờ để phục vụ
nhu cầu thông tin thời sự của người bị tạm giữ, tạm giam theo quy định của
Luật thi hành tạm giữ, tạm giam góp phần bảo đảm quyền lợi của người bị tạm
giữ, tạm giam.
Từ năm 2015 đến nay Nhà tạm giữ Công an huyện Bố Trạch đã giam
giữ người chưa thành niên đối với 11 người, người nước ngoài 05 người, 04
người có bệnh truyền nhiễm, người có dấu hiệu bị bệnh tâm thần hoặc một
bệnh khác làm mất khả năng nhận thức, điều khiển hành vi trong thời gian chờ
quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng. Nhà tạm giữ đã thực hiện đúng quy
định về phân loại giam giữ, cụ thể bố trí giam riêng người giam giữ là phụ nữ,
người chưa thành niên, người nước ngoài.
Với số lượng người giam giữ giao động trung bình từ 30 đến 50 người,
bình quân diện tích tối thiểu nơi giam, giữ đối với người bị tạm giữ, tạm giam
tại nhà tạm giữ Công an huyện Bố Trạch là 02m2/01 người theo quy định, có
bệ nằm bằng xi măng có chiếu trải để nằm. Tuy nhiên có những thời điểm do
số lượng người bị tạm giữ, tạm giam quá đông, có lúc lên đến hơn 50 người
nhưng phải bố trí phòng giam riêng theo quy định đối với phụ nữ, người nước
ngoài nên có một số phòng giam không đảm bảo quy định về diện tích
52
02m2/01 người. Trước thực trạng này VKSND huyện Bố Trạch đã kiến nghị
đề nghị xây dựng thêm số lượng phòng giam giữ, nhằm đảm bảo đủ cơ sở vật
chất thực hiện đúng quy định pháp luật giam giữ.
Từ năm 2015 đến năm 2020 công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam
của VKSND huyện Bố Trạch luôn được thực hiện nghiêm túc, đúng quy định,
kết quả trong kỳ VKSND đã phát hiện một số vi phạm trong công tác giam giữ
như: giam chung người nước ngoài với người Việt Nam, giam chung người
chờ thi hành án với người tạm giam trong giai đoạn điều tra, giam chung các
bị can trong cùng một vụ án...Với chức năng nhiệm vụ của mình VKSND
huyện Bố Trạch đã kịp thời ban hành 15 kiến nghị yêu cầu Trưởng nhà tạm
giữ Công an huyện Bố Trạch khắc phục vi phạm nhằm bảo đảm thực hiện việc
giam giữ người theo đúng quy định pháp luật, đảm bảo quyền con người của
người bị tạm giữ, tạm giam.
Chế độ mặc và cấp phát khác, Nhà tạm giữ Công an huyện Bố Trạch
thực hiện đúng quy định về chế độ mặc và cấp phát. Cụ thể người bị tạm giữ,
tạm giam ngay từ khi nhập vào được cấp quần áo, chăn, chiếu, màn của cá
nhân 01 đôi dép và 02 bộ quần áo dài theo mẫu thống nhất do Bộ trưởng Bộ
Công an, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quy định. Hàng tháng người bị tạm giữ,
tạm giam được cấp 0,3 kg xà phòng giặt, 04 tháng được cấp 01 khăn rửa mặt.
Đặc biệt đối với phụ nữ Nhà tạm giữ còn cấp thêm những đồ dùng cần thiết
cho vệ sinh phụ nữ đảm bảo nhu cầu thiết yếu của họ.
Về chế độ thăm gặp, gửi quà, từ năm 2015 đến năm 2020 Nhà tạm giữ
Công an huyện Bố Trạch đã giải quyết cho người bị tạm giữ, tạm giam gặp
thân nhân 400 lượt, gặp luật sư hoặc người bào chữa khác 201 lượt. Việc thăm
gặp của người tạm giữ, tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện Bố Trạch
được thực hiện theo quy định tại Điều 22 Luật thi hành tạm giữ, tạm giam năm
53
2015. Trong kỳ Nhà tạm giữ đã cho người bị tạm giữ, tạm giam nhận hơn
2000 lượt quà đúng theo thời gian, định lượng quy định của pháp luật.
Trong kỳ Nhà tạm giữ Công an huyện Bố Trạch tạm giữ 05 người nước
ngoài, việc thực hiện các chế độ về cơ bản được đảm bảo theo quy định. Tuy
nhiên đến nay Nhà tạm giữ vẫn chưa thực hiện được việc phổ biến nội quy
giam giữ đối với người nước ngoài; chưa đảm bảo chế độ thăm gặp gửi quà
theo quy định. Đây cũng là một khó khăn vướng mắc ảnh hưởng đến quyền
của người nước ngoài bị tạm giữ, tạm giam.
Về chế độ y tế, trong kỳ cán bộ y tế tiến hành khám sức khỏe cho người
bị tạm giữ, tạm giam; chữa bệnh theo đúng quy định. Việc khám sức khỏe cho
người bị tạm giữ, tạm giam được theo dõi tại sổ kiểm thể. Từ năm 2015 đến
năm 2020 có 20 người bị tạm giữ, tạm giam bị ốm đau, bệnh tật được cán bộ y
tế Nhà tạm giữ thông báo với cơ quan đang thụ lý vụ án, đồng thời làm các thủ
tục chuyển họ đến bệnh viện đa khoa huyện Bố Trạch để điều trị và tổ chức
canh giữ họ.
Ngoài ra VKSND huyện Bố Trạch - Cơ quan kiểm sát việc tạm giữ, tạm
giam của Nhà tạm giữ Công an huyện Bố Trạch qua hoạt động kiểm sát đã kịp
thời nhắc nhở trực tiếp, kiến nghị Nhà tạm giữ yêu cầu chấm dứt, khắc phục vi
phạm nhằm đảm bảo cho việc tạm giữ, tạm giam được thực hiện theo đúng
quy định pháp luật, bảo vệ lợi ích tổ chức, cá nhân, qua đó, bảo đảm quyền
con người, quyền công dân cho các đơi tượng bị tạm giữ, tạm giam.
Như vậy, qua tìm hiểu thực trạng bảo đảm quyền không phân biệt đối
xử và đối xử bình đẳng đối với người bị tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ
Công an huyện Bố Trạch chúng ta thấy về cơ bản Nhà tạm giữ đã làm tốt công
tác giam giữ, hạn chế tối đa việc vi phạm quyền lợi của người bị tạm giữ, tạm
giam. Tuy nhiên nhờ có công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam của VKSND
huyện Bố Trạch phát hiện các vi phạm trong công tác giam giữ đã kịp thời
54
nhắc nhở, ban hành nhiều kiến nghị, qua đó bảo đảm việc bảo đảm quyền lợi
của người bị tạm giữ, tạm giam; góp phần giúp cho hoạt động tạm giữ, tạm
giam của Nhà tạm giữ công an huyện Bố Trạch được thực hiện đúng theo quy
định của pháp luật.
2.2.3. Thực trạng bảo đảm quyền không bị tra tấn, đối xử hoặc
trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc bị hạ nhục
Từ năm 2015 đến năm 2020 tại Nhà tạm giữ Công an huyện Bố Trạch
đã tạm giữ 294 người, tạm giam 582 người, việc thực hiện nhiệm vụ giam giữ
đúng quy định pháp luật, Qua đó quyền không bị tra tấn, đối xử hoặc trừng
phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc bị hạ nhục đối với người bị tạm giữ, tạm giam
được bảo đảm thực hiện trong thực tiễn. Cụ thể:
Thứ nhất, trong kỳ, việc quản lý giam giữ không để xảy ra tình trạng tra
tấn, bạo lực, truy bức, dùng nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác
xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm. Không có vi
phạm nào của cán bộ giam giữ về đánh đập, tra tấn đối với người bị tạm giữ,
tạm giam. Đặc biệt kể từ khi BLTTHS năm 2015 có hiệu lực thi hành với việc
tăng cường vai trò của VKSND trong việc tham gia hỏi cung, trực tiếp hỏi
cung, phúc cung,..thì việc bảo vệ quyền không bị bức cung, nhục hình đối với
người bị tạm giữ, tạm giam ngày càng được bảo đảm hơn. Từ năm 2015 đến
nay tại Nhà tạm giữ Công an huyện Bố Trạch có 905 lượt hỏi cung có Kiểm
sát viên thuộc VKSND huyện Bố Trạch tham gia; có 115 lượt Kiểm sát viên
trực tiếp hỏi cung người bị tạm giam. Ngoài ra trong kỳ có 205 lượt luật sự
tham gia hỏi cung cùng Điều tra viên. Như vậy, ta thấy việc hỏi cung tại Nhà
tạm giữ Công an huyện Bố Trạch được thực hiện đúng quy định pháp luật, hỏi
cung tại buồng hỏi cung, việc hỏi cung có Kiểm sát viên, luật sự tham gia, qua
đó hạn chế khả năng bức cung, nhục hình, mớm cung trong hỏi cung bị can;
55
góp phần bảo vệ quyền không bị tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô
nhân đạo hoặc bị hạ nhục đối với người bị tạm giữ, tạm giam.
Thứ hai, việc kỷ luật người bị tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công
an huyện Bố Trạch về cơ bản đúng quy định theo pháp luật tạm giữ, tạm giam.
Từ năm 2015 đến nay tại Nhà tạm giữ đã thi hành kỷ luật cách ly ở buồng kỷ
luật đối với 03 người bị tạm giữ từ 01 đến 02 ngày do vi phạm nội quy giam
giữ từ hai lần trở lên gồm: đánh nhau, cố ý làm hư hỏng cơ sở giam giữ…
Trong kỳ tại Nhà tạm giữ Công an huyện Bố Trạch đã thi hành kỷ luật
cách ly ở buồng kỷ luật đối với 10 người bị tạm giam, thời gian cách ly về cơ
bản đúng quy định: 05 người cách ly 04 ngày; 06 người cách ly đến 07 ngày.
Trong đó có 01 người bị áp dụng biện pháp cùm 01 chân trong thời gian cách
ly 07 ngày do có hành vi chống đối quyết liệt quyết định kỷ luật cách ly. Tuy
nhiên có 01 trường hợp người bị tạm giam Trưởng nhà tạm giữ gia hạn cách ly
thêm 05 ngày, mặc dù trước đó đã cách li 07 ngày, như vậy việc thi hành kỷ
luật trường hợp này là quá 02 ngày nên vi phạm đến quyền của người bị tạm
giam theo Điều 23 Luật thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015. VKSND huyện
Bố Trạch với chức năng nhiệm vụ kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam qua công
tác kiểm sát thường kỳ hàng ngày đã kịp thời phát hiện vi phạm đó của Nhà
tạm giữ, kịp thời ban hành 01 kháng nghị yêu cầu Nhà tạm giữ Công an huyện
hủy bỏ quyết định gia hạn thời hạn cách ly nêu trên và phía Nhà tạm giữ đã
chấp nhận.
Ngoài ra từ năm 2015 đến nay VKSND huyện Bố Trạch thường xuyên
mời đại diện Mặt trận tổ quốc Việt Nam huyện Bố Trạch tham gia trong các
cuộc kiểm sát trực tiếp hành tháng, hàng quý, sáu tháng đối với Nhà tạm giữ
Công an huyện Bố Trạch, ban hành nhiều kết luận, kiến nghị yêu cầu Trưởng
nhà tạm giữ khắc phục, sửa chữa các vi phạm trong quá trình thi hành giam
giữ. Ngoài ra còn thường xuyên nhắc nhở trực tiếp, chấn chỉnh kịp thời các vi
56
phạm của cơ sở giam giữ; nhắc nhở Trưởng nhà tạm giữ thực hiện đúng quy
định pháp luật trong quản lý thi hành việc tạm giữ, tạm giam.
Như vậy, bên cạnh việc thực hiện nghiêm chỉnh các quy định pháp luật
tạm giữ, tạm giam của toàn thể lãnh đạo, cán bộ chiến sỹ Nhà tạm giữ Công an
huyện Bố Trạch thì Viện kiểm sát nhân dân huyện Bố Trạch, các luật sư, Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam huyện Bố Trạch đã thực hiện quyền hạn, nhiệm vụ của
mình nhằm góp phần bảo đảm việc thực hiện việc giam giữ người đúng quy
định pháp luật, qua đó quyền không bị tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo,
vô nhân đạo hoặc bị hạ nhục đối với người bị tạm giữ, tạm giam được bảo đảm
thực hiện trong thực tiễn. Liên quan đến lĩnh vực này, Cơ quan Điều tra của
Viện kiểm sát nhân dân tối cao là cơ quan có chức năng khởi tố, điều tra, truy
tố, thực hành quyền công tố và kiểm sát việc xét xử đối với các vụ án xâm
phạm hoạt động tư pháp, trong đó có các tội liên quan xâm phạm đến quyền
không bị tra tấn đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc bị hạ nhục
đối với người bị tạm giữ, tạm giam như các tội về bức cung, dùng nhục
hình...Hiện nay vai trò của cơ quan này ngày càng được nâng cao qua đó bảo
đảm cho việc thực hiện quyền con người của các đối tượng bị tạm giữ, tạm
giam tại các Nhà tạm giữ ngày càng được chú trọng và tránh bị xâm phạm của
các cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan quản lý thi hành giam, giữ và những
người có thẩm quyền thi hành theo quy định pháp luật.
