Bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của công dân - thực trạng và một số kiến nghị
lượt xem 4
download
Nhu cầu sử dụng thông tin để nâng cao hiệu quả quản lý, phản ứng linh hoạt, kịp thời với những thay đổi của xã hội, nâng cao chất lượng dịch vụ công từ phía Nhà nước ngày càng trở nên cấp bách. Bài viết phân tích một số vấn đề lý luận, thực tiễn và kiến nghị một số giải pháp tiếp tục bảo đảm quyền TCTT của công dân ở Việt Nam hiện nay.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của công dân - thực trạng và một số kiến nghị
- NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT BAÃO ÀAÃM QUYÏÌN TIÏËP CÊÅN THÖNG TIN CUÃA CÖNG DÊN - THÛÅC TRAÅNG VAÂ MÖÅT SÖË KIÏËN NGHÕ Hoàng MinH Hội* Nhu cầu sử dụng thông tin để nâng cao hiệu quả quản lý, phản ứng linh hoạt, kịp thời với những thay đổi của xã hội, nâng cao chất lượng dịch vụ công từ phía Nhà nước ngày càng trở nên cấp bách. Đối với người dân và doanh nghiệp, quyền tiếp cận thông tin (TCTT) là phương tiện để bảo vệ và tổ chức thực hiện các quyền khác. Quyền TCTT còn là công cụ để nhân dân chủ động tham gia quản lý nhà nước và xã hội, giám sát hoạt động và phản biện các chính sách của Nhà nước. Là quyền hiến định nhưng trên thực tế việc bảo đảm quyền TCTT của công dân đang tồn tại những bất cập. Bài viết phân tích một số vấn đề lý luận, thực tiễn và kiến nghị một số giải pháp tiếp tục bảo đảm quyền TCTT của công dân ở Việt Nam hiện nay. 1. Khái niệm, nội dung và các yếu tố bảo quyền TCTT của cá nhân bao gồm quyền tìm đảm quyền tiếp cận thông tin của công dân kiếm, thu thập và sử dụng thông tin nhằm Công ước quốc tế về các Quyền dân sự thoả mãn nhu cầu thông tin. Trong xã hội văn và chính trị năm 1966 đã khẳng định mọi minh, dân chủ, đa chiều, quyền TCTT là một người đều có quyền tự do tìm kiếm, nhận và trong những quyền cơ bản của cá nhân. truyền đạt mọi loại tin tức, ý kiến, không Ở Việt Nam, quyền TCTT được ghi nhận phân biệt ranh giới, hình thức, phương pháp trong Hiến pháp năm 2013: “Công dân có tuỳ theo sự lựa chọn của họ. Thiếu thông tin quyền…TCTT…Việc thực hiện các quyền sẽ tạo cơ hội cho các “thói hư” trong cơ quan này do pháp luật quy định” (Điều 25). Trước nhà nước (CQNN) xuất hiện như tham đó, Điều 14 Hiến pháp Việt Nam năm 2013 nhũng, lạm quyền, vô trách nhiệm của một khẳng định: Nhà nước, các CQNN, cán bộ, số cán bộ, công chức, dẫn đến nguy cơ xâm công chức, viên chức nhà nước có trách hại đến các quyền con người. Quyền được nhiệm công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo thông tin dùng để chỉ quyền của công chúng đảm quyền con người, quyền công dân. Hiến được biết thông tin của Nhà nước một cách pháp cũng khẳng định quyền công dân chỉ có chủ động, công khai từ phía Nhà nước và cơ thể bị hạn chế theo quy định của luật trong quan có thẩm quyền. Về nội dung của quyền, trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an * TS. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. NGHIÏN CÛÁU Söë 05(309) T3/2016 LÊÅP PHAÁP 11
- NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức hiện nguy cơ người dân bị “chìm” trong xã hội, sức khỏe của cộng đồng. những thông tin “rác thải” với những thông Quan niệm chung được thừa nhận hiện tin thiếu chính xác, thiếu trung thực, hay có nay, bảo đảm được hiểu là “làm cho chắc có những thông tin “bẩn” phản ánh sai sự chắn, thực hiện được, giữ gìn được hoặc có thật, bịa đặt3. Các CQNN, người có thẩm đầy đủ những gì cần thiết”1. Ý kiến khác cho quyền phải bảo vệ quyền TCTT, tạo điều rằng, bảo đảm là trách nhiệm của