BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
…………/………… ……/……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
PHẠM MỸ DUNG
BẢO ĐẢM QUYỀN RIÊNG TƯ CỦA TRẺ EM
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
HÀ NỘI - NĂM 2018
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
…………/………… ……/……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
PHẠM MỸ DUNG
BẢO ĐẢM QUYỀN RIÊNG TƯ CỦA TRẺ EM
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
Mã số: 8 60 38 01 02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. LÊ THỊ HƯƠNG
HÀ NỘI - NĂM 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi
dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS. Lê Thị Hương.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính
chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi xin chịu toàn bộ trách nhiệm nếu như
những lời cam đoan trên là sai sự thật.
Xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Phạm Mỹ Dung
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN RIÊNG TƯ CỦA
TRẺ EM .....................................................................................................................8
1.1. QUYỀN RIÊNG TƯ CỦA TRẺ EM ............................................................8
1.2. BẢO ĐẢM QUYỀN RIÊNG TƯ CỦA TRẺ EM ......................................21
1.3. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN BẢO ĐẢM QUYỀN RIÊNG TƯ
CỦA TRẺ EM ......................................................................................................32
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN BẢO ĐẢM
QUYỀN RIÊNG TƯ CỦA TRẺ EM Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ......................38
2.1. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN RIÊNG TƯ CỦA
TRẺ EM Ở VIỆT NAM ......................................................................................38
2.2. THỰC TIỄN BẢO ĐẢM QUYỀN RIÊNG TƯ CỦA TRẺ EM Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY .................................................................................................43
2.3. ĐÁNH GIÁ VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN RIÊNG TƯ CỦA TRẺ EM Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY ......................................................................................58
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP TIẾP TỤC BẢO ĐẢM
QUYỀN RIÊNG TƯ CỦA TRẺ EM Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ......................72
3.1. PHƯƠNG HƯỚNG TIẾP TỤC BẢO ĐẢM QUYỀN RIÊNG TƯ CỦA
TRẺ EM Ở VIỆT NAM HIỆN NAY .................................................................72
3.2. GIẢI PHÁP TIẾP TỤC BẢO ĐẢM QUYỀN RIÊNG TƯ CỦA TRẺ EM
Ở VIỆT NAM .......................................................................................................83
KẾT LUẬN ..............................................................................................................93
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................95
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt Ý nghĩa
UDHR Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền
(Universal Declaration of Human
Rights)
ICCPR Công ước Quốc tế về các Quyền Dân
sự và Chính trị (International
Covenant on Civil and Political
Rights, viết tắt: ICCPR)
ICESCR Công ước Quốc tế về các Quyền Kinh
tế, Xã hội và Văn hóa (International
Covenant on Economic, Social and
Cultural Rights)
CRC Công ước Quốc tế về quyền trẻ em
(Convention on the Rights of the
Child)
ILO Tổ chức Lao động Quốc tế
(International Labour Organization)
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Số hiệu biểu đồ Tên biểu đồ Trang
Biểu đồ 2.1 Điều trẻ em sợ khi gặp gỡ, 55
trả lời phỏng vấn báo chí
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn
Xã hội nào cũng đặt nhiều kì vọng ở lớp người trẻ tuổi. Trong bức thư
gửi thanh niên và nhi đồng cả nước nhân dịp Tết Nguyên đán năm 1946, ngay
sau thời điểm cuộc Cách mạng tháng Tám thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã viết: “Một năm khởi đầu từ mùa xuân. Một đời khởi đầu từ tuổi trẻ. Tuổi
trẻ là mùa xuân của xã hội”. Qua đó, có thể thấy được vị thế và vai trò vô
cùng quan trọng của thế hệ trẻ hiện nay. Trẻ em – thế hệ mang trên vai trọng
trách là những vị chủ nhân của tương lai, có sứ mệnh kế thừa và phát huy
truyền thống quý báu của quốc gia, của dân tộc. Bằng tài năng và trí tuệ của
mình chắp nên những ngòi bút lịch sử ghi dấu ấn quan trọng, khẳng định vị
thế của quốc gia, của dân tộc trên sa trường quốc tế.
Tuy nhiên, trẻ em cũng thuộc nhóm người dễ bị tổn thương cần nhận
được sự định hướng và quan tâm đúng mức. Đó không phải là vấn đề độc lập,
riêng biệt của bất kì quốc gia nào mà phải được xác định là vấn đề trọng tâm
với sự ủng hộ và thống nhất liên quốc gia. Qua vấn đề bảo vệ quyền trẻ em,
chúng ta có thể đánh giá được trình độ văn minh và phần nào bản chất của
một xã hội. Giai đoạn hiện nay, vấn đề này đã và đang được cộng đồng quốc
tế dành sự quan tâm xứng đáng. Năm 1989, Công ước Liên hợp quốc về
Quyền Trẻ em ra đời đã ghi nhận các quyền cơ bản của trẻ em. Công ước này
thể hiện sự tôn trọng và quan tâm của cộng đồng quốc tế đối với trẻ em, là
điều kiện cần thiết để trẻ em được phát triển đầy đủ trong bầu không khí hạnh
phúc, yêu thương và cảm thông. Trong toàn bộ các quyền đã được ghi nhận
cụ thể trong Công ước, thì quyền riêng tư là một quyền trừu tượng, nhạy cảm
dễ bị bỏ qua song lại đóng vai trò vô cùng quan trọng. Là trách nhiệm của
toàn xã hội, tạo điều kiện thuận lợi giúp trẻ được học tập, rèn luyện, phát triển
nhân cách trong môi trường an toàn, lành mạnh.
1
Hiện nay, với sự phát triển của nền kinh tế thị trường song hành với đó
là xu hướng phát triển bùng nổ của các cuộc đại cách mạng về công nghệ và
thông tin. Truyền thông đóng vai trò tích cực có nhiệm vụ kết nối công dân
toàn cầu hoà nhịp chung trong thế giới phẳng. Mặt khác, tiềm tàng nội tại là
vấn đề bí mật riêng tư có nguy cơ dễ dàng bị tiết lộ. Trong bối cảnh chung
này, trẻ em là đối tượng dễ bị xâm phạm về quyền riêng tư dưới nhiều hình
thức khác nhau bởi các em còn nhỏ tuổi, chưa ý thức được về các quyền của
bản thân và cũng thiếu khả năng tự bảo vệ khi bị xâm phạm quyền riêng tư.
Tôn trọng những điều riêng tư của trẻ, chính là tôn trọng nhân cách, sự phát
triển lành mạnh của trẻ. Các nhà tâm lý học giáo dục đã cảnh báo, nhiều trẻ bị
tổn thương nặng nề, nhiều em mất cơ hội học tập, sống không yên ổn sau khi
bị xâm phạm thô bạo về quyền riêng tư.
Việt Nam đã ký kết và tham gia các tuyên ngôn, công ước của Liên hợp
quốc về quyền con người, trong đó những văn bản đề cập đến quyền riêng tư
và quyền riêng tư của trẻ em có: Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính
trị (ICCPR - Việt Nam tham gia ngày 24-12-1982); Công ước quốc tế về
quyền trẻ em 1989 (CRC - Việt Nam tham gia ngày 26-1-1990, phê chuẩn
ngày 28-2-1990).
Luật Trẻ em năm 2016, được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 11 thông
qua bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01/06/2017, quy định về quyền riêng tư của
trẻ em. Cụ thể, tại Điều 21 về “Quyền bí mật đời sống riêng tư” quy định: “1.
Trẻ em có quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí
mật gia đình vì lợi ích tốt nhất của trẻ em. 2. Trẻ em được pháp luật bảo vệ
danh dự, nhân phẩm, uy tín, bí mật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình
thức trao đổi thông tin riêng tư khác; được bảo vệ và chống lại sự can thiệp
trái pháp luật đối với thông tin riêng tư”. Khoản 11, Điều 6 về “Các hành vi bị
nghiêm cấm” quy định cụ thể một trong các hành vi đó là: “Công bố, tiết lộ
2
thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân của trẻ em mà không được sự
đồng ý của trẻ em từ đủ 7 tuổi trở lên và của cha, mẹ, người giám hộ của trẻ
em” [25].
Mặc dù vậy, trên thực tế quy định mới về quyền riêng tư còn của trẻ em
vẫn chưa nhận được sự quan tâm đúng mức của cộng đồng và gây nhiều khó
khăn, vướng mắc trong thực thi, nên chưa đạt được hiệu quả thực sự. Tuy
nhiên, ở một góc độ khác, lại là hồi chuông cảnh tỉnh với cộng đồng về những
hành động “lợi bất cập hại” gây ảnh hưởng đến trẻ, khi thông tin bị rò rỉ, tạo
điều kiện cho các đối tượng tiêu cực sẽ diễn ra hệ lụy rất khôn lường. Chính
vì vậy mà việc nghiên cứu về vấn đề bảo vệ quyền riêng tư của trẻ em trong
các lĩnh vực quan hệ xã hội, trên cơ sở hành lang pháp lý tìm ra những khó
khăn, vướng mắc khi áp dụng những quy định này trên thực tế; từ đó đề xuất
những giải pháp để nâng cao hiệu quả điều chỉnh của pháp luật với vấn đề bảo
vệ quyền trẻ em, nhằm bảo vệ quyền của trẻ trong gia đình trước diễn biến
phức tạp của xã hội là rất cần thiết. Nhận thấy tầm quan trọng của vấn đề này,
tác giả lựa chọn đề tài “Bảo đảm quyền riêng tư của trẻ em ở Việt Nam hiện
nay” làm luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Tình hình nghiên cứu bảo đảm quyền trẻ em hiện nay trên thế giới nói
chung và Việt Nam nói riêng nhận được sự quan tâm và diễn ra rất phổ biến.
Có rất nhiều công trình nghiên cứu, các dự án hay những báo cáo về bảo đảm
quyền của trẻ.
Tuy nhiên nghiên cứu một cách hệ thống trên góc độ Luật học riêng về
nhóm quyền riêng tư của trẻ em thì tại Việt Nam chưa có công trình nghiên
cứu cụ thể. Quyền riêng tư của trẻ được lồng ghép với những báo cáo thường
niên của Việt Nam với Liên hợp quốc về việc thực hiện Công ước về quyền
3
trẻ em năm 1989. Ở cấp độ luận án Tiến sĩ và luận văn Thạc sĩ có một số tác
giả nghiên cứu về quyền trẻ em. Bao gồm:
- Luận án Tiến sĩ “Sự cần thiết của việc bảo vệ quyền riêng tư của trẻ
em trên mạng Internet” năm 2008 của nghiên cứu sinh Nguyễn Văn Tường,
Học viện Tâm lý, Đại học Tây Nam, Trung Quốc. Tuy nhiên, luận án chỉ
nghiên cứu về vấn đề bảo vệ quyền riêng tư cho trẻ trên lĩnh vực chịu ảnh
hưởng của Internet chứ không đề cập ngoài phạm vi chịu sự tác động của toàn
bộ các thiết chế trong đời sống xã hội [28].
- Luận văn Thạc sĩ Luật học của học viên Nguyễn Thị Huyền Trang,
Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội năm 2014 về vấn đề “Quyền được bảo
vệ đời tư trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam”. Luận văn nghiên
cứu những vấn đề xung quanh quyền được bảo vệ đời tư dưới góc độ luật
nhân quyền được quy định trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam.
Nghiên cứu chung chung vấn đề bảo đảm quyền riêng tư cho toàn bộ các đối
tượng chứ không đi sâu phân tích về trẻ em – nhóm đối tượng dễ bị tổn
thương [30].
- Luận án Tiến sĩ “Quản lý nhà nước về bảo vệ quyền của trẻ em ở Việt
Nam” năm 2016 của nghiên cứu sinh Phạm Thị Hải Hà, Học viện Hành chính
quốc gia. Luận án nghiên cứu thực trạng quản lý nhà nước về bảo vệ quyền
trẻ em của Việt Nam. Nhưng không đi sâu phân tích cụ thể về quyền riêng tư
của trẻ mà nghiên cứu tổng thể tất cả quyền của trẻ em [9].
Như vậy, vấn đề bảo đảm quyền riêng tư của trẻ em Việt Nam cũng đã
được một số tác giả đề cập đến nhưng vẫn là những nghiên cứu chung, chưa
mang tính cụ thể riêng cho lĩnh vực này.
Luận văn của tác giả sẽ là một trong những công trình nghiên cứu đầu
tiên và là một công trình nghiên cứu độc lập có tính hệ thống thông qua lăng
4
kính nhân quyền về vấn đề “Bảo đảm quyền riêng tư của trẻ em ở Việt Nam
hiện nay”.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích:
Nghiên cứu cơ sở lý luận và pháp lý về quyền riêng tư, nhận định được
tầm quan trọng của việc bảo đảm quyền riêng tư của trẻ em, trên cơ sở đó,
đưa ra những phương hướng và giải pháp phù hợp để bảo đảm quyền riêng tư
của trẻ em ở Việt Nam.
- Nhiệm vụ:
+ Hệ thống hóa sơ sở lý luận về bảo đảm quyền riêng tư của trẻ em
thông qua việc làm sáng tỏ những khái niệm trẻ em, khái niệm quyền riêng tư
của trẻ em và khái niệm đảm bảo quyền riêng tư của trẻ em cũng như các yếu
tố và thiết chế bảo đảm quyền riêng tư của trẻ em.
+ Đánh giá có hệ thống và khái quát về thực trạng pháp luật và thực
trạng bảo đảm quyền riêng tư của trẻ em ở Việt Nam. Nêu rõ ưu điểm, hạn
chế và nguyên nhân của những ưu điểm và hạn chế đó.
+ Đề xuất các phương hướng, giải pháp cơ bản nhằm bảo đảm quyền
riêng tư của trẻ em ở Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hoạt động xây dựng và tổ chức
thực hiện chính sách, pháp luật về bảo đảm quyền riêng tư của trẻ em ở Việt
Nam hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về nội dung: Các hoạt động xây dựng và tổ chức thực hiện chính
sách, pháp luật về bảo đảm quyền riêng tư của trẻ em ở Việt Nam hiện nay.
+ Về không gian: Trên lãnh thổ Việt Nam
5
+ Về thời gian: Từ khi có Hiến pháp năm 2013 đến nay.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Phương pháp luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lenin; các
nguyên tắc nền tảng của luật nhân quyền quốc tế; các quan điểm về quyền
riêng tư của trẻ em Việt Nam nói riêng và trẻ em nói chung trên thế giới.
- Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: phân tích, tổng
hợp, thống kê, so sánh, đánh giá... để làm sáng tỏ các vấn đề liên quan, đồng
thời học hỏi kinh nghiệm thực tiễn của các nhà nghiên cứu về vấn đề quyền
riêng tư của trẻ em. Cụ thể:
Chương 1: Sử dụng những phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh để
làm rõ hơn phần lý luận của đề tài.
Chương 2: Sử dụng phương pháp tổng hợp, thống kê, so sánh để đánh giá
thực trạng pháp luật về quyền riêng tư của trẻ em và thực tiễn bảo đảm quyền
riêng tư của trẻ em ở Việt Nam hiện nay.
Chương 3: Sử dụng phương pháp tổng hợp, phân tích để đề xuất
phương hướng và giải pháp nhằm bảo đảm quyền riêng tư của trẻ em ở Việt
Nam.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn là công trình nghiên cứu đầu tiên về quyền riêng tư của trẻ
theo pháp luật Việt Nam. Kết quả nghiên cứu của Luận văn sẽ góp phần cung
cấp những tri thức khoa học cơ bản mang tính lý luận được nhìn nhận dưới
góc độ quyền con người về bảo đảm quyền riêng tư của trẻ; giúp người đọc
nhận thức đầy đủ và toàn diện hơn quan điểm, chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước về quyền và bảo đảm quyền riêng tư cho trẻ em.
6
- Luận văn cũng nêu bật được hiện trạng về vấn đề quyền riêng tư của
trẻ em Việt Nam đang rất dễ bị bỏ qua hay bị xâm phạm; đồng thời tìm hiểu
thực trạng của việc đảm bảo quyền của trẻ em, rút ra nguyên nhân của những
thành tựu và hạn chế trong việc bảo đảm quyền của đối tượng này. Từ đó, là
cơ sở cho việc nghiên cứu, bổ sung để hoàn chỉnh hơn các quyền, cách thức
đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho trẻ em ở Việt Nam hiện nay.
- Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho giảng viên, sinh
viên chuyên ngành luật, các cán bộ làm công tác thực tiễn liên quan đến bảo
vệ quyền riêng tư của trẻ em. Ngoài ra, luận văn sẽ là tài liệu tham khảo hữu
ích cho các cơ quan lập pháp liên quan tới việc hoàn thiện pháp luật và bảo
đảm quyền riêng tư của trẻ em ở Việt Nam hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn bao gồm 3 phần chính: Mở đầu, Nội dung và Kết luận. Trong
đó phần nội dung bao gồm các chương sau:
Chương 1. Cơ sở lý luận về bảo đảm quyền riêng tư của trẻ em
Chương 2. Thực trạng pháp luật và thực tiễn bảo đảm quyền riêng tư
của trẻ em ở Việt Nam hiện nay
Chương 3. Phương hướng và giải pháp tiếp tục bảo đảm quyền riêng tư
của trẻ em ở Việt Nam hiện nay
7
Chương 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN RIÊNG TƯ CỦA TRẺ EM
1.1. QUYỀN RIÊNG TƯ CỦA TRẺ EM
1.1.1. Quan niệm về trẻ em
Trong các văn bản quốc tế và các chương trình của Liên Hợp quốc sử
dụng đồng thời cả hai khái niệm trẻ em và người chưa thành niên. Điều 1
Công ước của Liên Hợp quốc về Quyền trẻ em (United Nations Convention
on the rights of the child - CRC) có quy định như sau: Trong phạm vi của
Công ước này, trẻ em có nghĩa là mọi người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật
pháp áp dụng với trẻ em đó quy định tuổi thành niên sớm hơn [8]. Và tại Điều
2 trong Công ước số 182 - Công ước nghiêm cấm và hành động khẩn cấp xoá
bỏ các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất, năm 1999 có quy định: Trong
Công ước này, thuật ngữ “trẻ em” sẽ áp dụng cho tất cả những người dưới 18
tuổi [31].
Ở Việt Nam hiện nay, khái niệm “trẻ em” và độ tuổi của trẻ em được quy
định trong nhiều văn bản luật và dưới luật, nhưng không có sự thống nhất, rõ
ràng, thậm chí còn chồng chéo nhau khi định nghĩa về độ tuổi của trẻ em, đến
khi nào thì không còn là trẻ em. Điều này cũng đã ảnh hưởng không nhỏ đến
việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, cụ thể:
Theo Điều 1 Luật Trẻ em của Việt Nam năm 2016 quy định: “Trẻ em là
người dưới 16 tuổi”. Như vậy, quy định về tuổi trẻ em trong Luật Trẻ em của
Việt Nam vênh tới 2 tuổi so với Công ước Quốc tế về Quyền trẻ em [25].
Theo Điều 1, Luật Thanh niên năm 2005 quy định thì: “Thanh niên quy
định trong Luật này là công dân Việt Nam từ đủ mười sáu tuổi đến ba mươi
tuổi” [19].
Trong khi đó, Điều 20 và Điều 21, Bộ luật Dân sự 2015 quy định: Người
từ đủ mười tám tuổi trở lên là người thành niên. Người chưa đủ mười tám tuổi
8
là người chưa thành niên. Với quy định này, có thể hiểu rằng, người chưa đủ
mười tám tuổi là người chưa trưởng thành, tức cũng có nghĩa là người chưa
đủ 18 tuổi vẫn còn là trẻ em [24].
Khoản 1, Điều 3 Bộ Luật Lao động năm 2012 quy định về người lao động
như sau: “Người lao động là người từ đủ 15 tuổi trở lên, có khả năng lao
động, làm việc theo hợp đồng lao động, được trả lương và chịu sự quản lý,
điều hành của người sử dụng lao động” [20]. Theo quy định trên thì người lao
động có thể là người chưa thành niên, nói cách khác là có thể vẫn còn là trẻ
em.
Điểm a, khoản 1, Điều 5 Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 cũng xác
định đối tượng xử phạt hành chính phải từ đủ 14 tuổi trở lên, cụ thể là:
“Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi bị xử phạt vi phạm hành chính về vi
phạm hành chính do cố ý; người từ đủ 16 tuổi trở lên bị xử phạt vi phạm hành
chính về mọi vi phạm hành chính” [21]. Quy định này đồng nghĩa với việc coi
trẻ em là 14 thay vì 16 như quy định chung.
Cách đây hơn 25 năm, vào ngày 20/02/1990, Việt Nam đã chính thức trở
thành nước đầu tiên ở Châu Á và nước thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công
ước Quốc tế về Quyền Trẻ em, Việt Nam cũng là một trong số ít quốc gia trên
thế giới đã ban hành Luật Trẻ em. Tuy nhiên, đến nay, Việt Nam lại là nước
còn lại duy nhất trong khối ASEAN; thứ 4 ở châu Á và thứ 11 trên thế giới
chưa nâng độ tuổi pháp lý của trẻ em lên 18. Việc quy định không thống nhất,
không rõ ràng về độ tuổi trẻ em như trên đã gây ra không ít khó khăn, bất cập
trong công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực bảo vệ, chăm sóc và giáo dục
trẻ em.
Trước thực tế này, thời gian qua, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội
đã tiến hành lấy ý kiến các cơ quan chức năng và trẻ em về việc sửa đổi Luật
Trẻ em bổ sung, hoàn thiện dựa trên những quan điểm đem lại lợi ích tốt nhất
9
cho trẻ em. Một trong những chế định được đề xuất sửa đổi đó là quy định
nâng độ tuổi của trẻ em Việt Nam từ 16 tuổi lên 18 tuổi. Quy định này nhằm
bảo đảm phù hợp hơn với Công ước Quốc tế về Quyền trẻ em, phù hợp với
quy định về quyền con người, quyền công dân đã được ghi nhận trong Hiến
pháp năm 2013.
Theo Công ước Quốc tế về Quyền trẻ em quy định thì trẻ em là người
dưới 18 tuổi. Qua khảo sát của Quỹ Nhi đồng Liên Hợp quốc tại Việt Nam
cho thấy: ở châu Á chỉ có Việt Nam, Myanmar, Singapore còn quy định tuổi
của trẻ em thấp hơn 18. Campuchia và Lào đã quy định tuổi trẻ em dưới 18
tuổi. Myanmar đang sửa đổi Luật Trẻ em theo hướng nâng độ tuổi trẻ em lên
18 tuổi... Tuy nhiên, hiện nay, bên cạnh một số luật, văn bản luật chưa có sự
thống nhất về độ tuổi trẻ em cần được chăm sóc, bảo vệ, giáo dục, thì cũng có
một số luật đã quy định ngưỡng thành niên và chưa thành niên là 18 tuổi như:
Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Nghĩa vụ quân sự, Luật Bầu cử Quốc hội,
Luật Bầu cử Hội đồng nhân dân và đặc biệt là những quy định của Hiến pháp
năm 2013, tại Điều 27 và Điều 29 quy định về việc: Công dân đủ 18 tuổi trở
lên có quyền bầu cử, công dân từ đủ 18 tuổi trở lên có quyền biểu quyết khi
Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân... Như vậy, theo tinh thần của Hiến pháp
năm 2013, nếu quy định tuổi trẻ em là dưới 18 tuổi và công dân từ đủ 18 tuổi
là người thành niên và có đầy đủ năng lực hành vi, năng lực dân sự, sẽ bảo
đảm và củng cố tính thống nhất trong hệ thống pháp luật Việt Nam về ngưỡng
tuổi trưởng thành đầy đủ, tức là tuổi thành niên và chưa thành niên.
Theo kết quả nghiên cứu về “Nâng độ tuổi pháp lý của trẻ em lên dưới
18 trong bối cảnh Việt Nam hiện nay - lợi ích, tác động và một số giải pháp”
do Hội Bảo vệ Quyền trẻ em Việt Nam phối hợp cùng Tổ chức Plan tại Việt
Nam thực hiện đã chỉ rõ, về cơ sở khoa học, tâm sinh lý của trẻ em từ 16 - 18
tuổi còn non nớt, chưa hoàn thiện, có những thay đổi lớn trong giai đoạn
10
chuyển tiếp từ trẻ em lên người trưởng thành với nhận thức xã hội, hành vi
chưa chín chắn. Do vậy, trẻ em trong lứa tuổi này thường dễ bị tổn thương, dễ
bị lợi dụng và lệch lạc về hành vi, thái độ, nhận thức; đồng nghĩa với việc dễ
bị vi phạm quyền và lợi ích hợp pháp cũng như có nguy cơ thực hiện các hành
vi trái pháp luật khá cao [10].
Theo đó, ngoài việc bảo đảm quyền của trẻ em là công dân Việt Nam,
Việt Nam còn ghi nhận các quyền trẻ em đồng thời là quyền con người của
mọi trẻ em, không phân biệt quốc tịch và đang sinh sống tại Việt Nam. Khi
tăng độ tuổi trẻ em lên 18 tuổi thì trẻ em sẽ là người được hưởng lợi rất nhiều.
Đồng thời, việc nâng độ tuổi của trẻ em cũng sẽ mở rộng phạm vi áp dụng
quyền trẻ em đối với người chưa thành niên trong độ tuổi từ đủ 16 tuổi đến
dưới 18 tuổi, tạo điều kiện cho các em phát triển đầy đủ cả về thể chất và tinh
thần, tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước trong tương lai. Việc
nâng độ tuổi pháp lý của trẻ em lên 18 tuổi cũng không vi phạm quyền, nghĩa
vụ cơ bản của công dân theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013; ngược lại,
đây là cách Việt Nam thể hiện cam kết của Nhà nước trong việc bảo đảm và
thực hiện quyền trẻ em; đồng thời khẳng định vai trò tích cực, chủ động của
Việt Nam trong quá trình hội nhập các thể chế khu vực và quốc tế nhằm xây
dựng, hoàn thiện cơ chế thúc đẩy quyền con người trong đó có quyền trẻ em.
1.1.2. Quan niệm về quyền trẻ em
1.1.2.1. Khái niệm về quyền trẻ em
Từ lâu trẻ em đã được coi là một trong các nhóm xã hội dễ bị tổn thương
nhất và được các nhà nước, các cộng đồng quan tâm bảo vệ. Trong thời kỳ
trước đây, ở tất cả các xã hội, việc bảo vệ trẻ em về cơ bản xuất phát từ các
góc độ tình thương, lòng nhân đạo hoặc/và sự che chở chứ không phải dưới
góc độ nghĩa vụ bảo vệ quyền. Do vậy, việc bảo vệ trẻ em ở thời kỳ trước về
11
cơ bản chưa mang tính phổ biến, thống nhất, quy chuẩn và ràng buộc về nghĩa
vụ với mọi đối tượng trong xã hội.