2.2.4. Thực trạng bảo đảm quyền đƣợc bào chữa
Quyền được nhờ người bào chữa hoặc tự bào chữa cho mình là một
trong những quyền quan trọng của người bị buộc tội nhằm bảo đảm cho việc
xét xử được khách quan, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; bảo đảm không
làm oan sai người vô tội, quyền được bào chữa được thực hiện ngay từ khi bị
tạm giữ, tạm giam. Từ năm 2015 đến nay quyền bào chữa của người bị tạm
giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Bố Trạch là một trong những
57
quyền được bảo đảm thực hiện theo quy định của pháp luật TTHS. Ngay từ
đầu, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã thông báo, giải thích
và bảo đảm cho người bị tạm giữ, tạm giam thực hiện đầy đủ quyền bào chữa,
quyền và lợi ích hợp pháp của họ theo quy định của BLTTHS. Bên cạnh đó
sau khi nhận người bị tạm giữ, tạm giam thì Nhà tạm giữ đã có trách nhiệm
giải thích, thông báo, thông tin về trợ giúp pháp lý cho những người bị tạm
giữ, tạm giam thuộc diện trợ giúp pháp lý hay không để họ biết được quyền lợi
của mình. Nếu người bị tạm giữ, tạm giam có yêu cầu trợ giúp pháp lý, cán bộ
Nhà tạm giữ có trách nhiệm hướng dẫn cho họ viết đơn yêu cầu trợ giúp pháp
lý và chuyển đến trung tâm, chi nhánh và thông báo cho cơ quan thụ lý vụ án,
trung tâm, chi nhánh trợ giúp pháp lý biết để cử người trợ giúp pháp lý theo
quy định.
Từ năm 2015 đến năm 2020 trong tổng số 294 người bị tạm giữ tại Nhà
tạm giữ Công an huyện Bố Trạch đã có 05 lượt luật sư, người bào chữa tham
gia bào chữa cho người bị tạm giữ; Cụ thể: năm 2015 có 01 lượt, năm 2017 có
02 lượt, năm 2019 có 02 lượt luật sự, người bào chữa làm thủ tục tham bảo vệ
quyền lợi cho người bị buộc tội trong giai đoạn tạm giữ.
Về luật sư, người bào chữa làm thủ tục tham gia bào chữa cho người bị
buộc tội trong giai đoạn tạm giam tại nhà Tạm giữ Công an huyện Bố Trạch từ
năm 2015 đến năm 2020 là 201 lượt trên tổng số 582 người bị tạm giam.
Trong đó năm 2015 là 30 lượt, năm 2016 là 34 lượt, năm 2017 là 41 lượt, năm
2018 là 35 lượt, năm 2019 là 36 lượt, năm 2020 là 25 lượt.
Ngoài ra, trong quá trình tố tụng, các đối tượng bị tạm giữ, tạm giam tại
Nhà tạm giữ Công an huyện Bố Trạch từ năm 2015 đến năm 2020 có 09 lượt
luật sư được cử tham gia bảo vệ quyền lợi cho người dưới 18 tuổi. Trong số đó
có 02 trường hợp CQCSĐT chậm làm thủ tục cử luật sư tham gia, VKSND
58
huyện Bố Trạch đã đề nghị cử luật sự tham gia bào chữa theo đúng quy định
pháp luật.
Tất cả các trường hợp luật sư tham gia bào chữa nêu trên, CQCSĐT
Công an huyện Bố Trạch và Nhà tạm giữ Công an huyện Bố Trạch đã tạo điều
kiện theo quy định cho luật sư, người bào chữa có có quyền gặp, hỏi người bị
tạm giữ để thực hiện quyền bào chữa; tạo điều kiện cho người bào chữa có
quyền gặp, hỏi người bị buộc tội; có quyền có mặt khi lấy lời khai của người
bị bắt, bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu người có thẩm quyền tiến hành
lấy lời khai, hỏi cung đồng ý thì được hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị
can. Ngoài ra người bào chữa có thể hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can
sau mỗi lần lấy lời khai, hỏi cung của người có thẩm quyền kết thúc. Nhà tạm
giữ Công an huyện Bố Trạch cũng đã thực hiện tốt và chặt chẽ các quy định về
việc người bị tạm giữ, tạm giam gặp người bào chữa như: yêu cầu người bào
chữa xuất trình giấy tờ tùy thân, giấy tờ về việc bào chữa, phổ biến nội quy,
quy chế của Nhà tạm giữ và yêu cầu người bào chữa chấp hành nghiêm chỉnh.
Trong kỳ Nhà tạm giữ đã phát hiện 02 trường hợp người bào chữa vi phạm
quy định về việc gặp người tạm giam nên đã dừng ngay việc gặp và lập biên
bản, thông báo cho cơ quan thụ lý biết và cơ quan thụ lý đã hủy bỏ việc đăng
ký người bào chữa theo quy định pháp luật. Những trường hợp người bào chữa
có yêu cầu gặp người bị tạm giữ, tạm giam nơi khám bệnh, chữa bệnh ngoài
Nhà tạm giữ, thì Nhà tạm giữ công an huyện Bố Trạch trao đổi với bác sỹ điều
trị, trường hợp được bác sỹ đồng ý thì Nhà tạm giữ đã thông báo cho người
bào chữa biết, đồng thời thông báo cho cơ quan thụ lý vụ án biết để có biện
pháp phối hợp kịp thời, tránh hiện tượng mớm cung của người bão chữa. Đồng
thời Nhà tạm giữ đã kiểm soát chặt chẽ không để người bào chữa đưa đồ vật
cấm cho người bị tạm giữ, tạm giam.
59
Như vậy, qua tìm hiểu thực trạng nêu trên ta thấy quyền được bào chữa
của người bị tạm giữ, tạm giam được các cơ quan tiến hành tố tụng, Cán bộ
chiến sỹ Nhà tạm giữ, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bố Trạch chú trọng, qua
đó góp phần cho việc điều tra, truy tố, xét xử và giam giữ bảo đảm đúng theo
quy định pháp luật, góp phần hạn chế oan sai, bỏ lọt tội phạm và làm oan
người vô tội; bảo vệ tốt nhất quyền con người cho đối tượng bị tạm giữ, tạm
giam.
2.2.5. Thực trạng bảo đảm quyền không bị coi là có tội khi chƣa có
bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật của Toà án
Quyền không bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội đã có hiệu lực
pháp luật của Tòa án được bảo đảm thực hiện nghiêm chỉnh tại Nhà tạm giữ
Công an huyện Bố Trạch.
Về công tác giam giữ: Từ năm 2015 đến năm 2020 tại Nhà tạm giữ
Công an huyện Bố Trạch đã tạm giữ 294 người, tạm giam 582 người; giam 04
lượt phạm nhân thi hành án phạt tù tại Nhà tạm giữ. Trong đó Nhà tạm giữ đã
bố trí 01 phòng giam riêng cho phạm nhân thi hành án; 01 phòng giam riêng
cho người có bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án chờ đưa đi
thi hành án ở các trại giam khác. Cụ thể: Năm 2015 có 01 phạm nhân thi hành
án tại Nhà tạm giữ, thời hạn chấp hành án 09 tháng tù; năm 2016 có 01 phạm
nhân chấp hành 12 tháng tù; năm 2018 có 01 phạm nhân chấp hành án 06
tháng tù; năm 2019 có 01 phạm nhân chấp hành 15 tháng tù. Từ năm 2015 đến
năm 2020 có 105 người chờ chấp hành án và đã được chuyển đi thi hành án tại
các trại giam khác theo đúng quy định pháp luật.
Nhà tạm giữ Công an huyện Bố Trạch đã thực hiện đúng theo quy định
về phân loại giam giữ: không giam chung người tạm giữ với người tạm giam;
Đặc biệt phạm nhân chấp hành án tại nhà tạm giữ được bố trí phòng giam
60
riêng. Người đã được Tòa án xét xử và ra bản án đã có hiệu lực pháp luật được
chuyển qua phòng giam chờ đưa đi thi hành án tại các trại giam khác.
Về thực hiện chế độ: Việc thực hiện chế độ đối với người bị tạm giữ,
tạm giam và đối với phạm nhân tại Nhà tạm giữ Công an huyện Bố Trạch là
khác nhau, theo quy định của pháp luật. Cụ thể: 294 người bị tạm giữ và 582
người bị tạm giam trong giai đoạn điều tra, truy tố, chờ xét xử nên trong thời
gian tạm giữ, tạm giam này họ được coi là không có tội. Vì vậy họ được
hưởng các quyền thăm gặp, nhận quà, quyền được nhờ luật sư hoặc người
khác bào chữa cho mình, đặc biệt họ còn có được quyền bầu cử. Những người
này được các quyền lợi của người tạm giữ, tạm giam mà không phải thực hiện
các nghĩa vụ như học tập, lao động, cải tạo như phạm nhân.
Còn đối với 04 phạm chấp hành án tại Nhà tạm giữ Công an huyện Bố
Trạch được hưởng các quyền lợi của phạm nhân về ăn, ở, mặc, y tế đầy đủ
theo quy định. Tuy nhiên 04 phạm nhân này được giam tại phòng giam riêng,
họ phải có nghĩa vụ học tập, lao động, cải tạo tại Nhà tạm giữ; được xếp loại
cải tạo hàng tháng, hàng quý, 06 tháng và hàng năm theo quy định...
Như vậy, qua tìm hiểu thực trạng giam giữ tại Nhà tạm giữ Công an
huyện Bố Trạch ta thấy việc thực hiện phân loại giam giữ, thực hiện chế độ
giữa phạm nhân và người bị tạm giữ, tạm giam là khác nhau, người bị tạm giữ,
tạm giam thì được hưởng quyền lợi theo Luật thi hành tạm giữ, tạm giam;
phạm nhân được hưởng quyền và chấp hành các nghĩa vụ lao động, cải tạo,
học tập theo Luật thi hành án hình sự.
Việc thả người bị tạm giữ, tạm giam: Từ năm 2015 đến năm 2020 tại
Nhà tạm Giữ Công an huyện Bố Trạch đã thực hiện việc thả người bị tạm giữ,
tạm giam, phạm nhân theo đúng quy định pháp luật:
Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an huyện Bố Trạch đã ra quyết định
đình chỉ điều tra vụ án, đình chỉ điều tra bị can đối với 06 người đang bị tạm
61
giữ, tạm giam lý do đình chỉ là do bị hại rút đơn yêu cầu khởi tố; Hội đồng xét
xử trả tự do 05 người (lý do tuyên mức án phạt tù bằng thời hạn tạm giam 05
người). Ngay khi có căn cứ đình chỉ điều tra CQCSĐT Công an huyện Bố
Trạch đã ban hành công văn đề nghị VKSND hủy bỏ 06 quyết định tạm giam
mà VKSND đã phê chuẩn và yêu cầu trả tự do ngay đối với các bị can được
đình chỉ, việc trả tự do được thực hiện ngay theo đúng quy định pháp luật; Đối
với 05 trường hợp Hội đồng xét xử tuyên mức án phạt tù bằng thời hạn tạm
giam, Hội đồng xét xử đã ra quyết định trả tự do và Nhà tạm giữ đã thực hiện
việc thả tự do ngay cho người bị tạm giam, đảm bảo quyền lợi đối người bị
tạm giam khi đã được tuyên bản án.
Đối với 04 phạm nhân thi hành án tại Nhà tạm giữ Công an huyện Bố
Trạch, khi hết thời gian chấp hành án Nhà tạm giữ đã làm đầy đủ các thủ tục
để họ trở về địa phương, tái hòa nhập cộng đồng và cấp giấy chứng nhận chấp
hành xong hình phạt tù theo luật Thi hành án hình sự.
Đối với trường hợp 105 người đang tại ngoại đã bị tòa án tuyên bản án
kết tội đã có hiệu lực pháp luật và tòa án đã ra quyết định thi hành án thì trong
thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được quyết định thi hành án, những người
này phải có mặt tại cơ quan thi hành án hình sự công an huyện Bố Trạch.
Trong kỳ Nhà tạm giữ đã tạm giam 105 người để chuyển đi thi hành án tại các
trại giam khác, trong đó có 05 trường hợp bỏ trốn để tránh việc đi thi hành án
đã bị cơ quan Công an ra quyết định truy nã bắt đưa đi thi hành án và 100
người đã tự nguyện vào chờ chuyển đi thi hành án.
2.3. Đánh giá chung về thực trạng bảo đảm quyền con ngƣời của
đối tƣợng bị tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ của Công an huyện Bố
Trạch, tỉnh Quảng Bình
2.3.1. Kết quả tích cực và nguyên nhân đạt đƣợc
Kết quả đạt đƣợc:
62
Thứ nhất, công tác tạm giữ, tạm giam từ năm 2015 đến năm 2020 được
Cơ quan quản lý giam giữ là Nhà tạm giữ công an huyện Bố Trạch thực hiện
đúng theo quy định pháp luật giam giữ. Cụ thể:
Về tạm giữ: các trường hợp bắt tạm giữ theo đúng quy định của pháp
luật về thủ tục, hồ sơ, không để xảy ra trường hợp nào quá hạn tạm giữ, khi
đưa người bị bắt vào tạm giữ đều có đầy đủ lệnh, quyết định có căn cứ, đúng
người, đúng thẩm quyền và thăm khám sức khỏe ban đầu cơ bản đầy đủ. Thực
hiện việc áp dụng thay đổi, hủy bỏ các biện pháp tạm giữ đều có căn cứ, đúng
trình tự thủ tục TTHS theo quy định. Việc thực hiện chế độ ăn ở, sinh hoạt,
cấp phát, chế độ chăm sóc y tế, quyền được cử người bào chữa và một số
quyền khác của người tạm giữ được bảo đảm thực hiện theo đúng quy định
pháp luật.