một chủ kiện cho công dân sử dụng quyền đó đồng thể (cá nhân, tổ chức) phải làm cho quyền và thời có các biện pháp phòng ngừa, tránh sự lợi ích của chủ thể bên kia chắc chắn thực xâm phạm từ phía các chủ thể khác. Các hiện được, được giữ gìn, nếu xảy ra thiệt hại CQNN và người có thẩm quyền phải có trách thì phải bồi thường. Đặt trong một ngữ cảnh nhiệm và thi hành những biện pháp để bảo để hiểu rõ nội hàm khái niệm bảo đảm, Từ vệ quyền TCTT của công dân; đồng thời, điển Luật học diễn giải: Nhà nước có trách phải tổ chức thực hiện các quy định của pháp nhiệm “bảo đảm cho các quyền công dân đã luật về quyền TCTT. được ghi trong các đạo luật phải được thực Các yếu tố bảo đảm: Bảo đảm quyền thi, phải tạo điều kiện cho công dân hưởng TCTT có các yếu tố bảo đảm thực hiện như các quyền đó. Trường hợp có sự vi phạm đến pháp lý, kinh tế, xã hội. Pháp luật được coi các quyền của công dân thì phải áp dụng các là yếu tố cơ bản, quan trọng hàng đầu vì nó biện pháp để loại trừ. Cán bộ, công chức nhà được coi là phương tiện, công cụ để công dân nước phải chịu trách nhiệm trước pháp luật sử dụng và bảo vệ quyền lợi của mình khi trong trường hợp họ không hành động để bảo quyền bị xâm phạm. Chính vì vậy, muốn bảo vệ quyền lợi ích của công dân”2. đảm tốt quyền TCTT, nhiệm vụ trước hết Từ những cách tiếp cận trên đây, có thể phải hoàn thiện pháp luật có chất lượng tốt, hiểu bảo đảm quyền TCTT của công dân là đầy đủ, đồng bộ. Yếu tố về kinh tế (kinh phí), việc Nhà nước tôn trọng, bảo vệ và tổ chức quyền TCTT tạo ra nền tảng vật chất cần thực hiện các quy định của pháp luật về thiết để công dân hiện thực hóa quyền TCTT quyền được tìm kiếm, thu thập và sử dụng của mình. Yếu tố xã hội thể hiện trình độ dân thông tin nhằm thoả mãn nhu cầu thông tin trí, ý thức pháp luật và môi trường dân chủ theo đúng quy định của pháp luật. xã hội tiến bộ có tác động to lớn đến hoạt Về nội dung, bảo đảm quyền TCTT của động bảo đảm quyền TCTT của công dân. công dân là việc các CQNN, người có thẩm 2. Thực trạng bảo đảm quyền tiếp cận quyền tôn trọng, bảo vệ và tổ chức thực hiện thông tin của công dân hiện nay các quy định của pháp luật về quyền TCTT Ở góc độ lập pháp, quyền TCTT của của công dân. công dân được thừa nhận là quyền hiến định Các CQNN, người có thẩm quyền phải và ngày càng được coi trọng. Nếu như Hiến tôn trọng quyền TCTT của công dân thông pháp năm 1992 khẳng định công dân “được qua việc ghi nhận các quyền của công dân quyền TCTT” thì Hiến pháp năm 2013 đã được thể hiện trong Hiến pháp và các quy khắc phục tư tưởng ban phát đó bằng việc định của pháp luật. khẳng định công dân có quyền TCTT. Thay Thông tin ngày càng bùng nổ cũng xuất đổi này thể hiện thái độ tôn trọng quyền con 1 Từ điển tiếng Việt, Nxb. Khoa học xã hội – Trung tâm Từ điển học, Hà Nội, 1999, tr. 36. 2 Từ điển Luật học, Nxb. Từ điển Bách khoa, Hà Nội., 1999, tr. 28. 3 Xem: Đào Trí Úc, Thực tiễn và những yêu cầu thúc đẩy TCTT để xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam, trong sách: “TCTT: pháp luật và thực tiễn trên thế giới và ở Việt Nam”, Khoa Luật ĐHQGHN, Nxb ĐHQGHN, Hà Nọi, 2011, tr.495. NGHIÏN CÛÁU 12 LÊÅP PHAÁP Söë 05(309) T3/2016
- NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT người, đặt người dân ở vị trí chủ thể của đây, thực tiễn bảo đảm quyền TCTT của quyền, tích cực, chủ động trong việc sử dụng công dân hiện nay có những bất cập: các quyền đó. Hiến pháp khẳng định việc Quyền TCTT của công dân chưa thực sự thực hiện các quyền tự do ngôn luận, báo chí, được bảo đảm vì hiện nay pháp luật chưa xác hội họp, lập hội, biểu tình và TCTT theo quy định hết trong bộ máy nhà nước những cơ định của pháp luật. Theo đó, những hoạt quan nào phải công bố, công khai thông tin. động lập pháp tiến tới pháp điển hóa và ban Vì chưa xác định được quyền và nghĩa vụ hành một đạo luật về quyền TCTT đang của CQNN trong việc cung cấp thông tin cho được tiến hành tích cực, khẩn trương4. Trách người dân dẫn đến tình trạng né tránh, đùn nhiệm của CQNN ngày càng được nâng cao, đẩy trách nhiệm cho nhau, hoặc tình trạng ngày càng có nhiều thông tin trên các lĩnh che giấu, bưng bít thông tin, lợi dụng việc vực mà người dân có quyền tiếp cận. Đặc nắm giữ thông tin để trục lợi cá nhân, gây ra biệt, từ năm 2011 đến nay, thực hiện chủ tình trạng bất bình đẳng trong việc thụ hưởng trương cải cách hành chính, nhiều thông tin thông tin. Người dân không có thông tin nên trên các lĩnh vực quản lý hành chính được không thực hiện được quyền giám sát và công bố công khai trên các trang thông tin phản biện xã hội. Bởi vậy, có ý kiến cho điện tử của các CQNN bảo đảm sự tiện lợi rằng, “ở chừng mực nào đó, chính sự thiếu cho người dân trong việc thực hiện các thủ công khai, minh bạch trong các hoạt động tục hành chính. Nhiều văn bản quy định về của nhà nước, thiếu thông tin đầy đủ và xác trình tự, thủ tục công bố công khai thông tin thực về các hoạt động thực tiễn của công đã tạo hành lang pháp lý để các dự án luật quyền trên thực tế đã đặt nhân dân với tính được đăng tải công khai trên các phương tiện cách là người chủ quyền lực ra ngoài các thông tin đại chúng hoặc được tham vấn ý quan hệ quyền lực”5. kiến công chúng rộng rãi để người dân có thể Pháp luật quy định trách nhiệm cung cấp tham gia góp ý kiến. Nhân dân được xem thông tin của CQNN trong một số lĩnh vực truyền hình trực tiếp các phiên chất vấn tại trong khi chưa có nhiều quy định coi trọng kỳ họp Quốc hội; xem Quốc hội thảo luận quyền này của công dân, nội hàm của quyền tập thể, công khai những vấn đề quan trọng TCTT chưa rõ. Việc thể chế hoá quyền của đất nước. Công dân hoàn toàn có thể tiếp TCTT được ghi nhận trong văn kiện của cận với các thông tin Chính phủ thông qua Đảng, trong Hiến pháp thành các quy định các phương tiện thông tin đại chúng, đặc biệt của luật và các văn bản pháp quy còn chậm là qua các trang tin điện tử của các cấp chính và chưa có tính hệ thống. Trong Nhà nước quyền. Hình thức công khai thông tin hoạt pháp quyền, công dân có quyền được làm động của các cơ quan của Chính phủ, Quốc những gì mà pháp luật không cấm. Theo hội, các bộ, ngành… trên các trang thông tin nguyên tắc đó, những thông tin nào không điện tử đã giải quyết được phần nào nhu cầu thuộc thông tin bí mật, hay hạn chế tiếp cận TCTT của người dân. thì công dân có quyền khai thác, sử dụng Bên cạnh những kết quả đạt được trên miễn là hoạt động này không làm phương hại 4 Nghị quyết số 70/2014/QH13 ngày 30/5/2014 của Quốc hội về điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII, năm 2014 và Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2015, Dự án Luật TCTT đã được trình Quốc hội cho ý kiến vào kỳ họp thứ 10, khóa XIII. Tháng 1/2016, tại Phiên họp thứ 44 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thảo luận Dự án Luật TCTT. 5 Đào Trí Úc, Báo cáo Tổng hợp kết quả nghiên cứu Đề tài KX 04-02: “Mô hình tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở nước ta trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” thuộc Chương trình khoa học xã hội cấp Nhà nước KX04 (2001-2005) “Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”, Hà Nội, 2006, tr. 291. NGHIÏN CÛÁU Söë 05(309) T3/2016 LÊÅP PHAÁP 13
- NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT đến lợi ích của cá nhân, tổ chức, Nhà nước khai, phát trên phương tiện truyền thông… và xã hội. Về nguyên tắc, những tài liệu Các hình thức cung cấp thông tin theo yêu không chính thức của các CQNN, nếu không cầu của công dân chưa nhiều như công dân thuộc phạm vi không được công bố, cũng tham gia đối thoại, gửi kiến nghị, thỉnh cầu cần phải công khai hoặc được cung cấp cho đến hoạt động của Nhà nước, hoặc nếu có công chúng nhưng yêu cầu này chưa được quy định của pháp luật thì cũng chưa tổ chức đáp ứng. Biên giới xác định thông tin thuộc thực hiện hiệu quả trên thực tế. Ví dụ, theo dạng bí mật và không bí mật mong manh. nội dung Quy chế Dân chủ ở cơ sở, nhân dân Người dân ở thế bị động, chờ đợi trong khi chỉ có quyền yêu cầu, đề nghị các cá nhân, nhu cầu thông tin hàng ngày là rất lớn. Bảo tổ chức thực hiện các yêu cầu về kiến nghị đảm quyền TCTT theo nghĩa phổ quát cần có giám sát của nhân dân đối với hoạt động của đủ những quy định bảo đảm quyền thông tin Nhà nước nhưng lại thiếu biện pháp trách của công dân để “phủ” lên và làm lành mạnh nhiệm hoặc chế tài xác định trách nhiệm của những quan hệ kinh tế - xã hội trong bối cảnh cơ quan, tổ chức đó nếu không thực hiện hội nhập quốc tế và hơn nữa quyền TCTT đúng các quy định. Trong Pháp lệnh Thực của người dân phải được bảo đảm thực hiện hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn hiện hành trên các lĩnh vực của đời sống. có 11 nội dung chính quyền cấp xã phải công Những thông tin hạn chế cung cấp và khai cho người dân biết, đồng thời xác định những thông tin có tính chất bí mật không rõ hình thức công khai, nhưng Pháp lệnh lại được công bố là những thông tin thuộc bí đang “thiếu vắng những quy định bảo đảm mật của Nhà nước, thông tin về đời tư của cá tính minh bạch trong việc công khai. Điều nhân, thông tin liên quan đến bí quyết kinh này dẫn đến tình trạng nhiều địa phương thực doanh, thông tin trong hoạt động tố tụng, hiện đối phó. Có nơi, dán thông báo nhiều thông tin về bí mật công tác. Trên thực tế, trang trên bản tin có lưới bảo vệ khiến người tiêu chí phân biệt các thông tin nào là mật và dân và các tổ chức quan tâm khó quan sát không mật (như đã phân tích là không rõ được”6. ràng), cho nên, ở một số trường hợp phân Nhiều quy định pháp luật chưa xác định biệt thông tin mật, hay không mật và mật ở rõ trách nhiệm của các cá nhân, cơ quan, tổ cấp độ nào tùy thuộc ý chí chủ quan của chức phải cung cấp thông tin cũng như chưa người đang nắm giữ thông tin. Pháp luật có quy định hình thức, biện pháp xử lý với cũng chưa xác định những thông tin nào là các CQNN vi phạm các quy định về công hạn chế tiếp cận như thông tin về bí mật đời khai thông tin và hoạt động của các CQNN. tư, gia đình gồm những quyền gì hoặc chưa Trong điều kiện thông tin bùng nổ với sự đa có quy định cụ thể về những thông tin nào dạng về thông tin trên các lĩnh vực của cuộc được coi là bí mật trong công vụ, công tác, sống, nhu cầu thông tin và quyền TCTT của hay những thông tin trong tố tụng ở khâu công dân cần phải được đáp ứng; tuy nhiên, nào, liên quan đến vấn đề gì, thuộc tội phạm trong nhiều lĩnh vực “thông tin đưa ra công nào thì cần được hạn chế tiếp cận. chúng được đánh giá là rất chậm chạp, tản Hình thức và phương pháp công bố, mạn, đôi khi là trái chiều và ít có sự tổng công khai thông tin chưa thực sự đa dạng, hợp, bình luận, đánh giá và đưa ra kết luận phong phú, chủ yếu theo các hình thức vấn đề để người dân nắm vững thông tin truyền thống như đăng Công báo, đăng báo, được tiếp cận. Đặc biệt là chưa đưa ra những họp báo, tổ chức hội nghị, niêm yết công khuyến nghị cho người dân về hậu quả kèm 6 Hà Phong (2013), “Thiếu cơ chế giám sát và chế tài xử lý vi phạm”, http://hanoimoi.com.vn, truy cập ngày 14/12/2013. NGHIÏN CÛÁU 14 LÊÅP PHAÁP Söë 05(309) T3/2016
- NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT theo của thông tin. Trong các chính sách có Qua khảo sát các văn bản pháp luật trên cho liên quan đến thông tin chưa đề cao tính chịu thấy, phần nhiều là những quy định mang trách nhiệm của cơ quan, cá nhân có thẩm tính chất phòng ngừa, bảo đảm công tác quyền trong cung cấp thông tin nói chung và phòng chống tham nhũng có hiệu quả và làm thông tin thất thiệt cho người dân nói riêng”7. trong sạch bộ máy nhà nước. Pháp luật thiếu Quyền TCTT của công dân chưa được các quy định về các trường hợp được từ chối bảo đảm tốt trên thực tế vì không ít cán bộ, cung cấp thông tin hay phải cung cấp thông công chức có thói quen giữ thông tin, coi tin và quy trình yêu cầu, cung cấp thông tin thông tin là bí mật để vì mục đích cá nhân. nên việc TCTT của người dân về quản lý Họ trốn tránh trách nhiệm, không cung cấp hành chính liên quan đến quyền, lợi ích hợp thông tin cho báo chí, hoặc muốn tránh pháp của cá nhân còn chưa rõ ràng. Cơ chế những rủi ro từ việc cung cấp thông tin. Vì cung cấp thông tin cho báo chí hiện chưa rõ vậy, một bộ phận công chức chưa thực sự tôn ràng, chưa xác định rõ trách nhiệm của tổ trọng quyền TCTT của người dân. Tình hình chức, cá nhân cụ thể cũng như các quy định này dẫn đến bất bình đẳng và công dân bị cản về trách nhiệm giải trình của người đứng đầu trở trong quá trình tìm kiếm thông tin. Cơ hoạt động của Nhà nước. Một nguyên nhân chế cung cấp thông tin cho báo chí hiện chưa khác là pháp luật chưa quy định những cơ cụ thể, rõ ràng, chưa xác định rõ trách nhiệm quan nào có trách nhiệm cung cấp thông tin, tổ chức, cá nhân cụ thể. Những bất cập nói với những hình thức, phương pháp cụ thể trên của pháp luật đã dẫn đến thực tế người cùng với đó là thiếu đội ngũ cán bộ, công dân gặp nhiều khó khăn trong việc TCTT do chức làm công tác chuyên trách về cung cấp, các CQNN nắm giữ. Việc thiếu minh bạch, phổ biến thông tin cho công dân (với những công khai trong hoạt động quản lý nhà nước quy định rõ ràng về nhiệm vụ, quyền hạn, đã phần nào làm hạn chế sự tham gia của tổ đạo đức và trách nhiệm). Công tác phổ biến, chức, cá nhân vào hoạt động quản lý nhà tuyên truyền, giáo dục pháp luật về quyền nước với tính chất là người giám sát, phản TCTT của công dân chưa chú trọng đúng biện và chưa có cơ chế để người dân tự bảo mức. Một bộ phận nhân dân chưa nhận thức vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình8. được quyền được cung cấp các thông tin có Có thể nhận diện một số nguyên nhân liên quan đến các chương trình phát triển dẫn đến thực trạng trên đây. Đó là các quy kinh tế, xã hội, quy hoạch đô thị, quản lý đất định về quyền TCTT đang tản mạn trong các đai, môi trường… Pháp luật quy định chế tài lĩnh vực khác nhau, với nhiều cấp độ hiệu lực xử phạt nhưng hình như “chưa có cá nhân pháp lý như luật, pháp lệnh, nghị định, thông hay cơ quan nào chậm hoặc từ chối cung cấp tư trong đó không ít những quy định tồn tại thông tin cho báo chí bị xử phạt hay bị phê ở dạng quy chế nên có giá trị pháp lý thấp. bình, nhắc nhở nghiêm khắc”9. Nhiều văn bản pháp luật quy định quyền 3. Một số kiến nghị tiếp tục bảo đảm TCTT của công dân trong các lĩnh vực theo quyền tiếp cận thông tin của công dân phương pháp liệt kê, mô tả nên chưa bao quát Thực trạng và nguyên nhân được phân đầy đủ các lĩnh vực của cuộc sống, không tích trên đây cho thấy, bảo đảm quyền TCTT phù hợp với nhu cầu TCTT của công dân. của công dân trong thời gian tới cần những 7 Lương Văn Tuấn, Quyền TCTT ở Việt Nam hiện nay, http://www.tuyengiao.vn, ngày 12/11/2015. 