Phải đến đầu thế kỷ thứ XX, thuật ngữ pháp lý “quyền trẻ em” mới được
đề cập sau một loạt biến cố quốc tế lớn mà đặc biệt là cuộc Chiến tranh thế
giới lần thứ nhất (1914-1918). Cuộc chiến tranh này đã khiến rất nhiều trẻ em
ở châu Âu bị rơi vào hoàn cảnh đặc biệt khó khăn như mồ côi không nơi
nương tựa, đói khát, bệnh tật và thương tích... Tình cảnh đó đã thúc đẩy việc
thành lập hai tổ chức cứu trợ trẻ em đầu tiên trên thế giới ở Anh và Thuỵ Điển
vào năm 1919. Vào năm 1923, bà Eglantyne Jebb - người sáng lập Quỹ cứu
trợ trẻ em của nước Anh năm 1919 - đã soạn thảo một bản Tuyên bố gồm 7
điểm, trong đó kêu gọi thừa nhận và bảo vệ các quyền của trẻ em. Vào năm
sau (1924), bản Tuyên ngôn này được Hội quốc liên thông qua (gọi là Tuyên
ngôn Giơnevơ về quyền trẻ em). Sự kiện này có thể coi là mốc đánh dấu thời
điểm thuật ngữ “quyền trẻ em” lần đầu tiên được nêu chính thức trong pháp
luật quốc tế, đồng thời, cũng là mốc đánh dấu một bước ngoặt trong nhận
thức và hành động bảo vệ trẻ em trên thế giới. Sự ra đời của khái niệm quyền
trẻ em đã mở rộng cơ sở của các hoạt động bảo vệ trẻ em từ các khía cạnh đạo
đức, xã hội sang khía cạnh pháp lý, bác bỏ hoàn toàn quan niệm trước đây coi
trẻ em như là những đối tượng hoàn toàn phụ thuộc, thậm chí, là một dạng
“tài sản” của các bậc cha mẹ. Điều này là bởi một khi trẻ em được coi là một
chủ thể của quyền, các hành động liên quan đến trẻ em sẽ không còn đơn
thuần đặt trên nền tảng của tình thương, lòng nhân đạo hay sự che chở nữa,
mà còn là nghĩa vụ của các chủ thể có liên quan, kể cả các bậc cha mẹ. Sau
khi được thành lập, Liên hợp quốc đã đưa vấn đề quyền trẻ em phát triển lên
một bước ngoặt mới. Với mệnh đề mở đầu phổ biến trong Tuyên ngôn toàn
thế giới về quyền con người năm 1948 và hai công ước về các quyền dân sự,
chính trị và các quyền kinh tế, xã hội, văn hoá năm 1966 là mọi người có
12
quyền hoặc bất cứ người nào đều có quyền... trẻ em được thừa nhận là chủ thể
bình đẳng với người lớn trong việc hưởng tất cả các quyền và tự do cơ bản
được ghi nhận trong luật nhân quyền quốc tế. Tuy nhiên, như đã đề cập ở
trên, cách tiếp cận “cào bằng” vị thế chủ thể của quyền giữa người lớn và trẻ
em cũng không hoàn toàn phù hợp, do đặc trưng của trẻ em là còn non nớt cả
về thể chất lẫn tinh thần. Bởi vậy, ngay trong UDHR, ICCPR và ICESCR, trẻ
em đã được ghi nhận những quyền đặc thù, đặc biệt là quyền được chăm sóc,
giáo dưỡng và được bảo vệ đặc biệt [12].
Dựa trên cách tiếp cận đó, năm 1959, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã
thông qua một văn kiện riêng về quyền trẻ em (Tuyên bố của Liên hợp quốc
về quyền trẻ em). Tuyên bố này là tiền đề để Liên hợp quốc xây dựng và
thông qua Công ước về quyền trẻ em (CRC) vào ngày 20-11-1989. Tính đến
thời điểm hiện nay, CRC vẫn là văn kiện quốc tế cơ bản và toàn diện nhất về
quyền trẻ em. Mặc dù vậy, đây không phải là văn kiện quốc tế duy nhất về
vấn đề này.
Theo các chuyên gia về quyền trẻ em, có bốn nguyên tắc cơ bản làm nền
tảng cho CRC, đó là:
- Trẻ em cũng là những con người: Nguyên tắc này xác định vị thế bình
đẳng của trẻ em với người lớn về phương diện chủ thể của quyền. Nó khẳng
định trẻ em cũng có những giá trị như người lớn và do đó, phải được công
nhận và bảo vệ các quyền ngay từ giai đoạn thơ ấu;
- Không phân biệt đối xử: Nguyên tắc này hàm ý rằng tất cả trẻ em trên
thế giới đều được hưởng các quyền quy định trong CRC, bất kể dân tộc,
chủng tộc, giới tính, tôn giáo, dòng dõi gia đình, tài sản...
- Lợi ích tốt nhất dành cho trẻ em: Nguyên tắc này đòi hỏi trong mọi
hoạt động có liên quan đến trẻ em, Nhà nước, các bậc cha mẹ và các chủ thể
khác phải lấy lợi ích của trẻ em là mục tiêu hàng đầu;
13
- Tôn trọng ý kiến, quan điểm của trẻ em: Nguyên tắc này nhằm bảo đảm
rằng trẻ em thực sự là chủ thể của quyền. Nó đòi hỏi các chủ thể khác phải
tôn trọng các quyền tự do ý kiến, tự do diễn đạt, tự do tôn giáo, tín ngưỡng và
tự do lập hội của trẻ em.
Dựa trên cơ sở bốn nguyên tắc cơ bản làm nền tảng của CRC “Trẻ em
cũng là con người”. Vì vậy, khi nói đến Quyền trẻ em là nói đến những đòi
hỏi cơ bản và chính đáng của một con người. Quy định trách nhiệm, nghĩa vụ
mà người khác phải tôn trọng, bảo vệ và đáp ứng. Quyền của trẻ em được
công nhận về phương diện pháp lý. Đây là quyền bất khả xâm phạm, áp dụng
với mọi trẻ em, có sự phụ thuộc ràng buộc liên quan và không thể tách rời.
Có rất nhiều quan niệm về quyền trẻ em, một số nhà nghiên cứu cho
rằng khái niệm về quyền trẻ em đến thời điểm hiện tại vẫn không được định
nghĩa rõ ràng, với ít nhất một đề xuất rằng không có định nghĩa hay lý thuyết
về quyền của trẻ em được chấp nhận là duy nhất. Theo Bách khoa toàn thư
mở Wikipedia Tiếng Việt: “Quyền trẻ em là tất cả những gì trẻ em cần có để
được sống và lớn lên một cách lành mạnh và an toàn. Quyền trẻ em nhằm
đảm bảo cho trẻ em không chỉ là người tiếp nhận thụ động lòng nhân từ của
người lớn, mà các em là những thành viên tham gia tích cực vào quá trình
phát triển. Bao gồm quyền được bảo vệ và chăm sóc đặc biệt mà mọi người,
mọi gia đình dành cho trẻ em và cả quyền được cha mẹ ruột yêu thương, cũng
như những nhu cầu căn bản: được ăn uống, được giáo dục phổ quát do nhà
nước trả tiền, được chăm sóc sức khoẻ và các điều luật hình sự thích hợp với
độ tuổi và sự phát triển của trẻ em” [41].
1.1.2.2. Đặc điểm về quyền trẻ em
Đặc điểm thứ nhất là tính đặc thù của đối tượng sở hữu quyền. Trẻ em là
những người chưa thực sự trưởng thành về mọi mặt, từ thể chất cho đến trí
tuệ cũng như năng lực hành vi dân sự. Vì thế trách nhiệm của cha mẹ cùng
14
toàn xã hội là bảo vệ và chăm sóc trẻ em, thực hiện các quyền trẻ em, có
quyền và nghĩa vụ định hướng và đưa ra những chỉ dẫn phù hợp với từng giai
đoạn phát triển tâm lý của trẻ.
Đặc điểm thứ hai, quyền trẻ em được hình thành trên một số nhu cầu cơ
bản có tính thiết yếu đối với sự phát triển của trẻ em. Ví dụ như: Trẻ em có
quyền được bảo vệ tính mạng, được bảo đảm tốt nhất các điều kiện sống và
phát triển; Trẻ em có quyền được chăm sóc tốt nhất về sức khỏe, được ưu tiên
tiếp cận, sử dụng dịch vụ phòng bệnh và khám bệnh, chữa bệnh; Trẻ em có
quyền được giáo dục, học tập để phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm
năng của bản thân; Trẻ em có quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư,
bí mật cá nhân và bí mật gia đình vì lợi ích tốt nhất của trẻ em.
Trong quá trình nghiên cứu, vẫn còn có sự nhầm lẫn cơ bản giữa
“Quyền” và “Nhu cầu” của trẻ em. Tuy nhiên quyền trẻ em có những đặc
điểm riêng biệt để phân biệt giữa quyền trẻ em và nhu cầu của trẻ em thông
qua các tiêu chí sau đây:
Tiêu chí Quyền
Tính chất
Những thứ cơ bản, chính đáng; là một phần trong số các nhu cầu. Nhu cầu Khác nhau với những nhóm người khác nhau, trong thời điểm khác nhau, tại các hoàn cảnh khác nhau.
Không có giới hạn cụ thể.
Một số người, nhóm người có thể bị bỏ qua Thiết yếu phải được đáp ứng với tất cả mọi người Mọi người có quyền bình đẳng như nhau
Được nhận Đòi hỏi tất yếu và phải được công nhận
Không quy định rõ ràng về bên chịu trách nhiệm Quy định rõ ràng về nghĩa vụ và trách nhiệm Phạm vi điều chỉnh Đối tượng điều chỉnh Yêu cầu được ghi nhận Trách nhiệm pháp lý
15
Đặc điểm thứ ba, quyền trẻ em gắn với nghĩa vụ, bổn phận cụ thể của trẻ
em phù hợp với chế định về nghĩa vụ công dân được nhà nước bảo vệ và tạo
điều kiện bảo đảm thực hiện.
Trước hết, khác với các chủ thể khác, khi mà các bên chủ thể tham gia
quan hệ luôn có quyền và nghĩa vụ tương ứng. Trong việc thực hiện quyền trẻ
em, trẻ em luôn đóng vai trò lệ thuộc sự định hướng của người lớn. Trẻ em
tham gia vào trách nhiệm đạo lý nhiều hơn là pháp lý.
Bên cạnh đó, giữa các quyền và bổn phận của trẻ em có sự tương hỗ lẫn
nhau. Tuy nhiên trong mối quan hệ này quyền trẻ em không trực tiếp làm phát
sinh nghĩa vụ pháp lý của bản thân trẻ em mà lại làm phát sinh nghĩa vụ và
trách nhiệm của người lớn. Là trách nhiệm bảo đảm cho các em thực hiện các
quyền và định hướng uốn nắn trẻ thực hiện bổn phận của mình.
Ngoài ra, mối quan hệ quyền và bổn phận chịu ảnh hưởng của những
mối quan hệ khác phát sinh trong quá trình thực hiện các chức năng quản lý
Nhà nước đối với toàn xã hội, và việc bảo vệ quyền trẻ em được thực hiện
bằng chính việc tăng cường hiệu quả của các cách thức và trách nhiệm thực
hiện quyền.
1.1.3. Quyền riêng tư của trẻ em
1.1.3.1. Khái niệm và đặc điểm
Đời sống riêng tư của cá nhân là những thông tin, tư liệu được giữ kín,
không công khai, không tiết lộ ra. Có nhiều ý kiến cho rằng “Tư – có nghĩa là
riêng, việc riêng, của riêng”. Như vậy, có thể hiểu những thông tin liên quan
đến đời sống riêng tư là những thông tin liên quan đến một cá nhân cụ thể, đó
là những gì thầm kín của cá nhân mà họ giữ bí mật. Đó có thể là các thông tin
liên quan đến các yếu tố như tinh thần, vật chất, các quan hệ xã hội.
Trong tất cả các quyền con người, quyền riêng tư là một khái niệm trừu
tượng và khó định nghĩa rõ ràng nhất. Các định nghĩa về quyền riêng tư rất
16
khác nhau tùy thuộc vào điều kiện của từng quốc gia và nền văn hóa. Ở nhiều
nước, khái niệm này đã được hợp nhất với khái niệm bảo vệ dữ liệu cá nhân,
trong đó sự riêng tư chính là việc quản lý thông tin cá nhân. Trong bối cảnh
hiện nay, bảo vệ sự riêng tư thường xuyên được xem như là một cách để
hướng dẫn xã hội hạn chế can thiệp vào công việc của cá nhân [39].
Việc thiếu một định nghĩa duy nhất không có nghĩa là vấn đề thiếu tầm
quan trọng, vì “theo một nghĩa nào đó, tất cả các quyền con người đều có khía
cạnh của quyền riêng tư” [42].
Trong những năm 1890, Tòa án tối cao Hoa Kỳ cho rằng, khái niệm về
sự riêng tư là “quyền được ở một mình”. Thẩm phán Brandeis cho rằng,
quyền riêng tư là quyền tự do dân chủ được mong đợi nhất, nó sẽ được ghi
nhận trong Hiến pháp [40]. Mặc dù tính pháp lý của quyền riêng tư chỉ được
thừa nhận từ năm 1948, nhưng khái niệm quyền riêng tư và những quan điểm
xoay quanh nó đã ra đời trước đó rất lâu.
Robert Ellis Smith, biên tập viên của Tạp chí Bảo mật, xác định quyền
riêng tư là “những mong muốn của mỗi người chúng ta cho không gian vật lý
mà chúng ta có thể hoàn toàn không bị gián đoạn, xâm nhập, bối rối, hoặc
chịu trách nhiệm và kiểm soát được thời gian và cách thức tiết lộ thông tin
của cá nhân thông tin về bản thân” [38]. Tom Gerety lại cho rằng, quyền riêng
tư như là “quyền tự chủ hay kiểm soát các giá trị nhân thân và bản sắc cá
nhân” [36] và khẳng định rằng, một định nghĩa hẹp cho sự riêng tư là tốt hơn
cho một định nghĩa rộng.
Hội đồng Calcutt ở Vương quốc Anh cho rằng: “không nơi nào chúng ta
có thể tìm thấy một định nghĩa hoàn toàn thỏa đáng về quyền riêng tư”.
Nhưng Hội đồng này đã hài lòng với định nghĩa sau: “Quyền riêng tư là các
quyền của cá nhân được bảo vệ để chống lại sự xâm nhập vào đời sống cá
17
nhân hay công việc của mình (hoặc những người trong gia đình) bằng các
phương tiện vật lý trực tiếp hoặc bằng cách công bố thông tin” [34].
Lời mở đầu của Chương Bảo mật trong Hiến pháp Úc quy định rằng:
Một xã hội tự do và dân chủ đòi hỏi phải tôn trọng quyền tự chủ của các cá
nhân và giới hạn quyền lực của các cơ quan (cả nhà nước và tư nhân) trong
việc xâm phạm vào quyền tự chủ của cá nhân… Quyền riêng tư là một quyền
cơ bản của con người và mỗi người mong muốn được tôn trọng [32].
Theo quan điểm của một số học giả khác, “quyền riêng tư” được hiểu là
“sự kỳ vọng rằng những thông tin cá nhân được đề cập tại một nơi riêng tư sẽ
không được tiết lộ cho bất kỳ bên thứ ba nào biết; khi việc tiết lộ đó có thể
gây ra sự xấu hổ, đau khổ cho người có thông tin bị tiết lộ” và “thông tin
được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm cả dữ kiện, hình ảnh (ví dụ hình ảnh,
băng hình) và ý kiến gièm pha” [37].
Năm 1970, Alan Westin xuất bản cuốn “Tự do và riêng tư” (Freedom
and Privacy). Theo Westin, “quyền riêng tư như là một quyền giới hạn của
các cá nhân, nhóm, tổ chức để xác định cho mình khi nào, làm thế nào và ở
mức độ nào đối với thông tin của họ được truyền đạt cho người khác” [33].
Khái niệm quyền riêng tư đã ra đời và phát triển khá lâu trước khi nó
được chính thức công nhận là một quyền cơ bản trong các điều ước quốc tế
cũng như trong Hiến pháp của các quốc gia và hiện nay. Quyền đang định
hình và khẳng định vai trò của nó trong hệ thống các quyền nhân thân của
công dân.
Ngày nay, sự bùng nổ của các phương tiện truyền thông khiến bí mật
riêng tư có nguy cơ dễ dàng bị tiết lộ. Trong bối cảnh chung này, trẻ em là đối
tượng dễ bị xâm phạm về quyền riêng tư dưới nhiều hình thức khác nhau bởi
các em còn nhỏ tuổi, chưa ý thức được về các quyền của bản thân và cũng
thiếu khả năng tự bảo vệ khi bị xâm phạm quyền riêng tư.
18
Quyền riêng tư là một trong những quyền con người, quyền công dân cơ
bản được pháp luật quốc tế và pháp luật của các quốc gia công nhận và bảo
vệ. Quyền riêng tư đối với trẻ em lại càng được đặc biệt chú trọng vì trẻ em
thuộc “nhóm người dễ bị tổn thương”, chưa phát triển đầy đủ về nhận thức,
thể chất để có thể tự bảo vệ mình trước các hành vi tác động, xâm hại đến
mình.
Theo Hiến pháp năm 2013 thì quyền riêng tư là một trong những quyền
dân sự cơ bản nhất của con người, là quyền bất khả xâm phạm, như khoản 1
Điều 21 Hiến pháp quy định: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về đời
sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình; có quyền bảo vệ danh dự,
uy tín của mình. Thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia
đình được pháp luật bảo đảm an toàn”. Như mọi công dân khác trong xã hội,
trẻ em phải được đối xử công bằng, được tôn trọng và được bảo vệ các quyền
cơ bản, trong đó có quyền riêng tư. Hiến pháp năm 2013 quy định: “Trẻ em
(người dưới 16 tuổi) được Nhà nước, gia đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc và
giáo dục; được tham gia vào các vấn đề về trẻ em; nghiêm cấm xâm hại,
hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động và những hành vi
khác vi phạm quyền trẻ em” (khoản 1 Điều 37) [22]. Từ quy định của Hiến
pháp, các quyền này của trẻ em đã được luật hóa thông qua Luật Trẻ em năm
2016.
Từ những phân tích trên đây, có thể định nghĩa: Quyền riêng tư của trẻ
em là quyền của cá nhân trẻ em được phép giữ kín những thông tin, tư liệu,
dữ liệu gắn liền với cuộc sống riêng tư của mình, quyền bất khả xâm phạm về
thân thể, về nơi ở, về thư tín, điện thoại, điện tín và các thông tin điện tử khác
mà không một chủ thể nào có quyền tiếp cận, công khai trừ trường hợp được
chính người này đồng ý hoặc được bằng quyết định của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền.
19
Theo đó, quyền riêng tư của trẻ em có các đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, quyền được phép giữ kín những thông tin, tư liệu, sự kiện,
hoàn cảnh liên quan đến đời tư của mình và không có nghĩa vụ phải công
khai; quyền bất khả xâm phạm về thư tín, điện thoại, điện tín và các thông tin
điện tử khác.
Thứ hai, cá nhân và các chủ thể khác không được tự ý tiếp cận và công
bố các thông tin về đời tư cũng như không được kiểm soát thư tín, điện thoại,
điện tín, các thông tin điện tử khác của cá nhân khi chưa sự đồng ý của “chủ
sở hữu” hoặc sự cho phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
1.1.3.2. Nội dung quyền riêng tư của trẻ em
Một là, sự riêng tư về thông tin cá nhân: Bao gồm việc ban hành các quy
tắc quản lý trong việc thu thập và xử lý các dữ liệu cá nhân như thông tin tín
dụng, hồ sơ y tế và các hồ sơ của chính quyền lưu trữ về công dân đó. Nó còn
được gọi là “bảo vệ dữ liệu”.
Hai là, sự riêng tư về cơ thể: Liên quan đến việc bảo vệ thân thể (vật
chất) của người dân đối với hình thức xâm hại như xét nghiệm di truyền, thử
nghiệm ma túy và thử nghiệm lâm sàng trên cơ thể.
Ba là, sự riêng tư về thông tin liên lạc: Bao gồm bảo mật và riêng tư về
thư từ, bưu phẩm, điện thoại, thư điện tử và các hình thức truyền thông khác.
Bốn là, sự riêng tư về nơi cư trú: Liên quan đến việc ban hành các giới
hạn đối với sự xâm nhập vào môi trường sống của cá nhân, nơi làm việc hoặc
không gian công cộng. Điều này bao gồm tìm kiếm thông tin, theo dõi bằng
video và kiểm tra giấy tờ tùy thân.
Như vậy, rõ ràng quyền riêng tư nói chung và quyền riêng tư của trẻ em
nói riêng là một quyền cơ bản của con người, quyền này là nền tảng để tôn
trọng phẩm giá con người và các giá trị khác như quyền tự do lập hội và tự do
ngôn luận. Nó đã trở thành một trong những quyền con người quan trọng nhất
20
của thời hiện đại [35]. Các vấn đề về quyền riêng tư và quyền riêng tư của trẻ
em đã được Liên hiệp quốc công nhận là quyền con người cần được bảo vệ.
Các nước phát triển đã ban hành đạo luật về quyền riêng tư hoặc các văn bản
điều chỉnh vấn đề này nhằm bảo vệ quyền thiêng liêng của con người. Đối với
Việt Nam, những vấn đề về quyền riêng tư cần được nghiên cứu đầy đủ để
kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền ban hành quy định pháp lý cần thiết để
điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến quyền riêng tư theo đúng quy luật
phát triển nhằm đáp ứng yêu cầu của xã hội hiện đại.
1.2. BẢO ĐẢM QUYỀN RIÊNG TƯ CỦA TRẺ EM
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm bảo đảm quyền riêng tư của trẻ em
1.2.1.1. Khái niệm
Quyền con người nói chung, quyền riêng tư của trẻ em nói riêng là
những quyền vốn có, tự nhiên, không ai ban phát, ngay từ khi sinh ra con
người đã có các quyền này. Nhưng bản thân quyền vốn có, tự nhiên chưa phải
đã là quyền mà cần có yếu tố thứ hai thiết định, đó là cơ chế pháp lý ghi nhận
các quyền này. Quyền riêng tư của trẻ em khi trở thành đối tượng điều chỉnh
của pháp luật, được pháp luật chấp nhận, tổ chức, bắt buộc hoặc ngăn cấm thì
mới trở thành quyền riêng tư của trẻ em. Vì vậy có thể nói, không có pháp
luật thì không có quyền trẻ em nói chung và quyền riêng tư của trẻ em nói
riêng. Quyền riêng tư của trẻ em là những giá trị xã hội được thừa nhận và
được thể chế hóa trong các văn bản quốc tế, được các quốc gia cam kết thực
hiện. Tuy nhiên, do đặc thù về điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội ở Việt Nam
nên trên thực tế, quyền riêng tư của trẻ em vẫn còn một khoảng cách nhất
định so với quyền được ghi nhận trong pháp luật với tư cách là quyền con
người nên đặt ra nghĩa vụ, trách nhiệm phải được mọi chủ thể tôn trọng, bảo
vệ và bảo đảm thực hiện bằng cách ban hành các chính sách, pháp luật; tuyên
truyền phổ biến giáo dục pháp luật; thanh tra, kiểm tra, giám sát; giải quyết
khiếu nại tố cáo, xử lý vi phạm; hợp tác quốc tế; thực hiện các hoạt động tố
21
tụng... Có như vậy thì trẻ em mới có thể được thụ hưởng quyền của mình trên
thực tế, tiến tới công bằng xã hội.
Theo Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học – cơ quan nghiên cứu
ngôn ngữ học hàng đầu Việt Nam dưới sự chủ biên của tác giả Hoàng Phê,
NXB Đà Nẵng, năm 2003 viết: “Bảo đảm là làm cho chắc chắn thực hiện
được, giữ gìn được hoặc có đầy đủ những gì cần thiết. Nói chắc chắn để cho
người khác yên lòng. Nhận và chịu trách nhiệm làm tốt” [17, tr 38]. Điều 14,
Hiến pháp năm 2013 quy định: “Ở nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, các
quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã
hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp
luật”.
Vì vậy, trên cơ sở cắt nghĩa và phân tích, có thể hiểu: Bảo đảm quyền
riêng tư của trẻ em là trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong
việc tạo ra các tiền đề, điều kiện về chính trị, pháp lý, kinh tế, xã hội, văn
hóa... và thực hiện các biện pháp để trẻ em có cơ hội được tiếp cận, thụ
hưởng đầy đủ các quyền riêng tư về thân thể, thông tin, tư liệu, dữ liệu gắn
liền với cuộc sống của trẻ em được tôn trọng, bảo vệ và duy trì.
Từ khái niệm trên cho thấy, để bảo đảm quyền riêng tư của trẻ em đòi
hỏi phải có sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, của các tổ chức, cá nhân
trong việc tạo ra các tiền đề, điều kiện về chính trị, pháp lý, kinh tế, xã hội, văn
hoá... Song trong phạm vi khuôn khổ luận văn, dưới góc độ tiếp cận của
chuyên ngành luật Hiến pháp và luật Hành chính, luận văn tập trung làm rõ
khía cạnh bảo đảm pháp lý – tức là hoạt động xây dựng và tổ chức thực hiện
chính sách, pháp luật nhằm đảm bảo quyền riêng tư của trẻ em ở Việt Nam
hiện nay.
1.2.1.2. Đặc điểm bảo đảm quyền riêng tư của trẻ em ở Việt Nam
- Tính phức tạp trong việc xác định chủ thể và phạm vi bảo đảm
22
Bảo đảm quyền riêng tư vẫn đang là một vấn đề đặc thù và phức tạp, gây
nhiều tranh luận không chỉ tại Việt Nam mà còn ở rất nhiều các quốc gia trên
thế giới. Ranh giới giữa bảo vệ lợi ích và tôn trọng riêng tư cho con trẻ vẫn là
một giới hạn rất mong manh. Bởi lẽ năng lực dân sự và trách nhiệm pháp lý
của đối tượng trẻ em chưa được hoàn thiện. Các em chưa đủ nhận thức về
những hiểm nguy của xã hội diễn biến xung quanh mình, các em là đối tượng
dễ bị xâm phạm và tổn thương nhất. Chính vì lẽ đó, dẫn đến sự khó khăn
trong việc xác định nhận thức, phương thức điều chỉnh, xác định đối tượng và
phạm vi đảm bảo của các chủ thể, thiết chế xung quanh các em, từ gia đình,
nhà trường, các tổ chức xã hội đối với quyền riêng tư của các em. VD: Việc
xác định giữa những vấn đề, nội dung cần sự tham gia can thiệp của người lớn
với các vấn đề nên để các em lựa chọn độc lập để sáng tạo và phát triển cũng
là sự phức tạp chưa để phân chia rõ ràng.
- Không chỉ chịu sự điều chỉnh của pháp luật mà còn chịu sự điều chỉnh
của chuẩn mực đạo đức
Quyền riêng tư là một trong những quyền cơ bản và vốn có của con
người. Trong quan niệm chung của cộng đồng quốc tế, những quyền và lợi
ích của con người nói chung, quyền riêng tư nói riêng nằm trong nội hàm
quyền con người không thể bị tước bỏ hay hạn chế một cách tuỳ tiện bởi bất
cứ chủ thể và thiết chế nào. Kể cả Nhà nước và pháp luật. Trước khi có văn
bản pháp luật quy định cụ thể về bảo đảm quyền riêng tư cho trẻ em, điều
chỉnh hành vi của các chủ thể là quy chuẩn đạo đức, trên cơ sở các chuẩn mực
đạo đức mà các chủ thể lựa chọn tôn trọng hay thực hiện các hành vi xâm
phạm quyền riêng tư của trẻ em.
- Tính đặc thù của mỗi quốc gia
Mặc dù theo Tuyên ngôn Nhân quyền và tinh thần của Công ước Quốc
tế, trẻ em ở tất cả các quốc gia không phân biệt màu da, dân tộc, giới tính, tôn
23
giáo, độ tuổi, thành phần xuất thân. Dù ở trong những chế độ xã hội riêng
biệt, sống trên những địa phận lãnh thổ khác nhau vẫn được công nhận là con
người và được bảo đảm những quyền và sự tự do cơ bản, trong đó có quyền
riêng tư. Tuy nhiên, tại mỗi quốc gia, tuỳ vào điều kiện và trình độ phát triển
với những đặc trưng văn hoá riêng. Vấn đề bảo đảm quyền riêng tư lại được
áp dụng và điều chỉnh theo những phương hướng và cách thức khác nhau. VD
như: Về quy định độ tuổi của trẻ em, chưa có sự thống nhất giữa các văn bản
pháp quy của Việt Nam với Công ước và các văn bản pháp lý quốc tế. Sở dĩ
có điều này là do điều kiện về môi trường văn hoá cũng như điều kiện của trẻ
em tại các quốc gia phát triển có sự chênh lệch so với trẻ em Việt Nam dẫn
đến sự chênh lệch về nhận thức của các em. Ngoài ra, tại các quốc gia phương
Tây, trẻ em được coi là những cá thể độc lập riêng biệt. Trẻ em là công dân
của xã hội, quyền được tôn trọng bảo đảm quyền riêng tư được thực hiện và
bảo đảm tuyệt đối. Tuy nhiên trong môi trường văn hoá truyền thống phương
Đông, với sự gắn bó mật thiết giữa bố mẹ - người thân – con cái trong mối
quan hệ gia đình quyền riêng tư chịu sự ảnh hưởng và chi phối bởi những nét
văn hoá và hành xử nhất định.