Về tạm giam: Việc tạm giam của Nhà tạm giữ bảo đảm đúng quy định
của pháp luật, các trường hợp bị tạm giam đều bảo đảm về thời gian và trình
tự, thủ tục và thẩm quyền theo luật định. Các trường hợp tạm giam đều đúng
căn cứ, không để xảy ra các trường hợp bắt tạm giam oan, sai, bức cung, dùng
nhục hình, không có trường hợp nào bị phân biệt đối xử trong tạm giữ, tạm
giam. Tất cả các trường hợp bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Bố
Trạch khi xét xử Tòa án tuyên 100% đều có tội.
Việc bố trí giam giữ và phân loại, giam giữ theo đúng quy định của
pháp luật, trong đó người bị tạm giữ, người bị tạm giam được bố trí theo khu
và phân loại giữa người bị tạm giữ với người bị tạm giam; giữa người tạm
giam là phụ nữ với nam giới, giữa người dưới 18 tuổi với người trên 18 tuổi;
giữa người tạm giam để điều tra, truy tố, chờ xét xử với phạm nhân hoặc người
chờ đưa đi chấp hành án, người mắc bệnh truyền nhiễm nhóm A bị giam giữ
riêng…Một số trường hợp do điều kiện thực tế tại Nhà tạm giữ công an huyện
Bố Trạch không đáp ứng được yêu cầu giam giữ riêng như trên cơ quan thụ lý
63
vụ án và Nhà tạm giữ đã phân loại và quyết định bằng văn bản những người
được giam giữ chung hoặc gửi một số đối tượng đến trại tạm giam cấp trên
khắc phục tình trạng quá tải của Nhà tạm giữ. Việc thực hiện chế độ ăn ở, sịnh
hoạt, cấp phát, chế độ chăm sóc y tế, quyền được cử người bào chữa…của
người tạm giam được bảo đảm thực hiện theo đúng quy định pháp luật.
Thứ hai, Trong thời gian từ năm 2015 đến năm 2020 các cơ quan, tổ
chức khác thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ của mình để bảo đảm quyền con
người của người bị tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Bố
Trạch.
Viện kiểm sát nhân dân huyện Bố Trạch: Đây là cơ quan có nhiệm vụ
quyền hạn kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự đối với Nhà
tạm giữ Công an huyện Bố Trạch bên cạnh việc kiểm sát thường kỳ hằng ngày
thì đã kiểm sát trực tiếp hàng tháng, hành quý và sáu tháng đầu năm, sáu tháng
cuối năm và có thể kiểm sát đột xuất đối với Nhà tạm giữ Công an huyện Bố
Trạch, đã ban hành nhiều kết luận, kiến nghị yêu cầu Trưởng nhà tạm giữ khắc
phục, sửa chữa các vi phạm trong quá trình giam giữ. Ngoài ra qua quá trình
kiểm sát hằng ngày đã thường xuyên nhắc nhở trực tiếp, chấn chỉnh kịp thời
các vi phạm của cơ sở giam giữ; nhắc nhở Trưởng nhà tạm giữ thực hiện đúng
quy định pháp luật trong quản lý thi hành việc tạm giữ, tạm giam. Cụ thể:
Những trường hợp VKSND huyện Bố Trạch nhận thấy không cần thiết
phải tạm giam người phạm tội VKSND đã không phê chuẩn quyết định tạm
giam của CQCSĐT và yêu cầu áp dụng biện pháp ngăn chặn khác. Một số
trường hợp VKSND nhận thấy việc tạm giam không còn cần thiết nên đã thay
đổi biện pháp ngăn chặn từ tạm giam sang bảo lĩnh hoặc cấm đi khỏi nơi cư trú
đảm bảo việc giam giữ có căn cứ và thực hiện theo đúng quy định pháp luật.
Trong kỳ VKSND huyện Bố Trạch đã phát hiện một số vi phạm trong
công tác giam giữ như: giam chung người nước ngoài với người Việt Nam,
64
giam chung người chờ thi hành án với người tạm giam trong giai đoạn điều
tra, giam chung các bị can trong cùng một vụ án, chưa trang bị hệ thống truyền
thanh để các đối tượng được nghe đài phát thanh, chưa thông báo kịp thời việc
trích xuất các đối tượng bị tạm giam đưa đi khám chữa bệnh tại các cơ sở y tế
cho cơ quan đang thụ lý vụ án và Viện kiểm sát có thẩm quyền biết..Với chức
năng nhiệm vụ của mình Viện kiểm sát nhân dân huyện Bố Trạch đã kịp thời
ban hành các kiến nghị yêu cầu Trưởng nhà tạm giữ Công an huyện Bố Trạch
khắc phục vi phạm nhằm bảo đảm thực hiện việc giam giữ người theo đúng
quy định pháp luật, bảo đảm quyền con người cho các đối tượng bị tạm giữ,
tạm giam.
BLTTHS năm 2015 có hiệu lực thi hành với việc tăng cường vai trò của
VKSND trong việc tham gia hỏi cung, trực tiếp hỏi cung, phúc cung; việc hỏi
cung tại Nhà tạm giữ Công an huyện Bố Trạch được thực hiện theo đúng quy
định pháp luật, hỏi cung tại buồng hỏi cung, việc hỏi cung có Kiểm sát viên
tham gia, qua đó hạn chế khả năng bức cung, dùng nhục hình, mớm cung trong
hỏi cung bị can; góp phần bảo đảm quyền không bị tra tấn, đối xử hoặc trừng
phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc bị hạ nhục đối với người bị tạm giữ, tạm giam.
Mặt trận tổ quốc Việt Nam huyện Bố Trạch: Đã phối hợp với VKSND
huyện Bố Trạch tham gia giám sát trong các đợt kiểm sát trực tiếp hàng tháng,
hàng quý, sáu tháng đầu năm và cuối năm tại Nhà tạm giữ Công an huyện Bố
Trạch, cùng với Kiểm sát viên kịp thời phát hiện các vi phạm trong công tác
giam giữ để chấn chỉnh, yêu cầu khắc phục vi phạm, góp phần bảo đảm quyền
con người trong tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Bố Trạch.
Luật sư, người bào chữa cho người bị tạm giữ, tạm giam: Luật sư,
người bào chữa làm thủ tục tham gia bào chữa cho người bị buộc tội trong giai
đoạn tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Bố Trạch từ năm 2015
đến năm 2020 là 05 lượt trên tổng số 294 người bị tạm giữ và 201 lượt trên
65
tổng số 582 người bị tạm giam; trong đó có 09 lượt luận sư được cử tham gia
bảo vệ quyền lợi cho người dưới 18 tuổi. Việc Luật sư, người bào chữa gặp,
hỏi người bị tạm giữ, tạm giam để thực hiện quyền bào chữa; có mặt khi lấy
lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, tham gia khi hỏi cung bị can,
được hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can sau mỗi lần lấy lời khai, hỏi
cung của người có thẩm quyền kết thúc. Qua đó góp phần đảm bảo việc điều
tra, truy tố, xét xử và giam giữ bảo đảm đúng theo quy định pháp luật, góp
phần hạn chế oan sai, bỏ lọt tội phạm và làm oan người vô tội; bảo vệ tốt nhất
quyền con người của các đối tượng bị tạm giữ, tạm giam.
Nguyên nhân để có đƣợc những kết quả tích cực
Như vậy, ta thấy việc thực hiện quyền con người đối với người bị tạm
giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Bố Trạch trong thời gian từ năm
2015 đến năm 2020 về cơ bản được bảo đảm theo đúng quy định pháp luật.
Đạt được kết quả đó nhờ những nguyên nhân cơ bản sau:
Thứ nhất, nhờ hệ thống văn bản pháp luật về tạm giữ, tạm giam tương
đối đầy đủ, hoàn thiện. Luật tạm thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015 và các
nghị định, thông tư hướng dẫn công tác tạm giữ tạm giam đã quy định rõ trách
nhiệm, nghĩa vụ của người bị tạm giữ, tạm giam; quy định rõ quyền hạn và
nhiệm vụ của cơ quan quản lý giam giữ (Nhà tạm giữ); quy định rõ nhiệm vụ,
quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện trong công tác kiểm sát tạm
giữ, tạm giam...Việc pháp luật đã quy định rõ ràng, khách quan như vậy giúp
cho các cá nhân, cơ quan nắm rõ và việc thực hiện theo đúng quy định của
pháp luật tạm giữ, tạm giam, qua đó bảo đảm cho quyền con người của đối
tượng bị tạm giữ, tạm giam trong thực tế được tốt hơn.
Thứ hai, nhờ sự nổ lực thực hiện tốt công tác quản lý giam giữ của lãnh
đạo, cán bộ, chiến sỹ Nhà tạm giữ công an huyện Bố Trạch. Có được những
kết quả tốt trong công tác bảo đảm quyền con người đối với các đối tượng bị
66
tạm giữ, tạm giam thì trước hết phải nhờ vào sự chỉ đạo thực hiện tốt việc tiếp
nhận, quản lý và thực hiện đầy đủ các quyền đối với người bị tạm giữ, tạm
giam của lãnh đạo Nhà tạm giữ Công an huyện Bố Trạch; Nhờ vào ý thức
trách nhiệm và sự nổ lực thực hiện các quy định pháp luật tạm giữ tạm giam
của cán bộ, chiến sỹ làm công tác quản lý giam giữ tại Nhà tạm giữ Công an
huyện Bố Trạch.
Thứ ba, đó là Kiểm sát viên làm công tác kiểm sát giam giữ đã thường
xuyên kiểm sát, kịp thời phát hiện nhắc nhở, chấn chỉnh các vi phạm của cán
bộ chiến sỹ làm công tác quản lý giam giữ; Nhờ Viện kiểm sát nhân dân và
Mặt trận tổ quốc Việt Nam huyện Bố Trạch phối hợp làm tốt công tác giám
sát, kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Bố Trạch
qua các đợt kiểm sát trực tiếp đột xuất và toàn diện đã phát hiện các tồn tại, vi
phạm của Nhà tạm giữ để kiến nghị, kháng nghị yêu cầu khắc phục, sửa chữa
hoặc chấm dứt các vi phạm ảnh hưởng đến quyền lợi của người bị tạm giữ,
tạm giam. Nhờ hoạt động kiểm sát, phát hiện vi phạm và kiến nghị, kháng nghị
đó mà Nhà tạm giữ Công an huyện Bố Trạch đã khắc phục, rút kinh nghiệm để
làm tốt công tác quản lý giam giữ trong thời gian qua bảo đảm quyền con
người của đối tượng bị tạm giữ, tạm giam được thực hiện đầy đủ.
2.3.2. Hạn chế, yếu kém và nguyên nhân
Hạn chế, yếu kém
Về thủ tục tạm giữ, tạm giam: Về tạm giữ một số trường hợp vi phạm về
thủ tục tạm giữ như hồ sơ còn thiếu biên bản xác định tình trạng sức khỏe ban
đầu, chưa lập danh chỉ bản và lý lịch các đối tượng, lệnh bắt người bị giữ trong
trường hợp khẩn cấp không ghi bắt theo điểm, khoản nào của Điều 110
BLTTHS; Trong kỳ Nhà tạm giữ Công an huyện Bố Trạch tạm giữ 05 người
nước ngoài, việc thực hiện các chế độ về cơ bản được đảm bảo theo quy định.
Tuy nhiên đến nay Nhà tạm giữ vẫn chưa thực hiện được việc phổ biến nội
67
quy giam giữ đối với người nước ngoài; chưa đảm bảo chế độ thăm gặp gửi
quà theo quy định. Đây cũng là một khó khăn vướng mắc ảnh hưởng đến
quyền con người của người nước ngoài bị tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ.
Một số hồ sơ Nhà tạm giữ Công an huyện Bố Trạch chưa thực hiện đầy
đủ việc ra thông báo bằng văn bản cho các Cơ quan tiến hành tố tụng đang thụ
lý vụ án biết thời hạn tạm giữ, tạm giam gần hết (phải thông báo trước 01 ngày
khi hết thời hạn tạm giữ, gia hạn tạm giữ và thông báo trước 05 ngày khi hết
thời hạn tạm giam, thông báo trước 10 ngày khi hết thời hạn gia hạn tạm giam)
và yêu cầu cơ quan đang thụ lý vụ án giải quyết theo pháp luật là chưa thực
hiện theo điểm h khoản 1 Điều 13 Luật thi hành tạm giữ, tạm giam. Như vậy
làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người bị tạm giữ và tạm giam chưa được
giải quyết kịp thời tránh việc giam, giữ người khi chưa có đầy đủ lệnh, quyết
định tạm giữ, tạm giam kèm theo.
Khi tiếp nhận đối tượng bị tạm giữ, tạm giam từ nơi khác điều chuyển
đến, Nhà tạm giữ chưa kịp thời thông báo cho Viện kiểm sát có thẩm quyền
kiểm sát quản lý thi hành tạm giữ, tạm giam biết (gồm 04 trường hợp) là thực
hiện chưa đầy đủ theo quy định tại khoản 2 Điều 12 Thông tư liên tịch số
01/2018/TTLT-BCA-BQP-TANDTC-VKSNDTC ngày 23/01/2018, qua đó
việc thực hiện chức năng kiểm sát của cơ quan Viện kiểm sát sẽ không kịp thời
để bảo đảm quyền lợi cho các đối tượng bị tạm giữ, tạm giam khi đưa vào Nhà
tạm giữ như về chế độ được thăm khám sức khỏe, cấp phát tư trang...
Nhà tạm giữ chưa thông báo kịp thời việc trích xuất các đối tượng bị
tạm giam đưa đi khám chữa bệnh tại các cơ sở y tế cho cơ quan đang thụ lý vụ
án và Viện kiểm sát có thẩm quyền biết (gồm 03 trường hợp) là thực hiện chưa
đầy đủ theo quy định tại khoản 2 Điều 20 Luật thi hành tạm giữ, tạm giam.
Khi tiếp nhận các đối tượng Nhà tạm giữ không nghiên cứu kỹ hồ sơ
người bị tạm giữ, tạm giam dẫn đến tình trạng không phát hiện một số vi
68
phạm, thiếu sót của cơ quan tố tụng: Trong kỳ có 03 trường hợp bị can bị tạm
giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Bố Trạch bị khởi tố vụ án, khởi tố bị can
sai khoản, điểm trong cùng điều luật, vì vậy việc ra lệnh tạm giam đối với 03
bị can trên là quá thời hạn tạm giam theo quy định; Khi tạm giam VKSND
huyện Bố Trạch đã kịp thời kiến nghị yêu cầu CQCSĐT Công an huyện sửa
đổi quyết định khởi tố vụ án, quyết định khởi tố bị can, thay đổi thời hạn điều
tra và thay đổi quyết định tạm giam cho đúng với thời hạn điều tra và tương
xứng với tính chất mức độ của hành vi phạm tội. CQCSĐT Công an huyện Bố
trạch đã sửa đổi các quyết định nêu trên theo kiến nghị yêu cầu của VKSND.
Nhà tạm giữ Công an huyện đã thi hành quyết định tạm giam mới theo đúng
quy định.
Ngoài ra có 02 trường hợp cơ quan Điều tra chậm làm thủ tục cử Luật
sư, người bào chữa tham gia bào chữa cho người thuộc diện bắt buộc phải có
người bào chữa (người dưới 18 tuổi phạm tội), nhưng Nhà tạm giữ không kịp
thời phát hiện để trao đổi với cơ quan cảnh sát điều tra để cử người bào chữa.
Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bố Trạch đã phát hiện và đề nghị cử
luật sư tham gia bào chữa theo đúng quy định pháp luật cho người dưới 18
tuổi.
Về phân loại, xử lý các trường hợp tạm giữ, tạm giam: Vẫn còn tình
trạng giữ chung giữa những người cùng vụ án, có nguy cơ dẫn đến thông cung,
khai báo gian dối…; giam chung người nước ngoài với người Việt Nam, giam
chung người chờ thi hành án với người tạm giam trong giai đoạn điều tra.
Ngoài ra việc xác định các đối tượng là người đồng tính, người chuyển giới
cũng còn nhiều khó khăn; chủ yếu xác định dựa vào đặc điểm, biểu hiện bên
ngoài chứ chưa có giấy tờ gì chứng minh họ là người đồng tính, người chuyển
giới. Nếu người đồng tính, người chuyển giới được giam chung với những đối
tượng khác thì sẽ có rất khó khăn trong sinh hoạt ở buồng giam giữ cũng như
69
gây khó khăn cho công tác kiểm soát, quản lý các đối tượng đây là một vướng
mắc cũng cần được tháo gỡ để giải quyết.
Về quản lý người bị tạm giữ, tạm giam: Việc quản lý người bị tạm giữ,
tam giam vẫn còn lỏng lẽo, còn tình trạng người bị tạm giữ, tạm giam vi phạm
nội quy của cơ sở giam giữ như đánh nhau phải thi hành kỷ luật cách ly và
cùm một chân. Nhà tạm giữ không có phòng kiểm tra người bị tạm giữ, tạm
giam khi trích xuất ra vào và chưa có chòi gác vọng để canh gác gây ảnh
hưởng không nhỏ đến phần nào về việc quản lý, theo dõi các đối tượng.
Trong kỳ có 01 trường hợp Trưởng Nhà tạm giữ gia hạn cách ly thêm
05 ngày, mặc dù trước đó đã cách ly 07 ngày. Như vậy việc thi hành kỷ luật
trong trường hợp này là vi phạm đến quyền của người bị tạm giam, gia hạn
cách ly quá thời hạn 02 ngày theo quy định tại Điều 23 Luật thi hành tạm giữ,
tạm giam.
Về thực hiện chế độ, chính sách: Năm 2015, trước khi Viện kiểm sát
nhân dân huyện Bố Trạch kiến nghị thì Nhà tạm giữ Công an huyện không tổ
chức cho người bị tạm giữ, tạm giam nghe đài phát thanh, đọc báo Quảng Bình
theo quy định. Chế độ vệ sinh đối với người bị tạm giữ, tạm giam là phụ nữ
thực hiện chưa tốt; chưa thực hiện đúng việc cấp phát chế độ ăn đối với người
bị tạm giữ, tạm giam...số lượng người bị tạm giữ, tạm giam quá đông, có lúc
lên đến hơn 50 người nhưng phải bố trí phòng giam riêng theo quy định đối
với phụ nữ, người nước ngoài nên có một số phòng giam không đảm bảo quy
định về diện tích 2m2/1 người.
Trong kỳ Nhà tạm giữ cấp phát thiếu tư trang cho người bị tạm giữ
(gồm 03 trường hợp người bị tạm giữ chưa được cấp bàn chải đánh răng) là
chưa thực hiện đầy đủ theo quy định tại Điều 06 Nghị định số 120/2017/NĐ-
CP ngày 06/11/2017 của Chính Phủ quy định chi tiết một số điều của Luật thi
hành tạm giữ, tạm giam. Ngoài ra Điều 27 Luật thi hành tạm giữ, tạm giam và
70
Nghị định 120/2017/NĐ-CP ngày 06/11/2017 của Chính phủ quy định về chế
độ ăn, mặc, ở của người bị tạm giữ, tạm giam. Theo đó, định mức sử dụng điện là 45kW/h điện và 3m3 nước/người nhưng thực tế hiện nay các buồng tạm
giam không có công tơ điện riêng, không có đồng hồ nước riêng mà sử dụng
chung với cơ sở giam giữ đây cũng là một trong những vướng mắc cần được
giải quyết để bảo đảm quyền lợi cho các đối tượng bị tạm giữ, tạm giam tại các
Nhà tạm giữ.
Như vậy, việc tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Bố
Trạch còn có một số vi phạm, thiếu sót dẫn đến việc giam giữ chưa chặt chẽ,
có nguy cơ gây ảnh hưởng đến quyền con người của các đối tượng bị tạm giữ,
tạm giam cần được chấn chỉnh, khắc phục.
Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém
Qua phân tích, tìm hiểu ta thấy rằng bên cạnh những kết quả đạt được
đáng ghi nhận của công tác bảo đảm quyền con người đối với người bị tạm
giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Bố Trạch thì vẫn còn một số vi
phạm, hạn chế yếu kém trong việc bảo đảm quyền con người đối với người bị
tạm giữ, tạm giam. Vẫn còn xảy ra hạn chế, yếu kém nêu trên là do một số
nguyên nhân cơ bản sau:
Thứ nhất, do quy định của pháp luật về tạm giữ, tạm giam còn chưa
thống nhất, các văn bản thường xuyên được sửa đổi, bổ sung, đổi mới nên gây
khó khăn cho việc cập nhật, áp dụng pháp luật của các cơ quan quản lý, thi
hành giam giữ, một số quy định của pháp luật trong công tác tạm giữ, tạm
giam chưa cụ thể và sát với thực tiễn. Trong một số trường hợp các văn bản
pháp luật như nghị định, thông tư đã được thay đổi bằng nghị định, thông tư
khác nhưng do cán bộ, chiến sỹ làm công tác quản lý giam giữ tại Nhà tạm giữ
Công an huyện Bố Trạch chưa kịp thời cập nhật, nắm bắt, vì vậy vẫn áp dụng
các quy định cũ gây ảnh hưởng đến quyền con người của người bị tạm giữ,
71
tạm giam.
Chế tài xử lý đối với các hành vi vi phạm từ những người tiến hành tố
tụng chưa rõ ràng. Chỉ những trường hợp xảy ra những hành vi vi phạm pháp
luật đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự thì chế tài xử phạt mới được
áp dụng, còn những hành vi làm sai quy định, không đảm bảo các chế độ của
người bị tạm giữ, tạm giam thì cho dù đã có văn bản kháng nghị, kiến nghị,
yêu cầu nhưng việc thực hiện hay không thực hiện theo đúng quy định lại
không có cơ chế ràng buộc. Trong trường hợp Mặt trận tổ quốc, Viện kiểm sát
có văn bản đề nghị Nhà tạm giữ khắc phục vi phạm, nhưng nếu vi phạm đó
không được khắc phục thì cũng không có hành lang pháp lý hay căn cứ pháp
luật nào để xử lý… Các vi phạm đôi khi vẫn tồn tại từ năm này qua năm khác
và thực tế vẫn không có cơ quan nào chịu trách nhiệm hay bị ràng buộc vê
pháp lý nếu không thực hiện. Cho nên để bảo đảm quyền con người được thực
hiện tốt cũng cần phải có một khung pháp lý để ràng buộc về mặt chế tài.
Thứ hai, do công tác quản lý giam giữ chưa được chặt chẽ, đúng quy
định, nhiều khi còn lơ là, thiếu trách nhiệm: Lãnh đạo Nhà tạm giữ không
thường xuyên nắm bắt tình hình, cán bộ chiến sỹ không kịp thời báo cáo các
tình huống phát sinh trong tạm giữ, tạm giam nên thiếu chỉ đạo kịp thời dẫn
đến tình trạng cán bộ chiến sỹ để xảy ra một số vi phạm trong công tác giam
giữ. Cụ thể các tình huống người bị tạm giữ, tạm giam có mâu thuẫn trong quá
trình giam chung nhưng cán bộ chiến sỹ không kịp thời báo cáo để Lãnh đạo
Nhà tạm giữ kịp chuyển buồng giam, dẫn đến xảy ra đánh nhau. Cán bộ được
phân công trực tiếp thực hiện nhiệm vụ còn chưa thực sự nêu cao trách nhiệm
trong công việc.
Cán bộ chiến sỹ làm nhiệm vụ quản lý giam giữ có một số là các chiến
sỹ nghĩa vụ tuổi đời còn trẻ, chưa nắm được hết nhiệm vụ, quyền hạn mà mình
đang làm, chưa hiểu rõ nội dung các quyền con người của đối tượng bị tạm
72
giữ, tạm giam. Một số có trình độ năng lực còn hạn chế nên nhận thức không
đúng về các quy định của pháp luật dẫn đến vi phạm quyền con người của
người bị tạm giữ, tạm giam; một số cán bộ còn có tư tưởng xem những người
bị tạm giữ, tạm giam là tội phạm nên đã thực hiện công tác quản lý giam giữ
nhiều khi không đúng với quy định của pháp luật về tạm giữ, tạm giam đã làm
ảnh hưởng không ít đến việc tôn trọng và bảo đảm quyền con người nói chung,
quyền người bị tạm giữ, tạm giam nói riêng. Tại Nhà tạm giữ Công an huyện
Bố Trạch cán bộ y tế là chiến sỹ kiêm nhiệm thêm chuyên môn về y tế chưa
được đào tạo sâu chỉ mới đáp ứng được một số nhiệm vụ nhỏ cơ bản vì vậy
ảnh hưởng đến chất lượng thăm khám, chăm sóc y tế đối với người bị tạm giữ,
tạm giam khi đau ốm, bệnh tật...
Thứ ba, do công tác kiểm sát việc quản lý giam giữ:
Mặc dù Kiểm sát viên thuộc VKSND huyện Bố Trạch thường kỳ ngày
một lần trực tiếp kiểm sát tại Nhà tạm giữ, nhưng việc vi phạm chế độ đối với
người bị tạm giữ, tạm giam có thể xảy ra bất cứ lúc nào, vì vậy Kiểm sát viên
không thể kiểm sát được hết các vi phạm để kịp thời nhắc nhở, chấn chỉnh
hoặc kiến nghị, kháng nghị. Ngoài ra Kiểm sát viên, Kiểm tra viên làm công
tác kiểm sát tạm giữ, tạm giam nhiều khi còn lơ là, chưa làm hết trách nhiệm
của mình dẫn đến không phát hiện hoặc chậm phát hiện các vi phạm của Nhà
tạm giữ đối với người bị tạm giữ, tạm giam, làm ảnh hưởng đến quyền con
người của họ.
Ngoài VKSND thì Mặt trận Tổ quốc Việt Nam huyện Bố Trạch chỉ định
kỳ mới tham gia phối hợp kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam với VKSND huyện
Bố Trạch theo quy định pháp luật; Vì vậy đại diện mặt trận không nắm chắc
hết các quy định của pháp luật tạm giữ, tạm giam nên khó phát hiện các vi
phạm để nhắc nhở, xử lý.
Hội đồng nhân dân huyện Bố Trạch chỉ giám sát qua hình thức xem xét
73
báo cáo giữa năm, cuối năm, thực hiện công tác chất vấn theo quy định về luật
giám sát của Quốc Hội và Hội đồng nhân dân các cấp nên khó phát hiện các vi
phạm xâm phạm đến quyền con ngươi của người bị tạm giữ, tạm giam.
Ngoài ra còn do diễn biến phức tạp của tình hình tội phạm trong thời
gian qua cùng với sự hạn chế về cơ sở vật chất phục vụ công tác giam giữ dẫn
đến tình trạng quá tải gây ảnh hưởng đến quyền con người của các đối tượng
bị tạm giữ, tạm giam. Điều kiện cơ sở vật chất nơi giam, giữ chưa đáp ứng đủ
với quy mô và yêu cầu quản lý giam giữ. Chất lượng buồng giam giữ tại Nhà
tạm giữ Công an huyện Bố Trạch đã xuống cấp, hư hỏng, có một số buồng
tường, trần nhà bong tróc, cửa sắt đã bị hoan rỉ, hệ thống đèn điện chiếu sáng
và hệ thống cấp thoát nước đã được lắp đặt nhưng chưa đáp ứng yêu cầu, đồng
thời do thời gian sử dụng quá lâu nên đã xuống cấp không đảm bảo an toàn vệ
sinh môi trường, Nhà tạm giữ không có hệ thống chống sét, hệ thống phòng
cháy, chữa cháy đảm bảo an toàn tính mạng, sức khỏe cho cán bộ và các đối
tượng bị tạm giữ, tạm giam vì vậy cơ sở vật chất, hạ tầng chưa đáp ứng được
yêu cầu quản lý giam giữ trong tình hình mới.
74
Tiểu kết chƣơng 2
Qua tìm hiểu chúng ta đã thấy rõ được thực trạng bảo đảm quyền con
người đối với đối tượng bị tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện
Bố Trạch từ năm 2015 đến năm 2020, việc bảo đảm quyền con người trong
tạm giữ tạm giam ngày nay đã được chú trọng và quan tâm. Vì vậy trong kỳ về
cơ bản quyền con người của người bị tạm giữ tạm giam được bảo đảm thực
hiện nghiêm chỉnh, tuy nhiên bên cạnh đó trong quá trình thi hành việc tạm
giữ, tạm giam không thể tránh khỏi một số vi phạm, mặt khác do hạn chế về
cơ sở vật chất và một số nguyên nhân khách quan, chủ quan khác nên vẫn còn
xảy ra tình trạng vi phạm về quyền con người đối với các đối tượng bị tạm giữ,
tạm giam trong Nhà tạm giữ như đã nói ở trên. Nhưng nhờ làm tốt công tác
bảo đảm quyền con người của các cơ quan kiểm sát, Mặt trận tổ quốc giám sát
việc giam giữ mà đặc biệt là vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong công tác
kiểm sát tạm giữ, tạm giam đã kịp thời phát hiện vi phạm, kịp thời chấn chỉnh,
kiến nghị, yêu cầu khắc phục sửa chữa, chấm dứt các vi phạm. Trên cơ sở thực
trạng các vi phạm, bất cập, làm rõ nguyên nhân của những bất cập là cơ cơ sở
khoa học để tác giả đưa ra các giải pháp chung và giải pháp riêng nhằm tiếp
tục hoàn thiện việc bảo đảm quyền con người trong tạm giữ, tạm giam ở Nhà
tạm giữ Công an huyện Bố Trạch trong thời gian tới.
75
Chương 3:
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƢỜI CỦA
ĐỐI TƢỢNG BỊ TẠM GIỮ, TẠM GIAM TẠI NHÀ TẠM GIỮ CỦA
CÔNG AN CẤP HUYỆN TỪ THỰC TIỄN HUYỆN BỐ TRẠCH,
TỈNH QUẢNG BÌNH
3.1. Quan điểm bảo đảm quyền con ngƣời của đối tƣợng bị tạm giữ,
tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an cấp huyện
3.1.1. Quan điểm của Nhà nƣớc về bảo đảm quyền con ngƣời của
đối tƣợng bị tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an cấp huyện
Quyền con người, quyền công dân là những quyền cơ bản của con người
được pháp luật của tất các quốc gia thừa nhận ở những mức độ khác nhau.
Quyền con người ở nước ta được pháp luật thừa nhận và bảo vệ chặt chẽ, thực
tiễn thực hiện quyền và bảo đảm quyền con người có nhiều thuận lợi và cũng
gặp phải không ít khó khăn, vướng mắc cản trở trong thực tế ở nhiều góc độ
khác nhau. Liên quan đến tạm giữ, tạm giam đây là một trong những khâu
công tác quan trọng trong hoạt động tư pháp của các cơ quan tiến hành tố tụng
gồm Cơ quan cảnh sát điều tra công an nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Tòa
án nhân dân và cơ quan thi hành tạm giữ, tạm giam là Nhà tạm giữ của công
an, những cơ quan này có chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn riêng nhưng tựu
chung lại hoạt động của các cơ quan này đều nhằm bảo đảm:
- Quyền con người và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của người bị
tạm giữ, người bị tạm giam không bị luật hạn chế phải được tôn trọng và bảo
vệ; bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật phải được thi hành
nghiêm chỉnh.
- Việc tạm giữ, tạm giam; chế độ tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục
phạm nhân; trình tự, thủ tục; quyền khiếu nại, tố cáo những hành vi, quyết
76
định trái pháp luật trong tạm giữ, tạm giam được thực hiện theo đúng quy định
của pháp luật.
- Mọi vi phạm pháp luật trong hoạt động tư pháp thuộc phạm vi lĩnh vực
này phải được phát hiện, xử lý kịp thời, nghiêm minh.
Hoạt động liên quan đến việc thi hành tạm giữ, tạm giam phải luôn tuân
thủ các nguyên tắc:
- Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, bảo đảm quyền con người, lợi ích
của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân;
- Bảo đảm thực hiện nghiêm chỉnh lệnh, quyết định về tạm giữ, tạm
giam, trả tự do của cơ quan, người có thẩm quyền;
- Bảo đảm cho người bị tạm giữ, người bị tạm giam thực hiện quyền con
người, quyền và nghĩa vụ của công dân nếu không bị hạn chế bởi pháp luật;
- Áp dụng các biện pháp quản lý giam giữ phải căn cứ vào tính chất,
mức độ của hành vi phạm tội, độ tuổi, giới tính, sức khỏe, bảo đảm bình đẳng
giới, quyền, lợi ích chính đáng của phụ nữ, trẻ em và các đặc điểm nhân thân
khác của người bị tạm giữ, người bị tạm giam;
- Bảo đảm nhân đạo, không tra tấn, truy bức, dùng nhục hình hay bất kỳ
hình thức đối xử nào khác xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của người bị
tạm giữ, người bị tạm giam.
3.1.2. Các điều kiện bảo đảm quyền con ngƣời của đối tƣợng bị tạm
giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an cấp huyện
Việc bảo đảm quyền con người đối với người bị tạm giữ, tạm giam có
sự tác động từ nhiều yếu tố, điều kiện khách quan trong xã hội và chủ quan,
nhưng xét về nguồn gốc sâu xa thì những điều kiện cơ bản quyết định bảo đảm
quyền con người bao gồm các yếu tố về kinh tế, yếu tố về chính trị và các yếu
tố xã hội khác như sau:
Bảo đảm kinh tế: Bảo đảm kinh tế cho quyền con người là yếu tố đầu
77
tiên và quan trọng nhất, khi điều kiện kinh tế của của cá nhân, công dân cơ bản
đầy đủ thì mới bảo đảm được các nhu cầu thiết yếu của con người, tức là
quyền con người của họ được chính họ bảo đảm bằng điều kiện kinh tế cá
nhân. Vì vậy, quyền này của cá nhân, công dân ở mức độ nào đó do điều kiện
kinh tế quyết định, khi cá nhân, công dân bị tạm giữ, tạm giam thì quyền con
người của họ đạt được hay không so với thực tế ở bên ngoài là hoàn toàn khác
nhau, ví dụ một người ở ngoài bên ngoài không có công ăn việc làm, cơm ăn
không đủ ngày ba bữa, áo quần không đủ mặc nhưng khi vào nhà tạm giữ họ
được bảo đảm các quyền con người mà khi ở ngoài họ không thể đạt được như
họ được chăm sóc y tế, cơm ăn ngày ba bữa, được cấp phát đồ dùng cá nhân…
Mặt khác, quyền con người của công dân còn phụ thuộc vào điều kiện
kinh tế của quốc gia. Một quốc gia nghèo đói, cơ sở vật chất thiếu thốn thì
không thể đảm bảo tốt quyền con người nói chung và quyền con người trong
tạm giữ, tạm giam nói riêng. Như vậy, ta thấy yếu tố đảm bảo về kinh tế là yếu
tố chủ yếu quyết định việc bảo đảm quyền con người trong tạm giữ, tạm giam.
Bảo đảm chính trị: Việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân còn
phụ thuộc vào toàn bộ hệ thống chính trị - các thiết chế bảo vệ quyền. Thể chế
chính trị nào đề cao giá trị con người, đồng thời coi con người là mục tiêu và
động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội thì trong thể chế đó cá nhân được
bảo đảm quyền tự do của mình. Việc khẳng định quyền con người thuộc bản
chất của chế độ, là mục tiêu của Nhà nước có ý nghĩa hết sức quan trọng. Điều
này không chỉ tăng thêm trách nhiệm của Nhà nước trên mọi phương diện đối
với các công dân. Chế độ xã hội chủ nghĩa mà nhiều quốc gia đang hướng tới
là xã hội luôn ý thức rõ việc nhận diện đầy đủ những biểu hiện và nguồn gốc
của bất công và tìm phương thức, biện pháp xóa bỏ những bất công ấy. Đó là
một trong những cách thức để tạo ra môi trường, điều kiện cho việc thực hiện
đầy đủ hóa quyền con người. Vì vậy, việc tạm giữ, tạm giam là các biện pháp
78
ngăn chặn để thực hiện nhiệm vụ điều tra, truy tố, xét xử nhưng bên cạnh đó
Đảng và Nhà nước ta cũng hết sức quan tâm, bảo đảm quyền con người đối
với người bị tạm giữ, tạm giam.
Các bảo đảm xã hội khác: Bên cạnh việc bảo đảm về kinh tế, bảo đảm
chính trị thì cần phải bảo đảm quyền tự do cá nhân và bảo đảm những yếu tố
xã hội khác để tạo ra một môi trường xã hội cho quyền con người, quyền công
dân được thực hiện. Quyền con người cần kết hợp hài hòa các chuẩn mực,
nguyên tắc chung của luật pháp quốc tế với những điều kiện đặc thù về lịch sử,
chính trị, kinh tế - xã hội, các giá trị văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng, phong tục,
tập quán… của quốc gia và khu vực. Vì vậy, cần phải bảo đảm những yếu tố
xã hội khác này để bảo đảm quyền con người cho các đối tượng bị tạm giữ,
tạm giam tại Nhà tạm giữ của Công an.
Bảo đảm quyền con người cũng chính là bảo đảm quyền tự do cá nhân,
hai khái niệm này là khác nhau nhưng có mối quan hệ gắn bó với nhau. Mục
đích của việc tạm giữ, tạm giam là biện pháp ngăn chặn làm hạn chế quyền
con người, quyền tự do cá nhân để đảm bảo cho các cơ quan tố tụng thực hiện
được tốt chức năng, nhiệm vụ của mình trong công tác đấu tranh phòng chống
tội phạm, đảm bảo an toàn an ninh, trật tự xã hội. Các biện pháp này cũng
nhằm bảo đảm cho các quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân khác, của cộng đồng được thi hành đầy đủ.
3.2. Giải pháp bảo đảm quyền con ngƣời của đối tƣợng bị tạm giữ,
tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an cấp huyện
3.2.1. Giải pháp chung
3.2.1.1. Hoàn thiện thể chế pháp lý
Hoàn thiện hơn mô hình tố tụng hình sự: Hiện nay trên thế giới đang tồn
tại hai mô hình tố tụng chủ yếu là tố tụng thẩm vấn và tố tụng tranh tụng. Vì
vậy có nhiều ý kiến cho rằng nước ta cần phải chuyển từ mô hình thẩm vấn
79
sang mô hình tranh tụng thì sẽ bảo vệ tốt nhất quyền con người của các đối
tượng bị tạm giữ, tạm giam trong các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử, thi
hành án. Nhưng việc áp dụng mô hình tranh tụng sẽ dẫn đến nhiều vấn đề phát
sinh như người có nhiệm vụ xét xử tham gia một cách thụ động vào phiên tòa
và là người không chuyên nghiệp, đó chính là thành viên bồi thẩm đoàn; việc
quá đề cao sự đối tụng giữa các lợi ích cá nhân làm cho mô hình tranh tụng
không phản ánh được hết tầm quan trọng của việc bảo vệ lợi ích công cộng
trong các vụ án hình sự. Chính điều này dẫn đến việc áp dụng tràn lan hình
thức đàm phán nhận tội dẫn tới khả năng bỏ lọt những tội phạm nghiêm trọng
có tác động lớn tới trật tự xã hội hoặc việc xét xử chúng có tính giáo dục cao,
không kiểm soát được thời gian xét xử.
Nghị quyết số 49 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020 đã đặt ra yêu cầu học hỏi kinh nghiệm, đưa ra những yếu tố tích cực
của mô hình tố tụng hình sự tranh tụng vào áp dụng nhằm nâng cao chất lượng
xét xử nói riêng và chất lượng tố tụng hình sự nói chung. Như vậy, nghị quyết
49 của Bộ Chính trị về cải cách tư pháp này đã có sự thận trọng cần thiết khi
không khẳng định chuyển đổi hoàn toàn mô hình tố tụng hiện nay sang tố tụng
tranh tụng mà chỉ là mở rộng tranh tụng tại phiên tòa. Theo tác giả đây là quan
điểm đúng đắn vừa đảm bảo tính công bằng, khách quan vừa thể hiện tính
nghiêm minh của pháp luật, tuy nhiên trong thời gian tới cần phải tạo điều kiện
để trong giai đoạn điều tra cần đảm bảo có việc tham gia tích cực hơn nữa của
các chủ thể khác như luật sự, người bào chữa, tạo thêm nhiều quyền cho người
bào chữa trong quá trình khởi tố, điều tra, xét xử qua đó góp phần để Luật sư,
người bào chữa tham gia nhiều hơn vào việc bảo đảm quyền con người cho
các đối tượng bị tạm giữ, tạm giam.
Hoàn thiện hệ thống nguyên tắc và một số quy định của tố tụng hình sự:
Việc BLTTHS năm 2015 có hiệu lực thi hành đã thể hiện hệ thống nguyên tắc
80
tố tụng hình sự hoàn thiện hơn nhiều so với BLTTHS năm 2003. Tuy nhiên tác
giả nhận thấy cần phải hoàn thiện hơn nữa các nguyên tắc theo hướng sau:
Về nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội. Đây là
nguyên tắc quan trọng nhằm bảo đảm cho việc xác định sự thật của vụ án từ
các chủ thể người bị buộc tội, người bào chữa. BLTTHS năm 2015 mới chỉ
dừng lại ở việc ghi nhận: Bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa, tức là hoạt động
tranh tụng chỉ diễn ra tại phiên tòa. Quy định như vậy là chưa đầy đủ, chưa
bao quát được hết hoạt động tranh tụng. Vì vậy thiết nghĩ cần phải quy định
thành nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong tố tụng hình sự chứ không chỉ
tranh tụng tại phiên tòa như hiện nay. Bởi hoạt động này là một quá trình bắt
đầu ngay từ khi buộc tội. Như vậy, cần phải quy định thêm các quyền để bảo
đảm cho các bên gỡ tội được bình đẳng với bên buộc tội, thể hiện ở việc cần
có các quy định pháp luật cho bên gỡ tội thực hiện chức năng này đó là hệ
thống quyền của họ cũng như cơ chế bảo đảm cho học thực hiện quyền này.
Một số quy định của BLTTHS năm 2015 cần được hoàn thiện và quy
định chặt chẽ hơn nữa về một số vấn đề như trách nhiệm cá nhân của người ra
lệnh bắt, tạm giữ, tạm giam; người thi hành lệnh bắt, tạm giữ, tạm giam cần
được đề cao nhằm để thực hiện việc bắt, tạm giữ, tạm giam đúng người phạm
tội, đúng thẩm quyền, đủ căn cứ, tránh oan sai, bên cạnh đó cần bảo đảm và
tôn trọng những quyền và lợi ích chính đáng của người bị bắt tạm giữ, tạm
giam như quyền im lặng, quyền được tự mình bào chữa hay nhờ người bào
chữa, đưa ra các chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu, khiếu nại quyết định, hành
vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
Hoàn thiện Luật thi hành tạm giữ, tạm giam: Luật thi hành tạm giữ,
tạm giam đã được Quốc hội thông qua ngày 25/11/2015, Luật gồm 11
chương, 73 điều và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2018. Luật thi hành
tạm giữ, tạm giam năm 2015 có rất nhiều quy định tiến bộ làm cơ sở cho nhà
81
tạm giữ, trại tạm giam thực hiện việc quản lý, giam giữ người bị tạm giữ,
người bị tạm giam đúng pháp luật, phục vụ tốt cho các hoạt động điều tra, truy
tố, xét xử như đã bổ sung quy định về trách nhiệm của Thủ trưởng cơ sở giam
giữ khi tiếp nhận người bị tạm giữ, người bị tạm giam đó là: “Tổ chức khám
sức khoẻ, kiểm tra thân thể của trẻ em dưới 36 tháng tuổi đi theo (nếu có); phổ
biến, hướng dẫn, giải thích quyền, nghĩa vụ của người bị tạm giữ, người bị
tạm giam”. Đồng thời Luật thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015 đã quy định
đầy đủ, cụ thể về quy trình tiếp nhận người bị tạm giữ, người bị tạm giam, hồ
sơ quản lý tạm giữ, tạm giam. Tuy nhiên qua 03 năm thực hiện Luật thi hành
tạm giữ, tạm giam năm 2015 đã bộc lộ nên một số hạn chế của Luật chưa theo
kịp sự phát triển của chế độ kinh tế, chính trị, xã hội của nước ta như đã nói ở
trên làm ảnh hưởng tới quyền con người, quyền công dân của người bị tạm
giữ, tạm giam do vậy trong những năm tới cần sửa đổi, bổ sung theo hướng
hoàn thiện hơn nữa Luật thi hành tạm giữ, tạm giam đáp ứng yêu cầu thực tế
và công cuộc cải cách tư pháp của nước ta bảo đảm quyền con người, quyền
công dân của người bị tạm giữ, tạm giam được thực hiện nghiêm chỉnh và
thống nhất. Một số kiến nghị sửa đổi như sau: Về chế độ ăn: Khoản 1 Điều 4
Nghị định 120/NĐ-CP ngày 06/11/2017 đã quy định định mức ăn trong một
tháng của người bị tạm giữ, tạm giam theo từng chủng loại thực phẩm và mặc
dù có quy định định mức trên được quy đổi ra tiền theo thời giá thị trường ở
địa phương nơi giam giữ. Định mức ăn trong một tháng của người bị tạm
giam gồm: 17 kg gạo tẻ loại trung bình, 0,5 kg đường loại trung bình, 15 kg
rau, 0,7 kg thịt, 0,8 kg cá, 01 kg muối, 0,75 lít nước chấm, 0,1 kg bột ngọt..
Tuy nhiên việc ấn định một số định lượng của một số loại thực phẩm không
thực tế; cụ thể như quy định định lượng muối là 01kg/tháng, nước chấm 0,75
lít/tháng là quá cao, không phù hợp với nhu cầu thực tế, cần có sự điều chỉnh
giảm lượng thực phẩm trên và tăng loại thực phẩm khác như rau xanh, thịt,
82
cá...Ngoài ra, việc quy định định lượng thực phẩm trên tính theo tháng, do đó
cũng gây khó khăn cho công tác cấp phát thực hiện chế độ ăn cho người bị
tạm giữ, người bị tạm giam trên thực tế. Bởi khi kiểm tra bữa ăn, nếu không
đảm bảo lượng thức ăn thì cơ sở giam giữ cho rằng sẽ bù vào bữa khác trong
ngày, do vậy chỉ kiểm tra trên sổ cấp phát và giao nhận thực phẩm, nên rất
khó phát hiện vi phạm trong việc thực hiện chế độ ăn cho người bị tạm giữ,
người bị tạm giam. Để khắc phục vướng mắc này, cần quy định định lượng
cho từng bữa ăn, ví dụ: Bao nhiêu gam gạo bữa/người và quy định giá trị thức
ăn của một bữa ăn của một người, đồng thời quy định các thành phần bắt buộc
trong một bữa ăn để đảm bảo dinh dưỡng như: Ngoài số lượng gạo nêu trên,
thức ăn phải đầy đủ các thành phần: Rau xanh, muối, chất đạm, nước uống đã
đun sôi... để các cơ sở giam giữ thuận tiện trong việc bố trí thực đơn bữa ăn
cho phù hợp với đặc điểm vùng miền, mùa vụ và cung cấp đủ dinh dưỡng cho
người bị tạm giữ, người bị tạm giam. Việc quy định như trên cũng thuận lợi
cho hoạt động kiểm sát bởi khi cấp phát thức ăn sẽ có lượng từng loại thực
phẩm, giá thành...
Điều 27 Luật thi hành tạm giữ, tạm giam và Nghị định 120/2017/NĐ-CP
ngày 06/11/2017 của Chính phủ quy định về chế độ ăn, mặc, ở của người bị tạm
giữ, tạm giam. Theo đó, định mức sử dụng điện là 45kW/h điện và 3m3
nước/người nhưng thực tế hiện nay các buồng tạm giam không có công tơ điện
riêng, không có đồng hồ nước riêng mà sử dụng chung với cơ sở giam giữ. Tác
giả đề xuất hướng sửa đổi, bổ sung như sau cần lắp thêm hệ thống công tơ điện
để theo giõi tình hình sử dụng điện và cần tách biệt khu vực giam, giữ với khu
quản lý giam giữ của các cán bộ chiến sỹ.
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 24 Luật thi hành tạm giữ tạm, đồ dùng
cần thiết cho người bị tạm giữ, người bị tạm giam là đồ vật gì; do chưa quy định
cụ thể gây khó khăn trong công tác kiểm sát tại cơ sở giam giữ. Hướng hoàn
83
thiện cần quy định cụ thể các đồ dùng cần thiết cho người bị tạm giữ, tạm giam
là các đồ vật gì và các đồ vật không cần thiết là đồ vật gì tránh trường hợp cố
tình hiểu không đúng để đưa các đồ vật khác vào buồng giam, giữ tại Nhà tạm
giữ của Công an cấp huyện.
3.2.1.2. Kiện toàn tổ chức, bộ máy
Theo quy định của pháp luật tạm giữ, tạm giam thì tổ chức bộ máy của
Nhà tạm giữ trong Công an nhân dân gồm có Trưởng Nhà tạm giữ, Phó trưởng
Nhà tạm giữ, sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ, công nhân, viên chức làm nhiệm vụ
quản giáo, trinh sát, bảo vệ, hỗ trợ tư pháp, tham mưu tổng hợp, hậu cần, kỹ
thuật, giáo dục, y tế, hồ sơ. Đối với Nhà tạm giữ thường xuyên có từ 50 người
bị tạm giữ, tạm giam trở lên được bố trí thêm cán bộ làm công tác hồ sơ, trinh
sát, tổng hợp, hậu cần...Nhà tạm giữ là nơi thi hành biện pháp tạm giữ, tạm
giam do cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng áp dụng theo quy
định của BLTTHS; nơi tiếp nhận, quản lý người bị kết án phạt tù và trực tiếp
quản lý, giáo dục phạm nhân chấp hành án tại nhà tạm giữ. Tuy nhiên xét cả
về chức năng, nhiệm vụ cũng như thực tiễn công tác cho thấy, Nhà tạm giữ
chủ yếu phục vụ công tác điều tra, truy tố, xét xử. Trước năm 2009 Nhà tạm
giữ do hệ Cảnh sát điều tra hướng dẫn, chỉ đạo. Đến năm 2009, sau khi kiện
toàn tổ chức bộ máy của Bộ Công an thì chức năng kiểm tra, hướng dẫn công
tác quản lý tạm giữ, tạm giam tại các trại tạm giam, nhà tạm giữ được chuyển
giao từ hệ Văn phòng Cơ quan Cảnh sát điều tra sang hệ Cảnh sát thi hành án
hình sự và hỗ trợ tư pháp. Từ đó tại địa phương đã xảy ra xung đột giữa cơ
quan điều tra và cơ quan thi hành án hình sự trong thực hiện công tác quản lý
tạm giữ, tạm giam.
Công tác quản lý tạm giữ, tạm giam về bản chất là hoạt động hỗ trợ, bảo
đảm cho việc tiến hành các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án để
xử lý tội phạm; tạm giữ, tạm giam là một khâu trong quá trình bắt, giam giữ,
84
điều tra và các giai đoạn xử lý tội phạm khác gắn liền với các hoạt động tố
tụng hình sự. Vì vậy, xét thấy cần thiết phải giao cho Cơ quan cảnh sát điều tra
thực hiện chức năng hướng dẫn, kiểm tra công tác quản lý tạm giữ, tạm giam
sẽ đảm bảo tính thống nhất, tập trung trong công tác điều tra, xử lí tội phạm;
tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng các biện pháp nghiệp vụ của ngành
Công an trong trại tạm giam, nhà tạm giữ; bảo đảm cho công tác quản lý tạm
giữ, tạm giam phục vụ tốt nhất công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Mặt khác Lãnh đạo Nhà tạm giữ cần quán triệt và thực hiện nghiêm túc
các quy định của Luật, quy chế, thông tư, chỉ thị về công tác thi hành việc bắt,
tạm giữ, tạm giam của ngành Công an và kế hoạch hàng năm của đơn vị đến
từng cán bộ, chiến sĩ trong Nhà tạm giữ. Lãnh đạo Nhà tạm giữ cần thường
xuyên quan tâm coi trọng công tác thi hành việc bắt, tạm giữ, tạm giam và coi
đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của hoạt động tư pháp. Trong
chương trình, kế hoạch công tác hàng năm phải đề ra những nội dung, chỉ
tiêu, biện pháp cụ thể. Cần nắm chắc tình hình hình chấp hành pháp luật để
quản lý, chỉ đạo và có biện pháp xử lý kịp thời, tăng cường công tác lãnh đạo,
chỉ đạo điều hành về nghiệp vụ nhằm xử lý kịp thời, chính xác, đúng pháp luật
các vụ việc phát sinh trong quá trình kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam và thi
hành án hình sự. Cần thiết kiện toàn hệ thống sổ sách, hồ sơ, tài liệu theo dõi
tình hình chấp hành pháp luật trong công tác quản lý tạm giữ, tạm giam và thi
hành án hình sự ở nhà tạm giữ, trại tạm giam, trại giam, cơ quan thi hành án
hình sự các cấp theo đúng quy định. Đồng thời, thu thập thông tin từ nhiều
nguồn khác để quản lý, xử lý …
Cần có các biện pháp chỉ đạo, kiểm tra, hướng dẫn nghiệp vụ bằng
nhiều hình thức như: trả lời thỉnh thị, ban hành các hướng dẫn, thông báo rút
kinh nghiệm, tập huấn nghiệp vụ, mở các lớp bồi dưỡng về kỹ năng kiểm tra,
hướng dẫn nghiệp vụ của cấp trên đối với cấp dưới; kỹ năng kiểm sát trực tiếp
85
nhà tạm giữ, trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự… để cán bộ, kiểm sát
viên có điều kiện củng cố và cập nhật các kiến thức, quy định mới của pháp
luật, tích lũy kinh nghiệm, nâng cao kỹ năng phát hiện vi phạm. Có biện pháp
quản lý chặt chẽ nghiệp vụ và xây dựng lề lối làm việc khoa.
Tăng cường việc phối hợp công tác giữa kiểm sát việc tạm giữ, tạm
giam và thi hành án hình sự với các khâu công tác kiểm sát trong ngành Kiểm
sát và với các cơ quan, đơn vị hữu quan có chức năng, nhiệm vụ trong việc
quản lý giam giữ là hết sức quan trọng. Các khâu công tác kiểm sát khác chỉ
kiểm sát tuân theo pháp luật trong từng giai đoạn tố tụng, song khâu công tác
kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự là khâu công tác kiểm
sát xuyên suốt cả quá trình tố tụng từ tạm giữ, tạm giam đến thi hành án hình
sự. Do vậy, xây dựng tốt mối quan hệ phối hợp công tác sẽ góp phần nâng cao
hiệu quả các khâu công tác kiểm sát hình sự trong ngành KSND, đặc biệt là
kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự.
Xây dựng quy chế, quy định phối hợp trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ,
thẩm quyền của mỗi ngành, mỗi khâu công tác và duy trì, thực hiện tốt theo
đúng quy chế, quy định, có tổng kết, đánh giá rút kinh nghiệm. Do vậy, các
VKS địa phương chưa xây dựng Quy chế phối hợp cần tiếp tục đẩy nhanh
việc nghiên cứu, xây dựng, hoàn thiện, ký ban hành Quy chế phối hợp công
tác với các cơ quan hữu quan và hoàn thiện nội dung phối hợp công tác giữa
các khâu công tác nghiệp vụ trong ngành. Về nội dung phối hợp cần chú ý,
phần việc thuộc phạm vi chức năng, nhiệm vụ quyền hạn được giao; quy định
việc phối hợp phải mang tính thường xuyên, chặt chẽ nhằm kịp thời cung cấp
đầy đủ thông tin, số liệu cũng như tình hình chấp hành pháp luật; đồng thời
phối hợp cung cấp những văn bản quy phạm pháp luật, văn bản chỉ đạo
nghiệp vụ có liên quan đến công tác tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự.
86
Phối hợp trong giải quyết các vấn đề liên quan đến việc tạm giữ, tạm giam, thi
hành án hình sự và kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, thi hành án hình sự cũng
như các nội dung liên quan đến khâu công tác khác trên cơ sở pháp luật và
chức năng, nhiệm vụ của mỗi cơ quan, đơn vị và mỗi ngành.
3.2.1.3. Nâng cao chất lƣợng đội ngũ cán bộ chiến sỹ ở Nhà tạm giữ,
Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Luật sƣ
Đội ngũ cán bộ chiến sỹ ở Nhà tạm giữ, Điều tra viên, Kiểm sát viên và
Thẩm phán phải không ngừng nâng cao năng lực chuyên môn nghiệp vụ phát
huy tính tự giác trong việc học tập, nghiên cứu, nắm vững các quy định của
pháp luật, của ngành về công tác này. Đây là yếu tố hết sức quan trọng cho
việc bảo đảm quyền con người của các đối tượng bị tạm giữ, tạm giam. Muốn
nâng cao năng lực, trình độ nhận thức pháp luật và áp dụng pháp luật tốt đòi
hỏi mỗi người phải tự rèn luyện kỹ năng, tự nghiên cứu học hỏi, trao đổi và
tích lũy kinh nghiệm và cần tăng cường công tác hướng dẫn, tập huấn nghiệp
vụ để nâng cao trình độ, kiến thức cho đội ngũ làm công tác giam giữ này. Cụ
thể:
Thứ nhất, đối với đội ngũ cán bộ chiến sỹ ở nhà tạm giữ. Về cơ bản số
lượng đội ngũ cán bộ chiến sỹ ở đây là đủ đáp ứng trong một số khâu công tác
quản lý giam giữ. Tuy nhiên một thực trạng hiện nay đó là tại các Nhà tạm giữ
thường có số lượng chiến sỹ là nghĩa vụ công an chưa được đào tạo đầy đủ về
nghiệp vụ cũng như thiếu hiểu biết về công tác quản lý người bị tạm giữ, tạm
giam, một số Nhà tạm giữ vì thiếu cán bộ nên đã bố trí các chiến sỹ nghĩa vụ
thực hiện các nhiệm vụ quản lý giam giữ. Vì vậy, cần phải hạn chế bố trí các
chiến sỹ nghĩa vụ thực hiện nhiệm vụ quản lý giam giữ, tăng cường công tác
giáo dục chính trị tư tưởng, công tác đào tạo, tập huấn nâng cao trình độ
chuyên môn nghiệp vụ, pháp luật và thể chất, sức khỏe cho cán bộ chiến sỹ.
Tăng cường biên chế cán bộ, chiến sỹ cho các Nhà tạm giữ bảo đảm đủ số
87
lượng phục vụ yêu cầu công tác; cần quy định định biên cụ thể về số lượng cán
bộ chiến sỹ/số lượng người bị tạm giữ, tạm giam, phạm nhân tại Nhà tạm giữ
để tạo thuận lợi cho việc kiện toàn, phân công cán bộ phải đúng chuyên ngành
được đào tạo. Thường xuyên cập nhật các văn bản pháp luật về công tác giam
giữ cho cán bộ chiến sỹ làm công tác giam giữ tại Nhà tạm giữ.
Thứ hai: Cần phân bổ hợp lý Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán
có đủ năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Điều tra viên là người trực
tiếp tham mưu công tác quyết định các biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm
giam. Vì vậy, trình độ năng lực của Điều tra viên ảnh hưởng đến việc áp dụng
các biện pháp tạm giữ, tạm giam. Hiện nay ở một số địa phương trọng điểm,
vùng núi hẻo lánh, biên giới hải đảo thường thiếu Điều tra viên đủ năng lực,
trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Vì vậy, phải bổ sung đầy đủ Điều tra viên có
trình độ và năng lực đáp ứng được yêu cầu của các vùng miền.
Hiện nay công tác tuyển chọn cán bộ vào các Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân đều được tiến hành đào tạo bài bản từ đầu,
tuy nhiên hoạt động đào tạo này cần phải hướng vào đào tạo cán bộ chuyên
sâu lâu dài, bài bản, chú trọng đến những cán bộ trẻ cần được đào tạo cơ bản;
đổi mới cách tạo nguồn tuyển chọn, bổ nhiệm và sử dụng đội ngũ cán bộ tư
pháp bảo đảm nguyên tắc khách quan, dân chủ, công khai.
Thứ ba, cần tiếp tục thực hiện các giải pháp nâng cáo trình độ chuyên
- Đội ngũ Điều tra viên phải giỏi về nghiệm vụ tinh thông về pháp luật.
môn, kinh nghiệm và đạo đức của đội ngũ cán bộ tư pháp. Cụ thể:
Công tác đào tạo học viên chuyên ngành Cảnh sát điều tra cần tuyển chọn đào
tạo ra những Điều tra viên, Cán bộ điều tra vừa có phẩm chất đạo đức nghề
nghiệp, bản lĩnh chính trị vững vàng.
Tăng cường phương pháp đào tạo đội ngũ cán bộ điều tra trước sự gia
tăng của các vụ việc phạm tội có sử dụng công nghệ cao, tội phạm có tổ chức,
88
tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm có yếu tố nước ngoài. Cần chú trọng đào
tạo được những điều tra viên, Thủ trưởng cơ quan điều tra không chỉ bảo đảm
về phẩm chất đạo đức, năng lực chuyên môn mà phải giỏi về ngoại ngữ
chuyên ngành, am hiểu luật pháp quốc tế, có kỹ năng làm việc độc lập, có tư
duy sáng tạo, có bản lĩnh nghiệp vụ sẵn sàng đấu tranh đối với mọi loại tội
- Đối với đội ngũ Kiểm sát viên, Thẩm phán và Luật sư:
phạm có thể xảy ra.
Trước hết đội ngũ Kiểm sát viên, Thẩm phán, Luật sư cần phải nắm
chắc các quy định pháp luật tố tụng hình sự nói chung và pháp luật về tạm giữ,
tạm giam nói riêng để làm tốt chức năng nhiệm vụ theo quy định pháp luật.
Đặc biệt Kiểm sát viên làm công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam tại Nhà
tạm giữ cần phải năm chắc các quy định pháp luật giam giữ kịp thời phát hiện
các vi phạm để bảo đảm tốt nhất quyền con người cho các đối tượng bị tạm
giữ, tạm giam.
Đội ngũ Kiểm sát viên, Thẩm phán, Luật sư cần thường xuyên tham gia
tập huấn, không ngừng học tập, bổ sung trình độ chuyên môn, kỹ năng nghiệp
vụ, cập nhật các văn bản pháp luật mới nhằm bảo đảm quyền con người trong
tạm giữ, tạm giam.
3.2.1.4. Bảo đảm cơ sở vật chất và nguồn lực kinh phí
Hiện nay tại các trại tạm giam, trại giam nói chung và Nhà tạm giữ cấp
huyện nói riêng cơ sở vật chất không đảm bảo theo quy định. Điều kiện cơ sở
vật chất nơi giam, giữ chưa đáp ứng đủ với quy mô và yêu cầu quản lý giam
giữ và chất lượng buồng giam giữ đã xuống cấp trầm trọng. Nguồn kinh phí
không đủ để cấp phát đầy đủ các đồ dùng cá nhân cho người bị tạm giữ, tạm
giam theo quy định pháp luật. Đặc biệt việc thực hiện theo quy định về hỏi
cung phải có ghi âm, ghi hình có âm thanh nhưng nhiều nơi Nhà tạm giữ chưa
có kinh phí xây dựng mới, phòng hỏi cung chưa đảm bảo quy định, chưa có
89
đầy đủ trang thiết bị phục vụ công tác ghi âm, ghi hình có âm thanh. Thiết bị y
tế tại nhà tạm giữ hầu như không có, thuốc men chữa bệnh chưa đầy đủ…Việc
giam giữ người bị tạm giữ, tạm giam thì quá tải do thiếu phòng giam.
Vì vậy, cần phải cung cấp kinh phí xây dựng thêm cơ sở hạ tầng, nâng
cao chất lượng phòng giam giữ tại Nhà tạm giữ, đáp ứng nhu cầu giam giữ
tránh tình trạng vi phạm quyền con người do không đủ số lượng phòng giam
nên giam chung và không đủ diện tích cho mỗi người, cần xây dựng bếp ăn và
hệ thống cấp thoát nước đủ tiêu chuẩn bảo đảm cho vệ sinh môi trường được
sạch sẽ, gọn gàng tránh ô nhiễm ảnh hưởng đến sức khoẻ của cán bộ chiến sỹ
và các đối tượng giam giữ. Và cần phải cung cấp kinh phí, cung cấp các vật
dụng như chăn, chiếu, màn, quần áo... theo quy định pháp luật, cần mua sắm
các thiết bị y tế, thuốc men cần thiết trang bị cho Nhà tạm giữ để phục vụ nhu
cầu của người bị tạm giữ, tạm giam khi bị ốm đau, bệnh tật và phòng chống
dịch bệnh diễn biến phức tạp xảy ra. Tiếp đến, cần phải xây dựng phòng hỏi
cung và cung cấp các trang thiết bị để thực hiện công tác ghi âm, ghi hình có
âm thanh, bảo đảm quyền không bị bức cung, dùng nhục hình, bị tra tấn đối
với người bị tạm giữ, tạm giam khi tiến hành làm việc của những người tiến
hành tố tụng.
3.2.1.5. Tăng cƣờng thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm quyền con
ngƣời
Để hạn chế tình trạng vi phạm quyền con người trong tạm giữ, tạm giam
tại Nhà tạm giữ Công an cấp huyện thì ngoài việc Viện kiểm sát nhân dân, Mặt
trận tổ quốc Việt Nam huyện phối hợp giám sát, kiểm sát phát hiện các vi
phạm và chấn chỉnh, kiến nghị, kháng nghị thì cần phải tăng cường hơn nữa
công tác thanh tra, kiểm tra xử lý vi phạm quyền con người của các cơ quan
quản lý cấp trên như cơ quan Thi hành án hình sự Công an tỉnh và Cục thi
hành án hình sự Bộ Công an đối với Nhà tạm giữ Công an huyện để kịp thời
90
phát hiện các vi phạm trong thi hành tạm giữ, tạm giam và có biện pháp xử lý
theo quy định pháp luật.
Ngoài ra qua công tác kiểm sát tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công
an huyện cán bộ, Kiểm sát viên nếu phát hiện các vi phạm trong quản lý giam
giữ cần kịp thời báo cáo Cục Điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao để xem
xét điều tra, truy tố, xét xử người có hành vi tra tấn, bức cung, dùng nhục hình
nhằm xử lý nghiêm minh và nhanh chóng, qua đó răn đe giáo dục đối với cán
bộ chiến sỹ làm công tác giam giữ; tạo điều kiện cho các luật sư tham gia các
hoạt động tố tụng theo quy định pháp luật, tập trung thanh tra, kiểm tra các
trường hợp khiếu nại của người bị tạm giữ, tạm giam, kiến nghị của Luật sự để
phát hiện các vi phạm, kịp thời xử lý vi phạm và bảo đảm quyền con người
cho các đối tượng bị tạm giữ, tạm giam. Đồng thời cần tăng cường giáo dục
đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp cho các cán bộ thực thi công vụ, Cán
bộ điều tra, Điều tra viên, Cán bộ quản lý trại tạm giam, Cán bộ làm công tác
hỗ trợ tư pháp, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, thẩm phán, Thư ký…
3.2.2. Giải pháp riêng đối với Nhà tạm giữ Công an huyện Bố
Trạch, tỉnh Quảng Bình
Thứ nhất, cần xây dựng thêm buồng giam giữ. Nhà tạm giữ Công an
huyện Bố Trạch được xây dựng năm 1994 với 09 buồng giam, đến năm 2005
đã được xây dựng thêm 07 buồng giam, nên hiện nay có tổng cộng 16 buồng
giam giữ được chia làm 02 dãy, dãy A có 09 buồng, dãy B có 07 buồng. Tuy
nhiên có những thời điểm do diễn biến của tình hình tội phạm gia tăng, có
những thời điểm do số lượng người bị tạm giữ, tạm giam quá đông, có lúc lên
đến hơn 50 người nhưng phải bố trí phòng giam riêng theo quy định đối với
phụ nữ, người nước ngoài, người dưới 18 tuổi… nên có một số phòng giam không bảo đảm quy định về diện tích 02m2/01 người. Vì vậy cần phải đề nghị
cấp kinh phí để xây dựng thêm buồng tạm giữ, tạm giam, bảo đảm phục vụ
91
công tác giam giữ tại Nhà tạm giữ Công an huyện Bố Trạch và bảo đảm quyền
con người cho các đối tượng bị tạm giữ, tạm giam.
Thứ hai, Trưởng nhà tạm giữ Công an huyện Bố Trạch cần phải thường
xuyên tổ chức học tập, nghiên cứu, trao đổi kinh nghiệm, cập nhận các văn bản
pháp luật tạm giữ, tạm giam cho các cán bộ, chiến sỹ trong Nhà tạm giữ.
Trong thời gian qua, qua công tác kiểm sát phát hiện nhiêu vi phạm về thủ tục
hồ sơ và các quy định về chế độ người bị tạm giữ, tạm giam bị vi phạm tại Nhà
tạm giữ Công an huyện Bố Trạch, lý do có sự vi phạm đa phần là do cán bộ,
chiến sỹ sử dụng các quy định của pháp luật cũ, đã được sửa đổi, bổ sung, thay
thế để áp dụng thực hiện trong công tác quản lý giam giữ. Vì vậy, yêu cầu bức
thiết là phải cập nhật các quy định của pháp luật về tạm giữ, tạm giam, đặc biệt
là trong giai đoạn hiện nay nhiều Bộ luật, thông tư nghị định thường xuyên
được thay thế, bổ sung trong đó có các văn bản pháp luật tạm giữ,tạm giam.
Thứ ba, Tăng cường bổ sung thêm đội ngũ các cán bộ, chiến sỹ và y tế
được đào tạo chuyên sâu, chuyên môn hóa để thực hiện công tác quản lý tạm
giữ, tạm giam cho Nhà tạm giữ. Nhà tạm giữ công an huyện Bố Trạch hiện
nay gồm có 12 đồng chí trong đó có 05 đồng chí là lính nghĩa vụ công an và
01 đồng chí được phân công kiêm nhiệm làm cán bộ y tế vì vậy lực lượng cán
bộ có chuyên môn chưa đủ để đáp ứng được yêu cầu công tác quản lý giam
giữ trong diễn biến tình hình tội phạm có xu hướng gia tăng và phức tạp. Đối
với cán bộ làm y tế cần bổ sung thêm bác sỹ hoặc y sỹ được đào tạo bài bản và
có trình độ, chuyên môn về ngành y để thực hiện tốt việc thăm khám, chữa
bệnh cho các đối tượng bị tạm giữ, tạm giam bảo đảm quyền lợi cho các nhóm
đối tượng này được tốt hơn và đáp ứng được yêu cầu thực tiễn của công tác
giam giữ tại Nhà tạm giữ Công an huyện Bố Trạch.
Thứ tư, Tăng cường vai trò chức năng kiểm sát công tác quản lý tạm
giữ, tạm giam của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bố Trạch đối với Nhà tạm
92
giữ Công an huyện Bố Trạch bằng các hình thức như kiểm sát định kỳ (hằng
ngày) và đột xuất, trực tiếp nghiên cứu sổ sách, các báo cáo, văn bản, tài liệu
và hồ sơ liên quan đến công tác quản lý, giáo dục và thực hiện chế độ đối với
người bị tạm giữ, người bị tạm giam, phạm nhân; kiểm sát tại buồng tạm giữ,
buồng tạm giam, buồng thăm gặp, buồng kỷ luật, nơi lao động của phạm nhân
và những nơi khác có liên quan; gặp hỏi một số người bị tạm giữ, người bị tạm
giam và phạm nhân về việc giam giữ; yêu cầu người có liên quan giải trình và
tiến hành xác minh trong một số trường hợp cần thiết và lập biên bản xác định
tình trạng vi phạm để làm cơ sở kết luận, qua đó phát hiện kịp thời những vi
phạm để thực hiện việc kiến nghị, kháng nghị, yêu cầu Nhà tạm giữ khắc phục
và sửa chữa những vi phạm đã xảy ra. Đồng thời, phía Nhà tạm giữ Công an
huyện Bố Trạch phải tổ chức họp kiểm điểm rút kinh nghiệm đến toàn thể các
cán bộ, chiến sỹ để chấn chỉnh, khắc phục kịp thời, chấm dứt các vi phạm
pháp luật và phải có các biện pháp phòng ngừa chung, qua đó quyền con người
của các đối tượng bị tạm giữ, tạm giam ngày càng được bảo đảm hơn.
Thứ năm, Nhà tạm giữ Công an huyện Bố Trạch cần tăng cường phối
hợp với cơ quan Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân cùng cấp để giải
quyết những vướng mắc, khó khăn trong công tác tạm giữ, tạm giam và ban
hành ký kết các quy chế phối hợp liên ngành để cùng thực hiện. Đồng thời
thực hiện tốt việc báo cáo thực trạng tồn tại, hạn chế của Nhà tạm giữ trong
công tác tạm giữ, tạm giam cho Ủy ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam cùng cấp
biết để bảo đảm thực hiện chức năng giám sát của UBMTTQ đối với hoạt
động kiểm sát Nhà tạm giữ, nhằm nâng cao hiệu quả, chất lượng trong công
tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam bảo đảm các quyền lợi, chế độ của người
bị tạm giữ, người bị tạm giam.
Thứ sáu, Nhà tạm giữ Công an huyện Bố Trạch cần tích cực tuyên
truyền phổ biến, giáo dục pháp luật cho người bị tạm giữ, tạm giam bằng nhiều
93
hình thức khác nhau như cho các đối tượng được thường xuyên nghe đài phát
thanh, đọc báo trung ương hoặc địa phương, phổ biến nội quy nhà tạm giữ,
giải thích pháp luật…nhằm nâng cao kiến thức pháp luật cho các đối tượng
này, đồng thời Nhà tạm giữ cần thường xuyên hỏi han, xem xét tâm tư nguyện
vọng của các đối tượng và động viên, giáo dục các đối tượng sớm hoàn lương
để sau này trở thành công dân có ích cho xã hội, tạo thuận lợi cho việc giải
quyết vụ án một cách nhanh chóng và có hiệu quả cao trong công cuộc đấu
tranh ngăn ngừa và phòng chống tội phạm.
94
Tiểu kết chƣơng 3
Qua phân tích, tìm hiểu về cơ sở lý luận về bảo đảm quyền con người
đối với đối tượng bị tạm giữ, tạm giam, tác giả nhận thấy được tầm quan trọng,
vai trò của việc bảo đảm quyền con người trong tạm giữ, tạm giam và các quy
định về quyền con người trong tạm giữ, tạm giam. Đối chiếu với thực trạng,
thực tiễn bảo đảm quyền con người cho các đối tượng bị tạm giữ, tạm giam tại
Nhà tạm giữ Công an huyện Bố Trạch, tác giả đã đưa ra được các quan điểm
và các giải pháp kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật tố tụng hình sự
và pháp luật về tạm giữ, tạm giam nói chung góp phần tạo ra cơ sở pháp lý
vững chắc cho công tác bảo đảm quyền con người cho các đối tượng bị tạm
tạm giữ, tạm giam ở các Nhà tạm giữ. Đồng thời qua đó tác giả còn đưa ra các
giải pháp riêng cho Nhà tạm giữ của Công an huyện Bố Trạch phù hợp với đặc
điểm tình hình, vị trí địa lý, con người trên địa bàn nhằm nâng cao hiệu quả
hoạt động bảo đảm quyền con người đối với các đối tượng bị tạm giữ tạm
giam ngày càng được tốt hơn.
95
KẾT LUẬN
Bảo đảm quyền con người nói chung, quyền con người của đối tượng bị
tạm giữ, tạm giam là vấn đề rộng và đã được nghiên cứu trong khoa học pháp
luật nước ta. Luận văn đã góp phần làm rõ thêm vấn đề lý luận chung về bảo
đảm quyền con người của đối tượng bị tạm giữ, tạm giam góp phần làm phong
phú hơn lý luận về quyền con người nói chung và quyền con người trong hình
sự nói riêng thông qua thực tiễn ở huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình.
Luận văn đã đánh giá thực tiễn việc thực hiện bảo đảm quyền con người
trong tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Bố Trạch, và chỉ ra
được những kết quả đáng khích lệ trong quá trình bảo đảm quyền con người
của các đối tượng bị tạm giữ, tạm giam. Đồng thời, nêu lên được những hạn
chế còn tồn tại cũng như những nguyên nhân khách quan và chủ quan đối với
những hạn chế đã nêu ra. Từ đó, có phương hướng hoàn thiện và những giải
pháp cụ thể nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập.
Luận văn đã đưa ra được một số giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện
các quy định của pháp luật Việt Nam và tăng cường bảo đảm quyền và lợi ích
hợp pháp của người bị tạm giữ, tạm giam trong tư pháp hình sự nói chung và
trên địa bàn huyện Bố Trạch nói riêng. Trên cơ sở những nghiên cứu lý luận
và đánh giá thực trạng về ngừời bị tạm giữ trong năm năm gần đây, chúng tôi
đã kiến nghị sửa đổi, bổ sung những quy định còn có nhiều vướng mắc, mâu
thuẫn, những quy định chưa hợp lý, bổ sung một số quyền, lợi ích hợp pháp
mà người bị tạm giữ, tạm giam cần phải có, nhất là trong tố tụng hình sự và
luật thi hành tạm giữ, tạm giam giai đoạn hiện nay...và cũng cần thực hiện các
giải pháp khác nhằm nâng cao hiệu quả trong việc bảo đảm quyền và lợi ích
hợp pháp của người bị tạm giữ, tạm giam./.
96
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Thị Bình (2012), Pháp luật về bảo đảm quyền con người
trong hoạt động xét xử hình sự ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc
sỹ luật học, Hà Nội
2. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
3. Bộ Tư pháp (2005), Việt Nam với vấn đề quyền con người, Nxb
Tư pháp, Hà Nội
4. Nguyễn Ngọc Chí (chủ biên) (2014), Giáo trình Luật tố tụng hình sự
Việt Nam, Khoa Luật - Đại học quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học Quốc
gia Hà Nội, Hà Nội
5. Nguyễn Hữu Duyện (2010), Bình luận khoa học Thi hành án phạt tù
từ thực tiễn đến khoa học giáo dục, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội
6. Đại học quốc gia Hà Nội (2012), Bảo vệ và thúc đẩy quyền con
người trong khu vực Asean, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội
7. Đại học quốc gia Hà Nội (2011), Giáo trình Lý luận và Pháp luật về
quyền con người, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội
8. Đại học quốc gia Hà Nội (2011), Hỏi đáp về quyền con người,
Trung tâm nghiên cứu quyền con người - quyền công dân, Nxb
Hồng Đức, Hà Nội
9. Trần Ngọc Đường (chủ biên) (2004), Quyền con người, quyền công
dân trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội
10. Vũ Trọng Hách (2006), Hoàn thiện quản lý nhà nước trong lĩnh vực
thi hành án hình sự ở Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội
11. Hoàng Hùng Hải (2012), Bảo đảm quyền bình đẳng của công dân
trong xét xử hình sự ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học, Học viện
97
Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội
12. Phạm Hồng Hải (1999), Bảo đảm quyền bào chữa của người bị
buộc tội, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội
13. Phạm Xuân Hải (2016), Cơ chế bảo vệ và thúc đẩy quyền con người
ở khu vực Asean, Luận văn thạc sỹ luật học, Hà Nội
14. Nguyễn Anh Hào (2002), Thi hành án phạt tù ở Việt Nam - Một số
vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn thạc sỹ luật học, Hà Nội
15. Nguyễn Đức Hạnh (2015), Nguyên tắc bình đẳng trong luật tố tụng
hình sự Việt Nam: Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận án Tiến
sĩ Luật học, Học viện KHXH Việt Nam, Hà Nội
16. Trần Thị Thu Hằng (2009), Hình phạt tù và thi hành hình phạt tù -
những vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn Thạc sĩ luật học, Khoa
Luật - ĐHQG Hà Nội, Hà Nội
17. Nguyễn Quang Hiền (2008), Bảo vệ quyền con người trong tố tụng
hình sự Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật học, Hà Nội
18. Hiến pháp nước công hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013
19. Bùi Văn Tâm (2015), Bảo đảm quyền con người trong hoạt động
bắt, tạm giữ, tạm giam theo luật tố tụng hình sự Việt Nam (Trên cơ
sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đăk Lăk), Luận văn thạc sỹ luật
học, Hà Nội
20. Trần Quang Tiệp (chủ biên) (2004), Bảo vệ quyền con người trong
luật hình sự, luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội
21. Luật thi hành án hình sự năm 2019
22. Luật thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015