8 Hoàng Minh Hội, Lý luận và thực tiễn về quyền con người ở Việt Nam hiện nay, Đề tài Cấp cơ sở, Viện Nhà nước và Pháp luật, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, 2015 tr. 45. 9 http://tuoitre.vn/tin/phap-luat, ngày 20/01/2015. NGHIÏN CÛÁU Söë 05(309) T3/2016 LÊÅP PHAÁP 15
- NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT giải pháp đồng bộ và có tính khả thi. Bên thuẫn, chồng chéo, không triệt tiêu lẫn nhau, cạnh việc có đầy đủ các quy định của pháp bảo đảm sự liên kết chặt chẽ, không tồn tại luật cần phải tổ chức thực hiện tốt trong cuộc độc lập, riêng biệt mà được đặt trong một sống. Nếu không tổ chức thực hiện tốt thì chỉnh thể, có sự ràng buộc và thống nhất; bảo những quy định pháp luật đó mới chỉ tồn tại đảm quyền TCTT của công dân và tổ chức. “trên giấy”. Vì vậy, tiếp tục bảo đảm quyền Luật TCTT phải bảo đảm tính đồng bộ, bảo TCTT của công dân ở Việt Nam hiện nay cần đảm sự ăn khớp, nhất quán giữa các văn bản tiến hành đồng bộ các giải pháp sau đây: quy phạm pháp luật khác đang điều chỉnh Thứ nhất, bảo đảm tính đồng bộ trong về quyền TCTT như Luật Phòng, chống nội dung của pháp luật về quyền TCTT. Pháp tham nhũng, Luật Quy hoạch, Luật Đất đai, luật về quyền TCTT phải phù hợp với các Luật Báo chí, Luật Xuất bản, Luật Lưu trữ, quan điểm, chủ trương của Đảng, bảo đảm Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, tính phù hợp với thực tế và ổn định; phù hợp thị trấn, Pháp lệnh Bảo vệ bí mật nhà với các công ước quốc tế mà Việt Nam đã nước… Luật TCTT phải loại bỏ sự chồng tham gia; tôn trọng thực hiện quyền con chéo trong hệ thống, tức là phải có sự thống người; phù hợp với nguyên tắc tổ chức quyền nhất giữa các quy phạm, giữa các chế định lực của Nhà nước pháp quyền XHCN không pháp luật, tạo ra lo gic và nhất quán trong ngừng bảo đảm và phát huy vai trò của nhân điều chỉnh pháp luật. Luật TCTT phải bảo đảm tính minh bạch và khả khi, chính xác, dân. Là yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng, có mục đích rõ ràng của cơ quan ban hành phản ánh cơ sở hạ tầng pháp luật về quyền là bảo đảm quyền khai thác, sử dụng thông TCTT phải phù hợp, không thể “cao hơn” tin của công dân. Các quy định của pháp hay “thấp hơn” trình độ phát triển kinh tế, xã luật phải phù hợp và phải bảo đảm dễ thực hội. Pháp luật về quyền TCTT góp phần thi trong cuộc sống. Ngoài ra, kỹ thuật lập phòng ngừa, ngăn chặn tình trạng lợi dụng pháp hiện đại còn yêu cầu ngôn ngữ trong quyền lực để tham nhũng, sách nhiễu, gây Luật TCTT phải trong sáng, đơn nghĩa, dễ khó khăn, phiền hà cho nhân dân; đồng thời, hiểu, dễ thực hiện. pháp luật về quyền TCTT đóng vai trò là Thứ ba, chú trọng công tác giáo dục, công cụ, phương tiện để công dân thực hiện phổ biến pháp luật về quyền TCTT. Quyền các quyền công dân, quyền con người về dân TCTT của công dân được bảo đảm không chỉ sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. được thể hiện ở nội dung các quy phạm phù Thứ hai, tiếp tục hoàn thiện Dự thảo hợp với đường lối của Đảng, với trình độ Luật TCTT. Về hình thức của pháp luật, khẩn phát triển kinh tế - xã hội, được pháp điển trương hoàn thiện Dự thảo Luật