- Có sự liên hệ và phụ thuộc giữa các quyền con người
Quyền riêng tư là một trong số những quyền tất yếu của con người cần
được bảo đảm và tôn trọng, tất cả các quyền con người đều có mối liên hệ
chặt chẽ với nhau, việc thực hiện bảo đảm tốt quyền này sẽ là tiền đề thực
hiện quyền kia. Ngược lại khi một quyền lợi bị xâm phạm sẽ gây ra mức độ
ảnh hưởng nhất định đến các quyền khác. Ví dụ: Quyền được bảo vệ, không
để bị bạo lực, bỏ rơi bỏ mặc và quyền bí mật đời sống riêng tư, các chủ thể
cần xác định được rõ ràng giữa ranh giới của sự tôn trọng với bỏ mặc các em.
Trẻ em là đối tượng chưa phát triển đầy đủ về nhận thức, thể chất để có thể tự
bảo vệ mình trước các hành vi tác động, xâm hại đến mình. Trên cơ sở tôn
24
trọng các em, các bậc phụ huynh cần xác định rõ ràng nội dung vấn đề cần
tôn trọng trao cho các em quyền độc lập, tự quyết giữa các vấn đề đặc thù
phức tạp để có phương thức bảo vệ các em. Vì vậy, việc bảo đảm quyền được
bảo đảm, không bỏ rơi, bỏ mặc sẽ là một tiền đề gây ảnh hưởng nhất định đến
sự bảo đảm quyền bí mật đời sống riêng tư cho các em.
1.2.2. Nội dung bảo đảm quyền riêng tư của trẻ em ở Việt Nam
Nhà nước có vai trò vô cùng quan trọng trong quản lý và điều hành xã
hội. Đối với các vấn đề nội tại diễn biến khôn lường của xã hội nói chung và
vấn đề bảo đảm quyền riêng tư của trẻ em nói riêng. Pháp luật là công cụ chủ
yếu để Nhà nước đưa ra quyết định, điều chỉnh mọi sự ảnh hưởng với quyền
và lợi ích chính đáng của bản thân mỗi trẻ em tồn tại trong quốc gia đó. Nhà
nước xây dựng và ban hành những chủ trương, chính sách phù hợp với thực tế
cuộc sống, bắt nguồn từ cuộc sống trên cơ sở tham gia đóng góp ý kiến rộng
rãi của các thành viên trong xã hội về vấn đề bảo đảm quyền và lợi ích hợp
pháp và quyền riêng tư của trẻ em. Bằng pháp luật và các chế tài xử phạt,
nhân danh quyền lực nhà nước, đảm bảo thực hiện các đường lối, chính sách
ấy trên cơ sở kỉ cương và nghiêm túc. Bên cạnh đó, Nhà nước có vai trò ngoại
giao kết nối, kí kết các công ước, hiệp ước. Cam kết thực hiện các điều khoản
khi trở thành thành viên, tham gia và chung tay với cộng đồng trên toàn thế
giới vì mục tiêu chăm sóc và bảo vệ trẻ em. Đối với vấn đề bảo đảm quyền
riêng tư của trẻ em ở Việt Nam hiện nay, Nhà nước ta đã có những phương
thức hoạt động cụ thể sau:
1.2.2.1. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về
quyền riêng tư của trẻ em
Để bảo đảm quyền riêng tư của trẻ em trước hết phải thông qua hoạt
động xây dựng và hoàn thiện chính sách, pháp luật vì không có pháp luật thì
không có cơ sở pháp lý để bảo vệ, bảo đảm quyền riêng tư của trẻ em bởi lẽ
25
không có gì thúc đẩy sự vi phạm quyền riêng tư của trẻ em hơn là tình trạng
thiếu pháp luật hoặc pháp luật dựa trên cơ sở không khoa học. Xây dựng và
hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về quyền riêng tư của trẻ em không
chỉ nhằm ghi nhận các quyền con người tự nhiên, vốn có của trẻ em mà còn
tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện các biện pháp thúc đẩy và bảo vệ các
quyền riêng tư của trẻ em trên thực tế. Bằng các quy định của pháp luật, các
cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân và gia đình thực hiện đúng chức trách,
nhiệm vụ của mình đảm bảo trẻ em được tiếp cận và hưởng thụ đầy đủ các
quyền riêng tư hợp pháp đồng thời là công cụ hữu hiệu để trẻ em tự bảo vệ
quyền lợi của mình.
Ở Việt Nam, Quốc hội là cơ quan có thẩm quyền cao nhất trong xây
dựng hệ thống pháp luật về quyền riêng tư của trẻ em. Hiến pháp là đạo luật
có giá giá trị pháp lý cao nhất, trong đó quyền riêng tư của trẻ em được công
nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm; là cơ sở, là tiền đề cho các hoạt động bảo
đảm quyền riêng tư của trẻ em của các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị -
xã hội, của nhà trường, gia đình và của chính bản thân trẻ em. Quốc hội ban
hành các đạo luật quan trọng nhằm tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, vững chắc cho
việc bảo đảm quyền của trẻ em nói chung và quyền riêng tư của trẻ em nói
riêng như: Luật Trẻ em, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình, Bộ Luật Dân
sự, Bộ Luật Lao động, Bộ Luật Hình sự, Luật Hôn nhân và gia đình, Luật
Trợ giúp pháp lý, Luật Hộ tịch, Luật Giáo dục nghề nghiệp, Luật Hòa giải ở
cơ sở... Trong đó, Luật Trẻ em là tiền đề quan trọng cho việc triển khai, xây
dựng, hoàn thiện chính sách, pháp luật có liên quan đến bảo đảm quyền
riêng tư của trẻ em.
1.2.2.2. Tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về quyền riêng tư của
trẻ em
Thứ nhất, tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho các chủ thể có trách
nhiệm bảo đảm quyền riêng tư của trẻ em
26
- Tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về quyền riêng tư của trẻ
em với các hình thức như: Phổ biến pháp luật trực tiếp; tư vấn, hướng dẫn tìm
hiểu pháp luật; cung cấp thông tin, tài liệu pháp luật; Thông qua công tác xét
xử, xử lý vi phạm hành chính; Thông qua hoạt động tiếp công dân, giải quyết
khiếu nại, tố cáo của công dân và hoạt động khác của các cơ quan trong bộ
máy nhà nước; Thông qua hoạt động trợ giúp pháp lý, hòa giải ở cơ sở, lồng
ghép trong hoạt động văn hóa, văn nghệ, sinh hoạt của tổ chức chính trị và
các đoàn thể, câu lạc bộ, tủ sách pháp luật và các thiết chế văn hóa khác ở cơ
sở; thông qua chương trình giáo dục pháp luật trong các cơ sở giáo dục của hệ
thống giáo dục quốc dân...
Thứ hai, tiến hành các hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý
vi phạm hành chính về quyền riêng tư của trẻ em
- Thanh tra, kiểm tra việc thực hiện pháp luật về quyền của trẻ em,
trong đó có quyền riêng tư của trẻ em; Thanh tra việc thực hiện chương trình
mục tiêu về chăm sóc trẻ em, trong đó có chủ thể hưởng lợi là trẻ em; các
biện pháp đảm bảo quyền riêng tư của trẻ em.
- Thực hiện nhiệm vụ giải quyết khiếu nại, tố cáo về các hành vi xâm
phạm đến quyền riêng tư của trẻ em theo quy định của pháp luật.
Thứ ba, tăng cường hợp tác quốc tế
- Gia nhập hoặc tham gia ký kết các điều ước tế về đảm bảo quyền
riêng tư của trẻ em; thừa nhận và tuân theo những giá trị chung của nhân loại,
trong đó có giá trị bảo vệ nhân quyền của trẻ em. Việc bảo vệ và phát triển
quyền riêng tư của trẻ em sẽ giúp quốc gia đó khai thác và phát huy tối đa
tiềm năng và nguồn nhân lực cho tương lai phát triển đất nước.
- Tranh thủ sự trợ giúp của các tổ chức quốc tế và tổ chức phi chính
phủ để tạo thêm nguồn lực, đảm bảo thực hiện các quyền riêng tư của trẻ em,
bởi các tổ chức quốc tế và tổ chức phi chính phủ có vai trò quan trọng trong
cung cấp phương pháp tiếp cận đối với việc giải quyết các vấn đề của trẻ em.
27
- Huy động nguồn lực cho việc thực hiện các chương trình, dự án về
bình đẳng giới ở Việt Nam.
Thứ tư, thực hiện các hoạt động tố tụng bảo vệ quyền riêng tư của trẻ em
- Cung cấp các biện pháp ngăn ngừa, bảo vệ và hỗ trợ nạn nhân cho các
thẩm phán… đặc biệt là ở khu vực nông thôn và ở các cộng đồng dân tộc
thiểu số.
- Đấu tranh, phòng ngừa, tố giác kịp thời các hành vi phạm tội xâm
phạm đến quyền riêng tư của trẻ em.
- Đảm bảo rằng trẻ em luôn luôn có được các công cụ, phương tiện cần
thiết để đấu tranh, phòng chống lại sự vi phạm quyền riêng tư của trẻ em.
- Thụ lý các đơn khởi kiện về vi phạm quyền riêng tư của trẻ em.
- Đảm bảo các bản án, quyết định của Tòa án liên quan đến quyền riêng
tư của trẻ em được thực hiện nghiêm minh, chính xác, kịp thời.
1.2.3. Các thiết chế xã hội bảo đảm quyền riêng tư của trẻ em ở Việt
Nam
1.2.3.1. Gia đình
Gia đình là một hình thức tổ chức đời sống cộng đồng của con người,
một thiết chế văn hóa – xã hội đặc thù. Gia đình được hình thành, tồn tại và
phát triển trên cơ sở của quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi
dưỡng và giáo dục… giữa các thành viên, là hình ảnh “xã hội thu nhỏ”, cơ
bản nhất của cộng đồng.
Gia đình mang lại các giá trị hạnh phúc, sự hài hòa trong đời sống của
mỗi thành viên, mỗi công dân của xã hội. Là nơi nuôi dưỡng, chăm sóc và là
môi trường tạo ra các yếu tố tiền đề để hình thành nên nhân cách tốt cho
những công dân của xã hội. Xây dựng gia đình là một trách nhiệm, một bộ
phận cấu thành trong chỉnh thể các mục tiêu phấn đấu của xã hội, vì sự ổn
định và phát triển của xã hội.
28
Gia đình luôn giữ vai trò hàng đầu và là yếu tố quyết định đối với việc
bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Quan hệ huyết thống và nuôi dưỡng
chính là hai trong ba mối quan hệ cơ bản tạo nên gia đình. Cha mẹ và các
thành viên trong gia đình là những người gần gũi mật thiết, thường xuyên bên
cạnh trẻ em, nên việc chăm sóc con trẻ không chỉ là trách nhiệm mà còn là
“bản năng” của họ. Vậy nên, truyền thống, văn hoá của gia đình hay cách
thức các thành viên trong gia đình lựa chọn để hành xử sẽ tạo nên những ảnh
hưởng trực tiếp đến nhận thức và tư duy của con trẻ đối với các vấn đề chúng
gặp phải khi tham gia vào quan hệ xã hội.
Đối với nguyên tắc tôn trọng quyền riêng tư, nhiều bậc phụ huynh chưa
nhận ra được tầm quan trọng, sự cần thiết và cách hiểu đúng đắn về vấn đề
này, gây ra sự phức tạp trong diễn biến tâm lý của con trẻ, đặc biệt ở giai
đoạn dậy thì và dẫn đến mâu thuẫn giữa phụ huynh và trẻ em. Bước vào giai
đoạn vị thành niên, hình thành nhân cách và cá tính riêng biệt, trẻ dần tách
khỏi cha mẹ và trở nên độc lập hơn. Giống như những người trưởng thành,
các em cũng có những bí mật muốn giữ cho riêng mình. Khi ấy cha mẹ cần
phải tư duy để phân định đúng đắn, rạch ròi giữa ranh giới của sự “quan tâm”
và “kiểm soát”. Đặt mình vào vị trí của con trẻ, thấu hiểu tâm lý, tôn trọng
quyền riêng tư của con trên cơ sở của sự quan tâm và chăm sóc. Nhưng vẫn
dành cho con không gian riêng để tự khám phá chính mình. Chính vì vậy,
trong gia đình, việc bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em cần được thực hiện một
cách khoa học, với những kiến thức, kỹ năng phù hợp.
1.2.3.2. Trường học
Trường học chính là nơi chiếm thời gian lớn nhất trong quỹ thời gian
toàn phần của trẻ. Nói đến vấn đề giáo dục, hình thành tư duy, nhận thức và
nhân cách cho trẻ em, bên cạnh gia đình không thể bỏ qua trường học. Sự
phối kết hợp giữa hai nhân tố này có vai trò vô cùng to lớn ảnh hưởng trực
29
tiếp đến suy nghĩ và lựa chọn phản ứng, hành xử của con trẻ trước các vấn đề
trong cuộc sống.
Nếu như gia đình đóng vai trò là “cái nôi” nuôi dưỡng và hình thành
nhân cách cho trẻ từ thủa nguyên sơ, thì nhà trường giống như “dòng sữa
mát” truyền tải nguồn tri thức, kiến thức đã được chuẩn hoá mang tính khoa
học định hướng với những phương pháp rõ ràng. Nhà trường luôn là môi
trường tốt đẹp, chuẩn mực với sự hội tụ của tinh hoa văn hoá, tri thức, đạo
đức, lối sống, phép hành xử. Bằng một cách nào đó, lựa chọn hành xử của
thầy cô – bộ phận nhân sự đảm nhiệm vai trò giáo dục cho trẻ tại trường học,
có ảnh hưởng vô cùng to lớn đến tư duy và nhận thức của con trẻ. Thầy cô trở
thành hình mẫu lý tưởng để con trẻ học tập và noi theo. Ở một vài góc độ nhất
định, trong suy nghĩ của con trẻ, sự “uy nghiêm” thầy cô đôi khi có ảnh
hưởng lớn lao hơn cả sự nghiêm khắc trong giáo dục của cha mẹ tại gia đình.
Chính vì vậy, tại nơi con trẻ dành nhiều thời gian nhất với tầm ảnh hưởng về
giáo dục, định hướng quan trọng nhất. Vấn đề tôn trọng và bảo đảm quyền
riêng tư của trẻ em tại trường học càng nên được đề cao và thực hiện một
cách khoa học, đúng đắn. Bởi bảo đảm quyền riêng tư tại môi trường này
không đơn giản chỉ là một cách hành xử thể hiện sự tôn trọng có văn hoá, mà
còn trở thành bài học giáo dục có hệ thống cho trẻ em trên toàn xã hội.
1.2.3.3. Các tổ chức xã hội
Tổ chức xã hội có thể được hiểu hoặc là một thành tố của cơ cấu xã hội,
hoặc là một dạng hoạt động, hay là mức độ trật tự nội tại, sự hài hòa giữa các
thành phần của một chỉnh thể với ý nghĩa này, tổ chức xã hội chính là một hệ
thống các quan hệ, tập hợp liên kết cá nhân nào đó để đạt được một mục đích
nhất định. Như vậy, định nghĩa này nhấn mạnh đến hệ thống các quan hệ liên
kết cá nhân chứ không phải chính tập hợp cá nhân trong các tổ chức và các
quan hệ ở đây là các quan hệ xã hội. Nếu như giữa tập hợp các cá nhân không
30
có những quan hệ xã hội thì họ chưa thể được coi là thành viên của một tổ
chức xã hội nào đó. Những quan hệ này sẽ liên kết các cá nhân vào một nhóm
để họ cùng thực hiện một hoạt động chung nào đó nhằm đạt được những lợi
ích nhất định.
Trên thực tế, trẻ em không chỉ sống trong quan hệ gia đình, trường học
mà còn có những quan hệ xã hội. Cá nhân các em không chỉ là thành viên của
gia đình mà còn là thành viên của xã hội. Không thể có con người bên ngoài
xã hội. Gia đình đóng vai trò quan trọng để đáp ứng nhu cầu về quan hệ xã
hội của mỗi cá nhân. Trường học có vai trò định hướng nhân cách cho mỗi cá
nhân lựa chọn cách hành xử chuẩn mực ngoài xã hội. Ngược lại, bất cứ xã hội
nào cũng thông qua gia đình, nhà trường để tác động đến mỗi cá nhân. Mặt
khác, nhiều hiện tượng của xã hội cũng thông qua gia đình mà có ảnh hưởng
tích cực hoặc tiêu cực đến sự phát triển của mỗi cá nhân về tư tưởng, đạo đức,
lối sống.
Hiện nay, trên thế giới và tại Việt Nam có rất nhiều các tổ chức quan tâm
đến vấn đề bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em nói chung và quyền
riêng tư của trẻ em nói riêng. Có thể kể tên như Quỹ nhi đồng Liên Hợp Quốc
UNICEF, Mạng bảo vệ quyền trẻ em (CRnet), Các tổ chức bảo vệ trẻ em trên
không gian mạng (CHI – Đường dây hỗ trợ trẻ em quốc tế), Hội bảo trợ
quyền trẻ em Việt Nam… có vai trò gây dựng nên một cộng đồng nhỏ tồn tại
trong lòng cộng đồng lớn để kêu gọi, tập hợp và tranh thủ sự ủng hộ về vấn đề
bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em – đối tượng dễ bị tổn thương
cần sự quan tâm đặc biệt từ xã hội. Thông qua các hình thức tổ chức của
mình, trước hết thực hiện tuyên truyền, vận động, giáo dục về bảo vệ, chăm
sóc và giáo dục trẻ em; phát triển phúc lợi xã hội cho trẻ em, tạo cơ hội thuận
lợi để trẻ em thực hiện quyền, bổn phận và phát triển toàn diện về thể chất, trí
tuệ, tinh thần và đạo đức; cung cấp dịch vụ chăm sóc, trợ giúp trẻ em. Bên
31
cạnh đó, các tổ chức đóng vai trò là một thiết chế xã hội đặc biệt tạo ra tiếng
nói riêng đại diện cho lợi ích của con trẻ, góp phần đóng góp ý kiến trực
quan, bổ sung và thay đổi tư duy của các nhà quản lý, cơ quan chức năng và
nhà làm luật để điều chỉnh và đưa ra được những quy phạm cụ thể, hợp lý sát
với tình hình thực tiễn, bảo đảm pháp luật luôn vì con người nói chung và vì
sự an toàn và phát triển của trẻ em nói riêng.
Tuy nhiên, để các tổ chức hoạt động thực sự có hiệu quả cần sự thống
nhất, hợp tác trên cơ sở nghiên cứu tình hình thực tiễn chi tiết của từng quốc
gia, từng địa bàn.
1.3. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN BẢO ĐẢM QUYỀN
RIÊNG TƯ CỦA TRẺ EM
1.3.1. Yếu tố nhận thức
Có nhiều lý do chứng minh suy nghĩ chủ quan dẫn đến hành động của trẻ
về vấn đề bảo đảm quyền riêng tư của chính bản thân mình là nhân tố đặc biệt
quan trọng. Trước tiên, trẻ em cần có nhận thức đúng đắn về vấn đề bảo vệ lợi
ích chính đáng của mình. Các em phải phân biệt rành mạch được giữa những
hoạt động cần sự độc lập và riêng tư với những hoạt động nên tham khảo ý
kiến của những người trưởng thành. Sở dĩ, cần có sự định hướng phân định rõ
ràng như vậy là do, ở độ tuổi của các em về suy nghĩ và tâm lý chưa thực sự
được phát triển hoàn thiện, cùng với những kinh nghiệm ít ỏi và sự trải
nghiệm cuộc sống vẫn còn rất nhiều mới mẻ. Các em chưa đủ chín chắn để
đưa ra quyết định đúng đắn về một vấn đề phức tạp nhiều chiều suy luận. Khi
đó, phụ huynh/người giám hộ của các em với tư duy của người trưởng thành
cùng vốn kinh nghiệm trong cuộc sống phải đóng vai trò định hướng, chia sẻ
và hoàn thiện nhận thức cho các em trước các vấn đề các em gặp phải trên cơ
sở độc lập, tôn trọng.
32
Sự nhận thức dẫn đến suy nghĩ, quyết định và sự tham gia ý kiến của trẻ
em vào vấn đề bảo đảm quyền riêng tư. Góp phần cải thiện quá trình đưa ra
quyết định của các tổ chức và Chính phủ giúp đảm bảo các quyết định này
đáp ứng nhu cầu thực sự các mối quan tâm của trẻ em, như các em đã bày tỏ
chứ không phải người lớn giả định. Trẻ em có những mối quan tâm, nhu cầu
và mong muốn khác về sự tôn trọng quyền riêng tư so với người lớn, các em
có thể không tạo được ảnh hưởng đối với các quyết định trừ khi có những nỗ
lực tạo điều kiện cho các em làm được điều này. Hơn nữa, sự tham gia ý kiến
đảm bảo rằng trẻ em với kinh nghiệm trực tiếp trong một số tình huống nhất
định có thể nêu lên ý kiến về vấn đề của mình. Sự tham gia ý kiến là phương
tiện để trẻ em nói lên tiếng nói của mình. Sự tham gia của trẻ em cũng ghi
nhận thay đổi từ quan điểm trẻ em “là người hưởng lợi” của các can thiệp của
người lớn sang quan điểm tôn trọng nguyên tắc trẻ em cũng có quyền. Đồng
thời, sự tham gia là một phương tiện quan trọng để trẻ em đươc sống trong xã
hội như những công dân năng động và góp phần thay đổi mối quan hệ quyền
lực giữa trẻ em và người lớn.
Để xác định được đâu là lợi ích tốt nhất cho trẻ em, điều quan trọng là
bản thân đứa trẻ phải có quyền được nêu ý kiến của mình, được tôn trọng và
phải được lắng nghe. Càng lớn và trưởng thành hơn, trẻ em càng phải được có
quyền hơn trong việc gây tác động và trực tiếp quyết định. Để quyết định như
thế nào là lợi ích tốt nhất cho trẻ em luôn cần có sự tham gia thực sự của các
em trong quá trình ra quyết định, nếu không tham khảo ý kiến của trẻ sẽ dẫn
đến những kết luận mang tính sai lệch và cho kết quả không tốt cho các em.
1.3.2. Yếu tố truyền thống
Nếu như chúng ta ở trong một môi trường mà tất cả mọi người xung
quanh đều có chung những ý kiến, tiêu chuẩn, tư tưởng, thói quen giống nhau,
thì những điều đó rất có thể sẽ trở thành những “sự thật khách quan” hiển
33
nhiên mà chúng ta không có cách nào nhận thức được sự tồn tại của chúng.
Và tất nhiên, chúng ta cũng sẽ không thể nhận ra được điều gì nếu như khi
tiếp xúc với những hệ quy chiếu khác biệt, chúng ta lại mặc định coi chúng là
“bất hợp lý”, “trái tự nhiên” và “cần phải loại bỏ” chỉ bởi sự khác biệt. Và
nhận thức về quyền riêng tư của trẻ em cũng như vậy. Tình cảm gia đình là
giá trị bền chặt gắn kết các thành viên trong gia đình lại với nhau, mọi sự
hành xử xảy ra trong môi trường gia đình chúng ta vẫn luôn lầm tưởng đó chỉ
là sự quan tâm và chăm sóc. Có thể làm rõ điều đó thông qua so sánh sự khác
biệt trong tư tưởng giữa văn hoá phương Tây và văn hoá phương Đông.
Thứ nhất, là về phương thức sống, kể từ khi mới sinh, người phương Tây
đã giáo dục con cái của mình theo lối sống tự lập, nhưng người phương Đông
quan niệm phải luôn theo sát, giúp đỡ con trẻ.
Thứ hai, là cách thức giao tiếp với con trẻ, người phương Tây xác định
tư tưởng coi con cái giống như một người bạn của mình, họ đối xử với con
mình bình đẳng như một người trưởng thành. Còn với người phương Đông,
gia đình có gia phong là gia đình mà con trẻ phải biết lề lối trên dưới. “Gia
phong” được hiểu là thói nhà, tập quán và giáo dục trong gia tộc, nền nếp
riêng của một gia đình. Cốt lõi của gia phong truyền thống luôn hướng tới
tinh thần trọng gốc nguồn, khuyến khích sự gắn bó gần gũi giữa các thành
viên trong gia đình. “Gia lễ” là những nghi lễ, tập tục, cung cách ăn nói, đi
đứng, ứng xử trở thành truyền thống, được cha ông chọn lựa qua nhiều thế hệ,
con cháu cần noi theo. Không được phép có sự ngang hàng trong hành xử.
Chính sự yêu thương ấy dẫn đến tư tưởng phải quan tâm đùm bọc, bảo
vệ con trẻ từ những chi tiết rất nhỏ, người lớn cho mình quyền chi phối toàn
bộ quyết định của con trẻ với tinh thần “bảo đảm sự an toàn” cho các em. Và
có những hành động xâm phạm đến quyền riêng tư của trẻ em bằng chính
những yêu thương đó mà không hề hay biết.
34
1.3.3. Yếu tố kinh tế
Sự chuyển đổi tất yếu của kinh tế thị trường, toàn cầu hóa, hội nhập quốc
tế đã đem đến những thành tựu trong mọi lĩnh vực của cuộc sống mang lại
những ảnh hưởng tích cực, tạo ra sự phát triển của đời sống xã hội, đời sống
vật chất và tinh thần của con người ngày một nâng cao. Sự bùng nổ của công
nghệ thông tin kéo gần khoảng cách địa lý giữa con người và con người. Kết
nối không biên giới biến công dân của mỗi quốc gia độc lập trở thành công
dân toàn cầu, mong muốn hoà nhập và tiếp thu tinh hoa văn hoá không còn là
trở ngại. Nhưng mặt khác, kinh tế thị trường cũng đem đến những tác động
tiêu cực đến các lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt là nhận thức về quyền
riêng tư như: (i) Tôn trọng quyền tự do dân chủ cá nhân là điều luật pháp bảo
vệ và mọi công dân phải chấp hành, là một nguyên tắc xây dựng gia đình hiện
đại ở nước ta. Nhưng sự đòi hỏi về quyền, lợi ích, tự do cá nhân của con cái
có trường hợp đã bị đẩy lên thành chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, từ sự thiếu hiểu
biết, chín chắn của trẻ, từ việc chúng nghe theo lời bạn bè thúc đẩy, trong việc
học hành, chọn nghề, vui chơi, đòi tiền cha mẹ chi tiêu, đòi sắm những thứ
đắt tiền...; (ii) Con cái thường có xu hướng muốn tách khỏi sự kiểm soát của
cha mẹ, mặc dù còn đi học, chưa trưởng thành. Đây là sự tiếp thu không phù
hợp với thực tế từ văn hoá phương Tây. Con cái 15, 16 tuổi đã thích cha mẹ
cho ở riêng, cha mẹ phải thuê căn hộ riêng cho con sống và cung cấp tài chính
để chúng ăn học, sinh hoạt. Hiện nay, ở Việt Nam, đã có một số gia đình công
chức cao cấp, nhà buôn giàu có thuê những căn hộ riêng cho con cái ở, mặc
dù chúng còn đang học hành, còn sống phụ thuộc vào cha mẹ về tài chính. Và
nhiều bậc cha mẹ đã bị “sốc” trước những sự cố, như sự sa sút đạo đức, tư
cách của con cái khi chúng trở thành những kẻ hư hỏng, chơi bời và phạm tội;
(iii) Quá trình xã hội hóa trẻ em, đó là quá trình cá thể hóa con người, hình
thành nhân cách cá nhân, hình thành cái tôi riêng biệt. Trước sự đòi hỏi tăng
35
lên của quyền tự quyết cá nhân, gia đình cần cố gắng thỏa mãn trong điều
kiện cho phép, tuỳ theo lứa tuổi. Bởi vì, điều đó ảnh hưởng đến sự hình thành
đầu óc suy nghĩ độc lập, sáng tạo của con cái cũng như lòng yêu thương, tin
cậy của chúng đối với cha mẹ [29].
1.3.4. Yếu tố ý thức pháp luật
Thực tế không thể phủ nhận, ngày nay đời sống của các tầng lớp nhân
dân đang được nâng cao, đi cùng với nó là sự nâng lên của trình độ tri thức,
nhận thức nói chung và nhận thức pháp luật nói riêng. Nhân dân ngày càng
quan tâm hơn đến pháp luật, ý thức chấp hành, thực hiện pháp luật có những
tiến bộ rõ rệt. Người dân đã tiếp thu khá nhiệt tình, tích cực sự tuyên truyền
pháp luật từ phía các cơ quan, ban ngành cũng như hưởng ứng nhiệt tình các
cuộc vận động pháp luật. Vì vậy, nhân dân đã nhận thức sâu sắc hơn hành vi
của mình để có thể thực hiện tốt hơn những quy định của pháp luật.
Tuy vậy, bên cạnh đó ý thức pháp luật của một bộ phận không nhỏ nhân
dân vẫn còn nhiều hạn chế, trình độ nhận thức pháp luật còn yếu kém. Kiến
thức pháp luật của nhân dân, đặc biệt những vùng nông thôn, miền núi còn
thấp. Rất nhiều người tham gia pháp luật mà không biết những quy định của
pháp luật mặc dù nó rất gần gũi, phổ biến trong cuộc sống. Chính vì vậy, tình
trạng người dân vi phạm pháp luật ở nước ta ngày càng tăng. Tất cả những
điều đó đã và đang giáng một tiếng chuông cảnh báo về tình trạng vi phạm
pháp luật hiện nay ở nước ta. Những vi phạm đó phải chăng xuất phát rất
nhiều từ vấn đề ý thức pháp luật của quần chúng.
Những hạn chế về ý thức pháp luật của nhân dân xuất phát từ nhiều
nguyên nhân. Trước hết đó là do trình độ dân trí của một bộ phận nhân dân
còn hạn chế nhất là ở những vùng nông thôn miền núi, vì vậy nên trình độ
nhận thức pháp luật của nhân dân kém. Công tác tuyên truyền pháp luật trong
quần chúng chưa toàn diện, chưa sâu rộng và chưa hiệu quả. Những hành vi
36
vi phạm pháp luật của người dân có thể do không nhận thức được hành động
của mình, có thể nhận thức được nhưng vẫn cố tình vi phạm vì mục đích cá
nhân. Ngoài ra còn nhiều nguyên nhân khác như những ảnh hưởng tiêu cực
của nền kinh tế thị trường, sự tác động của tư tưởng, tâm lý xã hội tiêu cực,
lạc hậu…
Chính vì vậy, trong bối cảnh tâm lý truyền thống về sự yêu thương, quan
tâm con cái trong gia đình cùng với ý thức chấp hành pháp luật của người dân
còn nhiều hạn chế, dẫn đến sự bảo đảm về quyền và lợi ích hợp pháp của Trẻ
em nói chung và quyền riêng tư của trẻ em nói riêng chưa được đảm bảo thực
hiện một cách nghiêm túc.
Tiểu kết chương 1
Quyền riêng tư là một trong những cơ bản của con người, là nền tảng để
tôn trọng phẩm giá con người cùng với các giá trị khác, được pháp luật quốc
tế và pháp luật của các quốc gia công nhận và bảo vệ. Như mọi công dân khác
trong xã hội, trẻ em phải được đối xử công bằng, được tôn trọng các quyền cơ
bản trong đó có quyền riêng tư. Đặc biệt trong bối cảnh của sự phát triển và
hội nhập của thời kì công nghệ số hiện nay, quyền riêng tư của trẻ em – nhóm
đối tượng dễ bị tổn thương cần được nhìn nhận một cách nghiêm túc và được
dành nhiều sự quan tâm hơn nữa. Trên cơ sở nghiên cứu và phân tích, tại
chương này, này Luận văn đã chỉ ra khái niệm cũng như đặc điểm quyền
riêng tư của trẻ em, nội dung cũng như các thiết chế xã hội và các yếu tố để
bảo đảm quyền này được thực hiện.
37
Chương 2:
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN BẢO ĐẢM QUYỀN
RIÊNG TƯ CỦA TRẺ EM Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN RIÊNG
TƯ CỦA TRẺ EM Ở VIỆT NAM
2.1.1. Các quy định về quyền riêng tư của trẻ em
Quyền riêng tư là một trong những quyền con người, quyền công dân cơ
bản được pháp luật quốc tế và pháp luật của các quốc gia công nhận và bảo
vệ. Quyền riêng tư đối với trẻ em lại càng được đặc biệt chú trọng vì trẻ em
“nhóm yếu thế”, chưa phát triển đầy đủ về nhận thức, thể chất để có thể tự
bảo vệ mình trước các hành vi tác động, xâm hại đến mình.
Việt Nam là một trong những quốc gia sớm quan tâm đến việc bảo vệ
quyền trẻ em, là nước đầu tiên của Châu Á và là nước thứ hai thế giới phê
chuẩn Công ước của Liên hợp quốc về Quyền trẻ em vào ngày 20/2/1990.
Điều 16, Công ước Quốc tế về quyền trẻ em ghi nhận: “1. Không trẻ em nào
phải chịu sự can thiệp tùy tiện hay bất hợp pháp vào việc riêng tư, gia đình,
nhà cửa hoặc thư tín cũng như những sự công kích bất hợp pháp vào danh dự
và thanh danh của các em. 2. Trẻ em có quyền được pháp luật bảo vệ chống
lại sự can thiệp hay công kích như vậy” [8].
Theo Hiến pháp năm 2013, trẻ em (người dưới 16 tuổi) được Nhà nước,
gia đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục; được tham gia vào các vấn
đề về trẻ em; nghiêm cấm xâm hại, hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng,
bóc lột sức lao động và những hành vi khác vi phạm quyền trẻ em (khoản 1
Điều 37) [22]. Về vấn đề bảo đảm bảo quyền riêng tư, Điều 21 Hiến pháp
năm 2013 quy định: "(1) Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về đời sống
riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đinh; có quyền bảo vệ danh dự, uy tín
của mình. Thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình
38
được pháp luật bảo đảm an toàn. (2) Mọi người có quyền bí mật thư tín, điện
thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác. Không ai
được bóc mở, kiểm soát, thu giữ trái luật thư tín, điện thoại, điện tín và các
hình thức trao đổi thông tin riêng tư của người khác".
Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí
mật gia đình là bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo vệ; việc thu thập,
lưu giữ, sử dụng, công khai thông tin liên quan đến đời sống riêng tư, bí mật
cá nhân phải được người đó đồng ý, việc thu thập, lưu giữ, sử dụng, công khai
thông tin liên quan đến bí mật gia đình phải được các thành viên gia đình
đồng ý, trừ trường hợp luật có quy định khác (khoản 1, khoản 2 Điều 38)
[24].
Luật Trẻ em năm 2016, chính thức có hiệu lực từ ngày 1/6/2017 đây là
cơ sở pháp lý và cũng là việc thể chế hóa các chủ trương, chính sách của
Đảng, Nhà nước về bảo đảm thực hiện các quyền trẻ em trong tình hình mới;
đồng thời cũng quy định trách nhiệm thực hiện các cam kết theo Công ước
của Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em của Việt Nam. Luật quy định trẻ em có
quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia
đình vì lợi ích tốt nhất của trẻ em; trẻ em được pháp luật bảo vệ danh dự,
nhân phẩm, uy tín, bí mật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi
thông tin riêng tư khác; được bảo vệ và chống lại sự can thiệp trái pháp luật
đối với thông tin riêng tư (Điều 21) [25].
Khoản 2 Điều 54 Luật này quy định: “Cơ quan, tổ chức, cá nhân quản
lý, cung cấp sản phẩm, dịch vụ thông tin, truyền thông và tổ chức các hoạt
động trên môi trường mạng phải thực hiện các biện pháp bảo đảm an toàn và
bí mật đời sống riêng tư cho trẻ em theo quy định của pháp luật”.
Theo Điều 6 Luật Trẻ em năm 2016, hành vi công bố, tiết lộ thông tin về
đời sống riêng tư, bí mật cá nhân của trẻ em mà không được sự đồng ý của trẻ
39
em từ đủ 7 tuổi trở lên và của cha, mẹ, người giám hộ của trẻ em là hành vi bị
nghiêm cấm.
Luật Trẻ em 2016 có điểm mới đáng chú ý nhất là chương “Trách nhiệm
bảo vệ trẻ em trong môi trường mạng”. Đây là vấn đề xã hội mới giữa bối
cảnh nhà nhà đều kết nối internet và sử dụng điện thoại thông minh. Thế
nhưng, thực thi điều ấy như thế nào, lại là câu hỏi không đơn giản.
Ngày 9/5/2017, Chính phủ ban hành Nghị định số 56/2017/NĐ-CP, có
hiệu lực từ ngày 1/7/2017, quy định chi tiết một số điều của Luật Trẻ em.
Điều 33 giải thích rõ thông tin bí mật đời sống riêng tư, bí mật cá nhân của trẻ
em là các thông tin về: Tên, tuổi; đặc điểm nhận dạng cá nhân; thông tin về
tình trạng sức khỏe và đời tư được ghi trong bệnh án; hình ảnh cá nhân;
thông tin về các thành viên trong gia đình, người chăm sóc trẻ em; tài sản cá
nhân; số điện thoại; địa chỉ thư tín cá nhân; địa chỉ, thông tin về nơi ở, quê
quán; địa chỉ, thông tin về trường, lớp, kết quả học tập và các mối quan hệ
bạn bè của trẻ em; thông tin về dịch vụ cung cấp cho cá nhân trẻ em [5].
Luật Trẻ em 2016 quy định, muốn đưa thông tin, hình ảnh về trẻ em
dưới 7 tuổi phải được sự đồng ý của bố mẹ hoặc người giám hộ. Còn trường
hợp trẻ em từ 7 tuổi trở lên phải được sự đồng ý của chính các em. Trên thực
tế, có rất ít các ông bố bà mẹ xin phép con cái khi đưa thông tin, hình ảnh của
con cái lên mạng. “Trách nhiệm bảo vệ trẻ em trong môi trường mạng” trong
Luật Trẻ em là một văn bản pháp lý mới mẻ và cần thiết. Thế nhưng, để luật
đi vào cuộc sống, cần có sự tuyên truyền và vận động bền bỉ và hiệu quả.
Không chỉ bố mẹ và chính trẻ em cũng phải ý thức được quyền riêng tư của
mình về thông tin cá nhân.
Khoản 3 Điều 35 trong Nghị định 56/2017 cũng nhấn mạnh: “Doanh
nghiệp kinh doanh, cung cấp dịch vụ trên môi trường mạng phải cảnh báo
hoặc gỡ bỏ thông tin, dịch vụ gây hại cho trẻ em, thông tin, dịch vụ giả mạo,
40
xuyên tạc xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em” [5]. Như vậy,
cộng đồng cũng có cơ sở để góp tay thực hiện Luật Trẻ em. Khi phát hiện
những biểu hiện vi phạm Luật Trẻ em ai cũng có quyền yêu cầu nhà cung cấp
dịch vụ mạng gỡ bỏ thông tin, hình ảnh mà không cần văn bản đề nghị của cơ
quan chức năng.
2.1.2. Các quy định về các biện pháp chế tài với hành vi vi phạm
quyền riêng tư của trẻ em
Vấn đề bảo đảm quyền riêng tư của trẻ em đã được Hiến định và luật
định rõ ràng, chặt chẽ. Tuy nhiên, trên thực tế quyền riêng tư của trẻ em lại rất
dễ bị xâm phạm, đặc biệt là trong môi trường Internet, mạng xã hội với sự lan
truyền thông tin từ các thiết bị thông minh… Người thực hiện hành vi xâm
phạm quyền riêng tư của trẻ không đâu xa, đôi khi lại chính là những người
thân thích của trẻ như là cha, mẹ, anh, chị… mặc dù hành vi hoàn toàn có thể
xuất phát từ tình yêu thương, không cố ý nhưng vì sự chủ quan, nhận thức
chưa đầy đủ về quy định của pháp luật về quyền riêng tư, nên đã vô tình thực
hiện hành vi vi phạm đến quyền tư, bí mật cá nhân của trẻ em, đặc biệt là sự
xâm phạm về hình ảnh cá nhân.
Hiện nay chưa có Nghị định mới về xử phạt vi phạm hành chính về
quyền trẻ em, trong đó có hành vi vi phạm về quyền riêng tư của trẻ em. Nghị
định 144/2013/NĐ-CP hiện hành quy định xử phạt vi phạm hành chính về bảo
trợ, cứu trợ xã hội và bảo vệ, chăm sóc trẻ em không có quy định cụ thể về xử
lý hành vi vi phạm quyền riêng tư của trẻ em [4].
Tuy vậy, tùy theo tính chất, mức độ của hành vi vi phạm, có thể căn cứ
vào những quy định pháp luật khác có liên quan để xử lý đối với hành vi xâm
phạm quyền riêng tư của trẻ em.
Chẳng hạn, đối với hành vi vi phạm quyền riêng tư của trẻ em trên môi
trường mạng, có thể căn cứ vào Nghị định 174/2013/NĐ-CP ngày 13/11/2013
41
của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu
chính, viễn thông, công nghệ thông tin và tần số vô tuyến điện (đã được sửa
đổi, bổ sung theo Nghị định 49/2017/NĐ-CP). Theo đó, đối với vi phạm về
trang thông tin điện tử, trang thông tin điện tử tổng hợp liên quan đến hành vi
tiết lộ bí mật đời tư hoặc bí mật khác khi chưa được sự đồng ý của cá nhân, tổ
chức có liên quan trừ trường hợp pháp luật quy định thì bị phạt tiền từ
10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng (điểm b khoản 2 Điều 64) [3].
Đối với vi phạm các quy định về trách nhiệm của tổ chức, doanh nghiệp
cung cấp dịch vụ mạng xã hội liên quan đến hành vi tiết lộ bí mật đời tư hoặc
bí mật khác khi chưa được sự đồng ý của cá nhân, tổ chức có liên quan trừ
trường hợp pháp luật quy định thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến
30.000.000 đồng.
Đối với vi phạm của thành viên gia đình tiết lộ hoặc phát tán tư liệu, tài
liệu thuộc bí mật đời tư của thành viên gia đình (trong đó có trẻ em) nhằm
xúc phạm danh dự, nhân phẩm; sử dụng các phương tiện thông tin nhằm xúc
phạm danh dự, nhân phẩm thành viên gia đình; phổ biến, phát tán tờ rơi, bài
viết, hình ảnh, âm thanh nhằm xúc phạm danh dự, nhân phẩm của nạn nhân
thì bị xử phạt từ 1.000.000 đồng đến 1.500.000 đồng đối với mỗi hành vi vi
phạm theo khoản 2 Điều 51 Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013
quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn
xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống
bạo lực gia đình [2].
Ngoài ra, tùy tính chất, mức độ, hành vi vi phạm quyền riêng tư của trẻ
em có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tội xâm phạm bí mật hoặc an
toàn thư tín, điện thoại, điện tín hoặc hình thức trao đổi thông tin riêng tư
khác của người khác; tội làm nhục người khác… theo quy định của Bộ luật
Tố tụng Hình sự. Theo Luật, mọi hành vi vi phạm về quyền của trẻ em nói
42
chung và quyền riêng tư của trẻ em nói riêng, nếu gây ra thiệt hại thì người
thực hiện hành vi vi phạm phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo quy
định của pháp luật dân sự.
2.2. THỰC TIỄN BẢO ĐẢM QUYỀN RIÊNG TƯ CỦA TRẺ EM Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY
2.2.1. Từ phía gia đình
Thực tế những năm gần đây cho thấy, các quyền này của trẻ em chưa
thật sự được tôn trọng, và tình trạng trẻ em bị xâm phạm quyền riêng tư diễn
ra ngày càng có xu hướng nghiêm trọng. Đáng nói, người xâm phạm quyền
riêng tư của trẻ có khi lại là chính bố mẹ, người thân mà chính bản thân họ
không hề hay biết. Nguyên nhân xuất phát và bắt nguồn từ 3 phương diện từ
“tình cảm”, “tâm lý” dẫn đến “hành vi”.
Trước hết về yếu tố “tình cảm” trong mối quan hệ gia đình. Khởi nguồn
văn hoá cộng đồng của người Việt Nam, với lối sống gắn bó và trọng ân
nghĩa. Trong vô vàn thứ tình cảm được định nghĩa và phân loại thì điều gốc
rễ, căn cốt, nền tảng cho nhân cách mỗi con người là tình cảm ruột thịt giữa
cha mẹ - con cái. Trong tâm lý người Việt, tình cảm gia đình là yếu tố thượng
tôn. Cha ông ta có câu: “Một giọt máu đào hơn ao nước lã”. Quan hệ giữa cha
mẹ - con cái là quan hệ máu mủ, ruột rà. Con mang trong mình dòng máu của
cha mẹ. Con là sinh thể được thoát thai từ tình yêu của cha mẹ. Lẽ dĩ nhiên,
sự gắn bó máu thịt đó thật cao quý, thiêng liêng, thật đáng nâng niu, trân
trọng, đáng được gìn giữ, vun đắp. Ở phương diện pháp luật, có nhiều mối
quan hệ tình cảm được phân xử và điều chỉnh rõ ràng bằng văn bản quy định
cụ thể. Nhưng mặt khác, rất khó để đem pháp luật ra để điều chỉnh những
hành động xuất phát từ tình cảm ruột thịt giữa cha mẹ - con cái.
Từ “tình cảm” dẫn đến phương diện thứ hai đó là “tâm lý”, chính vì thế
một số cha mẹ có khuynh hướng bao bọc hay bảo vệ con cái cách thái quá. Và
43
đôi khi sự quá khích trong hành xử sự việc đó sẽ là một sai lầm thực sự. Hành
động quan tâm, gắn bó, sẻ chia trong gia đình là điều đáng trân trọng, nhưng
cần được hành xử trên cơ sở tôn trọng độc lập tương đối. Khi tâm lý con trẻ
tại mỗi giai đoạn trưởng thành, mỗi môi trường hay bối cảnh xã hội lại có
diễn biến hoàn toàn khác nhau. Tâm lý trẻ em được xem xét ít nhất trong 3
giai đoạn: Giai đoạn trước độ tuổi đi học (dưới 6 tuổi), giai đoạn trong độ tuổi
đi học (từ 6 tuổi đến tuổi dậy thì) và giai đoạn vị thành niên (từ độ tuổi đi học
đến 18 tuổi). Các vị phụ huynh cần nắm vững đặc điểm phát triển tâm sinh lý
của trẻ để làm căn cứ hành xử trong mối quan hệ gia đình để làm sao vẫn có
thể quan tâm các em sát sao, kịp thời, đúng lúc nhưng vẫn bảo đảm tôn trọng
quyền riêng tư của con em mình.
- Giai đoạn trước độ tuổi đi học: Ở trẻ phát triển các biểu cảm cộng sinh
cảm xúc, trẻ cần sự chăm sóc và âu yếm của người lớn, nhất là người mẹ. Trẻ
có thể hình thành cảm giác mất tin tưởng, sợ hãi và rối loạn nếu như không
được đáp ứng nhu cầu này. Điểm đặc thù tâm lý của trẻ trong giai đoạn này là
“khủng hoảng tuổi lên 3”, trẻ hay làm ngược lại với mong muốn của cha mẹ
với mục đích được thừa nhận “Tôi là người lớn”. Trong trường hợp này,
mắng mỏ, trừng phạt chỉ làm trẻ thêm khủng hoảng. Đừng phê bình khi chưa
cần thiết, phụ huynh cần gần gũi, tạo ra sự tin tưởng trong lòng con trẻ khi đó
chúng ta sẽ nhận được sự cộng tác.
- Giai đoạn trong độ tuổi đi học: Ở độ tuổi này, tư duy hình thành tâm lý
của trẻ bắt đầu phát triển. Với nhãn quan và khả năng tiếp cận tư duy ngôn
ngữ, trẻ chịu tác động mạnh từ hình ảnh, truyền thông và báo chí. Các em đã
có khả năng đánh giá sự việc trên cơ sở phân tích, việc chọn lọc tiếp thu
thông tin cho các em cần sự định hướng và tích hợp từ người lớn. Các em
cũng đã bắt đầu hình thành cá tính và những sở thích riêng, người lớn không
nên cấm đoán những gì con trẻ thích mà hãy tìm cách thấu hiểu, định hình và
44
chia sẻ cho để các em nhận định được lựa chọn nào là tốt cho độ tuổi của
mình. Đó cũng là một trong những cách tôn trọng và bảo đảm quyền riêng tư
cho các em.
- Giai đoạn vị thành niên: Đây là giai đoạn nhạy cảm nhất trong tâm lý
của con trẻ, điểm quan trọng nhất với trẻ giai đoạn này là xu hướng “thần
tượng”, do hệ thống lý tưởng, định hướng giá trị cần được phát triển, xuất
hiện hiện tượng tâm lý “thần tượng” muốn độc lập trong suy nghĩ và sự phát
triển giới tính. Đây là hiện tượng tâm lý bình thường. Ý thức phát triển mạnh,
cơ thể mang dáng vẻ người lớn, tầm hiểu biết, năng lực được mở rộng… nên
tính tự lập được nâng cao. Các em đòi hỏi từ người lớn sự đối xử bình đẳng,
không can thiệp quá tỉ mỉ vào công việc riêng của các em. Thái độ đúng đắn
nhất của người lớn là thừa nhận và tôn trọng tính độc lập và quyền bình đẳng
đó. Nếu không các em sẽ có hành vi chống đối, thái độ xa lánh. Cần nhận
định thực tế rằng, việc “đỡ đầu” trẻ ở giai đoạn này một cách quá đáng đôi
khi sẽ xâm phạm cơ bản quyền riêng tư của các em hoặc khiến các em không
thể xây dựng cho mình lối suy nghĩ độc lập và trưởng thành. Nhưng mặt khác,
thanh thiếu niên vẫn rất cần sự quan tâm hướng dẫn kịp thời của người lớn.
Phụ huynh không thể bỏ mặc để các em tự chịu trách nhiệm với những lựa
chọn của cuộc đời mà cần tạo ra được một mức độ độc lập tương ứng với khả
năng của các em.
Ngoài ra, trong điều kiện xã hội hiện nay, vẫn còn không ít trẻ em có
hoàn cảnh khó khăn có những nét riêng biệt về hoàn cảnh mà bản thân chúng
không mong muốn. Bên cạnh những em có hoàn cảnh thiếu thốn về kinh tế
còn có những em được sinh ra nhưng thiếu thốn về tình cảm gia đình, như các
em bé mồ côi hay gia đình có bố mẹ li dị, li thân. Các em thường mang tâm lý
mặc cảm về hoàn cảnh riêng, dễ tự ti, ít cởi mở và sống thu mình. Với trẻ em
trong nhóm đối tượng này càng cần có sự tôn trọng riêng tư một cách đầy tinh
45
tế và khéo léo. Mọi sự vô ý sẽ đều có thể khiến cho trẻ trở nên chạnh lòng, tự
ái và gây ra những động thái tiêu cực.
Chính vì vậy, phụ huynh cần tìm hiểu và nhận biết tâm lý con trẻ qua
từng thời kì, từng giai đoạn, từng môi trường trong các bối cảnh phát triển cụ
thể của xã hội để định hướng hài hoà nhân cách cho các em. Nếu hiểu không
đúng, vô tình cổ vũ những thói hư tật xấu, đi ngược với chuẩn mực đạo đức
và thuần phong mỹ tục của Việt Nam hoặc phản ứng trái chiều là cấm đoán
vô lối, vi phạm quyền riêng tư của trẻ dù trong tâm lý không hề ý thức được
điều này. Có 4 nguyên tắc nên tuân thủ trong giao tiếp và đối thoại với trẻ: 1.
Hiểu biết về trẻ và vấn đề của trẻ; 2. Làm bạn và chia sẻ với trẻ (không dạy dỗ
kiểu thuyết giáo, bề trên); 3. Thật lòng với trẻ; 4. Vì lợi ích của trẻ.
Thứ ba là “hành vi”, từ “tình cảm” “gần gũi, gắn bó với “tâm lý” lo lắng,
bao bọc. Dẫn đến hành vi của phụ huynh với quan niệm cho rằng “con mình
thì mình có quyền” cho nên không ít phụ huynh khá thoải mái trong cách cư
xử với con tại ngôi nhà của mình.
Trước hết, đối với thanh thiếu niên, việc trẻ ở thường xuyên ở một mình
trong phòng ngủ của mình không có nghĩa là trẻ có dấu hiệu của trầm cảm.
Phòng ngủ là không gian riêng của trẻ, là nơi ẩn náu an toàn cho trẻ sau cả
một ngày dài áp lực mà trẻ phải đối mặt, cũng đồng thời là nơi để trẻ khám
phá bản thân. Do đó, cha mẹ cần nắm được tâm lý của trẻ ở độ tuổi này và có
những cách cư xử hợp lý không làm mếch lòng trẻ, nhưng vẫn tạo ra được
cảm giác gắn bó và trẻ vẫn nằm trong tầm kiểm soát của bạn. Các bậc cha mẹ
nên tôn trọng quyền riêng tư của con cái dù cửa phòng có mở hay đóng, bạn
cũng nên gõ cửa và đợi sự đồng ý của trẻ trước khi vào phòng, mọi người
trong nhà cũng nên tuân thủ nguyên tắc này như một phép lịch sự tối thiểu.
Đó là cách con trẻ cảm nhận được sự tôn trọng từ phía bạn, đồng thời cũng là
bài học giáo dục các em về phép lịch sự khi tham gia vào các quan hệ xã hội
46
bên ngoài. Phụ huynh cần thấu hiểu được rằng người lớn có những bí mật của
riêng mình và trẻ em cũng vậy.
Bên cạnh đó, các em ở lứa tuổi vị thành niên cũng có quyền được giữ sự
riêng tư về mặt cảm xúc. Các bậc cha mẹ nên tôn trọng sự riêng tư này, không
nên cố khai thác những điều mà trẻ hoàn toàn không muốn chia sẻ. Tuy nhiên,
điều này không có nghĩa là bỏ rơi trẻ, hãy quan sát diễn biến tâm lý của trẻ để
luôn theo dõi và xử lý kịp thời những vấn đề đang xảy ra xung quanh các em.
Một số trẻ em thường có phản ứng gắt gỏng khi được hỏi han không đúng lúc,
nhưng kì thực với sự hiểu biết trong tâm lý các em luôn hiểu đó là sự quan
tâm, yêu thương từ phía cha mẹ. Cách giải quyết hiệu quả nhất trước những
phản ứng đó của con là sự nhẹ nhàng từ phía người lớn. Hãy để trẻ biết rằng,
cha mẹ hiểu các em không muốn chia sẻ thông tin ngay lúc này, nhưng bất cứ
khi nào các em muốn, cha mẹ luôn sẵn sàng lắng nghe. Mặt khác, việc tôn
trọng quyền riêng tư và không tò mò chuyện của con cũng là cách ứng xử tốt
để xây dựng niềm tin của con trẻ. Điều này giúp con cảm thấy an toàn và sẽ
dần chia sẻ những vấn đề riêng tư với cha mẹ một cách cởi mở và thoải mái
hơn.
Một vấn đề khác mà gần như bất kì bậc phụ huynh nào cũng mắc phải,
đó là thói quen thường xuyên lục tủ đồ của con mỗi khi con đi vắng để xem
con có cất giữ vật gì bí mật hay không. Hay thói quen kiểm tra điện thoại và
các tài khoản mạng xã hội để biết con đang giao lưu, kết bạn với những người
nào. Đó là hành vi kiểm soát của hầu hết tất cả các bậc phụ huynh đối với con
của mình với tâm lý hết sức hiển nhiên là mong cầu những điều tốt đẹp cho
con của mình. Tuy nhiên, đó là hành động vô tình gây ra những tổn thương
tâm lý trong trẻ. Hãy cứ thử đặt vị trí của mình vào vị trí của trẻ hoặc ví dụ
như ai đó cũng làm điều này với bạn, bạn sẽ cảm thấy như thế nào ? Điều
quan trọng là cha mẹ hãy tôn trọng quyền riêng tư của con cái và nếu muốn
47
kiểm soát được hành vi của con chỉ có thể bằng sự quan tâm, dành thời gian
bên cạnh để chia sẻ nhưng không nên quá tò mò. Hãy để trẻ được chủ động
trong các mối quan hệ của riêng mình trên cơ sở định hướng của phụ huynh.
Có thể người làm cha làm mẹ sẽ khó chấp nhận việc một phần cuộc sống của
trẻ đã tách rời khỏi bạn. Khi con còn nhỏ, bạn hoàn toàn có thể kiểm soát dù
chúng ở nơi đâu. Nhưng các bậc phụ huynh nên nhìn nhận thực tế và thừa
nhận rằng đó là một trong những phản ứng vô cùng đương nhiên của giai
đoạn trưởng thành.
Tiếp đến là việc trẻ có cho mình nhiều mối quan hệ bạn bè và tham gia
các hoạt động tập thể ngoài phạm vi ảnh hưởng của cha mẹ. Và kéo theo sự
khó xử trong tâm lý của người làm cha, làm mẹ là ứng phó ra sao để không
xâm phạm quyền riêng tư của con mà vẫn có đủ thông tin để an tâm về hoạt
động và trẻ đang thực hiện. Cách hiệu quả nhất vẫn là sự nhẹ nhàng trong
hành xử, hãy thoải mái rộng mở với các mối quan hệ con đang có. Chào đón
bạn bè của con bằng thái độ niềm nở. Phụ huynh sẽ vừa là niềm tự hào của
các em, lại có thể tranh thủ được sự gần gũi, để có thể hiểu và chia sẻ với các
em nhiều hơn.
Ngoài ra, một số phụ huynh hay có tâm lý tự hào về con cái của mình,
muốn phô trương hình ảnh của con với hành động đăng tải lên mạng xã hội
nhiều thông tin về con cái, từ ảnh sinh hoạt hằng ngày đến thành tích học tập,
thông tin trường học, về bạn bè, sở thích của con… Việc đăng quá rõ ràng, cụ
thể thông tin của con như địa chỉ trường, lớp, số điện thoại, sở thích, ảnh chân
dung,... vô hình trung mang đến những mối nguy cơ đe dọa trực tiếp đến sự
an toàn của trẻ. Bởi qua những thông tin đó, các đối tượng tội phạm có thể lợi
dụng để thực hiện các hành vi phạm tội như: lừa đảo, bắt cóc tống tiền, bắt trẻ
bán ra nước ngoài, phát tán hình ảnh nhạy cảm… Cha mẹ tự hào vì sự trưởng
thành của con cái là những niềm hạnh phúc chính đáng. Nhưng hãy làm sao
48
để sự tự hào đó được biểu đạt một cách phù hợp, đủ tôn trọng và không gây
tổn hại đến con cái.
Như vậy có thể thấy rằng, quyền riêng tư, bí mật đời tư là quyền của tất
cả mọi người, ai cũng có quyền này, không riêng gì trẻ em. Tôn trọng quyền
riêng tư, bí mật đời tư góp phần bảo vệ nhân phẩm, sự tự do và an toàn cho
bản thân cũng như người khác. Trẻ em dễ bị tổn thương bởi hành vi của người
khác và của chính các em. Trẻ em cần được giám hộ để đảm bảo rằng tất cả
những hoạt động liên quan đến trẻ em là vì lợi ích tốt nhất của trẻ trước hết
phải từ chính gia đình của mình. Cha mẹ, người thân có vai trò bảo vệ/bảo
đảm quyền của trẻ em chứ không phải là người sở hữu quyền. Cho nên, cha
mẹ, người thân không có quyền tự ý quyết định thay mà phải dựa trên sự tôn
trọng quyền, nguyện vọng, lợi ích tốt nhất của con cái/người thân của mình.
Một người lớn có trách nhiệm là luôn cân nhắc kỹ trước khi thực hiện bất kỳ
điều gì liên quan đến trẻ em. Những câu hỏi chìa khóa có thể giúp phụ huynh
thực hành điều này: Hành động này có thể ảnh hưởng gì đến trẻ, trong hiện tại
và tương lai? Có cách nào khác? Làm như vậy đã vì lợi ích tốt nhất của trẻ
chưa?
2.2.2. Từ phía trường học
Hành động vi phạm quyền riêng tư phát sinh từ những hành động tưởng
chừng như vô hại trong môi trường giáo dục. Giai đoạn gần đây, truyền thông
tưởng chừng như bội thực với những nguồn tin không mấy tích cực tại học
đường về vấn đề thành tích.
Theo phân tích của của Cục Bảo vệ chăm sóc trẻ em (Bộ LĐ TB - XH),
điểm thi cũng là thông tin thuộc về quyền riêng tư. Tuy nhiên, việc công bố
hay không còn tùy thuộc vào nhiều quy định, trong đó có quy định của Luật
Giáo dục để đảm bảo minh bạch trong thi cử. TS Nguyễn Tùng Lâm – Chủ
tịch Hội Tâm lý giáo dục Hà Nội – cũng không ủng hộ việc công bố công
49
khai điểm của học sinh. “Tại một số nước trên thế giới, bảng điểm, thành tích
học tập của học sinh chỉ có chính các em, gia đình và nhà trường biết. Đương
nhiên những thông tin này sẽ được giữ bí mật tuyệt đối. Bởi học sinh cũng
cần được tôn trọng". Cũng theo chuyên gia tâm lý giáo dục này, việc đưa
điểm thi, thành tích học tập lên trang mạng sẽ không tránh khỏi những trường
hợp học sinh bị so bì hơn thua với bạn bè đồng trang lứa, do đó vô tình tạo áp
lực cho các em.
Mới đây nhất, vụ việc học sinh lớp 10 ở trường THPT Nguyễn Khuyến
(TP.HCM) nhảy lầu tự tử ngay tại trường học đã khiến dư luận dậy sóng.
Theo đó, điểm trung bình của học sinh này là 8,9 còn một chút nữa là đạt
danh hiệu học sinh xuất sắc. Học sinh này đã thất vọng về mình, hay nói đúng
hơn là sợ bố mẹ thất vọng về mình đến mức phải chọn cái chết. Đau lòng hơn,
trường hợp của học sinh ở trường THPT Nguyễn Khuyến nói trên không phải
cá biệt. Theo thống kê, mỗi năm có hàng nghìn thanh niên Việt Nam tự tử vì
áp lực học hành. Theo chuyên gia tâm lý Nguyễn Ngọc Duy, điều đó cho thấy
nhiều thanh, thiếu niên Việt Nam ở độ tuổi thanh xuân nhất lại đang quá cô
đơn trên hành trình trưởng thành của mình. Luôn có những cách để giải tỏa
căng thẳng trong cuộc sống, nhưng căn cơ nhất là phải giải tỏa được "hòn đá
tảng" mang tên áp lực thành tích đang đè nặng, khiến trẻ em quên cả niềm vui
được chơi, bố mẹ quên việc làm điểm tựa tâm lý cho con, còn nhà trường
quên sự sẻ chia, xoa dịu áp lực cho học trò. Việc chạy theo điểm số sẽ có thể
tạo ra những con robot có bảng điểm đẹp nhưng dễ sa sút khi vấp phải thất bại
trong cuộc sống.
Hay trong một trường hợp khác mà báo Lao động đưa tin trong bài viết
số tháng 09/2017 “Công khai điểm thi THPT: Công khai, minh bạch hay xâm
phạm quyền riêng tư” [11]. Rạch tay tự sát vì điểm thi quá thấp, là câu chuyện
buồn về cô nữ sinh xuất sắc của một trường Chuyên cách đây vài năm. N.T.H
50
học rất giỏi, cuối năm lớp 12, H đoạt giải ba thành phố môn văn. H tự tin lựa
chọn một trường đại học danh tiếng. Ai cũng chắc chắn 100% H sẽ đỗ đại
học. Nhưng đến khi biết điểm thi quá thấp, thậm chí không đủ điểm sàn xét
tuyển, bạn bè, hàng xóm ai cũng biết điều đó, H xấu hổ, đóng cửa phòng khóc
suốt mấy ngày liền. Tình trạng đó kéo dài đến khi gia đình phát hiện H rạch
tay tự tử. Rất may, H được cứu sống kịp thời. Những năm qua, không ít học
sinh rơi vào tình trạng như H, bị sốc tâm lý sau khi biết điểm thi. Nhiều em
không may mắn như H, đã ra đi mãi mãi.
Vì những sự việc đau lòng này, nhiều ý kiến cho rằng ngành giáo dục
không nên công khai điểm số, hạnh kiểm, điểm thi của học sinh. Đó là một
cách tôn trọng quyền riêng tư của học sinh. Một ví dụ rất điển hình về văn
hoá giáo dục của một đất nước coi trọng đầu tư và phát triển con người Nhật
Bản, mọi bài kiểm tra hay điểm chuyên cần các thầy cô không được phép
công khai. Tất cả đều gửi giấy trực tiếp cho học sinh. Lúc trả bài thi, giáo viên
úp bài xuống cho học sinh. Họ cực kỳ tôn trọng quyền riêng tư của mỗi
người. Nếu học sinh có vấn đề, nhà trường gọi lên nói chuyện riêng trong
phòng, chứ không chỉ trích, hay mắng công khai trước mặt người khác.
Thực tế, năm nay Bộ GD - ĐT cũng lường trước phản ứng trái chiều của
dư luận về việc công khai điểm thi, nên mỗi thí sinh được cấp một mã số báo
danh, mật khẩu để biết thông tin của mình. Tuy nhiên, để đảm bảo yếu tố
minh bạch, tránh việc người đậu, kẻ rớt sẽ có sự nghi kỵ lẫn nhau và nghi ngờ
về sự minh bạch của công tác chấm thi, nên cho phép tra cứu điểm thi theo số
báo danh hoặc họ tên mà không cần mật khẩu. Đặc biệt, một số Sở đã gửi các
dữ liệu điểm thi cho báo chí, để thí sinh có thể tra cứu điểm thi trên các trang
báo. Chính việc này đã gây tranh cãi trong dư luận những ngày qua.
Tuy nhiên bên cạnh quan điểm đó cũng có những luồng ý kiến trái chiều.
Chia sẻ quan điểm của mình, với tư cách là những thí sinh vừa trải qua kỳ thi
51
THPT quốc gia một số em học sinh lại cho rằng việc công khai điểm thi là
cần thiết, để đảm bảo tính rõ ràng và minh bạch. Theo các em, điều quan
trọng nhất là thái độ ứng xử của mọi người trước những thông tin về điểm số
ấy. Nếu bỏ qua sự ganh tị, tâm lý mặc cảm, thì những bạn đạt điểm cao có cơ
hội được tôn vinh, còn những bạn có điểm thấp sẽ lấy đó làm động lực để cố
gắng hơn nữa.
2.2.3. Từ phía xã hội
Một trong những vấn đề nổi cộm, cần chú ý nằm trong nội hàm bảo đảm
quyền riêng tư cho trẻ em. Đó là vấn đề xâm hại trẻ em, vấn nạn ngày càng
trở nên nhức nhối hơn bao giờ hết bởi rất nhiều vụ việc được phanh phui.
Những câu chuyện đau lòng chính là hồi chuông báo động cho những ai làm
cha làm mẹ, cho cộng đồng xã hội và hệ thống pháp luật Nhà nước cần phải
quan tâm đến từng cá nhân dễ bị tổn thương và xâm hại trong cộng đồng này.
Đây là sự việc mà khi nhắc đến, bất cứ ai cũng phải sôi sục. Nhưng trong xã
hội, người ta vẫn còn thấy quá nhiều biểu hiện của sự im lặng. Chia sẻ về vấn
đề này nhiều người cho đây là vấn đề đơn giản, là câu chuyện của trẻ con,
không đáng bận tâm nên vẫn tồn tại sự im lặng đến vô cảm. Nhưng thực chất,
đây là vấn đề vô cùng nghiêm trọng. Có hàng trăm câu chuyện vô cùng đau
xót của nhiều gia đình, có người tìm được công lý, nhưng cũng có người quá
mệt mỏi, tuyệt vọng mà phải chịu thua.
Sáng 6/8/2018, Bộ LĐTB&XH tổ chức Hội nghị trực tuyến toàn quốc về
công tác bảo vệ trẻ em. Báo cáo tại hội nghị, Thứ trưởng Bộ LĐTB&XH
Nguyễn Thị Hà thông tin mỗi năm trung bình Việt Nam có khoảng 2.000
trường hợp trẻ em bị bạo lực, xâm hại được phát hiện và giải quyết, trong đó
số vụ xâm hại tình dục chiếm hơn 60%. Theo bà, hơn 21% trẻ em bị người
thân trong gia đình xâm hại tình dục; 6,2% là từ giáo viên, nhân viên nhà
trường. Bên cạnh đó, gần 60% số trẻ bị chính người quen, hàng xóm xâm hại
52
và 12,6% là từ các đối tượng khác. Theo ông Trần Ngọc Hà, Cục trưởng Cục
Cảnh sát hình sự (C45), 6 tháng đầu năm 2018, cả nước xảy ra 720 vụ, trong
đó xâm hại tình dục trẻ em gồm 573 vụ, chiếm 79,5% tổng số vụ xâm hại trẻ
em.Bộ LĐTB&XH đánh giá các vụ bạo lực, xâm hại trẻ em ngày càng
nghiêm trọng, gây bức xúc trong xã hội. Nhiều vụ xâm hại tình dục trẻ em
báo động về sự suy đồi đạo đức như hiếp dâm tập thể, hiếp dâm rồi giết trẻ
em, người cao tuổi xâm hại tình dục trẻ nhỏ tuổi.
Bên cạnh đó, trẻ em vừa là đối tượng phản ánh của báo chí, vừa là đối
tượng hưởng thụ các sản phẩm của báo chí và truyền thông, đồng thời cũng là
đối tượng tham gia sáng tạo các sản phẩm của báo chí. Như vậy, trẻ em là
nhóm công chúng đặc biệt của báo chí, truyền thông nói chung và hệ thống
báo chí, truyền thông của Việt Nam nói riêng. Vì vậy, thông qua việc đăng tải
thông tin vi phạm các quyền riêng tư của trẻ mà báo chí cũng được xếp vào
nhóm có khả năng gây nhiều tổn thương cho trẻ. Một khảo sát gần đây của
Trung tâm phát triển cộng đồng và công tác xã hội thực hiện trên năm tờ báo
điện tử (thuộc top 50 trang web có lượng truy cập lớn nhất Việt Nam) cho kết
quả khiến nhiều người lo ngại: trong vòng một năm, có đến 548 bài báo có
nội dung không bảo đảm quyền riêng tư của trẻ em, trong số này có tới 62%
số bài báo mô tả một cách chi tiết cùng với bình luận về trẻ em một cách
không phù hợp, thậm chí còn gây tổn thương cho các em; 39% số bài báo
đăng ảnh của trẻ em trực diện khuôn mặt, vùng bị tổn thương cùng với gia
đình hoặc nhà cửa, trường học; 47% bài báo cung cấp thông tin về bố mẹ
hoặc người giám hộ. Thông tin về nơi ở của trẻ em được cung cấp cụ thể đến
địa danh xã/phường/thị trấn (30%) và đến địa chỉ rõ ràng có thể tìm thấy được
(thôn/xóm/đường - 41%) [27, tr 37].
Chúng ta dễ dàng bắt gặp hằng ngày trên báo chí tin tức về các vụ trẻ em
bị xâm hại tình dục, bị bắt bán ra nước ngoài, trẻ bị nhiễm HIV hay bệnh
53
truyền nhiễm khác, hoặc ở một số bức ảnh báo chí đề cập một số vụ thảm án
mà cha mẹ các em là nạn nhân và trẻ em xuất hiện mà không được che mặt…
Đáng nói là nhiều tờ báo đưa quá chi tiết thông tin cá nhân như tên tuổi, địa
chỉ của trẻ, khai thác những góc khuất trong đời sống riêng tư của các em.
Việc làm này một lần nữa lại gây tổn thương cho trẻ, để lại cho trẻ vết thương
nặng nề đi theo suốt cuộc đời.
Gần đây, một số chương trình giải trí trên truyền hình cũng lợi dụng hình
ảnh trẻ em, tập trung khai thác quá sâu đời tư, cuộc sống cá nhân của trẻ để
thu hút người xem. Hiện có khoảng 15 gameshow (trò chơi truyền hình) với
nhân vật chính là trẻ em, trong đó không hiếm gặp các màn thi thố kịch tính,
các video clip tập trung quá mức vào đời tư của trẻ, thậm chí còn dựng lên
câu chuyện thị phi chung quanh các em nhằm câu khách, tăng rating (xếp
hạng) cho chương trình. Với mật độ các chương trình dày đặc như vậy, không
thể không lo ngại về việc tuổi thơ của trẻ đang bị xâm phạm, và dù muốn hay
không cũng ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển của trẻ sau này. Ở các
quốc gia có nền công nghiệp truyền hình phát triển đều đặt ra những quy định
rõ ràng, chặt chẽ về việc trẻ em tham gia các chương trình truyền hình. Thí
dụ: khi tổ chức các gameshow cho trẻ em, các đài truyền hình phải có trách
nhiệm giữ kín thông tin cá nhân của các em, hạn chế khung giờ làm việc
trong ngày, phải tôn trọng tuyệt đối thời gian học tập của các em.
Mặt khác, sự ép buộc trong phỏng vấn báo chí cũng là một trở ngại và vô
tình xâm phạm quyền riêng tư của trẻ em. Theo kết quả điều tra công chúng
tháng 03 năm 2008, có 54% các em cho rằng sợ phải trả lời các câu hỏi vặn
vẹo của nhà báo, 35% sợ nhất các câu hỏi khó hiểu, 27% sợ các câu hỏi dài
dòng, 44% sợ phóng viên bắt nói những điều mà mình không thích, 13% các
em sợ các câu hỏi can thiệp vào cuộc sống riêng tư (Biểu đồ 2.1)
54
60
50
40
30
20
10
0
Câu hỏi vặn vẹo
Câu hỏi khó hiểu
Câu hỏi dài, nhiều lần
Bắt nói điều không thích
Bắt diễn đi diễn lại
Câu hỏi riêng tư
Câu hỏi ban đầu
Thái độ nhà báo
Điều trẻ em sợ khi gặp gỡ, trả lời phỏng vấn báo chí
Biểu đồ 2.1: Điều trẻ em sợ khi gặp gỡ, trả lời phỏng vấn báo chí
(Nguồn: Kết quả điều tra công chúng trẻ em tháng 3/2008) [15, tr 130]
Từ hệ lụy khó lường của việc xâm phạm quyền riêng tư của con trẻ,
bên cạnh sự hỗ trợ của luật pháp, thì chính cha mẹ các em cần tự ý thức về
nguy cơ con mình có thể bị xâm hại quyền riêng tư bất cứ lúc nào, để từ đó,
giáo dục và định hướng cho con em các kỹ năng sống cần thiết, cũng như ý
thức về giá trị của bản thân để tự bảo vệ, ngăn chặn nguy cơ xâm phạm quyền
riêng tư của mình.
Đã xảy ra các hệ lụy và những đe dọa cho sự an toàn của trẻ em mà báo
chí đã miêu tả theo hướng không có bất kỳ thông tin nào của các em được cho
là riêng tư và cần được giữ kín. Đó là cách đưa tin về trường hợp bé gái B
trong vụ giết người cướp tiệm vàng ở miền Bắc. Ngày 24/8/2011, bé gái B. 8
tuổi bị cướp chém đứt lìa bàn tay sau khi cả nhà đã bị giết hại trong một vụ án
giết người, cướp cửa hàng vàng. Ngày 5/9/2011, Một vị bộ trưởng đến bệnh
viện thăm B sau khi cháu được phẫu thuật nối bàn tay. Khi đưa tin về chuyến
đi của bộ trưởng, nhiều cơ quan báo chí đã đăng ảnh của cháu bé khi vừa
55
phẫu thuật xong, với rất nhiều mũi kim khâu trên mặt. Ngay cả khi người nhà
cháu bé không cho phép chụp ảnh, nhiều báo vẫn đăng bức ảnh người bác
ruột dùng gối để che mặt cháu. Trong thời gian cháu bé lưu lại viện, có báo đã
sử dụng ảnh của cộng tác viên chụp lại tiến trình hồi phục của cháu. Gần 2
năm sau ngày xảy ra vụ án, vẫn còn có báo đăng thông tin cụ thể về nơi ở
mới, trường học mới, giờ đi học và trị liệu, số cân nặng, những người trong
gia đình mới của cháu B. Theo thống kê, trong 3 năm liên tục, trường hợp của
bé gái B đã có 26 trang điện tử chính thức đăng 58 bài viết cùng rất nhiều
trang mạng dẫn lại một phần hoặc nguyên văn các bài báo này [14].
Như vậy có thể thấy, xã hội và truyền thông là con dao hai lưỡi. Có thể
trở thành vũ khí bảo vệ trẻ nhưng mặt khác cũng sẽ vô tình gây những ảnh
hưởng không tốt đến trẻ nếu như vượt quá giới hạn của sự an toàn. Qua các
trường hợp điển hình nêu trên, có thể thấy rất nhiều hình thức xâm phạm
quyền riêng tư của trẻ em và làm tăng nguy cơ tổn thương của trẻ. Can thiệp
để chấm dứt xâm hại quyền riêng tư của trẻ em là cần thiết và phù hợp với
luật pháp quốc tế và Việt Nam.
2.2.4. Từ phía Nhà nước
Bên cạnh việc tham gia Công ước về Quyền trẻ em và tiến hành đưa nội
dung các quy phạm điều ước quốc tế vào nội dung của quy phạm pháp luật
trong nước thông qua việc xây dựng, ban hành (sửa đổi, bồ sung, bãi bỏ hoặc
ban hành mới) văn bản quy phạm pháp luật trong nước để có nội dung pháp
lý đúng với nội dung của các quy định của điều ước đã được ký kết về vấn đề
bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em. Lần đầu tiên, vấn đề bảo vệ
quyền trẻ em được xây dựng lên thành một văn bản luật cụ thể để điều chỉnh,
trong đó, văn bản có ý nghĩa pháp lý quan trọng nhất chính là Luật Trẻ em
2016 và nhiều chính sách pháp luật liên quan đến trẻ em. Nhà nước ta đã thực
hiện các chính sách pháp luật về quyền trẻ em nói chung và quyền riêng tư trẻ
56
em nói riêng, Chính phủ cũng đã có những chương trình trọng điểm quốc gia
nhằm thực hiện quyền của trẻ em; tổ chức các Diễn đàn Trẻ em Quốc gia.
Đến nay, diễn đàn đã qua 4 lần tổ chức và trước khi tổ chức ở cấp quốc gia thì
diễn đàn đã được thực hiện từ cơ sở. Tại diễn đàn, các em được tiếp xúc với
các cơ quan, bộ, ngành, các vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước. Các em có nhiều
phiên thảo luận trong đó có buổi trực tiếp đối thoại với lãnh đạo các bộ,
ngành liên quan. Qua đối thoại, một mặt được tiếp xúc với những thông tin
cần thiết liên quan tới các em, một mặt các em được trao đổi những việc mà
các em có quyền nhận được các phản hồi từ những người có trách nhiệm của
Đảng và Nhà nước. Đây chính là biểu hiện sinh động nhất của việc thực hiện
tôn trọng và bảo đảm quyền riêng tư của trẻ em. Các em được giáo dục để trở
thành những công dân chủ động có quyền độc lập đưa ra những ý kiến riêng
tư của mình tham gia vào giải quyết các vấn đề của đất nước có liên quan đến
các em, được chủ động đưa ra ý kiến với tất cả các vấn đề liên quan đến
quyền lợi của các em với sự tôn trọng và thừa nhận của Nhà nước.
Mặt khác, Nhà nước đã và đang có các biện pháp hỗ trợ các tổ chức tăng
tối đa sự tham gia của người chưa thành niên một cách dân chủ, giúp cho
người chưa thành niên phát triển các kỹ năng sống cần thiết, tăng cường sự tự
tin, cung cấp không gian cần thiết cho các em được bảo đảm và tôn trọng
quyền riêng tư, tham gia ý kiến một cách độc lập và tích cực vào đời sống xã
hội.
Ngoài ra, Nhà nước cũng đã có chính sách khuyến khích, hỗ trợ, tạo điều
kiện để cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia vào việc bảo đảm quyền riêng tư
của trẻ em. Nghiên cứu, bố trí hội viên làm cộng tác viên, tình nguyện viên về
bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em ở cơ sở. Tăng cường các hoạt động
nghiên cứu khoa học cho dự báo, hoạch định chính sách, chiến lược và quản
lý công tác bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em. Khuyến khích các nghiên cứu
57
ứng dụng và áp dụng các mô hình dịch vụ bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em
và thực hiện quyền trẻ em.
Song song với việc khuyến khích, tạo điều kiện đảm bảo và tôn trọng
quyền riêng tư, tạo ra một môi trường thân thiện để các em phát huy hết khả
năng sáng tạo của mình. Nhà nước còn đảm nhận vai trò tham gia giám sát
của mình trong việc đấu tranh phòng chống, ngăn chặn các nguồn thông tin có
hại cho lợi ích, sự phát triển của trẻ em nói riêng và xã hội nói chung. Nhà
nước và các cơ quan có thẩm quyền đã tổ chức nhiều cuộc giám sát, có giám
sát chuyên đề, có giám sát đột xuất, có cả cuộc làm việc với các cơ quan bộ,
ngành liên quan đến những vấn đề mà trẻ em quan tâm. Chủ đề giám sát theo
sát những vấn đề thực tiễn mà các em gặp phải, Nhà nước đã và đang tiếp tục
cải thiện công tác giám sát của mình để có thể phát hiện được những khúc
mắc vấn đề tác động trực tiếp đến các em và có thể đáp ứng đầy đủ nguyện
vọng chính đáng của các em.
2.3. ĐÁNH GIÁ VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN RIÊNG TƯ CỦA TRẺ EM
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.3.1. Ưu điểm và nguyên nhân
2.3.1.1. Ưu điểm
Thứ nhất, hệ thống luật pháp, chính sách không ngừng được hoàn thiện
theo hướng tiếp cận toàn diện dựa trên quyền trẻ em.
Trong những năm qua, có rất nhiều văn bản quy phạm pháp luật đã được
xây dựng nhằm giải quyết những khía cạnh khác nhau trong vấn đề bảo vệ trẻ
em. Kể từ ngày Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 được ban
hành (có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2005), nhiều văn bản pháp luật về
bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em đã được ban hành, như: Chỉ thị số 20-
CT/TW ngày 05/11/2012 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với công tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em trong tình hình
58
mới; Chỉ thị số 1408/CT-TTg ngày 01/9/2009 của Thủ tướng Chính phủ về
tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em; Chính phủ ban hành 10 Nghị
định; Thủ tướng Chính phủ ban hành 12 Quyết định; Ban hành 12 Thông tư
và Thông tư liên tịch; 1 Quyết định của Bộ trưởng; 2 kế hoạch liên ngành.
Năm 2015, đã và đang tiếp tục hoàn thiện 4 chương trình, đề án để trình Thủ
tướng Chính phủ xem xét phê duyệt.
Theo báo cáo tổng kết 10 năm thi hành Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo
dục trẻ em của 63 tỉnh, thành phố, các địa phương đã tham mưu cho Tỉnh ủy
ký ban hành 82 văn bản; Hội đồng nhân dân (HĐND) ban hành 46 nghị
quyết, kế hoạch; Ủy ban nhân dân (UBND) các tỉnh ban hành 860 quyết định,
kế hoạch, công văn và trên 110 văn bản, kế hoạch liên tịch giữa các ngành ở
địa phương để triển khai, thực hiện công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ
em. Một số chương trình đã được xây dựng và triển khai nhằm giúp đỡ đối
tượng trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, trong đó phải kể đến Chương trình bảo vệ
trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt giai đoạn 1999 - 2002 (được phê duyệt bởi
Quyết định số 134/1999/QĐ-TTg ngày 31/5/1999 của Thủ tướng Chính phủ
về việc phê duyệt Chương trình hành động bảo vệ trẻ em có hoàn cảnh đặc
biệt giai đoạn 1999 - 2002), Chương trình ngăn ngừa và giải quyết tình trạng
trẻ em lang thang, trẻ em bị xâm phạm tình dục và trẻ em phải lao động nặng
nhọc, trong điều kiện độc hại, nguy hiểm giai đoạn 2004 - 2010 (được phê
duyệt bởi Quyết định số 19/2004/QĐ-TTg ngày 12/02/2004 của Thủ tướng
Chính phủ về việc phê duyệt Chương trình ngăn ngừa và giải quyết tình trạng
trẻ em lang thang, trẻ em bị xâm phạm tình dục và trẻ em phải lao động nặng
nhọc, trong điều kiện độc hại, nguy hiểm giai đoạn 2004 - 2010) và Chương
trình hành động quốc gia đấu tranh phòng, chống mại dâm giai đoạn 2006 -
2010; Chương trình hành động quốc gia về phòng, chống buôn bán người;
Quyết định 312/2005/QĐ-TTg ngày 30/11/2005 của Thủ tướng Chính phủ về
59
việc phê duyệt các đề án thuộc Chương trình hành động phòng, chống tội
phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em từ năm 2005 đến năm 2010; Quyết định số
17/2007/QĐ-TTg ngày 29/01/2007 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy
chế tiếp nhận và hỗ trợ tái hòa nhập cộng đồng cho phụ nữ và trẻ em bị buôn
bán từ nước ngoài trở về và Kế hoạch quốc gia về phòng, chống tội phạm giai
đoạn 2005 - 2010 (bao gồm các điều khoản về các hành vi phạm tội do trẻ em
thực hiện và tội phạm chống lại trẻ em), Quyết định số 65/2005/QĐ-TTg
ngày 25/3/2005 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án “Chăm sóc
trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ rơi, trẻ em tàn tật nặng, trẻ
em là nạn nhân của chất độc hóa học và trẻ em nhiễm HIV/AIDS”.
Ngày 05/4/2016, Luật Trẻ em số 102/2016/QH13 đã được Quốc hội
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 11 thông
qua đã tạo hành lang pháp lý cho việc thực hiện các quyền trẻ em, nâng cao
chất lượng, hiệu quả công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em theo hướng
tiếp cận dựa trên quyền trẻ em. Luật Trẻ em năm 2016 đã quy định cụ thể các
quyền và bổn phận của trẻ em; sự tham gia của trẻ em vào các vấn đề về trẻ
em; các biện pháp bảo vệ trẻ em ba cấp độ (phòng ngừa, hỗ trợ, can thiệp);
chăm sóc thay thế cho trẻ em; trách nhiệm thực hiện quyền trẻ em; các hành
vi vi phạm quyền trẻ em bị nghiêm cấm. Đặc biệt, ghi nhận đầy đủ, toàn diện
các quyền trẻ em, được Hiến định tại Điều 37 Hiến pháp năm 2013 về trách
nhiệm bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em của Nhà nước, gia đình và xã hội;
nghiêm cấm xâm hại, hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao
động và những hành vi vi phạm quyền trẻ em; bảo đảm thực hiện quyền của
trẻ em được tham gia vào các vấn đề về trẻ em. Việt Nam được cộng đồng
quốc tế đánh giá là một trong những quốc gia có cam kết chính trị mạnh mẽ
và các biện pháp tích cực về xây dựng pháp luật, chính sách, chương trình
quốc gia thực hiện Công ước về quyền trẻ em.
60
Thứ hai, trong hệ thống pháp luật đã có quy định cụ thể về quyền riêng
tư của trẻ em
Luật trẻ em năm 2016 quy định rất rõ về các hành vi bị nghiêm cấm.
Trong đó việc công bố, tiết lộ thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân
của trẻ em mà không được sự đồng ý của trẻ em từ 7 tuổi trở lên và của cha
mẹ, người giám hộ là hành vi trái pháp luật.
Tuy nhiên, không phải tất cả mọi hành vi “tiết lộ thông tin về đời sống
riêng tư, bí mật cá nhân” mà cụ thể là đưa hình ảnh trẻ em lên các trang thông
tin cá nhân, trang mạng xã hội đều vi phạm pháp luật. Chỉ khi những hành vi
này vi phạm các quy định của pháp luật như Luật dân sự, Luật trẻ em về
quyền bí mật đời sống riêng tư của trẻ em, về quyền của cá nhân đối với hình
ảnh của mình sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật.
Theo đó, cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm thì tùy theo tính
chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị
truy cứu trách nhiệm hình sự. Nếu việc đăng tải hình ảnh trẻ em là vi phạm
Luật trẻ em thì có thể xử lý theo các quy định của Bộ luật dân sự, tức yêu cầu
bồi thường thiệt hại từ sự chứng minh hợp lý của người yêu cầu, xác định
được mối quan hệ nhân quả giữa hành vi đăng tải hình ảnh trẻ em đã gây ra
thiệt hại.
Việc xử lý đối với hành vi này không chỉ căn cứ vào quy định Luật trẻ
em năm 2016, mà còn căn cứ vào các quy định của pháp luật liên quan như
Bộ luật dân sự, Luật xử lý vi phạm hành chính, Bộ luật hình sự... Có như vậy,
quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em mới được bảo đảm.
Thứ ba, ngân sách nhà nước và những nguồn lực khác đã dành một
khoản đầu tư đặc biệt cho công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em
Tại Luật Trẻ em 2016, Chính phủ đã quy định chi tiết việc thực hiện giao
trách nhiệm cho các Bộ, cơ quan ban ngành, tổ chức chính trị - xã hội trong
61
việc đảm bảo các kế hoạch bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, lồng ghép
vào kế hoạch phát triển kinh tế hàng năm và dài hạn, có cơ chế để huy động
nguồn lực tài chính cho công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em nói
chung và đảm bảo quyền riêng tư của trẻ em nói riêng. Thành lập và quản lý
các quỹ cứu trợ trẻ em hiện đã và đang được thành lập từ cấp trung ương tới
cấp huyện dưới sự quản lý của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội.
Ngoài ra, Nhà nước và các cơ quan hữu quan, các trường đại học, các tổ
chức xã hội đã tích cực, chủ động dành các khoản tài chính tiến hành các cuộc
nghiên cứu thực trạng và tổ chức các cuộc hội thảo khoa học, các cuộc toạ
đàm trong nước và quốc tế với các chủ đề tham luận về vấn đề nâng cao nhận
thức về bảo vệ quyền riêng tư của trẻ em.Như: Hội thảo “Phòng chống xâm
hại tình dục trẻ em – Từ luật pháp, chính sách đến thực tiễn” của Hội Bảo vệ
quyền trẻ em; Hội thảo “Nâng cao nhận thức về bảo vệ quyền riêng tư của trẻ
em” của Trung tâm phát triển cộng đồng và công tác xã hội Codes hay Hội
thảo với chủ đề “Quyền về sự riêng tư trong pháp luật quốc tế và pháp luật
Việt Nam” của bộ môn Luật Hiến pháp – Hành chính, Khoa Luật, trường Đại
học Quốc gia Hà Nội tổ chức, nhằm phân tích, thảo luận về nội hàm của
Quyền riêng tư và việc thực thi tốt quyền này tại Việt Nam với bài tham luận
của TS. Ngô Thị Minh Hương & Nguyễn Đình Đức về vấn đề “Bảo vệ quyền
riêng tư của trẻ em trong không gian Internet ở Việt Nam”. Nội dung của các
cuộc hội thảo đã thu lại những kết quả khách quan phản ánh thực tế, góp phần
đóng góp vào việc nghiên cứu, sửa đổi các văn bản luật sao cho phù hợp với
tình hình thực tiễn, bảo đảm hiệu lực và tầm nhìn cho vấn đề bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của trẻ em.
2.3.1.2. Nguyên nhân của ưu điểm
Một là, xác định vấn đề bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em là
nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng, là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, của
62
cả hệ thống chính trị và toàn xã hội. Trong đó, Nhà nước giữ vai trò chủ đạo
trong việc hoàn thiện hệ thống luật pháp, tổ chức thực hiện chính sách mang
tính chất quyết định ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của trẻ em.
Hai là, trong bối cảnh môi trường nhiều biến động, nhận định được tầm
quan trọng của quyền riêng tư. Là một trong những quyền con người, quyền
công dân cơ bản được pháp luật quốc tế và pháp luật của các quốc gia công
nhận và bảo vệ. Quyền riêng tư đối với trẻ em lại càng được đặc biệt chú
trọng vì trẻ em “nhóm yếu thế”, chưa phát triển đầy đủ về nhận thức, thể chất
để có thể tự bảo vệ mình trước các hành vi tác động, xâm hại đến mình. Theo
tinh thần của Công ước Quốc tế về quyền trẻ em, nội luật hoá nội dung Công
ước. Có sự điều chỉnh về văn bản pháp quy, lần đầu tiên trong hệ thống pháp
luật Nhà nước Việt Nam đã có quy định cụ thể về quyền riêng tư.
Ba là, nhận thức về vai trò của bảo đảm quyền riêng tư nói riêng, quyền
và lợi ích hợp pháp của trẻ em nói chung từ cấp ủy, chính quyền, cán bộ, đảng
viên, tổ chức, doanh nghiệp và người dân đang dần hoàn thiện, xác định
nhiệm vụ bảo đảm quyền và lợi ích của các em là trách nhiệm chung của cộng
đồng chứ không còn là trách nhiệm riêng của Nhà nước, Trung ương. Nhà
nước dành một khoản tài chính thường niên để vận động sự tham gia và phát
huy vai trò và trách nhiệm của cá nhân và cộng đồng trong việc bảo đảm
quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ theo tinh thần xã hội hóa, tạo điều kiện để
các em được bảo đảm quyền trên mọi phương diện.
2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân
2.3.2.1. Hạn chế
Thứ nhất, chưa có sự thống nhất trong quy định pháp luật về quyền trẻ
em và quyền của người chưa thành niên.
Theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015, người chưa thành niên
(hay còn gọi là vị thành niên), là người chưa đủ 18 tuổi. Người chưa thành
63
niên không có đủ năng lực hành vi dân sự, tức là chưa được phép tự mình xác
lập và thực hiện các giao dịch dân sự như đối với người thành niên. Người
chưa thành niên được chia thành nhiều độ tuổi khác nhau, trong đó người
chưa đủ 6 tuổi hoàn toàn không có năng lực hành vi dân sự, người từ đủ 6
tuổi đến chưa đủ 18 tuổi có năng lực hành vi hạn chế. Phân theo đối tượng,
người chưa thành niên bao gồm toàn bộ trẻ em và một phần là thanh niên.
Trong đó, trẻ em là người dưới 16 tuổi, theo Luật Trẻ em 2016. Còn thanh
niên là người từ đủ 16 tuổi đến 30 tuổi theo Luật Thanh niên năm 2005. Tuy
nhiên, thực tiễn pháp luật Việt Nam đã có quy định không thống nhất về giới
hạn quyền của người chưa thành niên. Pháp luật có nhiều quy định hạn chế
hành vi của người chưa thành niên. Việc xác lập, thực hiện giao dịch dân sự
của họ phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ trường hợp đặc
biệt như giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hằng ngày phù hợp với
lứa tuổi hoặc có tài sản riêng bảo đảm thực hiện nghĩa vụ hoặc pháp luật có
quy định được phép.
Thứ hai, pháp luật Việt Nam chưa có quy định riêng biệt về bảo đảm
quyền riêng tư của trẻ em.
Hiện nay, pháp luật Việt Nam mới chỉ quy định về quyền bí mật đời tư ở
nhiều văn bản pháp luật khác nhau như Bộ Luật Dân sự, Luật Giao dịch điện
tử và người nào có hành vi trái pháp luật xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư
tín, điện thoại, điện tín của người khác đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt hành
chính về hành vi này mà còn vi phạm thì tùy trường hợp sẽ bị phạt cảnh cáo,
phạt tiền từ 1 triệu đồng đến 5 triệu đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ
đến một năm, phạt tù đến hai năm. Nhưng chưa đề cập đến khái niệm, phạm
vi quyền riêng tư, quyền riêng tư của trẻ em. Thực trạng này sẽ khó khăn cho
nhận thức và bảo đảm quyền riêng tư của trẻ em.
64
Thứ ba, pháp luật hiện hành chưa có quy định rõ ràng về mức độ can
thiệp của cha mẹ, người giám hộ trong việc bảo đảm quyền riêng tư của trẻ
em.
Điều này ngày càng trở nên quan trọng đối với Việt Nam. Bởi lẽ, trong
tiến trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, trẻ em có nhiều cơ hội trong giao
lưu, tiếp xúc với nền văn hóa các nước, đặc biệt là nhu cầu khẳng định bản
thân thì việc xác định phạm vi quyền của cha mẹ, người giám hộ đến quyền
riêng tư của trẻ em cần được quy định một cách cụ thể, rõ ràng, nhất là những
trường hợp khi cha mẹ, người giám hộ công bố thông tin về quyền riêng tư
của trẻ em hoặc cố tình giữ kín thông tin liên quan đến quyền riêng tư trong
khi trẻ em muốn công bố.
Thứ tư, chưa có quy định về trách nhiệm của báo chí, truyền thông trong
việc khai thác thông tin về đời tư của trẻ em.
Chế định quyền bí mật đời tư, theo Bộ luật Dân sự, thể hiện rõ ràng các
nội dung quyền riêng tư của công dân. Trong khi đó, tại Luật báo chí 2016,
Điều 9 quy định “Các hành vi bị nghiêm cấm” tại khoản 9 có liệt kê mục
“Thông tin ảnh hưởng đến sự phát triển bình thường về thể chất và tinh thần
của trẻ em” chưa đủ cụ thể đáp ứng được đòi hỏi thực tế, xét trong mối quan
hệ giữa hoạt động báo chí với quyền riêng tư [24].
Trong tố tụng hình sự, thủ tục tố tụng đặc biệt được áp dụng đối với
người chưa thành niên liên quan đến quyền riêng tư của trẻ em ghi nhận tại
khoản 2, Điều 25 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, về xét xử: “Tòa án xét xử
công khai, mọi người đều có quyền tham dự phiên tòa, trừ trường hợp do Bộ
luật này quy định. Trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước, thuần phong,
mỹ tục của dân tộc, bảo vệ người dưới 18 tuổi hoặc để giữ bí mật đời tư theo
yêu cầu chính đáng của đương sự thì Tòa án có thể xét xử kín nhưng phải
tuyên án công khai” [18].
65
Thực tiễn cho thấy, thời gian qua đã có không ít trường hợp trẻ em bị
bạo hành, bị ngược đã hoặc mắc bệnh hiểm nghèo, hoặc vi phạm pháp luật do
chưa nhận thức đầy đủ được báo giới công bố không đúng hoặc nói quá sự
thật dẫn đến trẻ em bị tổn thương. Điều này sẽ làm ảnh hưởng rất lớn đến khả
năng tái hòa nhập cộng đồng của các em sau này.
Điều 15 của Thông tư 09/2017/TT-BTTTT, cụ thể hóa điều 33 Nghị
định số 56/2017/NĐ-CP: "Đối với báo in, báo nói, báo hình, báo điện tử, khi
thông tin về những vụ việc tiêu cực, vi phạm pháp luật mà trẻ em là nạn nhân
hoặc là người liên quan, phải làm mờ hoặc che mặt trẻ em và bảo đảm thông
tin bí mật đời sống riêng tư, bí mật cá nhân của trẻ em theo quy định tại Điều
33" [1].
Nhiều tòa soạn vẫn chưa có các văn bản đạo đức quy định cũng như các
khóa tập huấn về vấn đề này. Do đó, còn có phóng viên thiếu nhạy cảm về
quyền riêng tư của trẻ em, một số cơ quan báo chí tập trung vào tin giật gân
để tăng lượng truy cập. Đối với trường hợp các bài báo đưa tin về vấn đề nạn
xâm hại tình dục với trẻ em trên thực tế hiện nay trong trường hợp này là sự
xâm hại lần thứ hai đối với nạn nhân và đôi khi nguy hại hơn lần đầu.
Thứ năm, phạm vi và nội hàm đặc trưng của bảo đảm quyền riêng tư
không được quy định rõ ràng dẫn tới có nhiều vướng mắc trên thực tiễn.
Ví dụ như vướng mắc trong cách hiểu ‘‘điểm thi của học sinh có phải bí
mật cá nhân, đời sống riêng tư’’ hay không. Vấn đề này thời gian vừa qua
được Bộ Giáo dục và Đào tạo, các trường trung học phổ thông và cơ quan báo
chí rất quan tâm khi công bố công khai điểm thi tốt nghiệp trung học phổ
thông của thí sinh. Theo Nghị định số 56/2017/NĐ-CP
ngày 09 tháng 5 năm 2017 quy định chi tiết một số điều của Luật trẻ em, tại
Điều 33 quy định “Thông tin bí mật đời sống riêng tư, bí mật cá nhân của trẻ
em là các thông tin về: tên, tuổi; đặc điểm nhận dạng cá nhân; thông tin về
66
tình trạng sức khỏe và đời tư được ghi trong bệnh án; hình ảnh cá nhân;
thông tin về các thành viên trong gia đình, người chăm sóc trẻ em; tài sản cá
nhân; số điện thoại; địa chỉ thư tín cá nhân; địa chỉ, thông tin về nơi ở, quê
quán; địa chỉ, thông tin về trường, lớp, kết quả học tập và các mối quan hệ
bạn bè của trẻ em; thông tin về dịch vụ cung cấp cho cá nhân trẻ em” [5].
Quy định này khẳng định kết quả học tập, cụ thể là điểm thi của trẻ em là
thông tin bí mật đời sống riêng tư, bí mật cá nhân của trẻ em. Điều 1 Luật Trẻ
em năm 2016 quy định “Trẻ em là người dưới 16 tuổi”. Do đó, có thể khẳng
định đối với những thí sinh dưới 16 tuổi thì điểm thi được coi là bí mật cá
nhân, đời sống riêng tư. Còn đối với những thí sinh trên 16 tuổi thì pháp luật
chưa có quy định điểm thi có là thông tin bí mật cá nhân, đời sống riêng tư
hay không. Điều này gây ra sự lúng túng trong thực thi pháp luật của các cơ
quan có thẩm quyền và phần nào ảnh hưởng tới quyền lợi của thí sinh trên 16
tuổi. Chính sự vướng mắc này đã gây ra khó khăn cho việc chấp hành và xử
lý vi phạm trên thực tiễn.
Thứ sáu, việc xác định các hành vi nào là xâm phạm quyền riêng tư của
trẻ em hay không xâm phạm còn chưa có những hướng dẫn, tiêu chí cụ thể
mà chủ yếu nằm rải rác tại các văn bản pháp luật chuyên ngành.
Qua rà soát, nghiên cứu những biểu hiện sau đây là hành vi xâm phạm
quyền riêng tư :
- Hành vi thu thập, công bố các thông tin, tư liệu liên quan đến cá nhân
không được sự đồng ý của người đó hoặc của nhân thân cá nhân trong trường
hợp cá nhân chết, mất năng lực hành vi dân sự theo quy định của pháp luật;
- Hành vi xâm phạm bất hợp pháp chỗ ở của cá nhân;
- Hành vi xâm phạm bí mật đời tư liên quan đến thư tín, điện thoại, điện
tín và các hình thức thông tin điện tử khác của cá nhân.
67
Tuy nhiên ở nước ta và ngay cả một số quốc gia tiến bộ, việc xác định
hành vi xâm phạm không hề dễ dàng và thường gây nên sự tranh cãi của công
chúng và khi xét xử vụ việc cụ thể nào đó thường do thẩm phán quyết định
dựa trên kinh nghiệm và tương tự pháp luật. Quyền riêng tư của trẻ em đối
với hình ảnh, đặc biệt là hình ảnh liên quan đến đời sống riêng tư cũng được
đưa ra tranh luận bởi lẽ sự phân định giữa quyền của cá nhân đối với hình ảnh
và quyền tự do báo chí còn chưa có quy định rõ ràng. Hoặc thậm chí việc tự
do đăng tải hình ảnh của trẻ em lên báo chí hoặc mạng xã hội có phải hành
động vi phạm quyền riêng tư hay không cũng đang là một vấn đề còn nhiều
tranh luận.
Thứ bảy, chưa có chế tài cụ thể để làm căn cứ xử lý hành vi vi phạm.
Các chuyên gia pháp lý cho rằng Luật Trẻ em năm 2016 và các quy định
hiện hành chưa định nghĩa rõ ràng về “quyền bí mật đời sống riêng tư của trẻ
em” là như thế nào. Vì vậy cần phải có các văn bản dưới luật hướng dẫn cụ
thể để áp dụng trong thực tế, vì đây là mấu chốt và khởi nguồn mọi hình thức
xử lý khi phạm luật đối với Luật trẻ em 2016.
Việc vi phạm các quy định về quyền riêng tư, bí mật đời tư không phải
là không có chế tài xử lý. Tuy nhiên, vẫn chưa có quy trình bảo vệ trẻ em
trong các tình huống bị vi phạm quyền riêng tư và Nghị định 56/2017/NĐ-CP
vẫn mới chỉ bảo vệ quyền riêng tư trên mạng chứ chưa bảo vệ một cách toàn
diện, theo tinh thần của Luật trẻ em. Theo luật sư Nguyễn Thành Công (Đoàn
Luật sư TP. Hồ Chí Minh), mặc dù Luật trẻ em 2016 chỉ rõ những hành vi trái
pháp luật nhưng chưa quy định những chế tài cụ thể. Có nghĩa quy định này
chỉ tạo ranh giới cho hành vi đúng hay sai luật để điều chỉnh hành vi con
người, chứ chưa xử lý bằng chế tài cụ thể.
Khi Luật Trẻ em được ban hành thì nhà làm luật muốn xác định chỉ cần
hành vi đăng tải hình ảnh trẻ em mà không được phép của trẻ đã là vi phạm
68
pháp luật. Vì vậy mối quan hệ nhân quả đối với hành vi này chỉ là thứ yếu khi
truy cứu trách nhiệm. Nếu Bộ luật dân sự quy định rõ mối quan hệ nhân quả
về hành vi đăng ảnh với thiệt hại thực tế xảy ra và được quy đổi bằng tiền thì
nay không cần cụ thể, chi tiết mà vẫn áp dụng chế tài bồi thường. Tuy nhiên,
hiện tại Luật trẻ em 2016 chưa có văn bản hướng dẫn quy định chi tiết về mức
xử phạt đối với hành vi vi phạm liên quan.
Ngoài ra, trên thực tế việc xử lý vi phạm hoặc truy cứu trách nhiệm hình
sự về hành vi này là chưa thể thực hiện dù đã có luật, vì hướng dẫn xử lý về
vi phạm, các định lượng về vi phạm, mức độ vi phạm... hiện nay chưa có. Vì
vậy xác định hành vi vi phạm cũng như áp dụng chế tài chưa có căn cứ cụ thể
rõ ràng để thực hiện.
2.3.2.2. Nguyên nhân
Một là, quyền riêng tư nói chung và quyền riêng tư của trẻ em nói riêng
cho đến nay vẫn chưa có một định nghĩa cụ thể. “Quyền riêng tư” không đồng
nhất với “quyền bí mật đời tư”. Quyền riêng tư cũng liên quan đến cá nhân,
tuy nhiên những vấn đề ở quyền riêng tư xét ở khía cạnh nào đó lại không
được coi là bí mật, mặc phù pháp luật vẫn bảo hộ những quyền này. Bất cứ cá
nhân nào cũng có sự tự do trong suy nghĩ, hành động, đây là sự riêng tư của
chính họ. Nếu đó là sự tự do trong suy nghĩ thì không thể có một chế tài nào
có thể can thiệp, nhưng ngược lại, nếu là sự tự do trong hành động thì còn
phải phụ thuộc vào các yếu tố khác như: Luật pháp, mối quan hệ xã hội,
phong tục tập quán… Hơn nữa, trẻ em là nhóm đối tượng chưa hoàn thiện về
nhận thức, không thể lường trước được những suy nghĩ và hành động của các
em với các vấn đề của xã hội trên cơ sở bảo đảm sự độc lập, riêng tư không
có sự can thiệp của người lớn có thực sự khả quan hay không. Vậy nên việc
xác định được nội dung của quyền riêng tư, phạm vi bảo đảm quyền vẫn còn
69
nhiều khó khăn, khúc mắc. Dẫn đến việc, pháp luật Việt Nam mới chỉ có chế
tài điều chỉnh về quyền bí mật đời tư.
Hai là, trên cơ sở phân tích yếu tố văn hoá đặc trưng của người phương
Đông, việc chăm lo quan tâm con cái dường như là thiên chức của những
người làm cha làm mẹ. Mối quan hệ thân thiết của truyền thống gia đình.
Nhận định của họ giữa việc tôn trọng sự riêng tư của con và bảo vệ con cái
của mình trước những hiểm nguy của xã hội vẫn chưa thực sự rạch ròi. Chính
vì vậy, đó là một khó khăn cho Nhà nước trong việc xác định mức độ can
thiệp của cha mẹ, người thân, người bảo hộ đến vấn đề tôn trọng quyền riêng
tư của các em.
Ba là, trong thế giới của báo chí, trẻ em được sống trong những nhịp đập
nóng hổi của thời đại, quốc gia, cộng đồng. Nhờ báo chí, trẻ em có điều kiện
tiếp xúc kịp thời, tích cực trước những sự kiện chính trị - kinh tế - văn hoá -
xã hội của thế giới, đất nước. Báo chí có sức mạnh tập hợp sự quan tâm của
cộng đồng vô cùng to lớn đến con trẻ. Tuy nhiên, trên một góc độ nào đó sự
thiếu nhạy cảm và tính công khai cùng với tốc độ lan truyền thông tin như vũ
bão của báo chí làm ảnh hưởng đến quyền riêng tư của con trẻ. Với sự phức
tạp của vấn đề truyền thông nội tại, cũng như chưa phân định được những
điểm lợi và hại báo chí can thiệp tới quyền riêng tư của trẻ em. Cũng như việc
xác định nội hàm nội dung riêng tư của trẻ còn chưa rạch ròi nên gây khó
khăn cho Nhà nước trong việc quy định cụ thể về vấn đề bảo đảm quyền riêng
tư cho trẻ trên lĩnh vực báo chí và truyền thông.
Bốn là, việc xác định nội hàm về đặc trưng của bảo đảm quyền riêng tư
cho trẻ em chưa được quy định rõ ràng sở dĩ vấn đề về bảo đảm quyền riêng
tư còn chưa đi đến sự thống nhất. Đó là vấn đề nhạy cảm thuộc về thượng
tầng kiến trúc, tranh luận về việc đi đến vấn đề này còn là vấn đề nội tại của
rất nhiều quốc gia, không riêng gì Việt Nam. Điều đó dẫn đến việc chưa có
70
những hướng dẫn và các tiêu chí, chế tài cụ thể xử lý các hành vi vi phạm bảo
đảm quyền riêng tư cho trẻ em ở một văn bản pháp luật thống nhất.
Tiểu kết chương 2
Nhận thức rõ vai trò và ý nghĩa của vấn đề bảo đảm quyền riêng tư nói
chung và quyền riêng tư của trẻ em nói riêng đối với sự phát triển của xã hội.
Tại phần này, luận văn nêu và phân tích một cách toàn diện các quy định của
pháp luật Việt Nam, các biện pháp bảo vệ quyền riêng tư và thực trạng áp
dụng pháp luật trên thực tế. Trên cơ sở đó, Luận văn đã chỉ ra và phân tích
những nguyên nhân làm phát sinh thực trạng trên, trong đó đặc biệt chú trọng
đến những nguyên nhân về mặt pháp lý. Cụ thể là do quy định về quyền riêng
tư của trẻ em trong các văn bản thiếu sự thống nhất và đồng bộ tạo ra nhiều
cách hiểu khác nhau, các quy định mới chỉ dừng lại ở tính nguyên tắc, có rất ít
các quy định mang tính cụ thể hướng dẫn việc bảo đảm quyền này, một số
quy định về quyền này không đủ tính khái quát và dự báo sự phát triển của xã
hội nên tồn tại khoảng trống trong đó có những quan hệ xã hội liên quan đến
quyền không được pháp luật điều chỉnh. Ngoài ra, các biện pháp bảo đảm
thực hiện quyền cũng như các chế tài để xử lý hành vi xâm phạm trên thực tế
còn thiếu và chưa đủ tính răn đe người có hành vi xâm phạm.
71
Chương 3:
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP TIẾP TỤC BẢO ĐẢM QUYỀN
RIÊNG TƯ CỦA TRẺ EM Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. PHƯƠNG HƯỚNG TIẾP TỤC BẢO ĐẢM QUYỀN RIÊNG
TƯ CỦA TRẺ EM Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1.1. Hoàn thiện các quy định pháp luật về quyền riêng tư của trẻ
em
Việc nghiên cứu giúp xác định các giải pháp tổng thể, căn bản nhằm
tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật, cũng như nâng cao hiệu quả tổ
chức thi hành các quy định của pháp luật bảo vệ quyền về bảo đảm quyền
riêng tư của trẻ em ở Việt Nam nói riêng, quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ
em ở Việt Nam nói chung.
Để cải thiện khuôn khổ pháp lý cho công tác bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của trẻ em, và đặc biệt là đẩy mạnh việc củng cố khung pháp lý đồng bộ
về vấn đề tôn trọng và bảo đảm quyền riêng tư cho trẻ em, tác giả xin đưa ra
một số kiến nghị chi tiết như sau:
Thứ nhất, nghiên cứu hoàn thiện hệ thống quy phạm pháp luật về bảo
đảm quyền riêng tư cho trẻ em theo hướng mở rộng trong các lĩnh vực y tế,
giáo dục, trợ giúp xã hội, vui chơi, giải trí, thể thao, du lịch, thông tin, truyền
thông. Xem xét và bổ sung nguyên tắc bảo đảm quyền riêng tư nói chung và
quyền riêng tư của trẻ em nói riêng trên tất cả các lĩnh vực điều chỉnh của
pháp luật chứ không chỉ riêng vấn đề bảo đảm quyền riêng tư trong môi
trường mạng mà Luật Trẻ em quy định hiện hành.
Thứ hai, trong phạm vi điều chỉnh của Luật Hôn nhân gia đình nên xây
dựng nguyên tắc tôn trọng ý kiến của trẻ em làm một trong những nguyên tắc
cơ bản. Bởi ngoài mối quan hệ với cha, mẹ, trong gia đình, trẻ em còn có mối
72
quan hệ với những người lớn tuổi khác. Tăng cường trách nhiệm bảo vệ,
chăm sóc và giáo dục trẻ em của ông, bà, cha, mẹ, gia đình và cộng đồng.
Thứ ba, để đảm bảo quyền riêng tư của trẻ em trong các lĩnh vực cần bổ
sung thêm điều khoản: Cử người giám hộ cho người chưa thành niên, hạn chế
quyền của cha mẹ đối với con chưa thành niên.
Thứ tư, trong lĩnh vực truyền thông, cần sửa đổi Luật Báo chí theo
hướng quy định chặt chẽ quy trình, thủ tục thu thập, xử lý và đăng tải thông
tin thuộc quyền riêng tư. Khuyến nghị quy định việc đăng tải các bài báo mô
tả trẻ em (là nạn nhân của hành vi trái pháp luật, trẻ em là người làm trái pháp
luật) không trở thành căn cứ để nhận diện trẻ em đó là ai trên thực tế.
Thứ năm, trong lĩnh vực xử lý vi phạm hành chính, bổ sung quy định cho
phép người chưa thành niên tham gia vào trong các quyết định xử lý hành
chính có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền của các em như trong quá trình quyết
định áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, quyết định áp dụng biện
pháp giáo dục tại xã phường…Và đảm bảo cho người chưa thành niên bắt
buộc phải có người bào chữa trong quá trình xử lý hành chính đối với họ.
Thứ sáu, trong lĩnh vực điều chỉnh của Luật Tố cáo cần có văn bản
hướng dẫn cơ chế thực hiện quyền tố cáo phù hợp với các đặc điểm đặc thù
của người chưa thành niên (cách thức, thời điểm, những quy định đặc thù để
tiếp nhận và giải quyết tin báo của trẻ em, trong đó có các quy định cho phép
tiếp nhận và giải quyết tố cáo). Đồng thời pháp luật tố cáo cũng cần quy định
cụ thể về nghĩa vụ tố cáo bắt buộc, các trường hợp phải báo cáo và chế tài
trong trường hợp vi phạm nghĩa vụ đối với một số đối tượng thường xuyên
tiếp xúc với trẻ em như: cha, mẹ, thầy cô giáo…
Thứ bảy, trong lĩnh vực hình sự nên bổ sung thêm điều khoản về cơ chế
bảo vệ nhân chứng, bảo đảm bí mật thông tin đời tư trường hợp nhân chứng là
73
trẻ em. Sửa đổi một số điều của Bộ luật Tố tụng hình sự để hoàn thiện hệ
thống tư pháp thân thiện với trẻ em.
Thứ tám, loại bỏ những quy định lạc hậu, mâu thuẫn, chồng chéo, bảo
đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật trong vấn đề bảo bảo
quyền riêng tư của trẻ.
Thứ chín, ban hành một đạo luật về quyền đời sống riêng tư, bí mật cá
nhân, bí mật gia đình (Luật Bí mật đời tư). Trong trường hợp không ban hành
một đạo luật về quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình thì
cần sửa đổi các văn bản pháp luật có liên quan (các Nghị định, Thông tư
hướng dẫn Luật, Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán TANDTC) để lấp đầy
“khoảng trống pháp lý” nhằm bảo vệ quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá
nhân, bí mật gia đình nói chung và quyền riêng tư của trẻ em nói riêng;
3.1.2. Bổ sung các điều kiện cần thiết để bảo đảm quyền riêng tư của
trẻ em
Cùng với việc tạo lập hệ thống pháp luật đầy đủ, đồng bộ cần tạo ra
những điều kiện, xây dựng cơ chế hữu hiệu bảo đảm mọi quy định pháp luật
về quyền trẻ em nói chung và quyền riêng tư của trẻ em nói riêng ban hành
đều được mọi người, mọi cơ quan, tổ chức tôn trọng. Phải tìm cách đưa pháp
luật về quyền riêng tư của trẻ vào cuộc sống góp phần xây dựng lối sống tốt
đẹp, bảo đảm môi trường phát triển an toàn và lành mạnh cho trẻ. Vì thế, để
đạt mục đích đó, bên cạnh việc hoàn thiện pháp luật cần không ngừng nâng
cao trình độ dân trí chung của xã hội và tăng cường giáo dục pháp luật sâu
rộng trong quần chúng.
Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng thực thi pháp luật và đối chiếu,
so sánh với thực tiễn và kinh nghiệm quốc tế xây dựng hệ thống các giải pháp
nhằm hoàn thiện cơ chế pháp lý bảo đảm quyền riêng tư của trẻ em ở Việt
Nam hiện nay. Thời gian vừa qua, qua nghiên cứu và rà soát pháp luật trên
74
thế giới có thể có các hệ thống giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế pháp lý bảo
đảm quyền riêng tư của trẻ em ở Việt Nam hiện nay đó là:
- Thời gian vừa qua, việc thành lập Tòa chuyên trách về gia đình và
người chưa thành niên đã chứng tỏ cam kết mạnh mẽ của Việt Nam trong việc
bảo đảm quyền trẻ em, đặc biệt là trẻ em trong hoạt động tư pháp, thông qua
việc xây dựng một hệ thống tư pháp trẻ em toàn diện mà Tòa Gia đình và
Người chưa thành niên là trung tâm, với sự tham gia, phối hợp chặt chẽ của
các cơ quan, tổ chức có liên quan. Đây cũng là phương thức để thực hiện
nguyên tắc Hiến định về việc xét xử kín đối với người chưa thành niên quy
định tại khoản 3 Điều 103 của Hiến pháp năm 2013 và đã đạt được những kết
quả tích cực. Trong bối cảnh xã hội có nhiều biến đổi phức tạp, các vụ án liên
quan đến trẻ em ngày càng tăng lên, Nhà nước ta nên nhân rộng thí điểm Toà
Gia đình và người chưa thành niên tại nhiều địa phương trên lãnh thổ để giải
quyết kịp thời các vụ án mang tính chất đặc thù góp phần ổn định xã hội.
- Hoàn thiện các thiết chế bảo đảm quyền riêng tư của trẻ em ví dụ như
xây dựng một cơ quan chuyên trách chịu trách nhiệm giám sát thi hành pháp
luật và giải quyết các vụ việc xâm phạm đến quyền về đời sống riêng tư, bí
mật cá nhân, bí mật gia đình.
3.1.3. Tiếp tục củng cố và phát huy các thiết chế xã hội bảo đảm
quyền riêng tư của trẻ em
3.1.3.1. Đối với gia đình
Nhận thức về tầm quan trọng của bảo đảm và tôn trọng quyền riêng của
trẻ em từ phía gia đình là điều vô cùng cần thiết. Dạy dỗ con cái là nỗi lo
chung của nhiều bậc phụ huynh. Đã không ít bà mẹ vô cùng bất ngờ vì chưa
bao giờ có được niềm vui nghe con tâm sự những chuyện thầm kín, trong khi
con lại khá cởi mở việc tâm sự với bạn bè. Trẻ em ngày nay đã khác xưa rất
nhiều, các em đã biết bày tỏ quan điểm/ý muốn cá nhân với bố mẹ, thậm chí
75
yêu cầu bố mẹ không được chạm đến sự riêng tư của bản thân, nhất là trẻ ở
lứa tuổi dậy thì. Rất nhiều bậc phụ huynh tỏ rõ sự bối rối khi không biết ứng
xử thế nào với cái gọi là “quyền riêng tư” mà trẻ đề xướng.
Yêu cầu được tôn trọng sự riêng tư không có gì là vô lý. Tuy nhiên,với
tâm lý bao bọc con cái quá mức, các bậc phụ huynh thường rơivào trạng thái
hụt hẫng khi đột nhiên con cái của mình không muốn bốmẹ can thiệp vào
cuộc sống riêng. Điều đó dẫn tới một hệ quả là nhiều bậc phụ huynh chưa
nhận thức được đầy đủ giữa việc tôn trọng vàkiểm soát sự riêng tư của trẻ.
Tôn trọng và kiểm soát quyền riêng tư của trẻ là hai vấn đề hoàntoàn
khác nhau. Thực tế cho thấy, nếu phụ huynh ứng xử không tốt, trẻ sẽ cảm
thấy mất an toàn ngay trong thế giới của các em. Chính vì vậy, việc hiểu đúng
quyền riêng tư của trẻ là điều hết sức quan trọng để các bậc làm cha, làm mẹ
có những cách cư xử phù hợp với con em mình.
Bản thân mỗi bậc cha mẹ đều có những cách riêng để nuôi dạy con nên
người. Tuy nhiên, muốn hiểu được thế giới bí mật của trẻ và để trẻ coi cha mẹ
là nơi an toàn gửi gắm những tâm sự riêng tư, các bậc phụ huynh vẫn nên lưu
ý một số điều dưới đây:
Thứ nhất, bố mẹ nên chủ động trao đổi thẳng thắn với con về những câu
chuyện xung quanh cuộc sống của trẻ trên tinh thần cảm thông và chia sẻ một
cách chân thành.
Thứ hai, trước một vấn đề của trẻ, hãy để con tự quyết định cách giải
quyết. Cha mẹ có thể cùng con phân tích vấn đề, định hướng cho con những
kết quả có lợi và có hại, sau đó, để con quyết định theo cách nhìn nhận riêng
của bản thân.
Thứ ba, phụ huynh nên tránh áp đặt con làm theo ý muốn của mình, tôn
trọng những quan điểm của con, tránh xâm phạm thô bạo vào thế giới nội tâm
thầm kín của trẻ.
76
Tôn trọng quyền riêng tư của trẻ không có nghĩa là thả tự do cho trẻ,
không can thiệp vào cuộc sống riêng, để trẻ tự làm theo ý mình. Nếu quyền
riêng tư được thả quá đà sẽ dẫn đến sự thiếu tôn trọng bố mẹ/người thân, trẻ
sẽ dễ bị sa ngã. Dạy con hiểu đúng về quyền riêngtư và biết cách bảo vệ
quyền riêng tư là trách nhiệm của bố mẹ, hãy là một người bạn của con, cảm
thông và chia sẻ với con là cách tốt nhất để bảo vệ trẻ.
Ngoài ra, trong bối cảnh công nghệ thông tin phát triển như vũ bão, vấn
đề bảo vệ quyền riêng tư của trẻ em trên mạng Internet cũng là một vấn đề
nóng bỏng nhận được sự chú ý quan tâm của toàn xã hội.
Trên thực tế, nếu trẻ em bị tổn thương khi không được bảo vệ quyền
riêng tư khi sử dụng các ứng dụng của mạng Internet thì trách nhiệm đầu tiên
thuộc về người bảo hộ của trẻ. Sử dụng mạng internet ngày nay đã trở thành
một hoạt động không thể thiếu của người lớn cũng như trẻ em, lên mạng có
thể giúp ích cho các em trong việc học tập cũng như tìm kiếm thông tin,
nhưng “thế giới ảo” của Internet cũng có thể khiến cho trẻ dễ kết bạn hoặc
liên hệ với những phần tử tiêu cực. Bởi vậy, khi trẻ muốn sử dụng mạng
internet, phụ huynh nên chú ý đến mục đích sử dụng của trẻ, đồng thời có sự
giám sát phù hợp.
Nhà quản lý mạng nên đưa ra những ý kiến đóng góp cho phụ huynh về
những nguy cơ cũng như những vấn đề mà trẻ có thể gặp phải khi sử dụng
mạng Internet. Trước khi trẻ bắt đầu sử dụng mạng Internet gia đình nên trao
đổi, chia sẻ và giúp trẻ có một số kỹ năng để nhận diện cũng như phòng tránh
và xử lý đối với những nguy cơ tiêu cực của mạng Internet. Trẻ nhi đồng hay
thanh thiếu niên đều có khả năng bị lấy cắp những thông tin cá nhân như tên,
địa chỉ, tuổi, giới tính, tâm sự cá nhân cũng như tình hình cụ thể về gia đình
mình. Tất cả những thông tin này đều có thể lọt vào tay kẻ xấu, vì thế mà gia
đình cần đặc biệt chú ý đến con em mình, thậm chí khi những tổ chức đáng
77
tin cậy hỏi những thông tin của trẻ, nếu gia đình cảm thấy bất an cũng không
nên tiết lộ thông tin của trẻ.
Như vậy, chúng ta cần nhận thức được rằng quyền riêng tư của mỗi
người là điều cần phải được tôn trọng. Trẻ em cũng có những bí mật của riêng
mình. Để trẻ không còn giữ khoảng cách với bố mẹ, coi phụ huynh là nơi tin
tưởng nhất để gửi gắm tâm sự thì trước hết các bậc cha mẹ nên tôn trọng trẻ,
tôn trọng sự riêng tư của trẻ. Đó cũng là cách tốt nhất để giáo dục con cái có
được nhận thức đúng đắn về quyền riêng tư của bản thân.
3.1.3.2. Đối với nhà trường
Gia đình và nhà trường là hai môi trường sinh hoạt gần gũi nhất đối với
trẻ. Giữa gia đình và nhà trường nên có sự liên kết chặt chẽ hơn nữa trong
việc chăm sóc và giáo dục trẻ em. Phụ huynh nên là những người bạn của con
em mình, cùng nhau chia sẻ những vấn đề của con chứ không nên áp đặt trẻ
làm theo ý muốn, chủ động trao đổi, cảm thông với trẻ và điều quan trọng là
hãy tôn trọng quyền riêng tư của trẻ.
Nhà trường nên có những hoạt động giao lưu giữa thầy cô - học sinh -
phụ huynh để giúp phụ huynh và con em có thể hiểu và chia sẻ cùng nhau.
Bên cạnh đó nhà trường cũng nên mở ra những buổi tư vấn/tập huấn kỹ năng
ứng xử với trẻ cho các bậc phụ huynh, giúp phụ huynh nhận thức được đầy đủ
về quyền trẻ em, từ đó có những biện pháp đúng đắn để nuôi dạy trẻ trưởng
thành.
Thầy cô giáo không được xúc phạm danh dự, nhân phẩm, xâm phạm
thân thể của người học. Nếu vi phạm thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm
mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm
hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
Theo Luật Giáo dục năm 2005 nghiêm cấm các hành vi hành hạ, ngược
đãi học sinh trong các cơ sở giáo dục (Điều 118). Tuy nhiên, pháp luật Việt
78
Nam chưa có quy định về thủ tục cho phép trẻ em trong các cơ sở giáo dục,
cơ sở trợ giúp trẻ em, cơ sở y tế, trung tâm phục hồi, trung tâm bảo trợ xã hội
và nhất là những cơ sở giáo dục trẻ em vi phạm pháp luật như trường giáo
dưỡng, tìm kiếm lời khuyên một cách bí mật và khiếu nại khi bị lạm dụng thể
chất.
Luật Giáo dục năm 2005 nghiêm cấm “ngược đãi” học sinh, nhưng
không định nghĩa thế nào là “ngược đãi” và cũng không rõ thuật ngữ này có
bao gồm mọi hình thức trừng phạt thân thể hay không. Trong khi đó, trên
thực tế, việc sử dụng hình thức trừng phạt thân thể để uốn nắn trẻ của cha mẹ,
các thành viên trong gia đình và giáo viên hiện nay vẫn còn khá phổ biến. Bảo
vệ trẻ em tránh khỏi hình thức lạm dụng này đòi hỏi phải có những nỗ lực
đồng bộ hơn của các cơ quan thi hành pháp luật, đặc biệt ở các cơ sở giáo
dục, trung tâm bảo trợ xã hội và các trung tâm phục hồi, cũng như giáo dục và
nâng cao nhận thức của cha mẹ và cộng đồng.
Đồng thời, nhà trường cũng nên phối hợp với Hội phụ huynh học sinh và
các tổ chức xã hội khác để nâng cao nhận thức chung về việc bảo vệ quyền
riêng tư của trẻ khi sử dụng Internet cũng như việc sử dụng hiệu quả các ứng
dụng của mạng, phòng tránh các hiện tượng “nghiện Internet, nghiện Game
online” của trẻ vị thành niên.
Bảo vệ quyền riêng tư của trẻ khi sử dụng mạng Internet là việc làm rất
cần thiết trong thời đại “công nghệ số” ngày nay. Công việc này không thể
thực hiện trong một sớm một chiều, nó là yêu cầu phải có một khoảng thời
gian nhất định. Việc bảo vệ quyền riêng tư của trẻ khi sử dụng mạng Internet
không có nghĩa là chấp nhận không được biết đến toàn bộ các hoạt động mà
trẻ thực hiện trên mạng Internet. Trong những trường hợp cần thiết thì các cơ
quan chức năng có thẩm quyền hoặc người bảo hộ của trẻ có quyền được tìm
hiểu về những thông tin của trẻ để phục vụ cho việc thực thi luật pháp và bảo
79
vệ quyền lợi của trẻ. Để thực hiện tốt việc bảo vệ quyền riêng tư của trẻ khi
lên mạng Internet, cần có sự phối kết hợp giữa gia đình, nhà trường, các cơ
quan hành pháp và các tổ chức xã hội. Chúng ta nên tham khảo kinh nghiệm
của các nước bạn trong việc thực hiện vấn đề này.
3.1.3.3. Đối với các tổ chức xã hội
Trên thực tế, sự đóng góp của các tổ chức xã hội mới được nhìn nhận
trên phương diện hỗ trợ nhân đạo, cung cấp các dịch vụ cho trẻ em, còn trên
lĩnh vực vận động chính sách thì chưa được nhìn nhận một cách đầy đủ, đúng
mức. Chính vì vậy, Nhà nước ta cần phải xây dựng cơ chế cụ thể để các tổ
chức xã hội có thể tham gia vào vấn đề bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp
của trẻ em nói chung và bảo đảm quyền riêng tư của trẻ em nói riêng một
cách hiệu quả nhất.
Theo Điều 92, về trách nhiệm của các tổ chức xã hội trong việc thực
hiện quyền và bổn phận của trẻ em (Chương VI, Luật trẻ em 2016), gồm [25]:
1. Vận động thành viên của tổ chức và xã hội hỗ trợ, tham gia xây dựng,
thực hiện chính sách, pháp luật, chương trình, kế hoạch, dịch vụ đáp ứng
quyền của trẻ em, phòng ngừa hành vi vi phạm quyền của trẻ em.
2. Thực hiện chính sách, pháp luật, đáp ứng quyền của trẻ em theo tôn
chỉ, mục đích, nhiệm vụ, quyền hạn của tổ chức được pháp luật quy định; tiếp
nhận, thu thập thông tin từ thành viên và xã hội để phản ánh, kiến nghị, tư vấn
cho cơ quan, tổ chức, cơ sở giáo dục, cá nhân về việc thực hiện chính sách,
pháp luật.
3. Tổ chức việc cung cấp dịch vụ đáp ứng quyền của trẻ em theo sự ủy
quyền, hỗ trợ của Chính phủ, các cấp chính quyền, cơ quan quản lý nhà nước;
chấp hành việc thanh tra, kiểm tra quá trình thực hiện theo quy định của pháp
luật.
80
4. Hội bảo vệ quyền trẻ em Việt Nam, ngoài việc thực hiện quy định tại
các khoản 1, 2 và 3 điều này có trách nhiệm tổ chức việc kết nối, thu thập
thông tin, kiến nghị của các tổ chức xã hội và của trẻ em chuyển đến các cơ
quan nhà nước để góp ý, tư vấn cho việc xây dựng và thực hiện pháp luật,
chính sách về quyền trẻ em; tham gia giám sát thực hiện quyền trẻ em; phát
biểu chính kiến và kiến nghị của Hội đối với các cơ quan nhà nước có liên
quan về các vấn đề về trẻ em và việc vi phạm quyền trẻ em.
Điều luật này lần đầu tiên trong lịch sử hệ thống Luật pháp về trẻ em của
Việt Nam, các tổ chức xã hội, Hội Bảo vệ Quyền Trẻ em Việt Nam được xác
lập là những chủ thể đối với việc thực hiện quyền và bổn phận của trẻ em Việt
Nam, được luật pháp Việt Nam thừa nhận. Việc xây dựng cơ chế thực hiện
điều luật là một vấn đề bức bách.
Cần một cơ chế rõ ràng, cụ thể, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức
xã hội phát triển tổ chức, hoạt động, và phát huy vai trò của mình đặc biệt là
trong việc tham gia các dịch vụ tư vấn định hướng tâm lý của trẻ, tôn trọng và
bảo đảm quyền riêng tư của trẻ em; có cơ hội đóng góp ý kiến xây dựng luật
pháp chính sách về quyền riêng tư của trẻ em; tham gia giám sát việc thực
hiện quyền riêng tư của trẻ, đồng thời phản ảnh ý kiến đến cơ quan quản
lý Nhà nước về thực trạng bảo đảm và tôn trọng quyền riêng tư của trẻ để có
thể đưa ra được những giải pháp tối ưu nhất khắc phục những mặt hạn chế
còn tồn tại trong thực tiễn áp dụng pháp luật.
Vì vậy, đối với vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em nói
chung và vấn đề bảo đảm quyền riêng tư của trẻ em nói riêng. Các tổ chức xã
hội xác định rõ ràng vai trò và nhiệm vụ của mình như việc tham gia xây
dựng, thực hiện chính sách, pháp luật; về tổ chức kết nối mạng lưới hoạt động
vì trẻ em; về thu thập thông tin, kiến nghị của các tổ chức xã hội và của trẻ
em chuyển đến các cơ quan nhà nước để góp ý, tư vấn cho việc xây dựng và
81
thực hiện pháp luật, chính sách về quyền trẻ em; tham gia vào quá trình tố
tụng, có đại diện làm Hội thẩm nhân dân trong các vụ xét xử liên quan đến trẻ
em vi phạm pháp luật và các vụ xâm hại quyền trẻ em; trở thành đại diện bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các em; tham gia giám sát thực hiện quyền
trẻ em phát biểu chính kiến và kiến nghị của Hội đối với các cơ quan nhà
nước có liên quan về các vấn đề về trẻ em và việc vi phạm quyền trẻ em…
3.1.3.4. Đối với bản thân trẻ em
“Quyền riêng tư” là thuật ngữ mà rất nhiều trẻ em hiện nay hưởng ứng,
nhất là trẻ vị thành niên. Các em đề cập đến quyền riêng tư – đó là: không bị
ai can thiệp vào cuộc sống riêng. Cuộc sống riêng nhiều khi chỉ là điểm một
bài kiểm tra, một câu chuyện tình cảm với bạn khác giới, một sở thích cá
nhân, hay thậm chí là căn phòng riêng... Điều đáng nói những gì mà trẻ cho là
sự riêng tư với cha mẹ/người thân thì với bạn bè nó không còn là bí mật.Giải
thích cho điều đó, nhiều em cho rằng bạn bè là nơi tốt nhất để gửi gắm tâm sự
vì bạn hiểu mình và quan trọng hơn là không bắt buộc phải làm theo ý bạn
như bố mẹ vẫn thường làm. Tuy nhiên, nếu phụ huynh là người thực sự tâm
lý và không tạo quá nhiều áp lực cho con em thì trẻ vẫn tự tin chia sẻ những
bí mật riêng tư.
Trẻ em là lứa tuổi “non nớt về thể chất và trí tuệ” (Công ước quốc tế về
quyền trẻ em) nên các em vẫn chưa nhận thức đúng về các sự vật, hiện tượng
xung quanh. Đòi hỏi về quyền riêng tư của bản thân các em cũng vậy. Các em
yêu cầu sự riêng tư với bố mẹ/người thân chỉ với một lý do đơn giản: Muốn
làm theo ý mình, không muốn bị người lớn tạo áp lực. Nhưng với bạn bè,
thậm chí là bạn ảo trên mạng thì điều đó không có giới hạn. Không ít em đã
phải chịu hậu quả khi những bí mật cá nhân bị chia sẻ chỉ vì tin tưởng bạn bè
hơn người thân. Trong bối cảnh của xã hội hiện đại, dạy trẻ hiểu đúng về
82
quyền riêng tư là điều mà các bậc phụ huynh nên làm để bảo vệ trẻ trước
những nguy cơ bị xâm hại đời tư như thực tế đang diễn ra hiện nay.
Và sau cùng, trong một chiều hướng ngược lại, bên cạnh trách nhiệm của
các thiết chế xã hội giáo dục các em ý thức tự bảo vệ và khả năng tự bảo vệ
quyền riêng tư của mình trong lĩnh vực truyền thông báo chí nói riêng và các
lĩnh vực khác nói chung. Một trong những biểu hiện của một xã hội nhân văn,
là sự tôn trọng quyền riêng tư của các em và bản thân các em cũng có ý thức
về điều này.
3.2. GIẢI PHÁP TIẾP TỤC BẢO ĐẢM QUYỀN RIÊNG TƯ CỦA
TRẺ EM Ở VIỆT NAM
3.2.1. Xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ về bảo đảm quyền riêng
tư của trẻ em trong các lĩnh vực quan hệ xã hội
Trong những năm gần đây Đảng và Nhà nước Việt Nam đã từng bước
xây dựng và cải cách hệ thống pháp luật về bảo vệ trẻ em nói chung và bước
đầu có những sự quan tâm kịp thời đối với tầm quan trọng của vấn đề bảo
đảm quyền riêng tư của trẻ em nói riêng. Đã có nhiều văn bản pháp quy, các
chương trình và các sáng kiến đề cập đến nhiều khía cạnh về công tác bảo vệ
trẻ em, chú trọng sự tôn trọng và bảo đảm quyền riêng tư của các em trên lĩnh
vực truyền thông và Internet tại thời điểm xã hội có những bước tiến nhảy vọt
về công nghệ thông tin mang theo những nguy cơ tiềm tàng. Những nguyên
tắc cơ bản, vai trò và trách nhiệm đối với hệ thống bảo vệ trẻ em đã được xác
định rõ ràng trong Luật Trẻ em 2016 và các văn bản hướng dẫn thi hành đã
được Quốc hội, Chính phủ Việt Nam sửa đổi và thông qua cùng trong đời
điểm này.
Việt Nam đang trong quá trình từng bước xây dựng một hệ thống các tổ
chức bảo vệ trẻ em từ tuyến trung ương tới địa phương. Tuy nhiên hiện tại
Việt Nam chưa có một hệ thống pháp luật tổng hợp, toàn diện để đảm bảo
83
việc xác định, hỗ trợ và giám sát một cách hệ thống về vấn đề bảo đảm quyền
riêng tư của trẻ. Bên cạnh đó, đội ngũ các nhân viên ở tất cả các cấp chuyên
trách các việc liên quan đến trẻ em, gia đình và cộng đồng vẫn còn thiếu cả về
số lượng và chất lượng, và công việc xã hội vẫn chưa được phát triển thành
một nghề nghiệp thực sự.
Về vấn đề tôn trọng và bảo đảm quyền riêng tư cho trẻ em ở Việt Nam
cho đến giai đoạn hiện nay mặc dù đã được nhìn nhận và khẳng định về tầm
quan trọng, quyền được Hiến định và Luật định chặt chẽ. Nhưng trên thực tế
chưa hề có hệ thống pháp lý đồng bộ và thống nhất giữa các ban ngành, lĩnh
vực xã hội để bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng ấy của con trẻ được thực
hiện một cách toàn diện. Quy định hiện hành về quyền được bảo vệ đời tư ở
Việt Nam còn nhiều hạn chế và bất cập, thiếu tính dự báo, bị lạc hậu so với sự
phát triển của đời sống xã hội, các quy định có nhiều điểm không tương thích,
phần nhiều mới chỉ dừng lại ở mức độ nguyên tắc, có rất ít các quy định cụ
thể điều chỉnh quan hệ pháp luật này. Những bất cập đó đã hạn chế và làm
giảm sút hiệu quả bảo vệ quyền về đời tư. Để khắc phục tình trạng này, nhà
nước cần:
Một là, xác định vấn đề bảo đảm quyền riêng tư có tầm ảnh hưởng rộng,
tác động đến hầu hết người dân trong xã hội, cơ quan chủ trì soạn thảo nên sử
dụng nhiều cách thức lấy ý kiến như đăng tải công khai, hội thảo, tọa đàm,
khảo sát…) để bảo đảm huy động sự tham gia rộng rãi của công chúng vào
nội dung dự thảo Luật. Đảm bảo hiệu quả và sự khả thi khi các quy phạm
pháp luật được áp dụng trên thực tế.
Hai là, ban hành, sửa đổi, bổ sung quy định về quyền được bảo vệ đời tư
trong các văn bản pháp luật hiện hành đảm bảo hợp hiến, hợp pháp, khả thi và
thống nhất với các văn kiện quốc tế có liên quan;
84
Ba là, cần tiến hành rà soát một cách chi tiết và có hệ thống các văn bản
trong hệ thống pháp luật Việt Nam quy định về bảo vệ quyền riêng tư.
Bốn là, trong quá trình rà soát cần so sánh, đối chiếu quy định của pháp
luật Việt Nam với pháp luật quốc tế về nội dung quyền bảo vệ đời tư được để
có thể nhìn nhận chính xác mức độ tương thích giữa hai hệ thống pháp luật
trong việc tôn trọng và bảo vệ quyền riêng tư.
Năm là, sau khi tiến hành ra soát và đối chiếu, bổ sung dự án Luật phải
bảo đảm sự đồng bộ về chính sách đối với các thành tố cơ bản tạo nên chất
lượng. Tuy nhiên, với tính chất của dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
và với quan điểm của cơ quan chủ trì soạn thảo là chỉ sửa đổi, bổ sung những
vấn đề thực sự cấp thiết thì cần phải có sự chọn lọc, cân nhắc kỹ những nội
dung cần sửa (đặc biệt là những chính sách mới ngoài những chính sách trong
đề nghị xây dựng dự án Luật đã được Quốc hội thông qua), tránh việc sửa đổi,
bổ sung quá nhiều nội dung mà chưa có sự đánh giá, tổng kết kỹ càng có thể
tạo ra sự thiếu đồng bộ, nhất quán trong hệ thống pháp luật, thậm chí khó bảo
đảm tính khả thi về đảm bảo quyền riêng tư cho trẻ em.
3.2.2. Hoạch định và tổ chức thực thi nhiều chương trình hành động
quốc gia về bảo đảm quyền riêng tư của trẻ em ở Việt Nam
Đảng và Nhà nước ta luôn dành sự quan tâm, ưu tiên đặc biệt đối với trẻ
em, thế hệ tương lai của đất nước. Chính phủ đã có nhiều chương trình, hoạt
động dành cho trẻ em như: Chương trình quốc gia bảo vệ trẻ em giai đoạn
2011 - 2015; Chương trình hành động quốc gia vì trẻ em giai đoạn 2012-2020
với mục tiêu xây dựng môi trường sống an toàn, thân thiện và lành mạnh để
thực hiện ngày càng tốt hơn các quyền của trẻ em. Nâng cao chất lượng cuộc
sống và tạo cơ hội phát triển bình đẳng cho mọi trẻ em. Và đã đạt được những
thành tựu nhất định trong khoảng thời gian qua.
85
Tuy nhiên, trong nội dung thi hành các chương trình hành động quốc gia
về trẻ em chưa đề cập cụ thể đến vấn đề quyền riêng tư – vấn đề vốn dĩ nhạy
cảm và cần nhiều sự quan tâm nhất trong giai đoạn xã hội ngày càng nhiều
biến động này. Chính vì vậy, trong danh mục các mục tiêu cụ thể của chương
trình hành động, bên cạnh kế hoạch bảo đảm sức khoẻ của trẻ trong lĩnh vực y
tế, bảo đảm quyền được phát triển trong lĩnh vực giáo dục… cần bổ sung
thêm vấn đề bảo đảm quyền riêng tư của trẻ em trong các lĩnh vực của đời
sống xã hội. Việc sửa đổi ấy cần được hoạch định cụ thể, chi tiết. Bước đầu từ
các cuộc nghiên cứu điều tra xã hội học về thực trạng bảo đảm quyền riêng tư
của các em trên thực tiễn, hiệu quả và hạn chế của áp dụng pháp luật trên thực
tiễn. Tìm hiểu thu nhận ý kiến về mức độ quan tâm và nhận thức của bản thân
các em và phụ huynh/người giám hộ đối với vấn đề này. Thực hiện các buổi
truyền thông, giáo dục, vận động xã hội để nâng cao nhận thức và chuyển đổi
hành vi thực hiện các quyền của trẻ em. Xác định được lĩnh vực có nguy cơ bị
xâm phạm quyền riêng tư để kịp thời có những điều chỉnh và can thiệp. Xác
định trách nhiệm, có sự phân công rõ ràng, cụ thể sự phối hợp từ Trung ương
tới địa phương đến, các Bộ cơ quan ban ngành với các tổ chức xã hội về vấn
đề bảo đảm quyền lợi chính đáng này cho trẻ. Đảm bảo cho trẻ em được phát
triển và bảo vệ một cách toàn diện.
3.2.3. Khắc phục những hạn chế trong quá trình bảo đảm quyền
riêng tư của trẻ em ở Việt Nam
Muốn đạt được hiệu quả trong quản lý nhà nước chung và vấn đề bảo
đảm quyền riêng tư của trẻ em nói riêng, xã hội đòi hỏi mỗi người trong cộng
đồng đó phải nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của vấn đề ấy cùng với
sự hiểu biết và ý thức pháp luật. Nếu công dân không có nhận thức đúng đắn
và ý thức pháp luật tốt sẽ dẫn đến những hành vi vi phạm pháp luật một cách
vô tình hoặc hữu ý ảnh hưởng tới lợi ích cộng đồng. Vì thế giải pháp trước
86
tiên khắc phục hạn chế trong quá trình quản lý nhà nước không nằm ngoài
phạm vi bảo đảm quyền riêng tư cho trẻ đó là yêu cầu nhân dân phải không
ngừng trau dồi nhận thức một cách khách quan và thời sự, luôn có ý thức
nâng cao hiểu biết pháp luật của mình.
Xác định rõ vai trò to lớn của pháp luật trong việc điều chỉnh các quan
hệ xã hội cơ bản, những năm gần đây nhà nước ta đã kịp thời quan tâm về tầm
quan trọng về vấn đề bảo đảm quyền riêng tư của trẻ với việc tham gia các
công ước và hiệp định song phương, nội luật hoá sửa đổi các điều khoản của
các bộ luật quan trọng trên các lĩnh vực giáo dục, kinh tế, xã hội nhằm bảo
đảm quyền riêng tư và tạo ra một môi trường pháp lý lành mạnh, an toàn để
trẻ một cách toàn diện. Tuy nhiên vẫn còn tồn tại những bất cập và thiếu sót.
Cần có phương hướng giải quyết như sau:
Một là, cần thống nhất quy định pháp luật về độ tuổi của trẻ em phù hợp
với khung pháp lý quốc tế để có những điều chỉnh phù hợp trong bảo đảm
quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ.
Hai là, có quy định riêng biệt về quyền riêng tư cho trẻ em ở một văn
bản Luật cụ thể chứ không nằm rải rác tại các quy phạm pháp luật liên quan.
Ba là, quy định rõ ràng về mức độ can thiệp của cha mẹ và người giám
hộ về vấn đề tôn trọng và bảo vệ quyền riêng tư cho trẻ.
Bốn là, quy định cụ thể trách nhiệm của báo chí và truyền thông trong
khai thác thông tin đời tư của trẻ.
Năm là, xác định rõ ràng phạm vi, nội hàm đặc trưng của đảm bảo quyền
riêng tư tránh gây tranh cãi và mâu thuẫn trong quá trình thực hiện và thi hành
pháp luật.
Sáu là, xây dựng các văn bản dưới luật xác định cụ thể hành vi mức độ
được xác định là xâm phạm quyền riêng tư.
87
Bảy là, nghiêm khắc trong xử lý vi phạm pháp luật về quyền riêng tư của
trẻ em. Mọi hành vi vi phạm đều phải được xem xét kỹ lưỡng và xử lý
nghiêm minh. Nếu chủ quan, sơ hở trong xử lý sẽ dễ tạo kẽ hở cho bọn cơ hội
lợi dụng.
3.2.4. Tăng cường hoạt đồng tuyên truyền về tầm quan trọng của
vấn đề tôn trọng quyền riêng tư của trẻ em trong cộng đồng
Truyền thông có tác dụng rất lớn nhằm thay đổi nhận thức của cộng
đồng về quyền trẻ em nói chung và quyền riêng tư của trẻ em nói riêng. Để
giải quyết tốt vấn đề tôn trọng và bảo đảm quyền riêng tư của trẻ. Việc lên kế
hoạch và tổ chức các chiến lược truyền thông khẳng định tầm quan trọng về
vấn đề bảo đảm quyền riêng tư của trẻ em với sự tham gia tích cực của các
cấp, các ngành, các tổ chức đoàn thể, các tổ chức quốc tế và trẻ em để tạo dư
luận xã hội quan tâm hơn nữa đến công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em là điều
cần thiết. Bên cạnh đó có thể tranh thủ và huy động và sử dụng có hiệu quả
mọi nguồn lực cho nhiệm vụ bảo vệ, chăm sóc trẻ em.
Ngoài ra, để thực hiện bảo đảm quyền riêng tư có hiệu quả thì công tác
truyền thông, giáo dục ý thức pháp luật giúp cho nhân dân quan tâm hơn đến
pháp luật, nâng cao kiến thức pháp luật, có thái độ đúng đắn, động cơ tích cực
trong thực hiện pháp luật và đấu tranh chống các biểu hiện vi phạm pháp luật
là điều kiện không thể thiếu. Muốn vậy phải tiến hành bồi dưỡng kiến thức
pháp luật nói chung và quyền riêng tư của trẻ em nói riêng, nâng cao trình độ
nhận thức pháp luật trong nhân dân. Thực hiện tốt việc giáo dục, tuyên
truyền, phổ biến pháp luật dưới mọi hình thức, biện pháp tích cực, đưa pháp
luật rơi vào mọi lĩnh vực trong cuộc sống. Đồng thời, phải kết hợp giáo dục ý
thức pháp luật với giáo dục đạo đức xã hội. Hiện nay Nhà nước ta đang tích
cực tuyên truyền giáo dục ý thức pháp luật sâu rộng trong quần chúng và
bước đầu thu được những kết quả tốt đẹp.
88
Mặt khác, cần lên kế hoạch cụ thể về việc tổ chức các chiến dịch, sự kiện
truyền thông, vận động xã hội tham gia thực hiện quyền của trẻ em, như
Tháng hành động vì trẻ em; các sự kiện văn hoá, thể thao. Hỗ trợ trẻ em tổ
chức các sự kiện, hoạt động truyền thông cho trẻ em và thực hiện quyền, bổn
phận của trẻ em. Tổ chức các hoạt động truyền thông đại chúng về bảo vệ,
chăm sóc, giáo dục trẻ em. Nghiên cứu, sản xuất các sản phẩm truyền thông
có chất lượng và phù hợp với các nhóm đối tượng trẻ em cũng là một điều
không thể thiếu.
3.2.5. Tích cực, chủ động hợp tác và đối thoại quốc tế
Trong bối cảnh công nghệ thông tin từng bước phát triển, song hành với
cơ hội được kết nối và tiếp thu các nền văn hoá mở các em cũng phải đối diện
với nguy cơ bị xâm phạm quyền riêng tư. Nhằm xây dựng nên một môi
trường phát triển toàn diện lành mạnh cho trẻ, bên cạnh trách nhiệm tạo ra cơ
hội để các em được tự do tiếp nhận văn hoá và thông tin, tự do giao lưu và kết
nối. Vấn đề bảo đảm Quyền riêng tư của trẻ em thời gian qua được xác định
tầm quan trọng và nhận được sự quan tâm của pháp luật và truyền thông liên
quốc gia.
Tuy nhiên, trên thực tế vấn đề tôn trọng và bảo vệ quyền riêng tư cho trẻ
vẫn chưa thực sự được bảo đảm với hàng loạt những sai phạm liên tục xảy ra
trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, cho thấy nhu cầu cần sự tham gia đồng
nhất và nhiều hơn trong các hoạt động giữa các quốc gia để hỗ trợ và để bảo
vệ trẻ em khỏi bị tổn hại là một điều cần thiết.
Đại diện từng quốc gia, các tổ chức xã hội dân sự, Liên hợp quốc, và
trong một số trường hợp, với khu vực tư nhân và các chủ thể khác nằm trong
phạm vi điều chỉnh của vấn đề ấy nên chung tay hoạch định và tổ chức thực
thi các chương trình đối thoại và trao đổi kinh nghiệm, xác định tầm quan
trọng của vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em nói chung và
89
vấn đề tôn trọng và đảm bảo quyền riêng tư của trẻ em nói riêng. Việt Nam
nên mở rộng và tăng cường hợp tác đặc biệt với các đối tác tiềm năng, nhằm
vận động nguồn lực và tiếp thu kinh nghiệm trong khu vực và quốc tế cho
công tác bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em và thực hiện quyền trẻ em. Tham
gia và đăng cai tổ chức các sự kiện quốc tế và khu vực về bảo vệ, chăm sóc,
giáo dục trẻ em và thực hiện quyền trẻ em.
Căn cứ vào thực trạng và các vấn đề xâm phạm quyền riêng tư nội tại
trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Để bảo đảm cho các nỗ lực của khu vực
đáp ứng các chuẩn mực quốc tế cơ bản và thúc đẩy được hợp tác xuyên quốc
gia trong vấn đề bảo đảm quyền riêng tư của trẻ em, các hoạt động khu vực
nên được thực hiện tập trung vào phát triển khuôn khổ làm cơ sở cho việc hợp
tác (ví dụ như thông qua các văn kiện không ràng buộc), phải thúc đẩy chia sẻ
thông tin về các vấn đề pháp lý chủ yếu. Việt Nam và quốc gia nên hoạch
định và xây dựng nên Dự án riêng về hợp tác quốc tế xuyên quốc gia trong xử
lý các vụ án xâm phạm quyền riêng tư của trẻ em - bao gồm cả các cơ hội xây
dựng mạng lưới cấp nhân viên để tăng cường mối quan hệ và đạt kết quả tối
đa.
Khai thác các cơ hội để xây dựng các văn kiện song phương làm cơ sở
cho việc hợp tác trong xử lý các vụ án xâm phạm quyền riêng tư của trẻ em.
Các điều ước song phương có thể tạo cơ sở quan trọng cho việc liên kết các
lĩnh vực hình sự, làm rõ và sắp xếp quá trình dẫn độ và tương trợ tư pháp giữa
các nước.
Hợp tác thi hành pháp luật không chính thức cũng là một công cụ đấu
tranh với bảo đảm quyền riêng tư của trẻ em. Hợp tác không chính thức - còn
được gọi là hỗ trợ của “cảnh sát với cảnh sát” hoặc “cơ quan với cơ quan” -
không yêu cầu cơ sở pháp lý một cách đặc thù và có thể thúc đẩy biện pháp
chia sẻ thông tin giữa các cơ quan thi hành pháp luật của các nước khác nhau.
90
Hợp tác không chính thức cho phép cảnh sát chia sẻ các tin tức tình báo về thi
hành pháp luật trong giai đoạn điều tra khi chứng cứ đang được thu thập. Hợp
tác này thúc đẩy luồng thông tin nhanh và có thể có lợi trong việc xác định
liệu chứng cứ có nằm ở phạm vi tài phán khác không trong các vụ án xâm
phạm quyền riêng tư của trẻ ở mức độ đặc biệt nghiêm trọng để đảm bảo một
môi trường pháp lý quốc tế ổn định cho trẻ tự do kết nối và phát triển.
Như vậy, có thể thấy việc xác định một nền tảng tư tưởng chung liên
quốc gia, dựa vào đó mà xây dựng các hoạt động cụ thể và có tính chiến lược
theo thực tiễn bối cảnh văn hoá sẽ đưa ra được những định hướng giải pháp
cụ thể về vấn đề bảo đảm quyền riêng tư cho trẻ em phù hợp với từng khu vực
và từng quốc gia.
Tiểu kết chương 3
Nhận diện được tầm quan trọng của vấn đề bảo đảm quyền riêng tư cho
trẻ trong bối cảnh xã hội có nhiều diễn biến phức tạp là điều cần thiết. Trên cơ
sở đánh giá những ưu điểm, hạn chế của việc bảo đảm quyền riêng tư của trẻ
em ở Việt Nam hiện nay trên thực tiễn. Căn cứ vào đó, phần này của luận văn
đã hệ thống và đưa ra quan điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam
bảo vệ quyền riêng tư của trẻ như: Khởi nguồn từ xác định nhận thức đúng
đắn về tầm quan trọng của vấn đề ấy kết hợp với nâng cao ý thức pháp luật
của người dân. Xác định rõ vai trò to lớn của pháp luật trong việc điều chỉnh
các quan hệ xã hội cơ bản nói chung và vấn đề bảo đảm quyền riêng tư của trẻ
em nói riêng, nghiêm khắc trong xử lý vi phạm pháp luật về quyền riêng tư
của trẻ. Mọi hành vi vi phạm đều phải được xem xét kỹ lưỡng và xử lý
nghiêm minh. Bên cạnh đó, chủ động hợp tác và đối thoại quốc tế, khai thác
các cơ hội học tập kinh nghiệm quản lý của các đối tác nước bạn trong vấn đề
bảo vệ và chăm sóc trẻ, tạo cơ sở cho việc hợp tác trong xử lý các vụ án xâm
phạm quyền riêng tư của trẻ em. Hợp tác thi hành pháp luật chính thức và
91
không chính thức cũng là một công cụ đấu tranh với bảo đảm quyền riêng tư
của trẻ em.
Ngoài ra, Luận văn còn đưa ra những giải pháp cụ thể. Bên cạnh việc
xây dựng các chuẩn mực pháp lý phù hợp thì cần tăng cường vai trò của các
bên liên quan. Trong đó, vai trò tự bảo vệ là rất quan trọng. Hơn ai hết, phụ
huynh/người giám hộ/người lớn nên trang bị cho mình kiến thức bảo vệ trẻ;
có quan điểm bảo vệ là lên tiếng vì lợi ích tốt nhất của trẻ và khi lên tiếng cần
đúng cách, đúng chỗ. Và ngược lại, các em cũng phải có ý thức bảo vệ lợi ích
cho chính bản thân mình.
92
KẾT LUẬN
Quyền riêng tư là một trong những quyền cơ bản và là quyền bất khả
xâm phạm của con người nói chung và của trẻ em nói riêng. Mặc dù đã có
nhiều nỗ lực bảo vệ quyền riêng tư của trẻ em. Song, tại Việt Nam, vi phạm
quyền riêng tư của trẻ em đang là vấn đề vô cùng nhức nhối. Luận văn đã đề
cập tới các dạng hành vi xâm phạm quyền riêng tư, mức độ phổ biến và tính
công khai của hành vi xâm phạm quyền trong thực tế. Luận văn cũng đưa ra
những số liệu minh chứng cho những luận điểm đã nêu. Đối với hành vi xâm
phạm quyền riêng tư của trẻ em, luận văn đã nêu và phân tích rất chi tiết thực
trạng xâm phạm quyền trong môi trường gia đình, trên lĩnh vực giáo dục,
truyền thông và cảnh báo những nguy cơ mà những hành vi này có thể mang
đến cho không chỉ trẻ em mà đối với cả xã hội. Mức độ tôn trọng và bảo đảm
quyền riêng tư cho trẻ của mỗi quốc gia chịu sự chi phối của nhiều yếu tố.
Đối với Việt Nam, bảo vệ quyền riêng tư có những ưu điểm và hạn chế do
những thuận lợi và khó khăn nhất định. Điều này đã được làm rõ qua các
phân tích trong luận văn như tác động của yếu tố khách quan và chủ quan,
như: các yếu tố văn hoá truyền thống, yếu tố kinh tế thị trường, sự phát triển
của khoa học công nghệ và ý thức chấp hành pháp luật của người dân… Từ
kết quả rà soát, phân tích, luận văn đã nêu ra quan điểm để hoàn thiện pháp
luật Việt Nam bảo vệ quyền riêng tư cho trẻ em nói riêng và quyền riêng tư
cho mỗi cá nhân trong xã hội nói chung. Trên cơ sở đó, đưa ra phương hướng
giải quyết và các giải pháp cụ thể nhằm đảm bảo thực hiện tốt quyền này.
Luận văn đã khái quát một cách tổng thể những vấn đề lý luận cũng như
thực tiễn về bảo đảm quyền riêng tư của trẻ em. Qua những phân tích và dẫn
chứng, luận văn cho thấy, bảo đảm quyền riêng tư cho trẻ em đang là một
thách thức đối với cả cộng đồng. Hệ thống pháp luật Việt Nam chưa đồng bộ
và thiếu tương thích với pháp luật quốc tế trong quy định về quyền con người
này là một trở ngại lớn ảnh hưởng đến mức độ tôn trọng và bảo vệ quyền ở
93
Việt Nam. Trong thời gian tới, Nhà nước ta cần nỗ lực, đặt ra mục tiêu và
biện pháp cụ thể để khắc phục những tồn tại và hạn chế trong việc thực thi
các quy định bảo đảm quyền riêng tư của trẻ em nói riêng, quyền và lợi ích
hợp pháp của trẻ em nói chung./.
94
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu Tiếng Việt
1. Bộ Thông tin và truyền thông, Thông tư số 09/2017/TT-BTTTT quy định về
nội dung thời điểm, thời lượng dành cho trẻ em và cảnh báo nội dung
không phù hợp với trẻ em trên báo nói, báo hình, báo in, báo điện tử và
xuất bản phẩm, ban hành ngày 23/06/2017.
2. Chính phủ (2013), Nghị định số 167/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực An ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng
chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng chống bạo lực gia
đình, ban hành ngày 12/11/2013.
3. Chính phủ (2013), Nghị định số 174/2013/NĐ-CP ngày 13/11/2013 của
Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính viễn
thông, công nghệ thông tin và tần số vô tuyến điện, ban hành ngày
13/11/2013.
4. Chính phủ (2013), Nghị định số 144/2013/NĐ-CP ngày 29/10/2013 của
Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính về bảo trợ, cứu trợ xã hội
và bảo vệ, chăm sóc trẻ em, ban hành ngày 13/11/2013.
5. Chính phủ (2017), Nghị định số 56/2017/NĐ-CP quy định chi tiết một số
điều của Luật Trẻ em, ban hành ngày 09/05/2017.
6. Đại hội đồng Liên Hợp Quốc (1948), Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền,
thông qua ngày 10/12/1948.
7. Đại hội đồng Liên Hợp Quốc (1966), Công ước Quốc tế về các quyền Dân
sự và Chính trị, thông qua ngày 16/12/1966.
8. Đại hội đồng Liên Hợp Quốc (1966), Công ước Quốc tế về Quyền trẻ em,
phê chuẩn ngày 20/11/1989.
95
9. Phạm Thị Hải Hà (2016), Quản lý nhà nước về bảo vệ quyền của trẻ em ở
Việt Nam, Luận án Tiến sĩ, chuyên ngành Quản lý công, Học viện Hành
chính Quốc gia.
10. Việt Hà (2013), Xem xét nâng độ tuổi pháp lý của trẻ em Việt nam lên
dưới 18 tuổi, Thông tấn xã Việt Nam, số tháng 07/2013
cua-tre-em-viet-nam-len-duoi-18-tuoi.htm>, ngày truy cập 04/03/2017. 11. Bích Hà, (2017), Công khai điểm thi THPT: Công khai, minh bạch hay xâm phạm quyền riêng tư, Tạp chí Lao động.vn, số tháng 06/2017 hay-xam-pham-quyen-rieng-tu-680542.bld#ref- https://www.google.com.vn/>, ngày truy cập 04/05/2018. 12. Phạm Thị Hường (2016), Quyền được bảo vệ của trẻ em ở Việt Nam hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội. 13. Phạm Khánh (2011), Bảo vệ quyền riêng tư trên mạng cho trẻ em, Báo Bưu Điện Việt Nam, số 152, ngày 21/12/2011. 14. Lê Thế Nhân và nhóm điều tra độc lập, Quyền riêng tư tại Việt Nam: Trẻ em và Báo Điện tử, Tóm tắt kết quả điều tra của Codes, Trung tâm phát triển cộng đồng và công tác xã hội, Huế. 15. Nguyễn Ngọc Oanh (2014), Nhà báo với trẻ em kiến thức và kỹ năng, NXB Thông tấn, Hà Nội, tr 130. 16. H.Phương (2017), Từ 01 tháng 07 muốn đăng ảnh trẻ lên mạng phải xin phép, Trang thông tin tuyên truyền, phổ biến pháp luật Hà Nội, /news/xcajVIU0k17H/599314.html;jsessionid=cKAE8ST+u3c1rrSErPO5Y 6qO.app2>, truy cập ngày 10/6/2018. 17. Hoàng Phê (2003), Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, Đà Nẵng. 18. Quốc hội (2015), Bộ Luật Tố tụng hình sự của nước CHXHCN Việt Nam, ban hành ngày 27/11/2015. 19. Quốc hội (2005), Luật Thanh niên, ban hành ngày 29/11/2005. 20. Quốc hội (2012), Bộ Luật Lao động, ban hành ngày 18/06/2012. 21. Quốc hội (2012), Luật Xử phạt vi phạm hành chính, ban hành ngày 20/06/2012. 22. Quốc hội (2013), Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam, ban hành ngày 28/11/2013. 23. Quốc hội (2014), Luật Hôn nhân và gia đình, ban hành ngày 09/06/2014. 24. Quốc hội (2015), Bộ Luật Dân sự, ban hành ngày 24/11/2015. 25. Quốc hội (2016), Luật Trẻ em, ban hành ngày 05/04/2016. 26. Quốc hội (2016), Luật Báo chí, ban hành ngày 05/04/2016. 27. Trung tâm Phát triển Cộng đồng và Công tác xã hội (2013), Hội thảo nhận thức về bảo vệ quyền riêng tư của trẻ em ngày 17/06/2013, Huế. 28. Nguyễn Văn Tường (2008), Sự cần thiết của việc bảo về quyền riêng tư của trẻ em trên mạng Internet, Luận án Tiến sĩ,Học viện Tâm lý học, Đại học Tây Nam, Trung Quốc. 29. Lê Thi (2005), Mối quan hệ cá nhân – gia đình trong bối cảnh Việt Nam đi vào toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế, Tạp chí Triết học, số 4/2005. 30. Nguyễn Thị Huyền Trang (2014), Quyền được bảo vệ đời tư trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học, ngành Pháp luật về quyền con người, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội. 31. Tổ chức Lao động quốc tế (1999), Công ước Nghiêm cấm và hành động khẩn cấp xoá bỏ các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất, ban hành ngày 15/03/2010. Tài liệu nước ngoài 32. Australian Privacy Charter Group, (1994) "The Australian Privacy Charter", Law School, University of New South Wales, Sydney. 33. Alan F.Westin Publisher: The Bodley Head Ltd (April 16, 1970), ISBN- 10:0370013255, ISBN-13: 978-0370013251, “Privacy is the claim of individuals, groups or institutions to determine for themselves when, how, and to what extent information about them is communicated to others”, New York, U.S.A.: Atheneum. 34. Chairman David Calcutt QC (1990), “Report of the Committee on Privacy and Related Matters”, Cmnd. 1102, London: HMSO, at 7. 35. Marc Rotenberg (2000), “Protecting Human Dignity in the Digital Age”, UNESCO. 36. Protecting the right to privacy in china, Online. 37. Privacy law in USA, 38. Robert Ellis Smith, Ben Franklin’s Web Site 6 (Sheridan Books 2000). 39. Simon Davies, Big Brother, (Pan 1996), “Britain’s Web of Surveillance and the New Technological Order 23”. 40. Samuel Warren and Louis Brandeis, (1890), “The Right to Privacy”, 4 Harvard Law Review 193-220 41. United Nations, “Convention on the Rights of the Child”, ngày 2 tháng 9 năm 1993. Truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2018. 42. Volio, Fernando, "Legal personality, privacy and the family" in Henkin (ed), The International Bill of Rights (Columbia University Press 1981).96
97
98