TCTT, trình hóa thành các đạo luật có giá trị hiệu lực Quốc hội thông qua Luật. Luật này phải bảo pháp lý cao mà quan trọng hơn các quy định đảm tính toàn diện. Ở cấp độ bao quát, Luật của pháp luật phải nhanh chóng đi vào cuộc TCTT phải có đầy đủ các chế định pháp luật, sống, làm cho các đối tượng thực hiện pháp bao gồm cả quy phạm về nội dung và quy luật hiểu được nội dung của các văn bản quy phạm hình thức (quy phạm quy định về trình phạm pháp luật về quyền TCTT và thực hiện tự, thủ tục cung cấp, công bố thông tin). Ở một cách nghiêm minh, tự giác. Muốn vậy, cấp độ cụ thể, sau khi Luật TCTT được ban phải thường xuyên coi trọng công tác giáo hành phải có đầy đủ các văn bản hướng dẫn dục, tuyên truyền, giải thích, hướng dẫn sử thực hiện, để khi Luật này có hiệu lực thì nó dụng pháp luật cho các chủ thể. Nhiệm vụ cũng đã có đủ các điều kiện để có thể được tuyên truyền, giáo dục pháp luật về quyền tổ chức thực hiện. Như vậy, Luật TCTT sẽ TCTT của công dân cần phải được thực hiện khắc phục được những bất cập, không mâu tự giác, với nhiều hình thức và phương pháp. NGHIÏN CÛÁU 16 LÊÅP PHAÁP Söë 05(309) T3/2016
- NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT Hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục những hành vi của cá nhân người có thẩm pháp luật về quyền TCTT phải đạt hiệu quả, quyền không tạo điều kiện, hoặc cản trở công sâu rộng không chỉ đến các tầng lớp nhân dân thực hiện quyền TCTT, xác định trách dân, các tổ chức quần chúng mà còn đến cả nhiệm, xử lý hành vi đối với những cá nhân, đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. cơ quan không thực hiện nhiệm vụ cung cấp Thứ tư, xây dựng đội ngũ cán bộ làm thông tin; đồng thời, nâng cao năng lực, trách công tác cung cấp thông tin. Quyền TCTT nhiệm của những cán bộ làm công tác kiểm của công dân được bảo đảm thực hiện khi có tra, giám sát việc thực hiện pháp luật về đội ngũ cán bộ làm nhiệm vụ cung cấp thông quyền TCTT của công dân. Dự thảo Luật tin giỏi chuyên môn, vững vàng về nghiệp TCTT (Dự thảo 2 năm 2015) đã đưa ra các vụ. Do vậy, phải không ngừng nâng cao trình phương án và các cơ quan có trách nhiệm độ chuyên môn, năng lực, kỹ năng cho cán kiểm tra, thanh tra và xử lý hành vi vi phạm bộ thực hiện nhiệm vụ cung cấp thông tin; pháp luật về quyền TCTT. Về vấn đề này, phải có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cho đội cần bảo đảm tính đồng bộ và phù hợp. Cần ngũ cán bộ làm công tác cung cấp, phổ biến giao cho các cơ quan chuyên trách có thẩm thông tin, xây dựng tiêu chuẩn cán bộ, có chế quyền thanh tra, xử lý vi phạm nhưng cũng độ đãi ngộ hợp lý, tạo điều kiện về phương phải huy động các cơ quan giám sát như tiện làm việc cho đội ngũ cán bộ này. Xây Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp. Ngoài dựng, kiện toàn cơ quan thực hiện nhiệm vụ ra, cần phát huy vai trò giám sát của xã hội quản lý, thu nhập ý kiến và phản hồi về tình và nhân dân trong việc bảo đảm quyền TCTT hình triển khai thực hiện quyền TCTT, có cơ của công dân. Đó là hoạt động giám sát của chế tiếp nhận và phản ánh, kiến nghị, và bảo Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - đảm quyền khiếu nại, tố cáo cho công dân. xã hội, các tổ chức xã hội, các hiệp hội, cộng Thứ năm, thường xuyên thanh tra, kiểm đồng dân cư, giám sát của cơ quan báo chí tra giám sát việc thực hiện pháp luật và xử và giám sát trực tiếp của công dân. lý hành vi vi phạm pháp luật về quyền TCTT Thứ sáu, phát triển hệ thống dữ liệu của công dân nhằm bảo đảm quyền TCTT quốc gia về cung cấp thông tin. Như đã phân cho công dân. Các quy định của pháp luật về tích, yếu tố bảo đảm thực hiện quyền TCTT quyền TCTT của công dân sẽ trở thành pháp rất quan trọng là kinh phí và phương tiện vật luật “trên giấy” nếu như không được tổ chức chất. Quyền TCTT của công dân được bảo thực hiện trong cuộc sống. Tuy nhiên, nếu đảm thực chất khi hạ tầng thông tin đồng bộ, thực hiện pháp luật mà không có khâu kiểm và phát triển vì hiện nay phương tiện phổ tra, giám sát và xử lý hành vi vi phạm pháp biến và hiệu quả nhất cho công dân tìm kiếm, luật thì việc thực hiện pháp luật cũng không khai thác thông tin là công nghệ thông tin. mang lại hiệu quả, thậm chí trở nên hình Do vậy, phải ứng dụng công nghệ thông tin thức. Do vậy, hoạt động kiểm tra, giám sát vào việc xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu việc thực hiện pháp luật và xử lý hành vi vi quốc gia tương ứng với các lĩnh vực kinh tế, phạm pháp luật về quyền TCTT của công văn hóa, xã hội. Xây dựng dữ liệu về những dân được coi là tiêu chí quan trọng để bảo thông tin thuộc bí mật của Nhà nước, những đảm quyền TCTT của công dân. Bên cạnh thông tin hạn chế, những thông tin được những quy định pháp luật về xác định địa vị cung cấp theo yêu cầu; đồng thời, đẩy nhanh pháp lý của chủ thể thực hiện quyền TCTT, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong cải trách nhiệm của đối tượng chịu sự cung cấp cách thủ tục cung cấp thông tin, bảo đảm thông tin, cần có những quy định để xây thông tin được cung cấp cho công dân nhanh dựng cơ chế kiểm tra, giám sát phát hiện chóng, tiện lợi, hiệu quả n NGHIÏN CÛÁU Söë 05(309) T3/2016 LÊÅP PHAÁP 17
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tiếp cận công lý và vấn đề hoàn thiện cơ chế bảo hiến ở Việt Nam
8 p | 130 | 12
-
Quyền tiếp cận thông tin từ góc độ xã hội học quyền con người
6 p | 66 | 9
-
Một số kiến nghị về bảo đảm quyền tiếp cận thông tin qua hoạt động báo chí ở Việt Nam hiện nay
10 p | 83 | 8
-
Tác động của chính sách chuyển đổi số với bảo đảm quyền tiếp cận thông tin
9 p | 18 | 7
-
Pháp luật về bảo đảm quyền được thông tin của công dân và việc xây dựng Luật Tiếp cận thông tin
3 p | 74 | 6
-
Quyền tiếp cận công lý của người khuyết tật ở Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế
12 p | 11 | 6
-
Quyền tiếp cận thông tin: Từ lý luận đến thực tiễn Việt Nam
8 p | 80 | 6
-
Quyền tiếp cận thông tin khoa học và công nghệ trong hoạt động nghiên cứu khoa học và đổi mới ở Việt Nam
6 p | 35 | 6
-
Nâng cao cơ chế thực thi quyền được tiếp cận thông tin về hoạt động đánh giá tác động môi trường đến với người dân: Những hạn chế và một số giải pháp
8 p | 66 | 5
-
Bảo đảm quyền tiếp cận công lý - một yêu cầu trong việc bảo đảm quyền con người của tòa án
6 p | 106 | 4
-
Nguyên tắc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin theo tinh thần của Luật Tiếp cận thông tin năm 2016
5 p | 61 | 4
-
Bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong Luật Thư viện năm 2019 của Việt Nam
7 p | 24 | 4
-
Tài liệu tập huấn chuyên sâu về nội dung của Luật tiếp cận thông tin
108 p | 9 | 4
-
Thực hiện pháp luật về bảo đảm quyền tiếp cận thông tin về đất đai từ thực tiễn thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế
15 p | 6 | 4
-
Đảm bảo sự cân bằng giữa độc quyền sáng chế và quyền tiếp cận dược phẩm trong hệ thống bảo hộ sáng chế của Việt Nam
14 p | 35 | 4
-
Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp: Số 17/2019
68 p | 45 | 3
-
Quyền tiếp cận thông tin trong hoạt động lập pháp
5 p | 15 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn