ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ -------------------------------
NGUYỄN THANH BÌNH BẢO HIỂM Y TẾ
CHO NGƢỜI NGHÈO Ở HÀ NỘI
Chuyên ngành: Kinh tế chính trị
Mã số: 60 31 01
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. MAI THỊ THANH XUÂN
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ
Hà Nội - 2010
MỤC LỤC
Trang
i Bảng các chữ viết tắt.
ii Danh mục các bảng.
ii Danh mục các biểu đồ.
ii Danh mục các sơ đồ.
1 Mở đầu.
7 Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về BHYT cho ngƣời nghèo
1.1. Khái niệm, đặc điểm và bản chất của bảo hiểm y tế 7
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản liên quan đến BHYT 7
1.1.2. Đặc điểm chủ yếu của hoạt động BHYT 10
1.1.3. Bản chất của BHYT 13
1.2. Sự cần thiết của BHYT và cơ chế hình thành quỹ BHYT 17
1.2.1. Sự cần thiết của BHYT 17
1.2.2. Cơ chế hình thành và sử dụng quỹ BHYT 20
1.3. Bảo hiểm y tế cho người nghèo 27
1.3.1. Người nghèo và nhu cầu KCB của người nghèo 27
1.3.2. Chính sách của Nhà nước về BHYT cho người nghèo 34
1.3.3. Lập, quản lý và sử dụng quỹ BHYT cho người nghèo 35
1.3.4. Tổ chức cấp phát thẻ và KCB cho người nghèo 38
1.3.5. Kinh nghiệm phát triển BHYT cho người nghèo tại một số địa 40
phương
45 Chương 2: Thực trạng hoạt động BHYT cho ngƣời nghèo tại Hà Nội
và những vấn đề đặt ra
2.1. Khái quát về Hà Nội và BHYT Thành phố Hà Nội 45
2.1.1. Một số nét chủ yếu về kinh tế-xã hội Hà Nội 45
2.1.2. Khái quát về BHYT Thành phố Hà Nội 47
2.2. Thực trạng BHYT cho người nghèo ở Hà Nội 51
2.2.1. Chính sách của Thành phố Hà Nội về BHYT cho người nghèo 51
2.2.2. Tình hình thực hiện BHYT cho người nghèo ở Hà Nội từ năm 53
2005 đến nay
2.3. Đánh giá hoạt động BHYT cho người nghèo tại Hà Nội 68
2.3.1. Những thành tựu cơ bản 68
2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân 70
2.3.3. Một số vấn đề đặt ra cho BHYT người nghèo ở Hà Nội hiện 77
nay
82 Chƣơng 3: Định hƣớng và giải pháp phát triển BHYT cho ngƣời
nghèo ở Hà Nội trong thời gian tới
3.1. Định hướng phát triển BHYT cho người nghèo 82
3.1.1. Định hướng của Việt Nam 82
3.1.2. Định hướng của Thành phố Hà Nội 86
3.2. Một số giải pháp chủ yếu đẩy mạnh hoạt động BHYT cho 89
người nghèo ở Hà Nội
3.2.1. Tăng cường công tác tuyên truyền chủ trương chính sách của 89
Đảng và Nhà nước về CSSK cho người nghèo và cận nghèo
3.2.2. Củng cố hệ thống y tế, trước hết là mạng lưới y tế cơ sở 91
3.2.3. Tổ chức chặt chẽ quy trình bình chọn người nghèo và cấp phát 95
thẻ BHYT cho người nghèo
3.2.4. Đổi mới chính sách và cơ chế quản lý tài chính y tế đối với 97
các cơ sở KCB
3.2.5. Tăng cường công tác quản lý nhà nước về hoạt động BHYT 98
nói chung và BHYT cho người nghèo nói riêng
101 KẾT LUẬN
103 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Stt Từ viết tắt Nghĩa tiếng Việt
1 BHXH Bảo hiểm xã hội
2 BHYT Bảo hiểm y tế
3 BN Bệnh nhân
4 BV Bệnh viện
5 BHYTXH Bảo hiểm y tế xã hội
6 BHYTTN Bảo hiểm y tế tư nhân
7 BYT Bộ Y tế
8 BQL Ban quản lý
9 CSSK Chăm sóc sức khỏe
10 CP Chính phủ
11 GDP Tổng sản phẩm trong nước
12 HCSN Hành chính sự nghiệp
13 ILO Tổ chức Lao động quốc tế
14 KCB Khám chữa bệnh
15 KCB-BHYT Khám chữa bệnh Bảo hiểm Y tế
16 LĐTBXH Lao động – Thương binh và Xã hội
17 MDG Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ
18 NĐ Nghị định
19 NSNN Ngân sách nhà nước
20 Tp.HCM Thành phố Hồ Chí Minh
21 TTYT Trung tâm y tế
22 TYT Trạm y tế
i
23 TW Trung Ương
24 UBND Ủy ban nhân dân
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Số TT Tên bảng Trang
Bảng 1.1 Tình hình cấp thẻ BHYT cho người nghèo tại Tp. Hồ Chí 40
Minh
Bảng 2.1 GDP bình quân đầu người của Hà Nội và cả nước 2000-2010 46
Bảng 2.2 Tình hình phát triển quỹ BHYT người nghèo tại Hà Nội 54
Bảng 2.3 Kết quả thực hiện BHYT cho người nghèo trên địa bàn Tp.Hà 59
Nội
Bảng 2.4 Tần suất KCB của các đối tượng tham gia bảo hiểm 62
Bảng 2.5 Tần suất KCBBHYT tại Hà Nội sau khi thực hiện Luật BHYT 63
Bảng 2.6 Tổng hợp tần suất KCB và chi phí KCB của một người 64
nghèo/năm
Bảng 2.7 Tình hình cân đối Quỹ BHYT cho người nghèo 2005-2010 67
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Số TT Tên bảng Trang
Biểu đồ 2.1 Số thẻ BHYT cấp phát cho người nghèo qua các năm 57
Biểu đồ 2.2 Tần suất, chi phí và tổng chi phí KCB bình quân của một 65
người nghèo/năm
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ
Số TT Tên bảng Trang
Sơ đồ 2.1 Số bệnh nhân nghèo KCB nội trú và ngoại trú 60
Sơ đồ 2.2 Chi phí bình quân 1 lượt KCB của BN nội trú và ngoại trú 61
Sơ đồ 2.3 Thu – Chi quỹ BHYT người nghèo 2005-2010 68
ii
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sức khoẻ là vốn quý của con người, là điều kiện quan trọng của quá trình
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Chăm sóc sức khoẻ con người theo định
hướng công bằng, hiệu quả là một quan điểm của Đảng và Nhà nước ta, trong đó
tư tưởng xuyên suốt là xây dựng và phát triển nền y học Việt Nam, nhất là từ khi
công cuộc đổi mới được khởi xướng.
Sự phát triển kinh tế trong hơn 20 năm đổi mới đã cải thiện đáng kể về
điều kiện ăn, mặc, ở, đi lại, học hành, do vậy sức khoẻ của người dân ngày càng
được tăng cường. Chính sách Bảo hiểm Y tế (BHYT) ở nước ta được thực hiện
từ năm 1992 theo Nghị định số 299/HĐBT ngày 15/9/1992 của Hội đồng Bộ
trưởng (nay là Chính phủ). Nhưng trong giai đoạn này, người nghèo chưa được
Nhà nước mua BHYT, do đó khi đi khám chữa bệnh (KCB) vẫn phải đóng viện
phí, chỉ một số ít thuộc diện quá nghèo mới được miễn nộp viện phí, do đó gặp
rất nhiều khó khăn trong KCB.Tại đại hội VIII (1996), Đảng ta đưa ra quan điểm
''Tăng trưởng kinh kế phải gắn liền với tiến bộ xã hội và công bằng xã hội", đồng
thời nhấn mạnh: ''Trong xã hội ta, mọi người nghèo phải được khám chữa bệnh
và chăm sóc sức khoẻ chu đáo".
Thực hiện chủ trương đó, ngay từ năm 1992, nước ta đã có chính sách
BHYT. Từ đó đến nay, đã 18 năm trôi qua, số lượng người tham gia BHYT ngày
càng tăng, từ 3,8 triệu người/năm 1993 (chiếm 5,4% dân số) đã tăng lên 23,7
triệu người/năm 2005 (chiếm 28% dân số), và 53 triệu người/tháng 5-2010
(chiếm 62% dân số). Vậy nhưng, phần lớn người nghèo, kể cả người chưa được
cấp thẻ và người đã được cấp đều chưa được tiếp cận với dịch vụ khám chữa
1
bệnh (KCB) từ hệ thống y tế. Tình trạng đó do nhiều nguyên nhân, nhưng cơ bản
nhất vẫn là do khả năng kinh tế của họ không đáp ứng được nhu cầu khám chữa
bệnh. Mặt khác, do một số chính sách trợ giúp của Nhà nước về khám chữa bệnh
miễn phí, BHYT cho họ vẫn chưa được thực thi đầy đủ và đồng bộ. Thực tế này
đang đặt ra yêu cầu cho các nhà chức trách cũng như giới nghiên cứu là phải tìm
được những giải pháp hữu hiệu để đưa chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước thật sự đi vào cuộc sống, nhằm tạo điều kiện tốt hơn cho người nghèo trong
việc thụ hưởng các thành tựu trong lĩnh vực y tế , trước hết là trong chăm sóc sức
khoẻ.
Hà Nội là một địa phương có nhiều điều kiện hơn cả nước trong chăm sóc
sức khỏe cộng đồng, bởi đây là trung tâm chính trị, kinh tế, giáo dục, y tế… của
cả nước. Trong gần hai chục năm qua, BHYT tại Hà Nội đã từng bước phát triển
vững mạnh, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu KCB của mọi đối tượng dân cư,
trong đó có người nghèo, một bộ phân không nhỏ trong cộng đồng cư dân Thành
phố. Tuy vậy, dù đã có rất nhiều cố gắng, nhưng hiện vẫn còn nhiều người
nghèo trên địa bàn chưa được phát thẻ BHYT, hoặc đã được phát thẻ nhưng
không có điều kiện sử dụng nó, do nhiều vướng mắc cả về tài chính và thủ tục
hành chính. Điều đó đang đặt ra yêu cầu cho các ngành, các cấp, trực tiếp là
ngành Y tế , Lao động-Thương binh và Xã hội phải giải quyết kịp thời, nhằm
bảo đảm công bằng xã hội cho người nghèo trong việc thụ hưởng các dịch vụ
chăm sóc sức khỏe.
Xuất phát từ yêu cầu đó, chúng tôi chọn vấn đề “Bảo hiểm y tế cho người
nghèo ở Hà Nội” làm đối tượng nghiên cứu cho luận văn thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu.
BHYT là một vấn đề xã hội lớn, vì vậy đã được nhiều người quan tâm
2
nghiên cứu. Trong số các công trình đã công bố liên quan đến đề tài luận văn có
thể chia thành hai nhóm: Nhóm các công trình nghiên cứu về BHYT nói chung
và nhóm các công trình viết về BHYT tại các địa phương.
Các bài viết thuộc nhóm thứ nhất có các công trình quan trọng sau:
- “Kinh tế thị trường và yêu cầu hoàn thiện an sinh xã hội”, Tạp chí Luật
học, số 4, năm 2006. Bài viết khẳng định BHYT là hết sức cần thiết đối với mọi
người dân trên cơ sở phân tích những ưu điểm của BHYT.
- “Những giải pháp thúc đẩy tiến trình BHYT toàn dân” của Đỗ Văn Sinh
đăng trên Tạp chí Y học lâm sàng, số 11, năm 2007. Nội dung bài viết đưa ra
những thuận lợi, khó khăn của BHYT toàn dân và đưa ra những giải pháp thúc
đẩy tiến trình BHYT toàn dân.
- “BHYT: Sự ra đời và đổi mới chính sách an sinh xã hội” của Trần Khắc
Lộng, đăng trên tạp chí Bảo hiểm xã hội, số 10, năm 2007. Nội dung bài viết
khái quát tình hình thực hiện an sinh xã hội, trong đó có nêu lên thực trạng tình
hình khám chữa bệnh cho người nghèo và đưa ra các giải pháp khám chữa bệnh
cho người nghèo.
-“Các giải pháp tài chính y tế cho người nghèo”, Báo cáo nghiên cứu của
nhóm nghiên cứu: Dương Huy Liệu; Nguyễn Hoàng Long; Phan Thanh Thuỷ;
Đặng Bội Hương và cộng sự, năm 2005. Nội dung báo cáo đã đánh giá thực
trạng nghèo đói và nhu cầu chăm sóc sức khoẻ của người nghèo tại Việt Nam.
Đánh giá các kết quả và hạn chế của các giải pháp tài chính y tế cho người nghèo
đã được thực hiện tại Việt Nam. Đề xuất các giải pháp có tính khả thi về cơ chế
cung cấp tài chính chăm sóc sức khoẻ cho người nghèo.
- “Sự khác biệt về giới trong sẵn sàng chi trả cho mô hình BHYT dựa vào
cộng đồng ở một vùng nông thôn Việt Nam”, Luận văn Thạc sỹ y tế công cộng
3
của tác giả Nguyễn Thanh Hà, lưu tại Thư viện Quốc gia, năm 2005. Công trình
này đã nghiên cứu so sánh giữa nam giới và nữ giới về trình độ học vấn, về số
thành viên trong hộ gia đình có số thành viên là người già và đưa ra kết luận tỷ lệ
nữ giới có bảo hiểm (bất kỳ loại nào) thấp hơn nam giới. Những đặc điểm này đã
dẫn tới sự khác biệt trong sẵn sàng chi trả cho mô hình BHYT dựa vào cộng
đồng của nam và nữ.
Ngoài ra còn có một số Luận văn thạc sỹ và khoá luận tốt nghiệp đại học
cũng đã nghiên cứu vấn đề này ở những góc độ khác nhau.
Thuộc nhóm thứ hai có các công trình:
- “Đánh giá thực trạng và hiệu quả áp dụng phương thức chi trả BHYT bắt
buộc tại các bệnh viện tuyến huyện tỉnh Thanh Hoá”, luận án tiến sỹ y học của
Trần Khắc Lộng , lưu tại Thư viện Quốc gia năm 2005. Nội dung tác phẩm đã
đánh giá thực trạng thực hiện phương thức chi trả theo giá ngày giường và phí
dịch vụ BHYT bắt buộc tại hai bệnh viện huyện Hoằng Hoá và thị xã Thanh Hoá
năm 1993-1996. Đánh giá hiệu quả phương thức chi trả khoán quỹ định xuất
theo thẻ BHYT bắt buộc tại hai bệnh viện trên trong hai năm1997-1998.
- “Nghiên cứu thực trạng và góp phần hoàn thiện mô hình khám chữa
bệnh BHYT tại trạm y tế xã Phù Linh và Đức Hoà huyện Sóc Sơn, Thành phố
Hà Nội”, luận án tiến sỹ y học của Lương Ngọc Khuê, lưu tại Thư viện Quốc
gia, năm 2005. Trong công trình này tác giả đã mô tả kiến thức, thái độ và thực
hành của người dân, các cấp chính quyền, đánh giá những kết quả, tồn tại, các
yếu tố ảnh hưởng và những thách thức đối với các cơ sở y tế thực hiện nhiệm vụ
khám chữa bệnh cho người có thẻ BHYT. Đánh giá bước đầu hiệu quả của một
số biện pháp can thiệp khám chữa bệnh cho người có thẻ BHYT tại hai xã Phù
4
Linh và Đức Hoà huyện Sóc Sơn thành phố Hà Nội.
Và còn nhiều nghiên cứu khác đề cập đến BHYT. Nhìn chung các nghiên
cứu trên đã đề cập đến nhiều khía cạnh khác nhau của BHYT. Đó là nguồn tài
liệu quí giá để tôi kế thừa trong quá trình thực hiện luận văn. Tuy nhiên về khía
cạnh BHYT cho người nghèo, đặc biệt trên địa bàn Hà Nội thì chưa có một công
trình nào nghiên cứu một cách hệ thống và toàn diện. Vì vậy việc tìm hiểu vấn
đề BHYT cho đối tượng người nghèo ở Hà Nội dưới giác độ nghiên cứu của một
luận văn thạc sỹ là hết sức cần thiết.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của luận văn là làm rõ thực trạng và các nguyên nhân của những
hạn chế trong công tác triển khai BHYT cho người nghèo ở Hà Nội hiện nay,
trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác này
trong những năm tới.
Để thực hiện mục đích đó luận văn có nhiệm vụ.
- Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của công tác BHYT cho người nghèo
tại thành phố Hà Nội
- Phân tích thực trạng công tác BHYT cho người nghèo ở Hà Nội hiện nay
đánh giá những thành tựu và hạn chế trong công tác này, tìm ra nguyên nhân
kinh tế - xã hội dẫn đến tình trạng đó.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển BHYT cho người nghèo tại Hà
Nội trong thời gian tới được tốt hơn.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.
* Đối tượng nghiên cứu của đề tài là BHYT cho người nghèo và chăm lo
sức khỏe cho người nghèo thông qua các hoạt động lập quỹ BHYT, cấp phát thẻ,
triển khai khám chữa bệnh cho người nghèo, kể cả nông dân, công nhân viên
5
chức, học sinh, sinh viên thuộc diện nghèo khó theo tiêu chuẩn của Nhà nước.
*Phạm vi nghiên cứu:
- Về không gian: Đề tài giới hạn phạm vi nghiên cứu là BHYT cho đối
tượng người nghèo trên địa bàn Hà Nội.
- Về thời gian: Từ năm 2000 đến nay
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp chung: Luận văn sử dụng phương pháp của chủ nghĩa duy
vật biện chứng, duy vật lịch sử và phương pháp của kinh tế chính trị.
- Phương pháp cụ thể: Sử dụng phương pháp. Phân tích - tổng hợp, thống
kê - so sánh, lôgic – lịch sử và phương pháp phỏng vấn
6. Đóng góp mới của luận văn.
- Phân tích, đánh giá thực trạng BHYT cho người nghèo ở Hà Nội, trên cơ
sở đó rút ra hạn chế và nguyên nhân của nó
- Đề xuất giải pháp để hoàn thiện chính sách BHYT cho người nghèo.
- Làm tài liệu tuyên truyền vận động thực hiện chính sách BHYT cho
người nghèo trong giai đoạn hiện nay.
7. Nội dung của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục Tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm 3 chương, 8 tiết:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về bảo hiểm y tế cho người nghèo.
Chƣơng 2: Thực trạng hoạt động bảo hiểm y tế cho người nghèo ở Hà
Nội và một số vấn đề đặt ra.
Chƣơng 3: Định hướng và giải pháp phát triển bảo hiểm y tế cho người
6
nghèo ở Hà Nội trong thời gian tới.
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ
BẢO HIỂM Y TẾ CHO NGƢỜI NGHÈO
1.1. Khái niệm, đặc điểm và bản chất của bảo hiểm y tế
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản liên quan đến bảo hiểm
1.1.1.1. Bảo hiểm xã hội
Trong đời sống hàng ngày, con người luôn đối mặt với những biến động
phức tạp ở mọi lúc, mọi nơi, mọi tình huống, mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Những biến động này trong nhiều trường hợp là không thể nhận biết và đoán
trước được. Đời sống xã hội càng phát triển thì những biến động bất ngờ không
ngừng tăng lên. Những biến động đó được gọi là rủi ro. Rủi ro có thể do con
người hoặc do thiên nhiên gây ra và hậu quả là rất khó lường. Để tồn tại, phát
triển, con người luôn tìm cách đấu tranh, né tránh, kiểm soát, hạn chế và chia sẻ
những rủi ro có thể gặp phải. Sự ra đời của bảo hiểm xã hội (BHXH) là nhằm
mục đích chia sẻ rủi ro có thể xẩy ra đó.
Hiện vẫn còn nhiều quan niệm khác nhau về BHXH, tùy thuộc vào góc độ
tiếp cận khác nhau. Trong đó, một khái niệm được đưa ra trên trang Từ điển
Wikipedia là khá thuyết phục. Đó là: Bảo hiểm xã hội là loại hình bảo hiểm do
Nhà nước tổ chức và quản lý nhằm thỏa mãn các nhu cầu vật chất ổn định cuộc
sống của người lao động và gia đình họ khi gặp những rủi ro làm giảm hoặc mất
khả năng lao động [43]. Về thực chất, BHXH là sự bảo đảm thay thế hoặc bù
đắp một phần thu nhập cho người lao động khi họ bị mất hoặc giảm thu nhập do
bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, tàn tật, thất nghiệp,
tuổi già, tử tuất; dựa trên cơ sở một quỹ tài chính do sự đóng góp của các bên
7
tham gia BHXH, có sự bảo hộ của Nhà nước theo pháp luật, nhằm bảo đảm an
toàn đời sống cho người lao động và gia đình họ, đồng thời góp phần đảm bảo an
toàn xã hội.
Như vậy, bảo hiểm xã hội là biện pháp hữu hiệu chia sẻ rủi ro của một
người hay của số một ít người cho cả cộng đồng những người có khả năng gặp
rủi ro cùng loại, bằng cách mỗi người trong cộng đồng giúp một số tiền nhất
định vào một quỹ chung và từ quỹ chung đó bù đắp thiệt hại cho thành viên
trong cộng đồng không may bị thiệt hại do rủi ro đó gây ra. Nói cách khác,
BHXH được xem như là một cách thức chuyển giao rủi ro tiềm năng một cách
công bằng từ một cá thể sang cộng đồng thông qua phí bào hiểm.
Theo khuyến nghị của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) tại Công ước
Giơnevơ năm 1952, hệ thống BHXH bao gồm nhiều hoạt động, như: Chăm sóc
y tế; Trợ cấp ốm đau; Trợ cấp thất nghiệp; Trợ cấp tuổi già; Trợ cấp tai nạn lao
động và bệnh nghề nghiệp; Trợ cấp gia đình; Trợ cấp sinh sản; Trợ cấp tàn phế;
Trợ cấp cho người bị mất người nuôi dưỡng. Như trên đã đề cập, trong khuôn
khổ luận văn này chỉ nghiên cứu về họat động bảo hiểm xã hội về y tế, tức
BHYT, cụ thể hơn là BHYT cho người nghèo.
1.1.1.2. Bảo hiểm y tế
Mỗi một quốc gia phải xác định phương thức tốt nhất đảm bảo cho người
dân có được sự an toàn nhất định về thu nhập cũng như tiếp cận các dịch vụ y tế.
Phát triển hệ thống an sinh xã hội sẽ bảo đảm sự an toàn tối thiểu cho cuộc sống
của mọi cá nhân, nhằm giảm bớt bất bình đẳng giữa cá nhân, các nhóm người
trong xã hội. An sinh xã hội là một công cụ chính yếu trong cuộc chiến chống
đói nghèo, là nhân tố phát triển kinh tế xã hội ở các nước đang phát triển. An
sinh xã hội là sự bảo vệ mà xã hội cung cấp cho mỗi thành viên thông qua các
8
biện pháp công cộng. Nó có tác dụng làm giảm bớt sự bất ổn về kinh tế – xã hội
gây ra bởi tình trạng giảm sút đáng kể thu nhập do ốm đau, thai sản, thương tật
trong lao động, thất nghiệp, tàn tật, tuổi già, tử vong.
Chăm sóc y tế là một bộ phận của an sinh xã hội, chăm sóc y tế trong an
sinh xã hội được thể hiện chủ yếu dưới hình thức BHYT. Hay nói khác đi,
BHYT là một trong những bộ phận quan trọng của hệ thống bảo đảm xã hội, hay
còn gọi là hệ thống an sinh xã hội.
Bảo hiểm y tế là các quan hệ kinh tế gắn liền với việc huy động các nguồn
tài lực từ sự đóng góp của những người tham gia bảo hiểm để hình thành quỹ
bảo hiểm, và sử dụng quỹ đó để thanh toán các chi phí khám chữa bệnh cho
người được bảo hiểm khi ốm đau. Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, BHYT là
loại bảo hiểm do Nhà nước tổ chức, quản lý nhằm huy động sự đóng góp của cá
nhân, tập thể và cộng đồng xã hội để chăm lo sức khỏe, khám bệnh và chữa bệnh
cho nhân dân [41]. Phát triển nội dung đó, Luật BHYT (năm 2008) đưa ra khái
niệm: Bảo hiểm y tế là hình thức bảo hiểm được áp dụng trong lĩnh vực chăm
sóc sức khỏe, không vì mục đích lợi nhuận, do Nhà nước tổ chức thực hiện và
các đối tượng có trách nhiệm tham gia theo quy định của Luật này. Như vậy,
BHYT là một chính sách xã hội do Nhà nước tổ chức quản lý nhằm huy động sự
đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động, các tổ chức và các cá
nhân để thanh toán chi phí khám chữa bệnh cho người có thẻ BHYT khi ốm đau.
Như vậy, bảo hiểm y tế đảm bảo cho những người tham gia có khả năng để đề
phòng, ngăn ngừa bệnh tật, phát hiện sớm bệnh tật, chữa trị, khôi phục sức khỏe
sau bệnh tật.
Hệ thống bảo hiểm xã hội về y tế ngay từ khi hình thành đã định hướng
theo nguyên tắc đáp ứng đặc biệt và không phải chi trả trực tiếp. Điều đó thể
9
hiện rõ khi bị ốm đau người bệnh sẽ được chữa trị cho đến khi khỏe mạnh bằng
mọi phương pháp kỹ thuật y tế hiện thời mà không căn cứ trước đó họ đã đóng
BHYT được bao nhiêu. Định hướng này là nền tảng cho các nguyên tắc cơ bản
về BHYT.
BHYT có thể được thực hiện bởi Nhà nước (BHXH về y tế, hay
BHYTXH) hoặc tư nhân (BHTN về y tế, hay BHYTTN). BHYTXH là hoạt động
mang tính cộng đồng, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, mà nhằm mục tiêu
an sinh xã hội trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe; còn BHYTTN là hoạt động
thương mại, vì mục tiêu lợi nhuận. Nếu BHYTTN hướng vào đối tượng người
giàu, người có thu nhập cao, thực hiện theo sự thỏa thuận dân sự giữa người mua
(cá nhân) và người bán (các doanh nghiệp hay tổ chức tư nhân), với mức phí bảo
hiểm được tự do lựa chọn theo bảng danh mục quy định, mà không căn cứ vào
tiền lương, hay tiền công của người lao động; thì BHYTXH hướng vào nhiều đối
tượng, trong đó đặc biệt quan tâm đến người nghèo, không phân biệt tuổi tác,
giới tính hay tình trạng sức khỏe, mà căn cứ vào thu nhập, với mức phí được
pháp luật qui định. Tại các nước công nghiệp phát triển, loại hình BHYTTN
được tồn tại và phát triển song song với BHYTXH, song ở Việt Nam, do tầm
quan trọng đặc biệt của BHYT (liên quan đến sức khỏe và tính mạng của con
người) nên Nhà nước là tổ chức chủ yếu thực hiện BHYT. Vì vậy, trong luận văn
này, khái niệm BHYT được hiểu là BHYTXH.
1.1.2. Đặc điểm chủ yếu của của hoạt động BHYT
Thứ nhất, BHYT là sự chuyển giao rủi ro tiềm năng một cách công bằng
từ một cá thể sang cộng đồng thông qua phí bảo hiểm. Đây là biện pháp chia sẻ
rủi ro của một người hay của một số ít người cho cả cộng đồng những người có
10
khả năng gặp rủi ro cùng loại; bằng cách mỗi người trong cộng đồng góp một số
tiền nhất định vào một quỹ chung và từ quỹ chung đó bù đắp thiệt hại cho thành
viên trong cộng đồng không may bị thiệt hại do rủi ro đó gây ra.
Thứ hai, BHYT là một hoạt động không vì mục đích lợi nhuận, mà vì mục
đích xã hội. Chi phí KCB cho đối tượng đóng BHYT được cân đối giữa một bên
là tổng số chi phí KCB cho những người có nhu cầu và cần phải KCB, và bên
kia là tổng số đóng góp của tất cả những người tham gia BHYT, bất kể họ có
nhu cầu hoặc không có nhu cầu KCB (tức họ đang khỏe). Bảo hiểm y tế, vì vậy
thể hiện bản chất nhân đạo cộng đồng, mang tính nhân văn sâu sắc khác với Bảo
hiểm y tế tư nhân (khác với Bảo hiểm y tế tư nhân là kinh doanh vì mục tiêu lợi
nhuận). Những người nghèo khó tham gia loại hình này, bởi khoản phí bảo hiểm
định kỳ có thể chiếm hết thu nhập của họ. Bảo hiểm y tế thương mại không đóng
góp nhiều vào việc cung cấp dịch vụ y tế cho người nghèo như bảo hiểm xã hội.
Có thể nói Bảo hiểm y tế dựa trên tư tưởng nhân bản còn Bảo hiểm y tế thương
mại dựa trên phương pháp thị trường, trong đó sức mua chứ không phải nhu cầu
là nhân tố ảnh hưởng đến dịch vụ bảo hiểm được cung cấp, BHYT sẽ không còn
là công cụ của an sinh xã hội nếu chấp nhận nguyên tắc thị trường bởi mục đích
chính của BHYT là giảm, khắc phục mặt trái thị trường, để thực hiện công bằng
trong khám chữa bệnh cho người dân.
Thứ ba, BHYT vừa là hoạt động bắt buộc, vừa là hoạt động tự nguyện.
Theo Nghị định 299 ngày 15/8/1992, Bảo hiểm y tế được áp dụng bắt buộc đối
với cán bộ, công nhân viên tại chức, hưu trí, nghỉ mất sức lao động trong các đơn
vị hành chính sự nghiệp, tổ chức Đảng, đoàn thể xã hội, hội quần chúng có
hưởng lương từ ngân sách, các doanh nghiệp quốc doanh, kể cả doanh nghiệp
liên doanh trong trong lực lượng vũ trang, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh
11
có thuê từ 10 lao động trở lên, các doanh nghiệp có liên doanh với nước ngoài và
tổ chức quốc tế tại Việt Nam. Còn các đối tượng khác thì không bắt buộc, mà
tham gia BHYT tự nguyện.
Bảo hiểm y tế sẽ đảm bảo chi trả toàn bộ hoặc từng phần những chi phí
khổng lồ nói trên, giúp người bệnh vượt qua hoạn nạn về bệnh tật, san sẻ ghánh
nặng tài chính, ổn định cuộc sống gia đình.
Thứ tư, BHYT là một hàng hóa dịch vụ đặc biệt. Việc sử dụng dịch vụ
BHYT cũng đồng nghĩa với việc bản thân bị ốm đau, bệnh tật, nên không một ai
lại muốn mình bị đau ốm cả. Vậy nên, việc người ta mua BHYT thực chất chỉ là
bỏ tiền ra để đổi lấy “sự an tâm”, là đổi lấy cái sự không chắc chắn có khả năng
xảy ra thiệt hại bằng sự chắc chắn thông qua việc bù đắp bằng tài chính, chứ
không mong muốn sử dụng dịch vụ đó. Hơn nữa, việc mua-bán dịch vụ BHYT
lại không phải chi trả trực tiếp. Đó cũng là lý do chủ yếu làm cho nhiều người
không nhìn thấy được lợi ích của BHYT, và đã không sẵn sàng tham gia.
Thứ năm, BHYT là một nội dung của BHXH. Bảo hiểm y tế là chế độ
chăm sóc y tế trong hệ thống an sinh xã hội. Mục đích của Bảo hiểm y tế nhằm
đảm bảo cho đông đảo người dân tiếp cận dịch vụ chăm sóc y tế và công bằng
trong khám chữa bệnh. Khi lâm bệnh, người bệnh buộc phải đến các cơ sở y tế
để được khám chữa bệnh, mỗi lần như thế phải mất một khoản phí. Đặc biệt, với
những bệnh mãn tính, bệnh hiểm nghèo cần sử dụng những công nghệ cao trong
chẩn đoán, chữa trị, sử dụng các loại thuốc đắt tiền, điều trị dài ngày tại các bệnh
viện, các khoản phí khám chữa bệnh rất lớn. Với những khoản chi phí này không
phải cá nhân nào cũng có thể tự lo liệu được. Bệnh tật đã đẩy con người vào
thảm cảnh lo ngại, nhất là đối với những người nghèo. Họ phải vay mượn để
chữa trị, gánh nặng bệnh tật, nợ nần cùng lúc đè nặng lên vai họ. Những người
12
có điều kiện kinh tế hơn hoặc cận nghèo, sau những đợt bệnh tật hiểm nghèo có
thể bị đẩy vào cảnh nghèo khó. Bệnh tật đe dọa đến cơ sở kinh tế, sự tồn tại của
bản thân và các thành viên trong gia đình, thậm chí ảnh hưởng đến sự ổn định
của xã hội.
Vì vậy, BHYT là loại hình bảo hiểm mang tính nhân đạo nhất trong số tất
cả các loại hình bảo hiểm. BHYT đáp ứng yêu cầu chăm sóc sức khoẻ với chất
lượng ngày càng cao đối với đại bộ phận dân cư. Với BHYT mọi người sẽ được
bình đẳng hơn, được điều trị theo bệnh, đây là đặc trưng ưu việt thể hiện tính
nhân đạo sâu sắc của BHYT. Tham gia BHYT vừa có lợi cho mình, vừa có lợi
cho xã hội. Sự đóng góp của mỗi người chỉ là sự đóng góp phần nhỏ so với chi
phí KCB khi rủi ro, ốm đau, thậm chí sự đóng góp của cả đời người không đủ
cho một lần chi phí khi mắc bệnh hiểm nghèo. Trong trường hợp đó cộng đồng
xã hội sẽ giúp đỡ thông qua quỹ BHYT. Đóng BHYT là sự chi trả cho chính
mình, khi khoẻ thì người ốm chi dùng, còn khi đau ốm thì được sự đóng góp của
cả cộng đồng chăm sóc. Đó là tinh thần: "mình vì mọi người, mọi người vì
mình". BHYT không nhằm mục đích kiếm lời, chỉ nhằm san sẻ rủi ro, gánh nặng
chi phí cho người bệnh, thể hiện sự đùm bọc lẫn nhau khi có khó khăn xảy ra,
thể hiện sự văn minh của xã hội.
1.1.3. Bản chất của bảo hiểm y tế
Về thực chất, Bảo hiểm y tế là quan hệ kinh tế gắn liền với việc huy động
các nguồn tài lực từ sự đóng góp của những người tham gia bảo hiểm để hình
thành quỹ bảo hiểm, và sử dụng quỹ để thanh toán các chi phí khám chữa bệnh
cho người được bảo hiểm khi ốm đau. Với tính chất là một hoạt động xã hội do
Nhà nước tổ chức, quản lý, BHYT vừa mang tính chất xã hội, vừa mang bản chất
kinh tế.
13
Bản chất xã hội của BHYT được thể hiện trên các khía cạnh sau:
Thứ nhất, BHYT là thể hiện sự bảo trợ của Nhà nước về chăm sóc y tế
dành cho các thành viên. BHYT là một bộ phận quan trọng trong chính sách xã
hội của mỗi quốc gia, nhằm đảm bảo quyền thiêng liêng của con người - được
Tuyên ngôn nhân quyền khẳng định, đó là quyền được chăm sóc y tế. Nguy cơ
bệnh tật có thể đến với bất kỳ ai, không phân biệt giàu nghèo, không phân biệt
quốc gia, dân tộc và không ai có thể đơn phương chống đỡ. Bảo vệ và chăm sóc
sức khỏe không thuần túy là trách nhiệm của mỗi cá nhân, mà phải có sự trợ giúp
của cả cộng đồng, mang tính xã hội. Nhà nước với chức năng và quyền lực của
mình có điều kiện nhất đứng ra tổ chức, quản lý, bảo trợ. Đồng thời với công cụ
BHYT, Nhà nước quan tâm chăm sóc sức khỏe của tầng lớp nhân dân nghèo –
những người yếu thế hơn trong việc tiếp cận các dịch vụ y tế, từ đó đảm bảo ổn
định xã hội.
Thứ hai, BHYT là sự liên kết chia sẻ rủi ro mang tính cộng đồng giữa các
thành viên trong xã hội. Bên cạnh sự trợ giúp mang tính Nhà nước, tính xã hội
của BHYT còn thể hiện ở sự chia sẻ, liên kết của chính các thành viên trong xã
hội thông qua đóng góp dựa trên thu nhập. Các thành viên trong xã hội tham gia
đóng góp một phần thu nhập vào quỹ chung để chăm sóc y tế cho mình và các
thành viên khác. Bệnh tật, những rủi ro không phải lúc nào cũng xuất hiện cùng
một lúc với tất cả mọi người. Thực tế cho thấy có người ốm lúc này, người ốm
lúc khác, có người bệnh nặng, có người bệnh nhẹ, có người hay ốm, có người ít
ốm, bệnh tật thường đến bất ngờ không báo trước. Nếu cứ để mỗi người tự
chống chọi với bệnh tật thì họ sẽ khó có đủ tiền để trang trải.
BHYT, với sự liên kết mang tính cộng đồng rộng rãi, sẽ chia rủi ro bệnh
tật. Một quỹ chung chăm sóc sức khỏe được điều tiết để nhiều người chưa hoặc
14
ít ốm đau chăm sóc, giúp đỡ người hay ốm, bệnh nặng. Việc điều tiết giữa những
người sống khỏe mạnh và những người mang bệnh – chịu nỗi đau về thể xác,
tinh thần là hành động mang tính nhân văn sâu sắc.
Thứ ba, tính xã hội của BHYT được thể hiện ở sự đoàn kết trong chăm sóc
y tế. Chăm sóc y tế thông qua BHYT không phân biệt mức đóng nhiều, đóng ít,
không phân biệt thành phần xã hội, tôn giáo, giai cấp mà phụ thuộc mức độ rủi
ro bệnh tật. Thực tế cho thấy những người nghèo, người có thu nhập thấp thường
hay ốm đau, cần nhiều kinh phí chữa bệnh. Hơn nữa, ốm đau lại làm giảm hoặc
mất thu nhập nên họ khó khăn hơn để tiếp cận với các dịch vụ y tế. BHYT giúp
họ vượt qua những khó khăn này.
Vậy, bản chất xã hội của BHYT thể hiện ở sự trợ giúp mang tính Nhà
nước và sự tương trợ mang tính cộng đồng. BHYT thể hiện bản chất nhân đạo
với mục đích thực hiện công bằng trong chăm sóc sức khỏe.
“Bảo hiểm y tế là một trong các hoạt động nhân đạo nhất, thể hiện sự
hỗ trợ tương thân tương ái trong chăm sóc sức khỏe giữa người giàu
với người nghèo, giữa người thuận lợi về sức khỏe với người ốm đau và
rủi ro về sức khỏe, giữa người đang độ tuổi lao động với người già và
trẻ em…” (Trích Chỉ thị số 38-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương
Đảng).
Bản chất kinh tế của BHYT thể hiện ở chỗ, đây là một lĩnh vực có thu,
có chi đồng thời thực hiện phân phối lại thu nhập. Quá trình phân phối lại thu
nhập của BHYT là quá trình kinh tế nhằm mục đích thực hiện công bằng xã hội.
Trong BHYT, có phân phối trực tiếp và gián tiếp. Phân phối trực tiếp thể hiện ở
sự chuyển phần thu nhập của người trẻ khỏe cho người già, yếu, những người
15
đang ốm đau, thông qua sự luân chuyển của chính phần thu nhập mà người ta
đóng góp trực tiếp cho quỹ BHYT. Phân phối gián tiếp thể hiện ở sự hỗ trợ giữa
người giàu và nghèo, người thu nhập cao và thu nhập thấp.
Mức đóng BHYT xã hội căn cứ vào thu nhập, chứ không căn cứ vào tình
trạng sức khỏe, thường được quy định một tỷ lệ phần trăm theo mức tiền lương
hoặc tiền công. Người có thu nhập cao đóng nhiều, người có thu nhập thấp đóng
ít. Điều đó khác hẳn với BHYT thương mại, bởi mức đóng trong BHYT thương
mại lại được ấn định trước dựa trên độ rủi ro. Nếu mức độ rủi ro bảo hiểm cao
thì mức phí đóng cao và ngược lại, do vậy, các đối tượng người nghèo, người có
thu nhập thấp hiếm khi tham gia BHYT thương mại. Thực tế này dễ hiểu bởi đó
là sự dung hòa mâu thuẫn về lợi ích kinh tế khi nhà kinh doanh kiên trì với mục
tiêu lợi nhuận, còn người tham gia bảo hiểm luôn có xu hướng lựa chọn ngược,
nghĩa là có bệnh, có thể ốm yếu mới tham gia. Những người giàu sẵn sàng đóng
mức phí cao để được nhận lại những đền bù tương ứng. Với họ sức khỏe là vấn
đề rất quan trọng nên hệ thống BHYT xã hội không đáp ứng hết nhu cầu, và
BHYT thương mại là sự lựa chọn thích hợp. Họ sẽ nhận lại được số tiền lớn hay
dịch vụ chất lượng cao nếu đóng phí cao cho cơ quan kinh doanh bảo hiểm.
Mức hưởng BHYT xã hội bao nhiêu là tùy thuộc mức độ nặng, nhẹ của
bệnh tật mà người đóng bảo hiểm phải chịu. Mức hưởng BHYT không xác định
trước, bởi vì không thể xác định ai sẽ mắc bệnh và mắc bệnh gì, vào lúc nào, chi
phí điều trị là bao nhiêu. Vì vậy, khái niệm đóng góp theo khả năng, hưởng theo
nhu cầu (bị giới hạn theo điều lệ BHYT ở từng quốc gia) trở thành một nguyên
16
lý của BHYT.
1.2. Sự cần thiết của BHYT và cơ chế hình thành quỹ BHYT
1.2.1. Sự cần thiết của BHYT
BHYT là hoạt động mang tính xã hội, nhằm mục tiêu chung tay cùng cộng
đồng chia sẻ rủi ro cho cá nhân khi họ bị bệnh tật, tai nạn, vì vậy là rât cần thiết
đối với mỗi người, nhất là đối với những người nghèo, cận nghèo, người cao tuổi
và trẻ em. Tham gia BHYT, vì vậy vừa là trách nhiệm, vừa là quyền lợi đối với
mỗi người, nên đó là hoạt động hết sức cần thiết. Thể hiện:
Thứ nhất, BHYT làm giảm gánh nặng về chi phí khám chữa bệnh cho cá
nhân
Khi lâm bệnh, người bệnh buộc phải đến các cơ sở y tế để được khám
chữa bệnh. Bệnh tật, nhất là những bệnh kinh niên, bệnh mãn tính, bệnh hiểm
nghèo đòi hỏi một khoản chi phí KCB rất lớn, thường vượt quá khả năng chi trả
nhiều lần so với thu nhập của mỗi người, nhất là người nghèo. Có những người
bệnh phải được sử dụng các công nghệ kỹ thuật cao trong việc chẩn đoán và
chữa trị bệnh, phải sử dụng các loại thuốc đắt tiền và phải lưu trú dài ngày tại
bệnh viện. Những khoản chi phí này không phải ai cũng có thể tự lo liệu được.
Bệnh tật đã dồn con người vào những thảm cảnh đáng lo ngại. Đối với
những người bệnh do hoàn cảnh nghèo túng thì phải vay mượn để chữa trị bệnh
tật và sau đó trả nợ và có nhiều người cũng không thể vay mượn để tiếp tục được
chữa trị. Những người có điều kiện kinh tế khá giả hơn hoặc cận nghèo thì sau
những đợt bệnh tật cũng có thể bị đẩy vào tình cảnh nghèo khó. Đó là chưa kể
đến việc người bị bệnh sẽ không thể làm việc được, điều đó đồng nghĩa với sự
giảm sút về thu nhập, đe doạ đến cuộc sống và sức khỏe trong tương lai của bản
17
thân và gia đình. Do vậy, người ta phải cần đến BHYT.
Thứ hai, BHYT giúp mỗi người tăng khả năng phòng ngừa bệnh tật. Do
BHYT sẽ đảm bảo chi trả toàn bộ hoặc từng phần các chi phí KCB cho người
tham gia bảo hiểm, nên nó giúp người bệnh vượt qua cơn hoạn nạn về bệnh tật,
sớm phục hồi sức khoẻ cũng như ổn định cuộc sống gia đình. Đó cũng là điều
kiện để những người tham gia BHYT và các thành viên gia đình của họ có khả
năng để đề phòng, ngăn ngừa bệnh tật; phát hiện sớm bệnh tật; chữa trị và khôi
phục lại sức khoẻ sau bệnh tật.
Trong hoạt động BHYT, tính cộng đồng đoàn kết cùng chia xẻ rủi ro rất
cao. Nó là nền tảng cho lĩnh vực bảo vệ và chăm sóc sức khỏe; nó điều tiết mạnh
mẽ nguồn tài chính giữa người khoẻ mạnh với người ốm yếu, giữa thanh niên
với người già cả và giữa người có thu nhập cao với những người có thu nhập
thấp. Sự đoàn kết tương trợ lẫn nhau trong BHYT là sự đảm bảo cho từng người
dựa trên cơ sở của sự đoàn kết không điều kiện, của sự hợp tác cùng chung lòng,
chung sức và gắn kết chặt chẽ với nhau. Do đó, sự đoàn kết tương trợ vừa mang
một ý nghĩa tự giác, vừa mang ý nghĩa cùng chịu trách nhiệm và vừa có sự thống
nhất về quan điểm chung. Đây cũng chính là bản chất nhân văn của hoạt động
BHYT.
Thứ ba, BHYT làm tăng trách nhiệm xã hội đối với người lao động.
Những quy định luật pháp về BHYT đã chỉ rõ trách nhiệm của xã hội, của các
doanh nghiệp và của mỗi người lao động trong việc tham gia BHYT, nên khi
mọi đối tượng nói trên cùng thực hiện một mục tiêu là chăm sóc sức khỏe người
lao động, nhờ đó người lao động có nhiều cơ hội để chăm lo sức khỏe cho bản
thân, tăng năng suất lao động. Đối với người lao động, khi có việc làm và khỏe
mạnh sẽ đóng góp một phần tiền lương, thu nhập của mình vào quỹ BHYT, để
18
phòng khi ốm đau, tai nạn, lúc sinh đẻ vẫn có chỗ dựa để ổn định cuộc sống. Đối
với người sử dụng lao động cũng phải có trách nhiệm bảo vệ người lao động khi
gặp rủi ro để giảm bớt những khó khăn, lo lắng về nguồn lao động của doanh
nghiệp, yên tâm tổ chức sản xuất, kinh doanh. Việc doanh nghiệp đóng BHYT
cho người lao động, trước mắt có thể sẽ làm tăng chi phí sản xuất, giảm lợi
nhuận của doanh nghiệp, nhưng về lâu dài, trách nhiệm bảo vệ người lao động
khi gặp rủi ro họ sẽ chuyển giao về phía xã hội, và rủi ro được điều tiết trên
phạm vi toàn xã hội. Còn Nhà nước, với tư cách là người xây dựng chính sách,
chế độ, tổ chức triển khai và giám sát quá trình thực hiện BHYT sẽ góp phần
thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ của người tham gia. Như vậy nhà nước giữ vai
trò quản lý về BHYT, bảo hộ cho quỹ BHYT mà không phải chi từ ngân sách
nhà nước cho lĩnh vực này. Mặt khác, chính sách BHYT là một bộ phận quan
trọng của chính sách xã hội, giúp Nhà nước điều tiết mối quan hệ giữa chính
sách kinh tế và xã hội trên phương diện vĩ mô, bảo đảm cho nền kinh tế liên tục
phát triển và giữ gìn ổn định xã hội trong từng thời kỳ cũng như trong suốt quá
trình.
Từ đó cho thấy, hoạt động BHYT một mặt, đòi hỏi tính trách nhiệm cao của
từng người lao động đối với bản thân mình, với gia đình và đối với cộng đồng,
xã hội theo phương châm “mình vì mọi người, mọi người vì mình” thông qua
quyền và nghĩa vụ; mặt khác, thể hiện sự gắn kết trách nhiệm giữa các thành
viên trong xã hội, giữa các thế hệ kế tiếp nhau trong một quốc gia, tạo thành một
khối đoàn kết thống nhất về quyền lợi trong một thể chế chính trị - xã hội bền
vững.
Thứ tư, thực hiện chính sách BHYT góp phần ổn định và nâng cao chất
lượng lao động, bảo đảm sự bình đẳng về vị thế xã hội của người lao động trong
19
các thành phần kinh tế khác nhau, thúc đẩy sản xuất phát triển. Chính sách
BHYT hoạt động dựa trên nguyên tắc cơ bản “đóng góp- thụ hưởng” đã tạo ra
bước đột phá quan trọng về sự bình đẳng của người lao động về chính sách
BHYT. Khi đó, mọi người lao động làm việc ở các thành phần kinh tế, các ngành
nghề, địa bàn khác nhau, theo các hình thức khác nhau đều được tham gia thực
hiện các chính sách BHYT. Phạm vi đối tượng tham gia BHYT không ngừng
được mở rộng đã thu hút hàng triệu người lao động làm việc trong các thành
phần kinh tế khác nhau, khuyến khích họ tự giác thực hiện nghĩa vụ và quyền lợi
BHYT, tạo sự an tâm, tin tưởng và yên tâm lao động, sản xuất, kinh doanh.
Người lao động tham gia BHYT khi ốm đau sẽ được khám chữa bệnh và
được quỹ BHYT chi trả phần lớn chi phí; khi bị tai nạn lao động hoặc bệnh nghề
nghiệp sẽ được nhận phần trợ cấp do giảm khả năng lao động do tai nạn, bệnh
nghề nghiệp gây ra. Ngoài ra, người lao động còn được nghỉ dưỡng sức và phục
hồi sức khỏe sau khi ốm đau hay điều trị thương tật nhằm nâng cao thể lực.
Với những quyền lợi của người lao động khi tham gia BHYT đã góp phần
thu hút nguồn lao động vào nền sản xuất xã hội, giữ gìn và nâng cao thể lực cho
người lao động trong suốt quá trình lao động, sản xuất. Sự an tâm của người lao
động cũng như việc bảo vệ sức khỏe của của họ thông qua chính sách BHYT đã
trở thành một chính sách thu hút nguồn lao động vào nền sản xuất xã hội, bảo
đảm sự ổn định và thúc đẩy sản xuất phát triển.
1.2.2. Cơ chế hình thành và sử dụng quỹ BHYT
1.2.2.1. Sự hình thành quỹ BHYT
a) Nguyên tắc của BHYT
Quỹ bảo hiểm y tế là quỹ tài chính được hình thành từ nguồn đóng bảo
hiểm y tế và các nguồn thu hợp pháp khác, được sử dụng để chi trả chi phí khám
20
bệnh, chữa bệnh cho người tham gia bảo hiểm y tế, chi phí quản lý bộ máy của
tổ chức bảo hiểm y tế và những khoản chi phí hợp pháp khác liên quan đến bảo
hiểm y tế.
Theo Luật BHYT được Quốc hội khóa XII thông qua ngày 14/11/2008,
hoạt động BHYT phải tuân thủ 5 nguyên tắc cơ bản. Đó là: (1) Đảm bảo chia sẻ
rủi ro giữa những người tham gia BHYT; (2) Mức đóng BHYT được xác định
theo tỷ lệ phần trăm của tiền lương, tiền công, tiền lương hưu, tiền trợ cấp hoặc
mức lương tối thiểu của khu vực hành chính; (3) Mức hưởng BHYT theo mức độ
bệnh tật, nhóm đối tượng trong phạm vi quyền lợi của người tham gia BHYT;
(4) Chi phí KCB BHYT do quỹ BHYT và người tham gia BHYT cùng chi trả; và
(5) Quỹ BHYT được quản lý tập trung, thống nhất, công khai, minh bạch, đảm
bảo cân đối thu chi và được Nhà nước bảo hộ.
Trong 5 nguyên tắc trên, nguyên tắc đảm bảo chia sẻ rủi ro giữa những
người tham gia BHYT và nguyên tắc cùng chi trả là những nguyên tắc rất quan
trọng, liên quan trực tiếp đến lợi ích và nghĩa vụ của người tham gia bảo hiểm,
và đây cũng là 2 nguyên tắc mang tính đặc thù của BHYT. Đó là vì, việc chia sẻ
rủi ro đòi hỏi phải tăng cường mở rộng đối tượng tham gia BHYT, đối tượng
tham gia càng nhiều thì sự chia sẻ rủi ro càng lớn do bản chất của BHYT là chia
sẻ nguồn tài chính và chia sẻ nguy cơ về bệnh tật; còn việc người tham gia
BHYT phải cùng chi trả những chi phí về khám chữa bệnh cũng với Nhà nước là
nhằm đảm bảo an toàn quỹ BHYT đồng thời xác định trách nhiệm của người
tham gia BHYT trong việc tuân thủ pháp luật về BHYT, trong việc kiểm soát chi
phí KCB, nhằm hạn chế tình trạng lạm dụng quỹ BHYT, và đảm bảo công bằng
giữa những người tham gia BHYT trong việc sử dụng dịch vụ y tế, góp phần cân
21
đối quỹ BHYT trong điều kiện mức đóng BHYT thấp.
Quy định về nguyên tắc BHYT như trên là nội dung quan trọng nhằm định
hướng cho việc ban hành các quy định về BHYT tiếp theo; đồng thời đó cũng là
những tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt quá trình thực thi các quy định về BHYT và
hoạt động của BHYT. Việc xây dựng nguyên tắc BHYT là nội dung không thể
thiếu nhằm giữ cho sự vận động phát triển BHYT đúng hướng.
b) Các nguồn hình thành quỹ BHYT
Luật BHYT bao giờ cũng phải đề cập đến phạm vi đối tượng tham gia và
nghĩa vụ đóng góp. Theo thông lệ chung, người lao động căn cứ vào khả năng
thu nhập từ hoạt động lao động của bản thân mình mà có nghĩa vụ đóng góp
hàng tháng theo tỷ lệ quy định vào quỹ BHYT. Tỷ lệ đóng góp sẽ được các cấp
có thẩm quyền xem xét điều chỉnh hàng năm căn cứ vào diễn biến về chi phí
KCB chung của cả cộng đồng những người tham gia BHYT vào những năm
trước và dự báo tình hình của năm tới.
Quỹ BHYT được hình thành từ các nguồn chủ yếu sau:
1. Nguồn thu từ phí của người tham gia bảo hiểm theo theo quy định của
Luật Bảo hiểm y tế hiện hành.
Theo Luật này, người lao động đóng góp tối đa bằng 6% mức tiền lương,
tiền công, tiền lương hưu, tiền trợ cấp BHXH, tiền học bổng hoặc mức lương tối
thiểu chung. Trong đó:
+ Đối với người lao động có hưởng tiền lương, tiền công, thì người sử
dụng lao động đóng 2/3 và người lao động đóng 1/3.
+ Đối với người hưởng lương hưu, trợ cấp mất sức lao động, người đang
hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội hằng tháng do bị tai nạn lao động, bệnh nghề
22
nghiệp, người đã thôi hưởng trợ cấp mất sức lao động đang hưởng trợ cấp hằng
tháng từ ngân sách nhà nước, cán bộ xã, phường, thị trấn đã nghỉ việc đang
hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội hằng tháng thì do tổ chức bảo hiểm xã hội đóng.
+ Trẻ em dưới 6 tuổi, người có công với cách mạng và thân nhân của họ,
cựu chiến binh, người trực tiếp tham gia kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đại
biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp đương nhiệm, người thuộc
diện hưởng trợ cấp bảo trợ xã hội hằng tháng, người thuộc hộ gia đình nghèo;
người dân tộc thiểu số đang sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó
khăn, đặc biệt khó khăn, và người đã hiến bộ phận cơ thể người theo quy định
của pháp luật về hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác do
ngân sách nhà nước đóng;
+ Các đối tượng là người nước ngoài đang học tập tại Việt Nam được cấp
học bổng từ ngân sách của Nhà nước Việt Nam do cơ quan, tổ chức, đơn vị cấp
học bổng đóng;
+ Các đối tượng là học sinh, sinh viên, người thuộc hộ gia đình làm nông
nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp và diêm nghiệp, xã viên hợp tác xã, hộ kinh
doanh cá thể do đối tượng tự đóng (Ngân sách nhà nước hỗ trợ toàn bộ hoặc một
phần mức đóng bảo hiểm y tế cho đối tượng thuộc hộ gia đình nghèo và cận
nghèo).
2. Nguồn thu từ phí bảo hiểm của người sử dụng người lao động.
Người sử dụng lao động bao gồm cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp
công lập, đơn vị vũ trang nhân dân, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội,
tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề
nghiệp, doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể và tổ chức khác; tổ chức
nước ngoài, tổ chức quốc tế hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam có trách nhiệm
23
đóng bảo hiểm y tế.
Cơ quan, đơn vị, người sử dụng lao động và các cơ quan quản lý kinh phí
của đối tượng tham gia bảo hiểm y tế có trách nhiệm trích trước tiền đóng bảo
hiểm y tế phần do cơ quan, đơn vị đóng và thu tiền đóng bảo hiểm y tế của người
lao động để nộp vào quỹ bảo hiểm y tế đầy đủ, kịp thời đúng quy định theo định
kỳ ít nhất 3 tháng một lần.
3. Thu tiền lãi từ hoạt động đầu tư của quỹ Bảo hiểm y tế.
+ Tiền lãi từ tài khoản tiền gửi: Theo luật định, hệ thống bảo hiểm y tế
Việt Nam được mở tài khoản tiền gửi quỹ bảo hiểm y tế tại Kho bạc Nhà nước
và các Ngân hàng Thương mại của Nhà nước, Ngân hàng Phát triển Việt Nam,
Ngân hàng chính sách xã hội theo lãi suất thị trường. Số tiền lãi này phải nhập
vào Quỹ BHYT.
+ Tiền lãi từ mua tín phiếu, trái phiếu của Kho bạc Nhà nước hay công trái
quốc gia: Số tiền tạm thời nhàn rỗi của quỹ bảo hiểm y tế ngoài số tiền đảm bảo
nguồn chi trả khi cần thiết được dùng để mua tín phiếu, trái phiếu do Kho bạc
Nhà nước, các Ngân hàng Thương mại quốc doanh phát hành và được thực hiện
các biện pháp khác nhằm bảo toàn, tăng trưởng quỹ bảo hiểm y tế.
+ Tiền lãi từ số tiền truy thu nộp muộn của các tổ chức, đơn vị vào Quỹ:
Số tiền bảo hiểm y tế mà các cơ quan, tổ chức chậm nộp phải tính lãi theo lãi
suất tiền vay quá hạn theo quy định của Ngân hàng Thương mại nhà nước tại
thời điểm truy nộp. Số tiền lãi này cũng được chuyển vào quỹ dự phòng khám,
chữa bệnh.
4. Thu từ tài trợ của các tổ chức xã hội, từ thiện
Khoản này gồm có thu từ viện trợ của các Tổ chức quóc tế, cá nhân ở
nước ngoài; thu từ đóng góp của các cơ quan, xí nghiệp, các Tổ chức từ thiện, cá
24
nhân trong nước cho quỹ BHYT.
5. Thu từ cấp phát của Ngân sách nhà nước
Trên nguyên tắc không vượt quá tỷ lệ quy định trong Luật và giao cho
Chính phủ quy định cụ thể mức đóng cũng như mức hỗ trợ từ ngân sách Nhà
nước cho các nhóm đối tượng nhằm đảm bảo tính chủ động, kịp thời của Chính
phủ trong việc điều hành chính sách BHYT phù hợp với điều kiện kinh tế - xã
hội từng thời kỳ và đảm bảo khả năng cân đối quỹ.
1.2.2.2. Sử dụng quỹ BHYT
Quỹ bảo hiểm y tế được quản lý tập trung, thống nhất, công khai, minh
bạch và có sự phân cấp quản lý trong hệ thống tổ chức bảo hiểm y tế. Chính phủ
quy định cụ thể việc quản lý quỹ bảo hiểm y tế; quyết định nguồn tài chính để
bảo đảm việc khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế trong trường hợp mất cân đối
thu, chi quỹ bảo hiểm y tế.
Cụ thể, Quỹ bảo hiểm y tế được sử dụng cho các mục đích sau đây:
1. Thanh toán chi phí khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế
Khi các đối tượng đóng BHYT đến khám, chữa bệnh tại cơ sở khám, chữa
bệnh theo Hợp đồng giữa BHYT với cơ sở khám, chữa bệnh sẽ được Quỹ BHYT
thanh toán toàn bộ hay một phần chi phí. Cụ thể:
+ Đối với các đối tượng là sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ và sĩ quan, hạ sĩ
quan chuyên môn, kỹ thuật đang công tác trong lực lượng Công an nhân dân;
người có công với cách mạng; trẻ em dưới 6 tuổi được Quỹ BHYT thanh toán
100% chi phí khám bệnh, chữa bệnh.
+ Đối với trường hợp chi phí cho một lần khám bệnh, chữa bệnh thấp hơn
mức do Chính phủ quy định và khám bệnh, chữa bệnh tại tuyến xã được Quỹ
25
BHYT thanh toán 100% chi phí khám bệnh, chữa bệnh.
+ Đối với đối tượng là người hưởng lương hưu, trợ cấp mất sức lao động
hằng tháng; người thuộc diện hưởng trợ cấp bảo trợ xã hội hằng tháng theo quy
định của pháp luật; những người thuộc hộ gia đình nghèo; người dân tộc thiểu số
đang sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn
được thanh toán 95% chi phí khám bệnh, chữa bệnh.
+ Còn với các đối tượng khác được thanh toán 80% chi phí khám bệnh,
chữa bệnh.
2. Chi phí quản lý bộ máy tổ chức bảo hiểm y tế theo định mức chi hành
chính của cơ quan nhà nước. Cụ thể:
BHYT các xã, phường sử dụng 25% trong số 20% tổng thu BHYT được
giữ lại cho cơ sở (80% nộp cho BHYT tỉnh, thành phố) để chi bồi dưỡng thù lao
cho người trực tiếp thu BHYT.
BHYT tỉnh, thành phố sử dụng 8% trong số 80% nguồn thu do BHYT xã
phường nộp lên để chi cho quản lý HCSN bảo hiểm y tế (2% để nộp cho BHYT
Việt Nam; 90% chi cho khám, chữa bệnh).
Còn BHYT Việt Nam thì dùng 0,5% trong số 2% nguồn thu do BHYT các
tỉnh, Thành phố nộp lên để chi quản lý HCSN bảo hiểm y tế (1,5% để lập quỹ dự
phòng rủi ro). Riêng khoản thu do khai thác đối tượng bắt buộc BHYT Việt Nam
trực tiếp quản lý thì dành 8,5% cho quỹ quản lý hành chính sự nghiệp (90% chi
phí khám, chữa bệnh, và 1,5% cho quỹ dự phòng rủi ro của BHYT Việt Nam).
3. Đầu tư để bảo toàn và tăng trưởng quỹ bảo hiểm y tế theo nguyên tắc
an toàn, hiệu quả.
Dành cho quỹ khen thưởng và quỹ phúc lợi 20% số kết dư để chi khen
26
thưởng cho sơ sở khám, chữa bệnh và những người có thành tích trong công tác
phục vụ cho sự nghiệp BHYT và tăng cường phúc lợi cho cơ sở BHYT. Nhưng
mức tối đa không quá 6 tháng lương cơ bản và trợ cấp lương (nếu có)
4. Lập quỹ dự phòng khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế.
Quỹ dự phòng rủi ro nhằm hỗ trợ cho BHYT các tỉnh, thành phố khi gặp
rủi ro khách quan có nguy cơ không bảo đảm an toàn cho quỹ BHYT.
Nguồn hình thành quỹ dự phòng rủi ro được trích 1,5% số thu BHYT đối
với đối tượng bắt buộc và tự nguyện thuộc BHYT tỉnh, thành phố trực tiếp quản
lý; và 1,5% số thu BHYT của các đối tượng BHYT bắt buộc do BHYT Việt
Nam trực tiếp quản lý.
Bảo hiểm y tế các tỉnh, thành phố trong quá trình sử dụng, quản lý quỹ
BHYT bị rủi ro khách quan hoặc có khó khăn về khả năng thanh toán được uỷ
ban nhân dân tỉnh, thành phố hoặc thủ trưởng Bộ xác nhận sẽ được Bảo hiểm y
tế Việt Nam xem xét cho vay một phần hoặc toàn bộ trên cơ sở khế ước cho vay
và phải hoàn trả đúng thời hạn cho bảo hiểm y tế Việt Nam không phải trả lãi.
Quỹ dự phòng tối thiểu bằng tổng chi khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế
của hai quý trước liền kề và tối đa không quá tổng chi khám bệnh, chữa bệnh bảo
hiểm y tế của hai năm trước liền kề. Quỹ dự phòng được tích tụ dần, được gửi
tiết kiệm và mua tín phiếu để có thêm lãi bổ sung cho quỹ này nhằm phục vụ cho
việc phát triển sự nghiệp BHYT.
1.3. Bảo hiểm y tế cho ngƣời nghèo
1.3.1. Người nghèo và nhu cầu KCB của người nghèo
1.3.1.1. Khái quát về tình trạng người nghèo ở Việt Nam
Nghèo là khái niệm diễn tả sự thiếu cơ hội để có thể sống một cuộc sống
tương ứng với các tiêu chuẩn tối thiểu nhất định. Theo Tổ chức Y tế thế giới,
27
một người được coi là nghèo khi thu nhập hàng năm của họ ít hơn một nửa mức
thu nhập bình quân trên đầu người hàng năm của quốc gia. Tình trạng nghèo đói
đã gây không ít khó khăn cho cuộc sống sinh hoạt của con người. Họ không chỉ
thiếu ăn, mà quan trọng hơn là còn không được thụ hưởng các dịch vụ xã hội,
trong đó quan trọng nhất là các dịch vụ chăm sóc sức khỏe.
Việt Nam là một nước đang phát triển, do đó nghèo đói là hiện tượng phổ
biến, là nỗi lo thường trực của các cấp, các ngành, và của toàn xã hội. Bước vào
thời kỳ Đổi Mới, ngay từ đầu năm 1991, vấn đề xoá đói giảm nghèo đã được đề
ra trong các diễn đàn, các nghiên cứu, và triển khai thành phong trào xoá đói
giảm nghèo. Đến ngày 21 tháng 5 năm 2002, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt
"Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo". Đây là chiến lược
đầy đủ, chi tiết phù hợp với mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ (MDG) của Liên
Hợp Quốc công bố. Những nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân trong gần ba thập kỷ
qua đã mang lại nhiều thành công to lớn trong cuộc chiến chống đói nghèo.
Cùng với sự phát triển kinh tế-xã hội, Chính phủ đã nhiều lần điều chỉnh
chuẩn nghèo theo hướng nâng dần cho phù hợp hơn với chuẩn nghèo quốc tế.
Tính từ năm 1993 đến nay, Chính phủ đã 4 lần nâng mức chuẩn nghèo. Theo đó,
chuẩn nghèo được nâng từ mức thu nhập bình quân người/tháng theo khu vực
miền núi – nông thôn - thành thị trước năm 2000 là 45.000 đồng – 70.000 đồng -
và 100.000 đồng; sau năm 2000 là 80.000 – 100.000 – và 150.000 đồng. Năm
2005, một lần nữa Chính phủ lại điều chỉnh chuẩn nghèo. Theo chuẩn đói nghèo
mới có hai mức: 200.000 đồng đối với khu vực nông thôn và 260.000 đồng đối
với khu vực thành thị. Tại Hà Nội (và một số thành phố khác) áp dụng mức
chuẩn nghèo riêng, cao hơn mức chuung cả nước, là 270.000 đồng và 350.000
đồng/người/tháng. Ngoài ra, Hà Nội còn quy định riêng chuẩn cận nghèo cho
28
những hộ có mức thu nhập bình quân từ trên 350 nghìn đồng đến 500 nghìn
đồng/người/tháng (khu vực thành thị) và từ trên 270 nghìn đồng đến 400 nghìn
đồng/người/tháng (khu vực nông thôn). Đây là đặc thù riêng của Hà Nội nhằm
quan tâm, chăm lo cải thiện tốt hơn đời sống cho người dân, giảm dần số hộ
nghèo theo chuẩn mới.
Với sự nỗ lực trong xóa đói giảm nghèo, tỷ lệ nghèo đói cả nước đã giảm
từ 30% năm 1992 xuống còn 18,1% năm 2004, và 11,3% năm 2009. Mặc dù tỷ
lệ đói nghèo giảm xuống khá nhanh, nhưng vẫn ở mức cao và chưa vững chắc.
Đặc biệt, sự chênh lệch (hay bất bình đẳng) giữa các vùng còn rất lớn. Tỷ lệ
nghèo đói cao nhất là ở các tỉnh vùng sâu, vùng xa, như Tây Bắc, Đông Bắc và
phía bắc của Tây Nguyên. Tại các tỉnh thuộc Đồng bằng sông Hồng và Đồng
bằng sông Cửu Long tỷ lệ nghèo đói ở mức trung bình. Còn tại các thành phố
lớn như Hà Nội, Tp. Hồ Chí Minh có tỷ lệ này thấp nhất. Theo số liệu Sở Lao
động – TBXH Hà Nội, với mức chuẩn nghèo mới, tỷ lệ hộ nghèo toàn thành phố
năm 2010 dự báo sẽ là 5% với (khoảng 37.000 hộ, tương đương với tỷ lệ hộ
nghèo năm 2001 – năm đầu tiên áp dụng chuẩn cũ), trong đó Sóc Sơn, huyện
nghèo nhất thành phố, số hộ nghèo sẽ lên 20% (Theo Quyết định số 1592/QĐ-
UBND về việc ban hành chuẩn nghèo, cận nghèo của Hà Nội giai đoạn 2009-
2013).
Tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống là một tín hiệu tích cực, song điều đó không
có nghĩa là đa số người dân đều được cải thiện điều kiện sống, bởi những con số
đó không phản ánh đúng thực chất của cuộc sống thực tế. Trên thực tế, số tuyệt
đối người nghèo trong xã hội vẫn không giảm, thậm chí còn tăng do tác động của
lạm phát (khoảng 40% kể từ khi ban hành chuẩn nghèo đến nay) và còn do
chuẩn nghèo được đặt ra quá thấp. Vì vậy, theo chuẩn trên, nhiều hộ nghèo thoát
29
nghèo nhưng vẫn không đủ sống và vẫn chưa dám mơ tới sự hưởng thụ các dịch
vụ xã hội, nhất là dịch vụ y tế. Theo Phó thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng, không
thể duy trì chuẩn nghèo 200.000-260.000 đồng như hiện nay mà cần thiết phải rà
soát lại và ban hành chuẩn nghèo mới cho năm 2011[43].
1.3.1.2. Nhu cầu của người nghèo về BHYT
Việt Nam là một trong những nước nghèo trên thế giới. Phần lớn nhân dân
sống ở nông thôn, miền núi và vùng sâu, vùng xa có thu nhập thực tế ở mức
thấp. Tuy nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng khá nhanh, thu nhập quốc dân bình
quân đầu người đã đạt ngưỡng 1.000 USD, nhưng cùng với sự tăng trưởng đó,
bất bình đẳng trong thu nhập cũng gia tăng theo. Có nghĩa là, vẫn còn một bộ
phận dân cư chưa được tiếp cận với những thành tựu của sự phát triển. Đến nay
cả nước vẫn còn khoảng trên 11% dân số ở mức nghèo. Đây là đối tượng chịu
nhiều thiệt thòi trong thụ hưởng các dịch vụ xã hội, đặc biệt là trong khám chữa
bệnh và chăm sóc y tế. Có nhiều nguyên nhân của tình trạng đó, nhưng cơ bản
vẫn là do khả năng kinh tế của họ không đáp ứng được nhu cầu khám chữa
bệnh. Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách
nhằm trợ giúp cho người nghèo được chăm sóc sức khỏe như chế độ miễn, giảm
viện phí, cấp thẻ bảo hiểm y tế cho người nghèo... nhưng, những chính sách này
chưa được thực thi một cách đồng bộ, hiệu quả còn thấp.
Thực tế cho thấy, những người nghèo thường có nhu cầu được chăm sóc
sức khỏe cao hơn nhiều so với nhóm người giàu. Theo Điều tra y tế Quốc gia
2001-2002, tỷ lệ ốm đau ở nhóm hộ nghèo thường cao gấp 2 lần so với nhóm hộ
giàu và tình trạng sức khỏe của nhóm 20% hộ gia đình có mức sống thấp nhất
(nhóm nghèo) kém hơn rất nhiều so với nhóm khá và nhóm giàu[36]. Nhưng do
chi phí KCB quá cao so với thu nhập của họ nên nhu cầu về chăm sóc sức khỏe
30
không được bảo đảm, kể cả những lúc đau yếu, bệnh tật.
Theo Hội Chữ thập đỏ Việt Nam, cả nước hiện có khoảng 5 triệu người
mắc bệnh có nhu cầu chữa trị, trong đó tập trung phần lớn tạic ác vùng nông
thôn, miền núi. Vậy nhưng, chỉ có 16,5% người bệnh tại vùng sâu, vùng xa,
vùng nghèo khó được chữa trị. Điều đó là do những khó khăn trong việc tiếp cận
các dịch vụ y tế, như kinh tế thiếu thốn, điều kiện đi lại khó khăn, và thêm vào
đó là sự phiền hà của thủ tục KCB [43]. Đặc biệt, hiện tại các bệnh viện ở Việt
Nam, công nghệ cao trong y học đã được đưa vào ứng dụng trong các bệnh viện
và cơ sở y tế, nhưng những người bệnh nghèo mới chỉ được hưởng các dịch vụ y
tế cơ bản, bởi chi phí cho việc sử dụng dịch vụ y tế kỹ thuật cao đã vượt xa nhiều
lần so với mức thu nhập của họ.
Những người có mức sống trung bình trở xuống mỗi khi đi khám, chữa bệnh chủ
yếu chỉ trông chờ vào chính sách bảo hiểm y tế, trong khi đó, BHYT lại chỉ chi
trả không vượt quá 40 tháng lương tối thiểu cho một lần sử dụng dịch vụ y tế kỹ
thuật cao. Hơn nữa, trong trường hợp người bệnh khám, chữa bệnh không đúng
cơ sở đăng ký ban đầu hoặc không theo tuyến chuyên môn, quỹ BHYT chỉ thanh
toán 70% chi phí đối với trường hợp KCB tại tuyến huyện, 50% chi phí tại tuyến
tỉnh và 30% chi phí tại tuyến trung ương. Nếu KCB trái tuyến mà sử dụng dịch
vụ y tế kỹ thuật cao, quỹ BHYT thanh toán 60% chi phí đối với tuyến huyện,
40% đối với tuyến tỉnh và 30% tại tuyến trung ương. Với những người được cấp
giấy chứng nhận hộ nghèo, thẻ BHYT hay thẻ KCB miễn phí chỉ có giá trị trong
phạm vi địa phương mình, khi chuyển lên các cơ sở ngoại tỉnh hay tuyến trên
đều không được ưu đãi. Đó là những rào cản lớn làm cho người nghèo không
31
bao giờ đến được với dịch vụ y tế, nhất là các dịch vụ kỹ thuật cao.
Gia tăng chi phí y tế làm cho người nghèo ngày càng nghèo hơn
Các chính sách trên ra đời đã phần nào giúp người nghèo giảm bớt gánh nặng về
chi phí khám chữa bệnh khi ốm đau. Tuy nhiên, hiện nay, người dân đang đối
mặt với áp lực gia tăng thu phí tại các các cơ sở y tế cả công lập và tư nhân khi
Nghị định 43/2005/NĐ-CP ban hành ngày 25/4/2006 thay thế Nghị định số
10/2002/NĐ-CP ngày 16 tháng 01 năm 2002 được thực hiện tại các cơ sở y tế
công lập. Theo các Nghị định này, hệ thống bệnh viện có quyền tự chủ, tự chịu
trách nhiệm trong sử dụng lao động và nguồn lực tài chính. Do đó mỗi bệnh viện
dường như có xu hướng mở rộng hơn hình thức thu các loại phí, lạm dụng các
trang thiết bị hiện đại khi người dân đến cơ sở y tế điều trị.
Một nghiên cứu phân tích chỉ số rơi vào thảm cảnh (Chỉ số CATA) qua số liệu
Điều tra mức sống dân cư từ năm 1993 đến năm 2004 cho thấy, dưới tác động
của chi phí khám chữa bệnh, tỷ lệ hộ gia đình rơi vào thảm cảnh của 20% nhóm
dân cư nghèo nhất giao động trong khoảng 7,7 – 9,7%.
Như vậy, chi phí y tế hiện nay đã, đang và sẽ trở thành nguy cơ gây nghèo cho
các đối tượng cận nghèo và đẩy người nghèo lún sâu thêm vào nghèo khó nếu
các chính sách trên không phát huy được hiệu quả và Nhà nước không có các
giải pháp hỗ trợ kịp thời cho các đối tượng nghèo và cận nghèo.
Tạp chí BHXH điện tử, số 6B/2009(132)
Chính sách BHYT ở nước ta được thực hiện từ năm 1992 theo Điều lệ
BHYT ban hành kèm theo Nghị định số 299/HĐBT ngày 15/9/1992 của Hội
đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ). Nhưng trong giai đoạn này, người nghèo
chưa được Nhà nước mua BHYT, nên khi đi khám chữa bệnh vẫn phải đóng viện
phí, chỉ một số ít thuộc diện quá nghèo mới được miễn nộp viện phí, do đó gặp
rất nhiều khó khăn trong khám chữa bệnh. Năm 1998, Chính phủ ban hành định
số 58/1998/NĐ-CP ngày 13/8/1998 thay thế Nghị định số 299/HĐBT. Nghị định
32
số 58 quy định đối tượng tham gia BHYT được mở rộng, nhưng người nghèo
vẫn chưa phải là đối tượng tham gia BHYT bắt buộc do chưa có nguồn kinh phí
mua thẻ BHYT cho người nghèo. Tuy nhiên, trong thời gian này, một số tỉnh,
thành phố thực hiện cấp thẻ BHYT tự nguyện cho những người thuộc đối tượng
bảo trợ xã hội (người tàn tật, cô đơn không nơi nương tựa)... Việc cấp thẻ BHYT
không thực hiện thống nhất do chưa có quy định về đối tượng và cơ chế tạo
nguồn kinh phí. Do đó, người nghèo về cơ bản vẫn chưa phải là đối tượng tham
gia BHYT.
Để giải quyết những khó khăn bất cập về kinh phí khám chữa bệnh cho
người nghèo và mở rộng diện người nghèo được tham gia BHYT, Bộ Y tế, Bộ
Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Tài chính ban hành Thông tư số
05/1999/TTLT ngày 29/01/1999 hướng dẫn việc thực hiện khám chữa bệnh và
miễn nộp một phần viện phí đối với người nghèo thuộc diện quá nghèo. Theo
quy định của Thông tư này thì đối tượng được cấp thẻ BHYT là những người
thuộc diện quá nghèo với mệnh giá thẻ là 30.000 đ/thẻ-năm. Kinh phí để mua thẻ
BHYT được trích từ các nguồn: chi đảm bảo xã hội, từ quỹ xoá đói giảm nghèo,
ngân sách địa phương, các nguồn hỗ trợ của các doanh nghiệp, các tổ chức từ
thiện trong và ngoài nước... Tại Thông tư này chỉ những người thuộc diện quá
nghèo theo quy định tại Nghị định 95/Cp ngày 27/8/1994 của Chính phủ mới
được cấp thẻ BHYT miễn phí, còn đại bộ phận người nghèo khác không được
cấp thẻ BHYT, đã tạo nên sự mất công bằng trong chính sách, gây khó khăn cho
địa phương khi xét chọn đối tượng người nghèo. Chính điều này là nguyên nhân
làm cho nhiều người hiểu sai tính ưu việt của chính sách cấp thẻ BHYT cho
33
người nghèo của Đảng và Nhà nước.
1.3.2. Chính sách của Nhà nước về BHYT cho người nghèo
Để giải quyết những tồn tại, bất cập về cơ chế tạo nguồn tài chính mua thẻ
BHYT cho người nghèo, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số
139/2002/QĐ-TTg ngày 15/10/2002 thành lập quỹ khám chữa bệnh cho người
nghèo do UBND các tỉnh quản lý với định mức tối thiểu là 70.000
đồng/người/năm, trong đó ngân sách nhà nước cấp tối thiểu bằng 75% tổng giá
trị của quỹ, ngoài ra tùy từng địa phương có thể tăng chi cho quỹ từ nguồn ngân
sách địa phương và đóng góp của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước.
Nội dung quan trọng của Quyết định này là quỹ khám chữa bệnh chủ yếu
do nguồn ngân sách nhà nước cấp nhưng lại chưa quy định thống nhất phương
thức thực hiện. Các địa phương có thể vận dụng một trong hai phương thức:
Thực hiện thực thanh thực chi hoặc mua thẻ BHYT cho người nghèo với mệnh
giá 50.000 đ/người/năm. Do chưa thống nhất phương thức thực hiện, nên có địa
phương thực hiện mua thẻ BHYT cho người nghèo, có địa phương thực hiện
phương thức thực thanh thực chi. Tính đến cuối năm 2004, cả nước mới có 33
địa phương áp dụng phương thức mua thẻ BHYT cho 3,6 triệu người nghèo,
chiếm khoảng 30% số người nghèo cả nước.
Ngày 16/5/2005, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 63/2005/NĐ-CP
thay thế NĐ58. Theo đó người nghèo được quy định là đối tượng tham gia
BHYT bắt buộc với mức đóng là 50.000 đồng/người năm. Nguồn kinh phí này
do NSNN cấp. Như vậy, từ 01/7/2005 việc chăm sóc sức khỏe cho người nghèo
chỉ thực hiện thông qua một hình thức duy nhất là BHYT. Toàn bộ số người
nghèo trong cả nước sẽ được cấp thẻ BHYT để được hưởng quyền lợi theo chế
độ BHYT. Từ khi thực hiện Nghị định số 63/2005/NĐ-CP, số người nghèo tham
34
gia BHYT ngày càng tăng. Năm 2005 Số người tham nghèo tham gia BHYT chỉ
có 4, 6 triệu người (trong đó có 6 tháng cuối năm thực hiện Nghị định số 63).
Nhưng sang năm 2006, số người nghèo tham gia BHYT đã tăng lên 14,97 triệu
người, tăng 3,2 lần so với năm 2005. Tính đến 31/12/2006, hầu hết các địa
phương đều thực hiện BHYT cho người nghèo, chỉ còn 3 địa phương chưa thực
hiện(Hòa Bình, Quảng Trị, Phú Yên). Đối tượng người nghèo trở thành đối
tượng có số người tham gia BHYT lớn nhất. Người nghèo được cấp thẻ BHYT,
số người nghèo được tham gia BHYT ngày một tăng, điều đó cũng đồng nghĩa
với quyền lợi của người nghèo ngày càng được đảm bảo, người nghèo đi KCB
không phải trả tiền. Quyền lợi người nghèo khi đi KCB còn được mở rộng hơn
trước, cơ bản được thanh toán tất cả các chi phí khám chữa bệnh theo giá viện
phí, bao gồm cả chi phí dịch vụ kỹ thuật cao, chi phí vận chuyển chuyển viện
theo quy định...
1.3.3. Lập, quản lý và sử dụng Quỹ BHYT cho người nghèo
+ Thành lập Quỹ khám, chữa bệnh cho người nghèo
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân (UBND) tỉnh quyết định thành lập Quỹ. Ban
Quản lý Quỹ do Chủ tịch UBND tỉnh làm Trưởng ban; Giám đốc Sở Y tế làm
Phó trưởng ban thường trực; Giám đốc Sở Tài chính - Vật giá làm Phó trưởng
ban phụ trách tài chính; thành viên của Ban gồm có Lãnh đạo Sở Lao động -
Thương binh và Xã hội, Sở Kế hoạch và Đầu tư, Ban Dân tộc tỉnh, Bảo hiểm Xã
hội và đại diện Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương.
Quỹ khám, chữa bệnh cho người nghèo là quỹ của Nhà nước, được thành
lập ở cấp tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương (gọi chung là cấp tỉnh), do Uỷ
ban nhân dân (UBND) tỉnh quản lý, hoạt động theo nguyên tắc không vì lợi
35
nhuận, bảo toàn và phát triển nguồn vốn.
Quỹ được hình thành từ các nguồn: Ngân sách Nhà nước (bao gồm hỗ trợ
từ ngân sách Trung ương; bổ sung từ nguồn đảm bảo xã hội thuộc ngân sách địa
phương. Kể cả các nguồn ngân sách Nhà nước đã cấp và mua thẻ BHYT trước
đây để phục vụ khám, chữa bệnh cho người nghèo) và nguồn huy động đóng góp
của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước; khuyến khích hình thức cá nhân,
đơn vị, tổ chức hỗ trợ cho cá nhân để mua thẻ BHYT hoặc thực thanh thực chi
thông qua Quỹ. Nguồn tài chính của Quỹ được quản lý theo quy định của Luật
ngân sách Nhà nước (NSNN) và các quy định tại Thông tư liên tịch của Bộ Y tế-
Bộ Tài chính.
+ Đối tượng được hưởng chế độ khám chữa bệnh người nghèo:
Theo quy định tại Điều 2 của Quyết định 139/2002/QĐ-TTg ngày
15/10/2002, đối tượng được hưởng chế độ KCB cho người nghèo bao gồm:
a. Người nghèo theo quy định hiện hành về chuẩn hộ nghèo quy định tại
Quyết định số 1143/2000/QĐ-LĐTBXH ngày 1/11/2000 của Bộ trưởng Bộ Lao
động - Thương binh và Xã hội.
b. Nhân dân các xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn theo
Quyết định số 135/1998/QĐ-TTg ngày 31/7/1998 phê duyệt “Chương trình phát
triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi và vùng sâu, vùng xa”.
c. Nhân dân các dân tộc thiểu số vùng Tây Nguyên theo Quyết định số
168/2001/QĐ-TTg ngày 30/10/2001 của Thủ tướng Chính phủ về “Định hướng
dài hạn, kế hoạch 5 năm 2001 - 2005 và những giải pháp cơ bản phát triển kinh
tế - xã hội vùng Tây Nguyên” và nhân dân các dân tộc thiểu số tại 6 tỉnh đặc biệt
khó khăn của miền núi phía Bắc theo Quyết định số 186/2001/QĐ-TTg ngày
7/12/2001 của Thủ tướng Chính phủ về “Phát triển kinh tế - xã hội ở 6 tỉnh đặc
36
biệt khó khăn miền núi phía Bắc thời kỳ 2001 - 2005”.
+ Quản lý và sử dụng Quỹ
a. Mua thẻ bảo hiểm y tế:
Hàng năm, căn cứ danh sách đối tượng được hưởng chế độ KCB người
nghèo do Chủ tịch UBND tỉnh phê duyệt, Ban quản lý (BQL) Quỹ tổ chức mua
thẻ BHYT với mệnh giá 50.000 đồng/người/năm (hiện nay là 194.000 đồng) tại
cơ quan BHYT đóng tại địa phương và tổ chức cấp thẻ đến tận tay người được
hưởng ngay từ đầu năm.
Đối với những địa phương chưa có điều kiện thực hiện KCB BHYT ở
tuyến xã, cơ quan Bảo hiểm Y tế có trách nhiệm phối hợp với Trung tâm y tế
(TTYT) huyện tổ chức khám, chữa bệnh cho người nghèo có thẻ BHYT tại tuyến
xã.
Cơ quan BHYT thanh toán chi phí khám, chữa bệnh cho người nghèo có
thẻ BHYT với các cơ sở khám chữa bệnh Nhà nước theo quy định BHYT hiện
hành, nhưng không thực hiện cơ chế đồng chi trả (hiện nay là đồng chi trả theo
Luật BHYT năm 2008). Cuối năm, kinh phí khám chữa bệnh cho người nghèo
còn dư tại Quỹ BHYT thì được chuyển sang năm sau để mua tiếp BHYT cho
người nghèo.
b. Thực thanh thực chi:
BQL Quỹ có trách nhiệm thanh tóan chi phí KCB cho người nghèo với cơ
sở KCB của Nhà nước theo mức thanh toán như đối với BHYT.
Đối với tuyến xã, phường, thị trấn: Hàng năm Quỹ dành 10.000
đồng/người nghèo/năm để khám, chữa bệnh cho người nghèo tại trạm y tế (TYT)
xã. Ban quản lý Quỹ uỷ nhiệm cho Trung tâm Y tế quận, huyện, thị xã mua
thuốc, vật tư y tế tiêu hao thông dụng theo dự trù của trạm y tế xã để chi khám,
37
chữa bệnh cho người nghèo tại TYT xã. Hàng quý, TYT xã có trách nhiệm báo
cáo và thanh quyết tóan kinh phí được cấp bằng hiện vật với BQL Quỹ thông
qua Trung tâm y tế huyện.
Đối với tuyến huyện và tỉnh: Tháng đầu hàng quý, BQL Quỹ chuyển trước
cho cơ sở KCB ở tuyến huyện, tuyến tỉnh 70% tổng số kinh phí ước tính sẽ thanh
toán trong quý. BQL Quỹ thanh tóan toàn bộ chi phí khám, chữa bệnh cho các cơ
sở khám chữa bệnh nhà nước tuyến huyện và tuyến tỉnh đã thực hiện KCB cho
người nghèo 6 tháng một lần. Cuối năm, cơ sở khám chữa bệnh phải báo cáo
quyết toán năm với Ban quản lý Quỹ để Ban quản lý quỹ hoàn thành tổng quyết
toán Quỹ của năm trước.
Đối với tuyến Trung ương: BQL Quỹ thanh tóan chi phí KCB cho các cơ
sở khám, chữa bệnh tuyến Trung ương 6 tháng một lần đối với người bệnh có
giấy giới thiệu chuyển tuyến và thẻ khám, chữa bệnh cho người nghèo.
Để thanh toán chi phí cho các cơ sở KCB, Ban quản lý Quỹ phải thực hiện
giám định hoặc ký hợp đồng với cơ quan BHYT thực hiện giám định chi phí
khám chữa bệnh. Chi phí giám định và in thẻ KCB cho người nghèo được trích
từ Quỹ nhưng không vượt quá 5% tổng giá trị Quỹ.
1.3.4. Tổ chức cấp phát thẻ và KCB cho người nghèo
Việc cấp phát thẻ BHYT cho người nghèo được tiến hành theo quy trình
sau:
+ Các huyện, thành, thị tổ chức khảo sát, bình xét hộ nghèo tại các thôn,
xóm; các xã phường thị trấn.
+ UBND xã phường, thị trấn lập danh sách đối tượng đủ điều kiện cấp thẻ
38
BHYT người nghèo hàng năm.
+ UBND các huyện, thành, thị căn cứ số nhân khẩu nghèo các xã phường
thị trấn rà soát hộ nghèo cuối năm kiểm tra, loại bỏ những đối tượng không đúng
và phê duyệt danh sách chyển về Sở Lao động - TB và XH.
+ Sau khi Sở Lao động - TB và XH thẩm định, phê duyệt UBND các
quận, huyện, chuyển sang BHXH tỉnh in cấp thẻ BHYT.
+ UBND các huyện, thành, thị chuyển danh sách được phê duyệt sang
Bảo hiểm xã hội tỉnh, thành nhận thẻ về cấp phát cho đối tượng.
+ Cuối cùng, Sở Lao động - TB và XH tổng hợp số thẻ BHYT được cấp
và ký hợp đồng chuyển kinh phí cho Bảo hiểm xã hội tỉnh, thành.
Sau khi nhận được thẻ BHYT, người bệnh đi KCB tại TYT xã (đối với
những xã chưa có triển khai KCB BHYT, cơ quan BHXH có trách nhiệm phối
hợp với TTYT huyện, thị triển khai KCB BHYT tại tuyến xã). Trường hợp quá
khả năng chuyên môn thì chuyển bệnh nhân lên tuyến trên.
Người nghèo có thẻ BHYT nhưng không KCB đúng tuyến quy định hoặc
khám, chữa bệnh theo yêu cầu riêng thì phải tự trả chi phí KCB theo qui định
hiện hành. Trong trường hợp cấp cứu, người nghèo được khám và điều trị tại bất
kỳ cơ sở y tế Nhà nước nào gần nhất và BQL Quỹ (cơ quan BHXH) sẽ thanh
tóan các chi phí KCB cho cơ sở y tế đó theo qui định hiện hành.
Cơ quan BHXH tỉnh thanh tóan chi phí KCB cho người nghèo có thẻ
BHYT với các cơ sở KCB Nhà nước theo qui định BHYT hiện hành, nhưng
không thực hiện cơ chế đồng chi trả. Cuối năm, kinh phí KCB người nghèo dư
tại Quỹ BHYT thì được chuyển sang năm sau để mua tiếp BHYT cho người
39
nghèo.
1.3.5. Kinh nghiệm phát triển BHYT cho người nghèo tại một số địa
phương
1.3.5.1. Kinh nghiệm Thành phố Hồ Chí Minh
Thành phố Hồ Chí Minh là một đơn vị hành chính có qui mô lớn nhất cả
nước về dân số, thứ hai về diện tích, và cũng là địa phương đứng đầu cả nước về
trình độ phát triển kinh tế-xã hội. Thành phố Hồ Chí Minh giữ vai trò đầu tàu
kinh tế của cả nước. Thành phố chiếm 0,6% diện tích và 8,34% dân số của Việt
Nam nhưng chiếm tới 20,2% tổng sản phẩm, 27,9% giá trị sản xuất công nghiệp
và 34,9% dự án nước ngoài. Thu nhập bình quân đầu người ở thành phố năm
2009 đạt 2.555 USD/người, cao hơn 2,4 lần so với mức trung bình cả nước
(1.064 USD/người).
Bên cạnh những thành tựu về kinh tế, Thành phố cũng luôn quan tâm đến
vấn đề an sinh xã hội đặc biệt là vấn đề BHYT cho người nghèo. Trong những
năm vừa qua số lượng thẻ BHYT cho người nghèo đã được thành phố cấp phát
thẻ ngày càng tăng (xem bảng 1.1).
Bảng 1.1: Tình hình cấp thẻ BHYT cho ngƣời nghèo tại TP.HCM
Đơn vị tính: thẻ
Năm
Nội dung 2008 2009 2010 (dự kiến)
40
Tổng số thẻ cấp cho người nghèo Trong đó: + Cấp 100% KP + Cấp 50% KP Mệnh giá thẻ (đồng) Số tiền (tỷ đồng) 449.897 419.381 30.516 168.000 75,582 451.132 419.213 31.919 175.000 78,948 438.000 406.000 32.000 194.000 85,000
Nguồn: http://baodientu.chinhphu.vn/Home/TP-Ho-Chi-Minh-Ho-tro-phi-mua-
the-BHYT-cho-ho-ngheo/20091/958.vgp.
Nghiên cứu việc thực hiện BHYT cho người nghèo tại Tp. Hồ Chí Minh,
có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm cho Tp. Hà Nội sau đây:
Thứ nhất, Thành phố đã dành một tỷ lệ ngân sách khá lớn phục vụ cho
việc CSSK người nghèo, và có xu hướng ngày càng tăng lên. Các tiêu chuẩn cấp
phát thẻ BHYT cho người nghèođược quy định phù hợp với từng đối tượg. Cụ
thể: Hộ nghèo có mức thu nhập bình quân dưới 8 triệu đồng/người/năm, đối
tượng hưởng trợ cấp xã hội sẽ được hỗ trợ 100% phí mua thẻ bảo hiểm y tế. Đối
với hộ nghèo có mức thu nhập trên 8 triệu đồng đến 12 triệu đồng/người/năm
được hỗ trợ 50% phí mua thẻ BHYT.
Thứ hai, UBND Thành phố giao cho Ban chỉ đạo xóa đói giảm nghèo và
việc làm xét duyệt danh sách các đối tượng được hỗ trợ, đồng thời phối hợp với
Bảo hiểm xã hội Thành phố, UBND các quận, huyện để mua và cấp thẻ cho
người nghèo, người hưởng trợ cấp xã hội.
Thứ ba, việc cấp thẻ cho người dân được chia thành nhiều đợt, trong đó ưu
tiên những trường hợp đang đau ốm. Đối với những người có thẻ BHYT người
nghèo nhưng bị bệnh mãn tính và trong diện cùng chi trả, UBND Thành phố đã
chỉ đạo Sở Y tế TP. HCM vừa có văn bản gửi các bệnh viện trực thuộc và các
bệnh viện quận huyện có triển khai kỹ thuật chạy thận nhân tạo thực hiện việc
miễn 15% chi phí điều trị cho đối tượng là bệnh nhân nghèo TP (có mã thẻ
BHYT-CN) khi chạy thận nhân tạo theo chỉ đạo của UBND TP.HCM. Theo đó,
các đơn vị chỉ thu phần đồng chi trả của bệnh nhân là 5% trên chi phí điều trị
chạy thận, khoản chênh lệch 15% đồng chi trả của bệnh nhân sẽ do ngân sách
41
Thành phố cấp bù cho đơn vị.
Thứ tư, thành lập bệnh viện miễn phí (Bệnh viện An Bình), phòng khám
nhân đạo, phòng chẩn trị y học dân tộc của Hội chữ thập đỏ, của các tổ chức xã
hội từ thiện trong và ngoài nước. Ngay từ năm 1994, tại thành phố Hồ Chí Minh
đã lập Hội bảo trợ bệnh viện miễn phí (nay là Hội bảo trợ bệnh nhân nghèo) để
khám chữa bệnh cho người nghèo. Kết quả chỉ sau 6 năm thành lập, bệnh viện
này đã điều trị cho 600.000 lượt bệnh nhân nghèo với nhiều loại bệnh khác nhau
và giúp hàng triệu bữa ăn miễn phí cho bệnh nhân nghèo ở bệnh viện với số quỹ
đã quyên góp lên đến 70 tỷ đồng[43]
1.3.5.2. Kinh nghiệm Thành phố Đà Nẵng
Đà Nẵng là một trong những thành phố trọng điểm, là trung tâm kinh tế
của Miền Trung. Những năm gần đây kinh tế Đà Nẵng đã đạt được rất nhiều
thành tựu. Bên cạnh đó thành phố cũng đã có rất nhiều quan tâm đến an sinh xã
hội đặc biệt là vấn đề chăm sóc sức khoẻ cho người nghèo. Một số bài học kinh
nghiệm của Tp. Đà Năng mà Hà Nội có thể tham khảo là:
Thứ nhất, Thành phố thực hiện việc phân cấp trong công tác chăm sóc sức
khoẻ cho người nghèo. Để chủ động trong công tác cấp phát thẻ BHYT và khám
chữa bệnh cho người có thẻ BHYT, Thành phố đã phân cấp cho UBND các
quận, huyện đóng và cấp thẻ bảo hiểm y tế. UBND thành phố vừa ban hành
Quyết định số 37/2010/QĐ-UBND về Quy định phân cấp việc đóng và cấp thẻ
bảo hiểm y tế cho một số đối tượng. Theo đó, UBND các quận, huyện sẽ đóng và
cấp thẻ cho người thuộc hộ gia đình nghèo; người thuộc hộ gia đình thoát nghèo
không quá 2 năm; người thuộc hộ gia đình đồng bào dân tộc thiểu số đang sinh
sống tại các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn theo
42
quy định của Thủ tướng Chính phủ; trẻ em dưới 6 tuổi; người thuộc diện hưởng
trợ cấp bảo trợ xã hội hàng tháng; người bị bệnh hiểm nghèo có hoàn cảnh kinh
tế khó khăn; người thuộc hộ gia đình cận nghèo.
Thứ hai, ngoài nguồn kinh phí từ ngân sách bảo đảm đóng bảo hiểm y tế
cho các đối tượng nghèo kể trên, Thành phố còn có nhiều biện pháp huy động
mọi nguồn lực của xã hội để giúp đỡ người nghèo. Điển hình của các biện pháp
đó là khuyến khích các tổ chức xã hội xây dựng bệnh viện tự nguyện; Bệnh viện
Phụ nữ Đà Nẵng. Gọi là bệnh viện tự nguyện, vì nó hoàn toàn do các tổ chức xã
hội tự xây dựng, không có sự tham gia của Nhà nước, cũng không có sự tham gia
của tư nhân. Bệnh viện Phụ nữ Đà Nẵng do Hội Bảo trợ Phụ nữ và Trẻ em
nghèo bất hạnh Thành phố xây dựng nên. Đó chính là hiệu quả của hình thức xã
hội hóa y tế trong lĩnh vực xây dựng bệnh viện.
Có thể nói Bệnh viện Phụ nữ Đà Nẵng là bệnh viện duy nhất hiện nay trên
cả nước không phải là bệnh viện công mà cũng chẳng phải bệnh viện tư. Nếu sau
này có thêm những bệnh viện tương tự thì bệnh viện phụ nữ Đà Nẵng chắc chắn
là bệnh viện đầu tiên trên cả nước mở đầu cho một hình thức xã hội hóa y tế khi
dựa vào một tổ chức xã hội để giải quyết một trong những vấn đề xã hội hóa y tế.
Thứ ba, Thành phố tạo điều kiện để bệnh nhân nghèo được tiếp cận với
dịch vụ y tế công nghệ cao. Bệnh viện cho người nghèo nhưng không phải là
dạng "nhà thương làm phúc" của thời xưa. Tại sao người nghèo không thể hưởng
chất lượng khám chữa bệnh cao với những máy móc hiện đại? tiêu chí của bệnh
viện từ khi mới bắt đầu xây dựng phải là chất lượng cao cộng với yếu tố từ thiện.
Chất lượng có cao, máy móc có hiện đại, đội ngũ thầy thuốc có giỏi mới mời gọi
được bệnh nhân không nghèo nhất là thành phần "tiền nong không thành vấn đề
miễn là..." mà ta hay gặp tại các bệnh viện hiện nay. Có bệnh nhân kinh tế khá
43
giả thì mới có khoản dư ra để “đập” vào chỗ hỗ trợ cho bệnh nhân nghèo. Cách
toan tính ngay từ đầu rất logic để người giàu tìm đến không tiếc "đồng tiền bát
gạo" bỏ ra mà người nghèo vào đây thì cũng được hưởng dịch vụ như người
giàu. Cái cách san sẻ này xem ra hơn nhiều một số bệnh viện hiện nay chỉ cách
một hành lang mà bên này nằm ghép 2,3 người/giường, bên kia thênh thang
trong "dịch vụ tự nguyện" dù rằng dịch vụ tự nguyện giá cao có san cho người
nghèo.
Hiện đại và truyền thống
Trong thời buổi kinh tế thị trường này, phàm đã đầu tư cái gì có tính hiện đại, hoành tráng
thảy đều có yếu tố thu lợi bên trong. trong "vụ" này, "hội bảo trợ phụ nữ và trẻ em nghèo
bất hạnh" cũng thu "lợi" đến kinh ngạc! chỉ có điều, nơi khác, người khác thu lợi tính ra
tiền, ra vàng cho vào két còn ở đây, cái "lợi" lớn nhất là cả người giàu lẫn người nghèo
cùng "sướng"! người giàu thoải mái với đồng tiền bỏ ra, người nghèo cũng được chăm sóc
như người giàu. niềm vui của con người thì tiền vàng nào mua nổi! Đà Nẵng quan niệm
người nghèo là người có mức thu nhập dưới 500.000 đồng còn người đặc biệt nghèo ở mức
120.000 đồng. với mức đặc biệt nghèo này thì chuyện thoát nghèo còn là chuyện dài dài và
cả thành phố có 3.397 người, hội bảo trợ phụ nữ và trẻ em nghèo bất hạnh lo tất! ai ốm
đau, hội chi trả! còn phụ nữ nghèo được hội đỡ 30% viện phí. có người giật mình rằng
người nghèo phải trả 70% viện phí ở bệnh viện hiện đại bậc nhất miền trung này thì đố
người nghèo dám bước vào, thậm chí dù có miễn đến 50%! xin thưa, 30% viện phí ở đây là
30% thực trả chênh lệch bởi người nghèo nào chả có thẻ BHYT. BHYT vẫn phải chi trả như
khi bệnh nhân đến đúng tuyến tại các bệnh viện công và cái phát sinh, vênh lên ở đây so
mới mức BHYT quy định thì được hội “gánh” cho 30%! ông giám đốc Phan Anh Gia Bảo
khẳng định mọi bệnh nhân đến đây đều được đối xử như nhau bởi hội chịu cho khoản
chênh lệch trước danh sách người nghèo, đặc biệt nghèo do sở LĐ-TB-XH và của hội gửi
sang, giới thiệu sang. Ông giám đốc giải thích thêm: "bệnh viện Phụ nữ Đà Nẵng hoạt
động theo mô hình bệnh viện ngoài công lập”.
44
Chƣơng 2
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG BẢO HIỂM Y TẾ
CHO NGƢỜI NGHÈO Ở HÀ NỘI VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA
2.1. Khái quát về Hà Nội và BHYT TP. Hà Nội
2.1.1. Một số nét chủ yếu về kinh tế-xã hội Hà Nội
Hà Nội là một Thành phố lớn của cả nước, với diện tích tự nhiên
3.344,7002 km2 và dân số là 6.448.837 người. Xét về quy mô, năm 2009 Hà Nội
đứng đầu cả nước về diện tích, thứ hai về dân số và tổng sản phẩm quốc nội (chỉ
sau Thành phố Hồ Chí Minh). Nếu năm 2000, GDP của Hà Nội mới đạt 39.944
tỷ đồng (chiếm 9,04% tổng GDP cả nước), thì đến năm 2007 đã tăng lên 137.935
tỷ (chiếm 12,06%), và năm 2009 là 205.890 tỷ đồng (chiếm 12,41%). Tốc độ
tăng trưởng kinh tế của Hà Nội khá cao, luôn nằm trong “Top” đầu cả nước, với
rất nhiều năm đạt mức hai chữ số, trong đó: bình quân giai đoạn 2001-2005 đạt:
11,24%; 2006-2009: 10,22%. Năm 2009, do tác động của khủng hoảng và suy
thoái kinh tế toàn cầu nên tốc độ tăng trưởng kinh tế Hà Nội bị chững lại, song
vẫn đạt mức cao hơn 23% so với cả nước, chỉ thấp hơn Tp. Hồ Chí Minh (6,7%
so với 5,32% và 8%). Sang năm 2010, tốc độ tăng trưởng 6 tháng đầu năm đạt
10,1% so với cùng kỳ năm trước (cả nước: 6,16%), dự báo cả năm ước đạt
khoảng 8%-8,5%, đưa tốc độ tăng trưởng GDP trung bình thời kỳ 2006-2010 đạt
khoảng 9,85% (cả nước 6,96%)[42].
Như vậy, trong mọi điều kiện, dù thuận lợi hay khó khăn Hà Nội vẫn duy
trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, gấp từ 1,26 – 1,43 lần so với cả nước.
Với nhận thức phải phát triển kinh tế Hà Nội xứng tầm với một Thủ đô hiện đại,
trong hai thập kỷ gần đây Hà Nội đã tập trung nguồn lực để phát triển nhanh
45
công nghiệp và dịch vụ. Kết quả là, nhiều khu-cụm công nghiệp, điểm công
nghiệp làng nghề được thành lập, trở thành trụ cột của sự phát triển kinh tế
Thành phố.
Hệ thống kết cấu hạ tầng đã được cải tạo và nâng cấp một bước, trong đó
có nhiều công trình mang tầm vóc thời đại. Hầu hết các tuyến đường, nhất là
những tuyến quốc lộ hướng tâm vào Thành phố đều đã được mở rộng và nâng
cấp nền đường. Tính đến 2009, Hà Nội đã hoàn thành về cơ bản việc xây dựng
mới và nâng cấp 3 tuyến đường vành đai, 30 tuyến đường trục chính cùng nhiều
tuyến phố khác, đưa tỷ lệ quỹ đất dành cho giao thông đường bộ tại khu vực nội
đô đạt 6-7%, tăng 3 lần so với thời kỳ đầu thập niên 1990 (khoảng 2-3%). Riêng
lĩnh vực y tế, tính đến năm 2009, Hà Nội có đến 651 cơ sở khám chữa bệnh, với
10.066 giường bệnh, trong đó có 41 bệnh viện.
Nhờ sự phát triển kinh tế nhanh, thu nhập và đời sống của người dân được
cải thiện rõ rệt. Sau 10 năm (2000-2009), mức thu nhập bình quân đầu người tại
Hà Nội đã tăng lên 332%, bình quân mỗi năm tăng 33,2% (tương ứng, cả nước
tăng 290% và 29%). Theo dự báo của Thành phố, năm 2010 thu nhập bình quân
có thể lên đến 35 – 36 triệu đồng, tăng 10% - 13% so với năm 2009. Hiện tại, thu
nhập bình quân của Hà Nội đã cao gấp 64,8% so với mức trung bình cả nước
(Bảng 2.1).
Bảng 2.1: GDP bình quân đầu ngƣời của Hà Nội và cả nƣớc 2000 –
2010
Đơn vị: Triệu đồng
Hà Nội Cả nước 2000 2005 2006 2007 2008 28,1 18,4 7,4 17,4 11,7 5,7 22,4 13,6 15,6 10,2 2009 Ước tính 2010 35-36* 31,8 - 19,3
46
Nguồn: Tạp chí Khoa học, chuyên san Kinh tế và Kinh doanh, số 3/2010
Tỷ lệ hộ nghèo toàn Thành phố đã giảm từ 3% năm 2006 xuống 2,9%
2007 và 2,4% 2008 (cả nước giảm tương ứng là 15,47%, 14,75%, và 13,4%). Từ
năm 2009, Hà Nội áp dụng chuẩn nghèo riêng (cao hơn 2 lần chuẩn quốc gia)
nên tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn mới là 6,09%, nhưng năm 2010 ước tính sẽ giảm
xuống còn khoảng 5,4%.
Có thể nói rằng, là Thủ đô của cả nước, Hà Nội có lợi thế hơn nhiều địa
phương khác, kể cả Thành phố Hồ Chí Minh về điều kiện sống, trong đó có điều
kiện về chăm sóc sức khỏe người dân nói chung, và người nghèo nói riêng.
Tuy nhiên, Hà Nội vẫn đang phải đối mặt với nhiều thử thách, gây ảnh
hưởng lớn đến việc chăm sóc sức khỏe cho người dân, nhất là người nghèo và
cận nghèo tại các huyện, xã vùng sâu, vùng xa. Đó là, sự thiếu hụt trong nguồn
cung nhà ở cũng như các dịch vụ công mới chỉ tập trung chủ yếu vào nhóm cư
dân có thu nhập cao mà “bỏ quên” đối tượng người nghèo; hệ thống cơ sở hạ
tầng đô thị còn thiếu và yếu kém dẫn đến sự quá tải, nhất là các điều kiện về y tế
và giáo dục. Thêm vào đó, quá trình đô thị hóa tự phát, bùng nổ lưu thông bằng
xe máy và việc khai thác tài nguyên nhanh đã gây ô nhiễm và sự xuống cấp của
môi trường sống, đã làm cho người dân dễ mắc bệnh hơn và bệnh tật cũng đa
dạng hơn. Để hạn chế và chủ động trong vấn đề này, BHYT sẽ là cứu cánh cho
phần lớn người dân đang sinh sống trong thành phố nói chung và một bộ phận
những người nghèo đang ngày đêm lăn lộn kiếm kế sinh nhai tại thành phố nói
riêng.
2.1.2. Khái quát về BHYT Hà Nội
Bảo hiểm y tế Hà Nội ra đời năm 1992, theo Nghị định số 299/ NĐ -
47
HĐBT ngày 15/ 8/1992 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) và Quyết
định số 2795/ QĐ - UB ngày 12/11/1992 của Uỷ ban nhân dân Thành phố Hà
Nội.
Xuất phát điểm của Bảo hiểm y tế Hà Nội là một cơ sở vật chất thấp kém,
thiếu thốn. Ban đầu, toàn hệ thống chỉ có 37 người trong đó 22 người công tác
tại Trung tâm 18B Hàng Lược, 15 người công tác tại 5 chi nhánh huyện (mỗi chi
nhánh 3 người). Qua nhiều năm hoạt động, số lượng người tham gia bảo hiểm y
tế ngày càng tăng, đối tượng tham gia bảo hiểm y tế ngày càng phong phú, loại
hình bảo hiểm y tế cũng phát triển và các cơ sở khám chữa bệnh ngày càng mở
rộng đòi hỏi đội ngũ cán bộ công nhân viên Bảo hiểm y tế Hà Nội phát triển cả
về số lượng và nghiệp vụ chuyên môn. Đến nay Bảo hiểm y tế Hà Nội đã có trên
600 người (trong đó đại học và trên đại học chiếm trên 75% ), đa phần là bác sỹ,
cử nhân kinh tế, kỹ sư, cử nhân luật, trung cấp, nhân viên vi tính...
Thực hiện định hướng mục tiêu từng bước xã hội hoá sự nghiệp chăm sóc
bảo vệ sức khoẻ nhân dân, đảm bảo công bằng trong chăm sóc sức khoẻ cho mọi
người, phù hợp với khả năng kinh tế của xã hội, trong thời gian qua qua Bảo
hiểm y tế Hà Nội đã quán triệt và thực hiện nghiêm túc chính sách, chế độ theo
nội dung yêu cầu của Điều lệ Bảo hiểm y tế (sau này là Luật BHYT).
Cùng với sự phát triển của ngành Y tế Thủ đô, công tác BHYT trên địa
bàn Thành phố cũng ngày càng khẳng định được vị trí của mình trong sự nghiệp
chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ nhân dân. Người dân ngày càng hiểu rõ hơn về chính
sách bảo hiểm y tế, số người tham gia bảo hiểm y tế ngày càng đômg và quyền
lợi của các bên tham gia bảo hiểm y tế ngày càng được đảm bảo. Cơ quan Bảo
hiểm y tế Hà Nội cũng đã phát triển mạnh về đội ngũ và chất lượng công tác, đáp
48
ứng được nhu cầu phát triển của sự nghiệp bảo hiểm y tế.
Các hoạt động chính của Bảo hiểm y tế Hà Nội là: khai thác và phát hành
thẻ BHYT, giám định chi phí khám chữa bệnh bảo hiểm y tế, và công tác tài
chính kế toán. Ba mảng hoạt động này có mối liên hệ mật thiết với nhau và góp
phần quan trọng trong quá trình hoạt động và phát triển của Bảo hiểm y tế Hà
Nội. Cụ thể:
+ Về hoạt động khai thác và phát hành thẻ BHYT: Đây là công tác hết sức
quan trọng, được xác định là khâu then chốt của đầu vào, nó tạo điều kiện cho
các hoạt động tiếp theo. BHYT là một loại hình bảo hiểm mang tính nhân đạo xã
hội sâu sắc, nó ra đời phù hợp với xu thế phát triển của xã hội nên được sự ủng
hộ của cộng đồng. Vậy nhưng, trong thời gian đầu, do hoạt động này còn mới mẻ
nên việc vận động tuyên truyền để khai thác đối tượng bảo hiểm y tế gặp không
ít khó khăn. Còn về sau, do sự nỗ lực của cán bộ BHYT trong công tác tuyên
truyền, vận động nên nhận thức của người dân đã được nâng cao một bước. Từ
năm học 1994-1995, Bảo hiểm y tế Hà Nội đã tiến hành triển khai bảo hiểm y tế
tự nguyện cho đối tượng là học sinh, sinh viên; tiếp đến là triển khải Bảo hiểm y
tế cho người nghèo.
+ Về công tác giám định và KCB cho đối tượng BHYT: Công tác này
cũng được xác định là khâu then chốt của đầu ra, vì vậy Bảo hiểm y tế Hà Nội đã
tập trung đầu tư tăng cường cán bộ và nâng cao nghiệp vụ giám định BHYT,
nâng cấp mạng vi tính quản lý từng bệnh nhân có thẻ BHYT khi đi khám chữa
bệnh tại tất cả các cơ sở KCB, nhằm đáp ứng yêu cầu về quản lý. Công tác giám
định đã đảm bảo quyền lợi cho người có thẻ BHYT, cho các cơ sở khám chữa
bệnh và đảm bảo an toàn quỹ bảo hiểm y tế.
Vào những năm đầu hoạt động, do tổ chức cán bộ còn thiếu nên Bảo hiểm
49
y tế Hà Nội mới tổ chức hợp đồng khám chữa bệnh với các cơ sở thuộc Sở y tế
quản lý và một số ít cơ sở ngoài ngành. Năm 1993, Bảo hiểm y tế Hà Nội mới ký
hợp đồng khám chữa bệnh với 23 bệnh viện, TTYT, phòng khám đa khoa khu
vực nội thành. Những năm gần đây Hà Nội ngày càng có nhiều dự án phát triển
dịch vụ y tế cho người nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn với nhiều hình thức
như đóng góp, hỗ trợ tài chính, phối hợp với chính quyền địa phương tổ chức các
đợt khám chữa bệnh miễn phí, cấp thẻ BHYT cho người nghèo, đặc biệt người
nghèo thuộc diện chính sách... Đến nay, Hà Nội đã xây dựng được gần 20 bệnh
viện và Trung tâm chuyên khoa (nếu tính cả bệnh viện trung ương đóng trên địa
bàn thì có đến 41 bệnh viện); 228 trạm y tế xã, phường, thị trấn đã có bác sĩ,
nhiều thôn ở ngoại thành cũng đã có nhân viên y tế hoạt động; 18 phòng khám
đa khoa khu vực nằm ở các quận, huyện; và 5000 cơ sở y tế ngoài công lập.
Trong số 228 trạm y tế, có 200 trạm được xây kiên cố (chiếm 88%). Theo thống
kê tổng số giường bệnh trên địa bàn Hà Nội là 9.860 (bệnh viện tuyến Trung
ương có 5280 giường). Ngoài ra, Bảo hiểm y tế Hà Nội đã hợp đồng với 245 cơ
sở khám chữa bệnh là các viện, bệnh viện, trung tâm y tế của Sở y tế, Bộ y tế, Bộ
quốc phòng, Bộ nội vụ và các ngành đóng trên địa bàn Thành phố Hà Nội và ký
hợp đồng thanh toán đa tuyến với bảo hiểm y tế của 60 tỉnh, thành phố trong cả
nước.
Hệ thống y tế dự phòng của Hà Nội khá tốt, 100% Trung tâm y tế quận,
huyện có đủ đội y tế dự phòng, đội bảo vệ sức khỏe bà mẹ trẻ em và kế hoạch
hóa gia đình. Các đội y tế dự phòng với đông đảo tình nguyện viên ngoài việc
thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ được giao còn tích cực hỗ trợ y tế tuyến cơ sở
chăm sóc dự phòng cho nhân dân, đặc biệt là các hộ nghèo, hộ có hoàn cảnh khó
50
khăn, gia đình chính sách.
Với hệ thống cơ sở y tế đó, có thể nói về cơ bản Hà Nội đã đáp ứng được
việc khám và điều trị cho người dân. Đến nay, các cơ sở y tế trên địa bàn Hà Nội
đã phục vụ hàng triệu lượt người có thẻ bảo hiểm y tế khám chữa bệnh, hàng
trăm ngàn lượt người được nằm điều trị tại viện, bệnh viện do Quỹ bảo hiểm y tế
Hà Nội chi trả. Tuy nhiên, do việc điều trị một số căn bệnh đòi hỏi phải có thiết
bị hiện đại mới đáp ứng được thì Hà Nội còn gặp khó khăn.
+ Về công tác tài chính kế toán: được thực hiện theo đúng nguyên tắc về
quản lý kinh tế và quy định hiện hành của nhà nước. Công tác thu, chi quỹ bảo
hiểm y tế chặt chẽ, đúng chế độ quy định, có sổ sách theo dõi rõ ràng. Hàng năm
đều có kiểm toán nên không có sai phạm trong quản lý quỹ bảo hiểm y tế. Qua
kết quả thanh tra của Bộ công an năm 1998, Bảo hiểm y tế Hà Nội đã thực hiện
đúng các quy định quản lý quỹ bảo hiểm y tế, không có sai phạm trong quản lý
kinh tế.
Công tác quyết toán đối với các cơ sở khám chữa bệnh hàng quí các phòng
phối hợp thực hiện nghiêm túc, chặt chẽ, kịp thời, đảm bảo chi cho khám chữa
bệnh đúng quy định của Nhà nước, bảo vệ được quyền lợi cho người có thẻ bảo
hiểm, quyền lợi của các cơ sở khám chữa bệnh và đảm bảo an toàn quỹ bảo hiểm
y tế.
2.2. Thực trạng BHYT cho ngƣời nghèo ở Hà Nội
2.2.1. Chính sách của Thành phố Hà Nội về BHYT cho người nghèo
Hà Nội là một trong những địa phương sớm từ bỏ việc cấp giấy chứng
nhận cho người nghèo để chuyển sang cấp thẻ BHYT. Trước năm 1995, bệnh
nhân có hoàn cảnh khó khăn mỗi lần đi khám chữa bệnh lại phải kích rích với đủ
thứ giấy tờ, phải xin xác nhận của xã (hoặc phường) là gia đình nghèo, gia đình
51
có hoàn cảnh khó khăn để được cơ sở y tế xét miễn, giảm viện phí. Chính những
giấy tờ thủ tục đó vừa gây phiền hà, vừa khiến người bệnh “ngại làm người
nghèo” dù họ nghèo thật. Để người nghèo được chăm sóc sức khỏe và khám
chữa bệnh bình đẳng như tất cả những bệnh nhân khác, tránh tâm lý mặc cảm,
tự ti, tránh phân biệt đối xử trong khám chữa bệnh từ năm 1995 trở lại đây, thành
phố đã bỏ việc cấp giấy chứng nhận cho người nghèo để chuyển sang cấp thẻ
BHYT với mã số thẻ riêng cho 100% người nghèo theo danh sách hộ nghèo
được bình xét công khai từ xã, phường.
Hà Nội luôn tạo sự bình đẳng giữa người nghèo với các đối tượng khác
trong KCB bằng thẻ BHYT. Người nghèo có thẻ BHYT được đăng ký khám
chữa bệnh ban đầu tại các cơ sở y tế gần nơi cư trú và không phải trả tiền viện
phí. Cơ chế thanh toán chi phí khám chữa bệnh cho người nghèo được thực hiện
theo phương thức thực thanh thực chi từ Quỹ trợ giúp người nghèo của thành
phố. Hàng năm, Hà Nội đã dành 1,5 - 1,6 tỷ đồng để thanh toán BHYT cho
người nghèo ở các cơ sở y tế. Năm 2001, căn cứ vào kết quả điều tra hộ nghèo
theo chuẩn mới, thành phố đã trích từ ngân sách 2,5 tỷ đồng giúp đối tượng cứu
trợ xã hội. Con số này các năm sau đó liên tục tăng. Đến nay 60% người nghèo,
nhiều người tàn tật có hoàn cảnh khó khăn đã được phát thẻ BHYT; 40% người
nghèo còn lại được các quận, huyện cân đối ngân sách và vận động các nguồn
kinh phí khác để mua thẻ.
Ngoài việc cấp thẻ BHYT cho người nghèo hàng năm, thành phố cũng tổ
chức nhiều hoạt động để người nghèo được thụ hưởng dịch vụ y tế tốt hơn. Chỉ
trong mấy năm gần đây, nhiều đợt khám sức khỏe, cấp thuốc miễn phí với tổng
số tiền lên tới hàng tỷ đồng. Gần đây nhất, Bệnh viện Mắt Hà Nội đã phối hợp
với các Trung tâm y tế huyện, quận phẫu thuật đục thủy tinh thể miễn phí cho
52
các bệnh nhân nghèo trong chương trình Phòng chống mù lòa. Trung tâm Y tế
các quận, huyện phối hợp với Hội Chữ thập đỏ thành phố xây dựng hệ thống
phòng khám nhân đạo xuống tận cấp phường để khám chữa bệnh miễn phí cho
bệnh nhân nghèo, bệnh nhân có hoàn cảnh khó khăn. Công tác y tế dự phòng,
nâng cao sức khỏe cho người nghèo ở vùng ngoại thành, công tác chăm sóc sức
khỏe ban đầu cho nhân dân ngày càng được cải thiện. Hệ thống y tế cơ sở đã
thực hiện hiệu quả nội dung chăm sóc sức khỏe ban đầu, các chương trình lồng
ghép được triển khai hiệu quả.
Mới đây, Uỷ Ban nhân dân Thành phố đã ra Quyết định số 44/2009/QĐ-
UBND ngày 15 tháng 01 năm 2009 về việc cấp thẻ BHYT cho người nghèo, đối
tượng bảo trợ xã hội, người mù có hoàn cảnh khó khăn, người bị bệnh phong và
người dân thuộc chương trình 135 thành phố Hà Nội. Theo quyết định này các
đối tượng sau sẽ được cấp thẻ BHYT miễn phí, trong thời hạn 1năm, gồm:
a) Người nghèo.
b) Đối tượng bảo trợ xã hội đang hưởng trợ cấp hàng tháng tại xã, phường
và đang được nuôi dưỡng tại các Trung tâm bảo trợ xã hội.
c) Người mù có hoàn cảnh khó khăn.
d) Người bị bệnh phong.
đ) Người dân thuộc chương trình 135 thành phố Hà Nội.
Kinh phí để cấp thẻ miễn phí cho người nghèo được lấy từ “ Quỹ khám
chữa bệnh cho người nghèo”
2.2.2. Tình hình thực hiện BHYT cho người nghèo ở Hà Nội từ năm
2005 đến nay.
2.2.2.1. Thành lập Quỹ BHYT cho người nghèo
53
Quỹ BHYT người nghèo được hình thành từ các nguồn sau:
- Ngân sách thành phố chi mua: 100% giá trị thẻ đối với những hộ nghèo;
chi 50% giá trị thẻ đối với những hộ cận nghèo;
- Số còn lại người dân cùng đóng góp 50% mệnh giá thẻ đối với hộ cận
nghèo
- Người bệnh cùng chi trả: 5% và 20%
- Đóng góp của các quỹ từ thiện.
Bảng 2.2: Tình hình phát triển quỹ BHYT ngƣời nghèo tại Hà Nội
Nội dung
Số thẻ (thẻ) Quỹ (đồng) Mệnh giá thẻ (đồng) Năm
2005 2006 2007 2008 2009 2010 (dự kiến) 112.524 115.630 107.936 348.493 355.463 468.868 50.000 60.000 80.000 80.000 194.000 194.000 5.626.200.000 6.937.800.000 8.634.880.000 27.879.440.000 68.959.822.000 90.960.392.000
Nguồn: BHXH thành phố Hà Nội
Bảng số liệu trên cho thấy:
+ Số lượng thẻ BHYT cấp cho người nghèo tăng khá nhanh. Sau 5 năm,
tổng số thẻ BHYT cấp phát cho người nghèo tăng 4,17 lần, trong đó năm 2006
tăng 1,03 lần so với năm 2005; năm 2008 tăng hơn 3 lần so với năm 2007; năm
2009 tăng 1,02 lần so với năm 2008, và 2010 dự kiến tăng 1,32 lần so với 2009.
Sở dĩ năm 2008 số thẻ BHYT cấp phát cho người nghèo lại có sự tăng đột biến
như vậy một mặt là do Thành phố Hà Nội mở rộng phạm vi hành chính (sáp
nhập với toàn bộ tỉnh Hà Tây và 3 huyện của Hòa Bình và Vĩnh Phúc, là địa
54
phương vốn có tỷ lệ người nghèo khá cao); và mặt khác, do chuẩn nghèo cũng
được điều chỉnh lên mức cao hơn. Riêng năm 2007, số lượng thẻ phát ra có sự
giảm xuống (giảm 7.694 thẻ so với năm trước). Điều đó không có nghĩa là số
lượng người nghèo ít đi, hay công tác BHYT cho người nghèo không tốt, mà là
do UBND Thành phố Hà Nội quyết định điều chỉnh tăng mệnh giá thẻ BHYT
thêm 20.000 đồng, từ 60.000đ/thẻ lên 80.000đ/thẻ.
+ Mệnh giá thẻ BHYT cho người nghèo tăng lên liên tục, với số tăng lần
sau cao hơn lần trước. Cụ thể, nếu năm 2006 so với năm 2005, mệnh giá thẻ tăng
thêm 10.000 đồng, thì năm 2007 so với năm 2006 tăng thêm 20.000 đồng; năm
2009 tăng thêm 114.000 đồng (tăng hơn 2,4 lần so với năm 2008). Sự thay đổi
(tăng thêm) mệnh giá thẻ BHYT cho người nghèo như vậy là phù hợp với tốc độ
phát triển nền kinh tế trên địa bàn Thành phố Hà Nội thời gian qua.
+ Tổng quỹ BHYT cho người nghèo tại Hà Nội không ngừng tăng lên,
trong đó tăng cao nhất là các năm 2008-2009 và 2010. Chỉ sau 5 năm, tổng quỹ
này đã tăng gấp 18 lần, từ hơn 5 tỷ đồng năm 2005 lên hơn 90 tỷ đồng năm 2010
(dự kiến). Điều này phản ánh tính tích cực của đội ngũ cán bộ trong ngành Bảo
hiểm nói chung, và BHYT nói riêng. Đây cũng thể hiện sự quan tâm của lãnh
đạo các ngành các cấp của Thành phố, cũng như của cộng đồng dân cư trên địa
bàn đối với người nghèo.
2.2.2.2. Tình hình cấp thẻ BHYT cho người nghèo
Nhận thức được gánh nặng chi phí cho KCB của người nghèo, ngay từ
năm 1994, Thành phố Hà Nội đã có chủ trương cấp thẻ BHYT miễn phí cho
người nghèo. Sau khi làm thí điểm tại 2 xã nghèo nhất Thành phố là Bắc Phú và
Bắc Sơn (thuộc huện Sóc Sơn), tháng 5/1995 Hà Nội tiến hành cấp thẻ BHYT
(T8) cho toàn bộ người nghèo trong toàn Thành phố theo tiêu chuẩn của Sở Lao
55
động-Thương binh-Xã hội. Cơ quan BHYT in và phát thẻ BHYT T8 cho các đối
tượng, Sở Y tế tổ chức khám chữa bệnh cho các đối tượng có thẻ T8 như những
người có thẻ BHYT khác, Sở Tài chính vật giá thanh quyết toán các chi phí trực
tiếp như thuốc, vật tư theo nguyên tắc thực thành thực chi cho các cơ sở y tế. Các
chi phí về tiền công KCB và tiền ngày giường điều trị nội trú được chi từ ngân
sách chi thường xuyên của các cơ sở y tế. Thẻ T8 cuả Hà Nội có thời gian sử
dụng 2 năm, bình quân hàng năm Hà Nội thanh toán cho một thẻ T8 khoảng
31.500 đồng, trong đó năm 1996 là 28.900 đồng/thẻ; năm 1997: 35.500 đồng,
năm 1998: 28.020 đồng, và năm 1999 là 33.741 đồng/thẻ[9].
Có thể nhận thấy, Thành phố Hà Nội đã tích cực triển khai cấp phát thẻ
BHYT cho mọi người dân từ khá sớm. Từ loại thẻ BHYT cho người nghèo T8
của thời kỳ những năm 1995-1998, với mệnh giá 30.000 đồng/1 thẻ, và thời hạn
sử dụng 1 năm, Hà Nội đã có những bước cải tiến trong cách thức cấp phát thẻ.
Từ năm 1999 thẻ BHYT người nghèo (ký hiệu A7), mệnh giá vẫn 30.000đồng/1
thẻ, nhưng thời hạn sử dụng được tăng lên đến 2 năm. Từ năm 2002 thẻ BHYT
cho người nghèo (ký hiệu JL) được tăng mệnh giá lên 50.000đồng/1 thẻ, thời hạn
sử dụng 2 năm. Từ năm 2008 thẻ BHYT cho người nghèo (ký hiệu HN, cấp
miễn phí đối với hộ nghèo), mệnh giá lên đến 80.000đồng/1thẻ, thời hạn sử dụng
1 năm; và thẻ cho người cận nghèo, người dân trả 50% mệnh giá thẻ (ký hiệu thẻ
56
CN), mệnh giá 80.000đ/ 1 thẻ, thời hạn sử dụng 1 năm.
Sau 18 năm hoạt động, BHYT Hà Nội đã từng bước phát triển và đã đạt
được những thành tựu quan trọng. Số người tham gia BHYT không ngừng tăng
lên, từ 5,6% dân số vào năm 1993 lên 46% dân số vào năm 2008. Người nghèo
và các đối tượng hưởng chính sách xã hội đã được Nhà nước dùng ngân sách để
mua và cấp thẻ BHYT nên việc tiếp cận dịch vụ y tế của các đối tượng này đã
được cải thiện rõ rệt. Quyền lợi trong khám bệnh, chữa bệnh của những người
tham gia BHYT từng bước được mở rộng. Cùng với ngân sách nhà nước dành
cho y tế, BHYT đã tạo ra nguồn tài chính công bằng đáng kể cho việc khám
bệnh, chữa bệnh và đảm bảo an sinh xã hội. Luật BHYT đã được Quốc hội khóa
XII thông qua tại kỳ họp thứ tư, ngày 14/1/2008, là cơ sở pháp lý quan trọng để
BHYT phát triển trong tình hình mới.
Biểu đồ 2.1: Số thẻ BHYT cấp phát cho ngƣời nghèo qua các năm (thẻ)
Trên quan điểm “tương thân tương ái”, “lá lành đùm lá rách”, trong nhiều
năm qua BHYT Hà Nội đã có nhiều nỗ lực trong việc tuyền truyền, vận động và
57
tổ chức cấp phát thẻ BHYT cho người nghèo trên địa bàn Thành phố. Nhờ vậy,
sos người nghèo được cấp phát thẻ miễn phí ngày càng tăng. Nếu năm 2005, cả
Thành phố mới cấp được 112.524 thẻ cho người thuộc diện nghèo, thì đến năm
2006 tăng lên 115.630 thẻ, năm 2007 là 107.936 thẻ, năm 2008: 348.493 thẻ,
2009: 355.463 thẻ, và 2010 dự kiến đạt 468.868 thẻ.
Việc cấp thẻ được tiến hành chặt chẽ đảm bảo tính khách quan, công bằng
đúng người, đúng đối tượng, 100% người nghèo được cấp thẻ BHYT và được
quan tâm bình đẳng về chăm sóc sức khỏe và khám chữa bệnh. Tuy nhiên việc
đăng ký KCB ban đầu tại tuyến quận, huyện những năm qua, trong quá trình
thực hiện đã bộc lộ những mặt hạn chế nhất định. Số lượng người bênh tập trung
tại phòng khám đa khoa, bệnh viện huyện tăng, thường xuyên quá tải (Gia lâm,
Đông Anh, Sóc Sơn). Về phía người bệnh, đối tượng người nghèo chủ yếu là
nông dân ngoại thành, đông nhất tại huyện Ba Vì, Thạch Thất, Mỹ Đức, Sóc
Sơn, điều kiện phương tiện đi đến bệnh viện huyện hoặc bệnh viện thành phố
khó khăn. Trong thực tế có nhiều trường hợp bệnh nhẹ có thẻ khám và điều trị
tại tuyến y tế xã, phường và người bệnh được khám tại tuyến ban đầu đã giảm
được rất nhiều chi phí nâng cao được giá trị sử dụng của thẻ
2.2.2.3. Tình hình tổ chức KCB cho người nghèo có thẻ BHYT
Thực hiện chương trình xóa đói giảm nghèo của thành phố, chương trình
trợ giúp người nghèo. Hàng năm thành phố bố trí một khoản kinh phí thuộc ngân
sách để mua thẻ BHYT cho người nghèo. Từ năm 1995 đến nay, việc cấp thẻ
BHYT đồng thời tổ chức KCB cho 100% người nghèo theo chế độ BHYT đã
được giao cho sở y tế trực tiếp chỉ đạo và tổ chức thực hiện. Công tác KCB và hỗ
trợ chăm sóc sức khỏe cho người nghèo được triển khai và duy trì thành nề nếp,
58
có hiệu quả, người nghèo được KCB thuận tiện, bình đẳng.
Người nghèo có thẻ BHYT được đăng ký KCB ban đầu gần nơi cư trú
(trung tâm y tế quận, huyện) được chăm sóc sứ khỏe, KCB ngoại trú và điều trị
nội trú miễn phí. Nếu bị bệnh nặng được chuyển lên điều trị tiếp tại các bệnh
viện, trung tâm chuyên khoa thành phố, hoặc các bệnh viện trung ương tùy theo
tình trạng bệnh lý, bình đẳng như các người bệnh khác.
BHYT sẽ thanh toán theo thực chi các khoản phục vụ người bệnh gồm:
Thuốc, máu, dịch truyền, xét nghiệm, X quang.
Bảng 2.3: Kết quả thực hiện BHYT cho ngƣời nghèo trên địa bàn TP. Hà
Nội. Đơn vị tính: người; %; đồng
Nội dung
% sử dụng Số BN nội trú % sử dụng
Chi phí bình quân/1 lần điều trị nội trú Số BN khám ngoại trú Năm Chi phí bình quân/1 lần khám ngoại trú
2005 11.251 10.0 280.000 1.125 1.0 2.500.000
2006 10.067 8.7 285.000 2.313 2.0 3.000.000
2007 9.852 9.1 288.000 2.483 2.3 4.500.000
2008 19.542 5.6 360.000 7.318 2.1 5.000.000
2009 99.530 28.0 396.000 11.019 3.1 5.300.000
2010 (dựkiến) 84.396 18.0 400.000 10.315 2.2 5.400.000
Nguồn: BHYT Hà Nội, Phòng Giám định chi
Qua bảng trên ta thấy số lượng người đi khám chữa bệnh ngoại trú các
năm không đều nhau. Thực tế đó chỉ ra rằng người nghèo chỉ đi khám, chữa
bệnh khi thấy mình có vấn đề về sức khỏe. Đây cũng chính là vấn đề của người
59
nghèo. Số lượng tăng đột biến ở năm 2008 có 19.542 người đi khám ngoại trú,
đây là thời điểm Hà Tây sáp nhập vào Hà Nội nên số lượng người nghèo của Hà
Nội cũng tăng theo. Cũng theo số liệu trên cho chúng ta thấy rằng năm 2009 số
lượng người đi khám chữa bệnh tăng rất mạnh so với trước. Nguyên nhân chủ
yếu là do quy định của Chính phủ về KCB vượt tuyến đã tạo thông thoáng cho
người đi KCB, điều này cũng góp phần nâng cao hiệu suất sử dụng thẻ BHYT
người nghèo.
Sơ đồ 2.1: Số bệnh nhân nghèo KCB nội trú và ngoại trú
Nhìn vào sơ đồ 2.1, số bệnh nhân nghèo KCB ngoại trú nhiều hơn số KCB
nội trú. Điều đó cũng dễ hiểu, bởi nếu nội trú thì tuy chi phí về thuốc men không
phải trả, nhưng chi phí về ăn uống, đi lại rất tốn kém, thậm chí còn tốn kém hơn
cả tiền thuốc men, nên người nghèo không đủ tiền để chi trả các khoản đó. Vì
vậy, ngoại trú đối với họ là một cách để tiết kiệm chi phí KCB, thậm chí còn có
nhiều người không đi KCB dù bị đau ốm và có thẻ BHYT. Theo một số nghiên
cứu của Cục Quản lý và KCB (Bộ Y tế), tỷ lệ người nghèo bị ốm không điều trị
chiếm tỷ lệ khoảng 40%. Trong đó, khó khăn về kinh tế là lý do chính (chiếm
60
53% trong số người nghèo không chữa bệnh). Nếu phải KCB nội trú, thì người
nghèo chủ yếu sử dụng dịch vụ nội trú tại bệnh viện huyện (chiếm 42% so với
16,9% người giàu) [43].
Sơ đồ 2.2: Chi phí KCB 1 lần bình quân của BN nội trú và ngoại trú
Sơ đồ trên cho thấy chi phí cho 1 lần KCB bình quân của bệnh nhân nội
trú và ngoại trú là có sự khác biệt rất lớn. Nếu sơ đồ 2.1 cho thấy số bệnh nhân
nghèo KCB ngoại trú nhiều hơn nội trú, thì sơ đồ 2.2. lại cho thấy chi phí 1 lần
KCB nội trú tiêu tốn nhiều hơn hàng chục lần so với KCB ngoại trú. Cụ thể,
chênh lệch về chi phí KCB bình quân 1 lần giữa nội trú và ngoại trú năm 2005 là
61
8,9 lần; năm 2006: 10,5 lần, 2007: 15,6 lần; 2008: 13,9 lần; 2009: 13,4 lần; và
2010: 13,5 lần. Đây là lý do rõ ràng nhất của tình trạng bệnh nhân nghèo KCB
ngoại trú nhiều hơn nội trú đã đề cập ở trên.
Nếu so sánh khả năng tiếp cận dịch vụ y tế của người nghèo có thẻ BHYT
với đối tượng BHYT bắt buộc và BHYT tự nguyện qua các năm dựa vào tần suất
KCB tại Thành phố thì:
- Tần suất KCB của đối tượng người nghèo có thẻ BHYT nhìn chung là
thấp hơn so với những người tham gia BHYT tự nguyện và BHYT bắt buộc
(bảng 2.4).
- Tần suất KCB của người nghèo tăng dần hàng năm, nhưng mức tăng
không cao và không ổn định, thậm chi có lúc năm sau thấp hơn năm trước. Ví dụ
tần suất KCB nội trú của người nghèo có thẻ BHYT năm 2007 là 0,115 còn năm
2008 là 0,038.
Bảng 2.4: Tần suất KCB của các đối tƣợng tham gia BHYT 2005-2008
Đơn vị tình: lượt/người/năm
2005 2006 2007 2008
Nội trú Ng. trú Nội trú Ng. trú Nội trú Ng. trú Nội trú Ng. trú
Người nghèo Bắt buộc Tự nguyện 0.045 0.361 0.038 0.453 0.115 0.542 0.038 0.452 0.235 0.638 0.159 0.987 0.875 0.687 0.658 0.925 1.235 2.358 2.687 1.287 2.215 1.587 2.358 2.215
Nguồn: Phòng Giám định chi BHYT ( BHXH Hà Nội)
Các số liệu trên cũng chỉ cho chúng ta thấy rằng, tần suất của người có thẻ
BHYT tự nguyện là cao nhất. Còn người nghèo, tuy đã được phát thể BHYT
miễn phí nhưng tần suất KCB lại thấp nhất. Một phần lớn khác, chỉ khi nào đau
ốm nặng thì mới đến bệnh viện, mới mua thẻ BHYT. Điều này sẽ dẫn đến tình
62
trạng khó khăn cho cơ quan BHYT khi những người có bệnh mới mua thẻ mà
phần lớn những người này khi biết mình có bệnh rồi thì bệnh tình lúc đó phần
Người khá và giàu trung bình một năm đi khám 4,7 lượt còn người nghèo chỉ có 2,9 lượt.
Cũng vì thế một khi đã đến viện thời gian nằm viện của họ thường lâu. Gánh nặng của việc
mất thời gian do ốm đau của người nghèo chiếm khoảng một phần tư tổng chi phí khám
chữa bệnh.
"Kể cả những người nghèo có bảo hiểm y tế hoặc được miễn giảm viện phí thì gánh nặng
chi phí đối với họ vẫn là rất lớn, tương đương với khoảng 10 tháng chi tiêu ngoài lương
thực, thực phẩm. Một nghiên cứu cho biết có gần 60% số hộ gia đình nghèo mắc nợ do chi
phí khám chữa bệnh".
(http://thuocbietduoc.com.vn/tin-tuc-11562-1-8/nguoi-ngheo-khong-dam-om.aspx)
lớn là đã quá nặng và chi phí cho điều trị lúc này sẽ rất cao.
Kể từ 1/7/2009, thời điểm Luật BHYT được triển khai thực hiên, tình hình
BHYT và KCB cho người nghèo được thực hiện tốt hơn, và theo đó người nghèo
được tạo cơ hội nhiều hơn trong việc thụ hưởng các dịch vụ KCB. Theo số liệu
của Phòng Phòng thu BHYT, BHXH TP Hà Nội, chỉ tính riêng năm 2010, ước
tính sẽ có 468.868 người nghèo được cấp thẻ BHYT, với mệnh giá/thẻ bình
quân đạt 194.000 đồng, và kinh phí đạt 90.960.392.000 đồng.
Luật BHYT ra đời làm cho khả năng tiếp cận dịch vụ y tế của người nghèo
có thẻ BHYT tăng lên rõ rệt.
Bảng 2.5: Tần suất KCB BHYT tại Hà Nội sau khi thực hiện Luật
BHYT
Đơn vị tính: lượt/người/năm
2009 2010 Đối tượng Nội trú Ngoại trú
Nội trú 0.051 0.358 1.358 Ngoại trú 0.368 0.467 2.155 1.210 1.651 2.156 1.215 2.354 2.683
63
Người nghèo Bắt buộc Tự nguyện Nguồn: BHYT Hà Nội
Phân tích tần suất khám chữa bệnh nội trú so với ngoại trú khi thực hiện
luật BHYT (bảng 2.5) cho thấy:
- Tần suất KCB của người nghèo sau khi thực hiện Luật BHYT tăng
mạnh. So với năm 2005, tần suất KCB của người nghèo năm 2010 tăng gấp
nhiều lần. Cụ thể, tần suất KCB nội trú năm 2005 là 0.045, thì con số đó của năm
2010 là 1.210, gấp 26 lần. Tương tự, tần suất KCB ngoại trú năm 2005 là 0.361,
thì năm 2010 là 1.215, gấp 3,5 lần. Điều này cho chúng ta thấy người nghèo
cũng đã quan tâm đến sức khoẻ của mình nhiều hơn.
Bảng 2.6: Tổng hợp tần suất KCB, chi phí KCB bình quân 1 lƣợt và
tổng chi phí KCB bình quân của ngƣời nghèo/năm thời kỳ 2005-2010
Ngoại trú
Nội trú 249 565
4.283 335
1.066 189
Số lượt sử dụng dịch vụ y tế của người nghèo(lượt/1.000 người/năm) Chi phí trung bình một lượt KCB (1.000 đồng/lượt KCB) Tổng chi phí bình quân (1.000 đ/năm)
Nguồn: Tác giả tổng hợp
- Mức tăng tần suất khám chữa bệnh của người nghèo tham gia BHYT
thấp hơn đối tượng tham gia BHYT bắt buộc. Nguyên nhân do những người
nghèo thường tập trung ở vùng nông thôn, miền núi cao nên khả năng tiếp cận
dịch vụ y tế thấp hơn. Những người tham gia BHYT bắt buộc là công nhân viên
chức, người lao động làm việc trong các doanh nghiệp được khám chữa bệnh
định kỳ, hàng năm. Nói khác đi, những người tham gia BHYT bắt buộc thuộc
tầng lớp khá giả hơn, thậm chí giàu có hơn, nên họ có điều kiện để CSSK cho
64
mình tốt hơn.
Biểu đồ 2.2: Tần suất KCB, chi phí KCB bình quân 1 lƣợt và tổng chi phí
KCB bình quân của ngƣời nghèo/năm
Nhìn vào Biểu đồ 2.2 ta thấy được sự khác biệt về tần suất KCB và chi phí
KCB bình quân/lần/người cũng như tổng chi phí KCB giữa hình thức nội trú và
ngoại trú của người nghèo. Chi phí cho 1 lượt KCB nội trú lớn gấp nhiều lần so
với KCB ngoại trú, trong khi tần suất KCB ngoại trú lại lớn hơn nội trú. Cụ thể,
về tần suất KCB thì ngoại trú cao gấp hơn 2,27 lần so với nội trú, song chi phí/1
lượt khám thì nội trú lại tốn kém hơn ngoại trú đến 12,79 lần, do đó tổng chi phí
KCB bình quân/năm của một người nghèo qua hình thức nội trú cũng cao hơn
5,64 lần so với ngoại trú. Điều này lý giải tại sao người nghèo lại chỉ quan tâm
Đối với các dịch vụ điều trị nội trú, số lần sử dụng dịch vụ y tế giữa người giàu và
người nghèo là tương đương nhau, nhưng cơ cấu sử dụng các tuyến dịch vụ y tế thì
khác biệt rõ rệt. Bệnh viện huyện là nơi người nghèo đến để điều trị nội trú cao nhất
(42%), còn bệnh viện tỉnh, thành phố là nơi mà người giàu chủ yếu chọn để điều trị nội
trú. Tuyến y tế xã phường là nơi mà chỉ 3,3% người giàu so với 17,9% người nghèo
điều trị nội trú. Các bệnh viện trung ương là tuyến tương đối khó tiếp cận đối với người
nghèo, chỉ 3,9% người nghèo điều trị nội trú tại đây. Tỷ lệ trực tiếp đến cơ sở KCB nội
65
đến hình thức KCB ngoại trú.
trú cũng như tỷ lệ chuyển từ tuyến dưới lên tháy đổi khá rõ theo mức sống và có xu
hướng trái ngược nhau. Đối với những người đến cơ sở KCB nội trú trực tiếp, tỷ lệ này
tăng từ 69% đối với những người nghèo lên 75% đối với người có mức sống trung bình
và đạt tới 85% đối với những người giàu. Ngược lại, tỷ lệ chuyển từ tuyến dưới lên
giảm từ 27% đối với những người nghèo xuống 21% đối với người có mức sống trung
bình và chỉ còn 11% đối với những người giàu. Như vậy, những người giàu có xu
hướng trực tiếp đến các cớ sở KCB nội trú theo ý muốn của mình, trong khi những
người nghèo có xu hướng chuyển dần từ tuyến dưới lên tuyến trên.
(Bộ Y tế, Báo cáo nghiên cứu Các giải pháp tài chính y tế cho người nghèo, Hà Nội,
2005)
- Mặc dù Luật BHYT được thực thi từ năm 2009, nhưng một số trường
hợp vẫn được hưởng chế độ chi trả BHYT theo tỷ lệ nhất định khi KCB vượt
tuyến, như:
+ Khám trái tuyến tại bệnh viện trung ương hưởng: 30% chế độ BHYT.
+ Khám trái tuyến tại bệnh viện tỉnh hưởng: 50% chế độ BHYT.
+ Khám trái tuyến tại bệnh viện huyện hưởng: 70% chế độ BHYT.
Những thông tin này được người có thẻ BHYT bắt buộc và người có thẻ
BHYT tự nguyện tận dụng ngay vì phần lớn họ là những người có hiểu biết cao
hơn, nắm thông tin nhanh hơn. Trong khi đó người nghèo thường biết thông tin
chậm hơn nên thường bị thiệt thòi hơn.
2.2.2.4. Tình hình cân đối Quỹ
Do đặc thù của Hà Nội là Thủ đô cả nước, tại đây tập trung nhiều cơ sở
KCB hiện đại cùng với đội ngũ cán bộ y tế có trình độ cao so với cả nước nên
cũng là tuyến cuối cùng của bệnh nhân, đặc biệt là các bệnh nhân bị bệnh hiểm
66
nghèo. Thông thường, những căn bệnh bình thường, chi phí KCB thấp thì người
nghèo có sự lựa chọn cơ sở KCB gần nhà, nhưng một khi bị bệnh nan y, bị tai
họa nặng nề phải cấp cứu thì người bệnh lại có nhu cầu KCB vượt tuyến, đến
thẳng các bệnh viện tại Hà Nội, hoặc được các bệnh viện tuyến dưới chuyển về
Hà Nội. Vì vậy, tại Hà Nội bệnh nhân lúc nào cũng đông, không chỉ có người
giau, mà cả người nghèo. Đó là lý do khiến cho Quỹ BHYT người nghèo luôn bị
thâm hụt một cách nghiêm trọng (xem bảng 2.7).
Khi chưa sát nhập vào Hà Nội, từ năm 2005 đến năm 2007 BHYT tỉnh Hà
Tây chỉ thâm hụt 1,798 tỷ đồng. Điều đó không có nghĩa là Hà Tây trước đây
huy động Quỹ tốt hơn, mà là vì tuyến dưới luôn bị sợ nguy cơ vỡ quỹ nên thắt
chặt chi phí KCB. Từ khi Hà Tây sát nhập vào Hà Nội, trong 3 năm 2008 - 2010
số thâm hụt Quỹ đã lên tới 23,824 tỷ đồng. Như vậy, rõ ràng là người nghèo ở
thành phố có cơ hội được hưởng lợi nhiều hơn các tỉnh lẻ về mức chi trả khi bị
ốm đau.
Bảng 2.7: Cân đối Quỹ BHYT cho ngƣời nghèo 2005-2010
Đơn vị tính: đồng
Nội dung
Tổng chi Tổng thu Chênh lệch thu- chi Năm
2005 2006 2007 2008 2009 2010 (dự kiến) 5.626.200.000 6.937.800.000 8.634.880.000 27.879.440.000 68.959.822.000 90.960.392.000 6.076.296.245 7.423.446.134 9.498.368.471 30.667.384.581 79.497.088.777 101.460.392.000 - 450.096.245 - 485.646.134 - 863.488.471 - 2.787.944.581 - 10.537.266.777 - 10.500.000.000
67
Nguồn: BHYT Hà Nội
Để thấy rõ hơn họat động thu-chi Quỹ BHYT cho người nghèo tại Hà Nội
trong 6 năm qua, có thể xem sơ đồ dưới đây:
Sơ đồ 2. 3: Thu-chi Quỹ BHYT ngƣời nghèo 2005-2010
2.3. Đánh giá hoạt động BHYT cho ngƣời nghèo tại Hà Nội
2.3.1. Những thành tựu cơ bản
Thứ nhất, Hà Nội là tỉnh thành phố đầu tiên trong cả nước đề xuất và thực
hiện cấp thẻ bảo hiểm y tế cho người nghèo nhằm nâng cao chất lượng CSSK
những người có hoàn cảnh khó khăn trong xã hội. Trong thời gian qua, ngành y
tế đã có sự phối hợp với Sở Lao động Thương binh và Xã hội, Sở Tài chính và
BHXH thực hiện tốt công tác KCB BHYT cho người nghèo. Sở Y tế đã vận
động các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước đóng góp vào Quỹ BHYT cho
người nghèo, nhằm hỗ trợ cho hoạt động KCB cho đối tượng này. Đồng thời Sở
cũng đã có chủ trương nâng cao chất lượng các dịch vụ y tế trình độ cao và dành
một phần kinh phí thu được từ những dịch vụ y tế trình độ cao cho việc nâng cao
68
chất lượng KCB đối với người nghèo.
Nhờ sự tận tụy trong công tác cáp phát thẻ và KCB của hệ thống BHYT
Hà Nội, nhiều người nghèo của Thành phố, nhất là những người bị bệnh hiểm
Chị Hoàng Thị Hồng, 48 tuổi, Chương Mỹ, Hà Nội vào điều trị tại khoa Phụ Ung
thư, Bệnh viện Phụ sản TƯ từ đầu tháng 3/2009. Đến nay, qua nhiều đợt tiêm hóa
chất, bệnh tình đã thuyên giảm. Chị bảo: “Gia đình tôi thuần nông, điều kiện kinh tế
không có nhiều, biết tôi bị bệnh ung thư, cả nhà lo lắng, chạy vạy khắp nơi lấy tiền
chữa bệnh. Thời gian đầu, không có BHYT, tôi khốn khổ vì bệnh một, khốn khổ vì lo
tiền thuốc men mười. Thời gian này, tôi đã có BHYT hộ nghèo, không còn phải lo
chi phí chữa bệnh đến đau cả đầu như trước nữa. May mà có BHYT, nếu không, gia
đình tôi cũng không biết xoay xở thế nào”.
(Theo www.giadinh.net)
nghèo đã thoát khỏi cảnh lo âu vì bệnh tật và tiền bạc.
Thứ hai, sau 18 năm hoạt động, BHYT Hà Nội từng bước phát triển và đã
đạt được những thành tựu quan trọng. Số người nghèo được phát thẻ BHYT
không ngừng tăng lên, từ vài phần trăm số người nghèo những năm đầu 1990 lên
trên 90% vào năm 2009. Người nghèo và các đối tượng hưởng chính sách xã hội
đã được Nhà nước dùng ngân sách để mua và cấp thẻ BHYT nên việc tiếp cận
dịch vụ y tế của các đối tượng này đã được cải thiện rõ rệt. Quyền lợi trong
khám bệnh, chữa bệnh của những người tham gia BHYT từng bước được mở
rộng. Cùng với ngân sách nhà nước dành cho y tế, BHYT Hà Nội đã tạo ra
nguồn tài chính công bằng đáng kể cho việc khám bệnh, chữa bệnh và đảm bảo
an sinh xã hội.
Thứ ba, bước đầu xây dựng được cơ chế chính sách, tạo điều kiện cho việc
huy động được nguồn kinh phí từ cộng đồng thông qua hội Chữ thập đỏ, tổ chức
69
từ thiện, tổ chức phi Chính phủ để mua thẻ BHYT miễn phí cho người nghèo,
xây dựng quỹ khám chữa bệnh cho người nghèo ở từng địa phương. Quỹ khám
chữa bệnh giúp người nghèo được chăm sóc y tế tốt hơn là trích từ nguồn chi
đảm bảo xã hội của Thành phố như trước đây, đặc biệt là đảm bảo được kinh phí
KCB cho các bệnh nhân mắc bệnh mãn tính như suy thận phải chạy thận hoặc
ung thư.
Nhờ có thẻ BHYT, người nghèo được chăm sóc sức khỏe tốt hơn, cơ hội
tiếp cận các dịch vụ y tế của người nghèo tăng lên rõ rệt. Người nghèo có thể đi
khám chữa bệnh bất cứ lúc nào khi sức khỏe có vấn đề mà không phải bận tâm
về kinh phí khám chữa bệnh. Với tấm thẻ BHYT, công tác khám chữa bệnh cho
người nghèo cũng thuận tiện hơn rất nhiều, người nghèo được bình đẳng với tất
cả các đối tượng bệnh nhân khác, không bị mặc cảm cũng như phân biệt đối xử.
Thứ tư, nhiều cán bộ y tế trong các bệnh viện đã nêu cao tinh thần trách
nhiệm chăm sóc người bệnh. Thậm chí, tại một số bệnh viện còn hết lòng hỗ trợ
người nghèo. Chẳng hạn, tại Bệnh viện Bạch Mai đã sử dụng một quỹ riêng để
hỗ trợ 50% số tiền cùng chi trả của bệnh nhân nghèo chạy thận, tức người nghèo
chạy thận ở Bạch Mai thực chất chỉ cùng chi trả 2,5%. Điều đó đã vừa giảm bớt
một phần gạnh nặng chi phí cho người nghèo, vừa tạo lòng tin cho người bệnh.
2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân.
2.3.2.1. Hạn chế
Tuy đạt được một số thành tựu như trên, song hiện tại BHYT cho người
nghèo ở Hà Nội vẫn còn nhiều khó khăn, hạn chế. Trong đó nổi bật lên là các
hạn chế chủ yếu sau:
Thứ nhất, người nghèo ở Hà Nội vẫn là đối tượng bị yếu thế trong tiếp cận
70
dịch vụ y tế.
Không riêng ở Hà Nội, mà hầu hết ở tất cả các tỉnh trên toàn quốc, hiện
tượng bất bình đẳng luôn diễn ra, và có xu hướng ngày càng tăng. Khoảng cách
giữa nhóm giàu và nhóm nghèo được thể hiện qua mức độ chênh lệch về thu
nhập bình quân, mức độ thụ hưởng các dịch vụ thiết yếu như y tế, giáo dục ...
Nhóm người giàu với điều kiện thu nhập khá nên khả năng tiếp cận các loại dịch
vụ y tế ngày càng dễ dàng, chất lượng dịch vụ cung cấp cho họ ngày càng cao.
Còn nhóm người nghèo với thu nhập ít ỏi, điều kiện đi lại khó khăn, khả năng
tiếp cận dịch vụ y tế, đặc biệt là sử dụng các dịch vụ kỹ thuật cao, hay thuốc đắt
tiền là vô cùng hạn chế. Người nghèo chủ yếu thường đi KCB ở tuyến xã và
tuyến huyện, cò đi tuyến tỉnh và Trung ương thì thấp hơn rất nhiều.
Chúng ta biết rằng khi tham gia bảo hiểm y tế bất cứ ai cũng đều muốn
được khám chữa bệnh một cách công bằng, không bị phân biệt đối xử; song trên
thực tế vẫn còn tồn tại sự phân biệt đối xử trong khám chữa bệnh bảo hiểm y tế
(chủ yếu là người nghèo) với khám chữa bệnh dịch vụ (phần lớn là người giàu),
trong đó những người khám chữa bệnh dịch vụ luôn được ưu tiên hơn. Cụ thể,
khi người giàu đi khám chữa bệnh, do họ có nhiều tiền nên thường được chẩn
đoán, điều trị tốt hơn, được quan tâm hơn.
Thêm nữa, hiện nay vẫn còn tình trạng lạm dụng quỹ bảo hiểm y tế. Cơ
quan bảo hiểm y tế thanh toán đầy đủ chi phí khám chữa bệnh cho các cơ sở
khám chữa bệnh nhưng các cơ sở này vẫn thu tiền của bệnh nhân bảo hiểm y tế
hoặc điều trị với mức chi phí thấp hơn chi phí mà cơ sở khám chữa bệnh thanh
toán với bảo hiểm y tế... Hiện tượng đó làm cho người nghèo bị thiệt thòi lớn, vì
họ không được cấp phát thuốc đúng chất lượng và số lượng để chữa khỏi bệnh.
Rõ ràng, người nghèo tiếp cận với các dịch vụ y tế thấp hơn người không
71
nghèo. Ngay tại Thủ đô mà người khi ốm đau phần lớn người nghèo cũng chỉ
đến được với y tế xã phường, mà rất ít người đến với các trung tâm y tế chuyên
sâu. Đó là thiệt thòi của người nghèo. Trong khi đó người không nghèo khả năng
tiếp cận dịch vụ y tế tốt hơn khi ốm đau phần lớn họ đến thẳng bệnh viện tuyến
trung ương 38% vì trang thiết bị và dịch vụ y tế của tuyến này được nhà nước
đầu tư rất lớn và hiện đại, đồng nghĩa với việc này thì mức độ chi trả của họ
cũng cao hơn khi họ “chạy” thẳng lên tuyến cao nhất. Tiếp sau đó tuyến bệnh
viện tư nhân cũng được người không nghèo ưu tiên chiếm 26% khi chẳng may
họ bị ốm đau. Do cơ chế đổi mới của Đảng và Nhà nước đã tạo ra một thị trường
y tế sôi động, trong đó dịch vụ y tế cũng đã và đang được rất nhiều nhà đầu tư
quan tâm góp phần hiện đại hóa hệ thống trang thiết bị của nghành y tế. Dịch vụ
y tế tư nhân do yêu cầu cạnh tranh các nhà đầu tư phải làm mọi cách nâng cao
chất lượng dịch vụ, đi cùng với nó thì chi phí cũng sẽ rất cao. Chính vì vậy mà
người nghèo sẽ không thể tiếp cận được dịch vụ y tế của khối này.
Thứ hai, tuy đã có nhiều cố gắng song đến nay vẫn còn nhiều người
nghèo, nhất là người cận nghèo vẫn chưa có thẻ BHYT.
Người nghèo thường hay phải vật lộn với cuộc sống hàng ngày, chính vì
vậy nên phần lớn họ ít quan tâm đến tình trạng sức khỏe của mình và càng không
hiểu được tầm quan trọng của tấm thẻ BHYT. Thêm vào đó, mạng lưới cán bộ
BHYT chưa thật sự nhiệt tình, chu đáo với người nghèo cũng làm tăng thêm
tình trạng người nghèo thờ ơ với thẻ BHYT, đặc biệt là những người cận nghèo.
Những đối tượng cận nghèo (người có thu nhập thấp) dù đang nhận được sự hỗ
trợ mua thẻ BHYT từ nhiều phía, vẫn từ chối quyền lợi của mình.
Những người cận nghèo phài đóng 50% giá trị của thẻ, trong khi họ cũng
chẳng hơn những người được gọi là nghèo bao nhiêu (bởi người cận nghèo được
72
xác định là những người có thu nhập bằng 130% so với người nghèo). Trên thực
tế tế, kinh tế của họ rất khó khăn, nên việc phải chi trả 50% giá trị thẻ (khoảng
197.000 đồng/thẻ/người) là một khoản tài chính quá lớn đối với họ. Điều đó trả
lới cho câu hỏi tại sao tại Thủ đô Hà Nội mà chỉ có 500 người trên tổng số gần
400.000 người thuộc hộ cận nghèo tham gia BHYT.
Người ta thường nói, bệnh tật là một cái “bẫy nghèo”. Chính sách BHYT
quy định Nhà nước hỗ trợ tối thiểu 50% mệnh giá thẻ cho người cận nghèo,
chính là giúp cho đối tượng này thoát khỏi sự nguy hại của cái “bẫy nghèo”. Tiếc
thay, do nhiều nguyên nhân, người thuộc hộ cận nghèo chưa tiếp cận được chủ
trương lớn này. Theo điều tra của tôi một trong những lý do của vấn đề này là:
+ Do chính quyền lơ là trong khâu tuyên truyền vận động. Một gia đình ở
xã An Mỹ - Huyện Mỹ Đức – TP Hà Nội nói rằng “nghe nói” gia đình anh thuộc
hộ cận nghèo, song anh chưa bao giờ được nghe là Nhà nước sẽ hỗ trợ cho các
thành viên trong gia đình mua BHYT. Vì vậy, mỗi khi có bệnh “vặt” toàn đi mua
thuốc ở ngoài. Vừa rồi, người nhà đau nặng phải vào trung tâm y tế huyện Mỹ
Đức điều trị, chỉ riêng số tiền “đặt cọc” cũng đã là 2 triệu đồng; cầm hóa đơn
thanh toán mà giật mình, đành về nhà bán con lợn và đàn gà mới đủ tiền nộp để
ra viện.
Không chỉ riêng ở An Mỹ mà rất nhiều hộ gia đình nông dân trên địa bàn
thành phố Hà Nội chỉ biết rằng với quyết định của xã, gia đình mình năm nay
không thuộc hộ nghèo, không được hưởng các chính sách, nên “tất cả phải tự
lo”. Số liệu thống kê ngày 25/6/2010 của Sở Lao động- TBXH thành phố Hà
Nội cho biết, qua 1 năm thực hiện Luật BHYT, toàn thành phố có gần 400.000
người thuộc đối tượng hộ cận nghèo, nhưng chỉ có 500 người tham gia BHYT.
Người thuộc hộ cận nghèo “chưa chịu” mua BHT mặc dù đã có sự hỗ trợ
73
của nhà nước, có nguyên nhân nhưng cơ bản nhất là tuyên truyền của chúng ta
còn rất yếu, nên họ chưa tiếp cận được với chính sách. Ngành Bảo hiểm, ngành
Lao động- TBXH “bận” đã đành, đội ngũ cán bộ cơ sở cũng còn “bàng quan”
với chủ trương lớn này, nên không hề quan tâm. Khi đề cập vấn đề này, một cán
bộ văn hóa xã hội ở xã An Mỹ ( huyện Mỹ Đức – Hà Nội) nói rất “vô tư” rằng,
quyền lợi của họ thì họ phải tự tìm hiểu mà “mua”; cán bộ xã “trăm công ngàn
việc”, ngay việc xác định hộ cận nghèo còn khó, làm sao có thời gian đi tuyên
truyền vận động đến đối tượng này được. Sự “vô tâm” đó là sự thiếu trách nhiệm
đối với nhân dân.
Vì vậy, có người dân nghe nói được hỗ trợ hăm hở lên xã, cán bộ xã cũng
chỉ “nghe nói” chứ không biết cụ thể như thế nào, nhờ người “có trình độ” giải
thích về mức đóng, “nấc thang” đóng, tổng số tiền phải đóng trong 1 năm, nghe
xong thấy... choáng, vậy là thôi luôn
Sở dĩ có những trường hợp “mới nghe đã choáng” vì cán bộ chỉ tuyên
truyền chứ chưa giải thích cặn kẽ. Theo quy định, từ 1/1/2010, mức đóng BHYT
tự nguyện hằng tháng bằng 4,5% mức lương tối thiểu chung (trừ đối tượng học
sinh- sinh viên). Như vậy, với mức lương tối thiểu chung 650 ngàn đồng, người
lao động sẽ phải nộp 29.250 đồng/ tháng = 351.000 đồng/ năm (từ 1/5/2010 mức
lương tối thiểu chung là 730 ngàn đồng). Người thuộc hộ cận nghèo sẽ được nhà
nước hỗ trợ tối thiểu 50%, số còn lại sẽ phải đóng 175.500 đồng/ năm. Nếu gia
đình hộ cận nghèo có 4 nhân khẩu tham gia, thì từ người thứ 2,3,4 lần lượt sẽ
đóng bằng 90%, 80%, 70% mức đóng của người thứ nhất. Nguyên nhân thứ hai
trong việc chưa cấp thẻ BHYT cho đối tượng cận nghèo là:
+ Cơ quan tổ chức, chính quyền địa phương còn lúng túng trong thực
hiện.Sự lúng túng của cơ sở biểu hiện ngay trong quy trình rà soát hộ cận nghèo.
74
Mặc dù Thông tư 25/2008/TT-BLĐTBXH đã hướng dẫn chi tiết “chuẩn cận
nghèo” có mức thu nhập bình quân đầu người tối đa bằng 130% mức thu nhập
bình quân của hộ nghèo. Cụ thể, đối với hộ khu vực nông thôn là từ 201-260
ngàn đồng/ người/tháng; khu vực thành thị từ 261-338 ngàn đồng/ người/ tháng.
Đối với các thôn, xã, hộ cận nghèo dễ được nhận biết qua các dấu hiệu: mới
thoát nghèo; tách hộ từ hộ mới thoát nghèo; có con học trong các cơ sở dạy nghề,
ĐH-CĐ được vay vốn sinh viên; gặp rủi ro do thiên tai thảm họa, gia đình có
người bị bệnh tật thường xuyên, hoặc những rủi ro khác...Hằng năm chính quyền
cơ sở tổ chức thường xuyên điều tra rà soát hộ nghèo, song do không nắm được
chủ trương hoặc “thiếu nhạy bén”, nên bỏ qua việc rà soát hộ cận nghèo. Vì vậy,
hộ cận nghèo thường chịu nhiều thiệt thòi trong việc được hưởng các chế độ
chính sách của Nhà nước, trước hết là hưởng hỗ trợ mua BHYT.
Thứ ba, tần suất KCB của người nghèo còn quá thấp. Theo số liệu thống
kê ở trên, tần suất KCB của đối tượng người nghèo là thấp nhất và chi phí một
lần KCB bình quân (nội trú và ngoại trú) cũng thấp hơn một số đối tượng bắt
buộc khác và đối tượng tự nguyện.
Mức đóng BHYT của đối tượng người nghèo tuy quá thấp so với mức giá
cả hiện hành, nên thực tế mức hưởng thụ của người có thẻ BHYT cũng rất thấp,
mặc dù số chi luôn vượt quá số thu của quỹ. Với chính sách thu chi BHYT như
hiện nay thì càng tăng số người tham gia BHYT thì quỹ càng bị thâm hụt. Đây là
một khó khăn lớn nhất trong việc thực thi chính sách BHYT cho các đối tượng
nói chung và đối tượng BHYT người nghèo nói riêng. Từ thực trạng đó, dẫn đến
quỹ BHYT năm 2006 bị mất cân đối, số thu không đủ cho số chi, quỹ bị bội chi
khoảng 1.500 tỷ đồng. Trong đó, quỹ KCB của tất cả các đối tượng đều bị bội
chi, riêng quỹ BHYT người nghèo bội chi trên 200 tỷ đồng.
75
2.3.2.2. Nguyên nhân
Một là, nhận thức của người nghèo còn thấp
Đa phần những người thuộc diện người nghèo được hưởng chính sách
BHYT đều là nông dân, vì vậy nhận thức của họ về ý nghĩa của việc tham gia
BHYT rất thấp. Trước hết, là người nghèo không thấy được tầm quan trọng của
việc CSSK cho bản thân mình, theo đó cũng chẳng quan tâm đến y tế. Đối với
họ, chỉ khi nào tai nạn rủi ro, hay bệnh tật nặng không thể tự chữa được thì mới
nghĩ đến bệnh viện, mà khi đó thì trong nhiều trường hợp đã quá muộn để cứu
chữa, còn nếu cứu chữa được thì phải chi phí một khoản tiền cực lớn (Trường
Anh Nguyễn Văn Tài (35 tuổi) quê ở thôn Bãi Lễ, xã Châu Cam, huyện Phú Xuyên,
Hà Nội bất ngờ bị một tai nạn giao thông nghiêm trọng. Anh được kịp thời đưa đi
cấp cứu tại BV Việt Đức và đã được phẫu thuật nối xương đùi trái (ngày 11-8).
Kinh phí nhập viện, nằm điều trị cấp cứu và phẫu thuật cho ca cấp cứu này là 32
triệu đồng. Số tiền quá lớn với gia đình anh (giá giường bệnh là 350.000đ/ngày,
chưa kể tiền thuốc chống tụ máu não có giá tới 1,5 triệu đồng/ngày). Vì Anh Tài
không có thẻ BHYT nên mọi chi phí nằm viện, gia đình sẽ phải tự gánh chịu. Nếu
như anh Tài có thẻ BHYT, thì gánh nặng này sẽ giảm bớt do được BHYT thanh toán
giúp 80% tiền viện phí, tức Anh Tài chỉ phải nộp 6,4 triệu đồng thôi.
(http://www.bhxhhcm.org.vn/v-sao-nguoi-can-ngho-tho-o-voi-the-bao-hiem-y-te/)
hợp của anh Nguyễn Văn Tài theo hộp dưới đây là một ví dụ điển hình).
Hai là, do nhiều quy định luật pháp chưa thật hợp lý đối với hoàn cảnh
người nghèo và cận nghèo.
Người nghèo có thẻ BHYT nhưng mỗi khi đi KCB còn phải đóng rất
nhiều các chi phí khác. Nghị định 43/NĐ-CP bước đầu đã cải thiện được rất
nhiều khó khăn cho hoạt động của các bệnh viện. Tuy nhiên nó vẫn có những
76
mặt trái đó là khi thực thi Nghị định này rất nhiều bệnh viện đã tìm đủ mọi cách
để tận thu và điều này đã làm ảnh hưởng rất lớn đến tài chính của người có thẻ
BHYT người nghèo. Theo quy định của luật BHYT, người nghèo vẫn phải cùng
chi trả từ 5% đến 20% chi phí khám chữa bệnh; đồng thời lại khống chế mức
thanh toán tối đa cho một lần điều trị (không vượt quá 40 tháng lương tối thiểu,
tương đương khoảng tối đa 28 triệu đồng/đợt điều trị) đã gây khó khăn không
nhỏ, thậm chí quá tải về khả năng kinh tế gia đình và dẫn đến nản lòng mỗi khi
cần đến bệnh viện. Ví dụ, một bệnh nhân phải chạy thận nhân tạo tại Bệnh viện
Bạch mai (chị Nguyễn Thị Bích Ngọc) trung bình mỗi năm tiêu phí 80-90 triệu
đồng (chị Ngọc đã điều trị như vậy dược 7 năm), thì tính ra số tiền chị phải chi
trả (dù chỉ 5%) cũng lên tới 28-30 triệu đồng.
Do phải ghánh một khoản chi phí lớn, vượt quá nhiều lần so với thu nhập
như vậy nên nhiều người đã chọn cách tự gánh lấy bệnh tật mà không dám đến
bệnh viện.
2.3.3. Một số vấn đề đặt ra cho hoạt động BHYT người nghèo ở Hà Nội
hiện nay
Một là, hệ thống bệnh viện tại Hà Nội đang bị quá tải.
Địa bàn Thủ đô là nơi tập trung dân cư, tập trung đông đảo các thành phần
kinh tế, đối tượng tham gia bảo hiểm y tế (cả đối tượng tiềm năng) cũng hết sức
đa dạng, phong phú. Và đây cũng là nơi tập trung các phương tiện và trí tuệ cao
của cả nước (Bệnh viện hiện đại, đội ngũ giá sư, tiến sĩ, bác sĩ chuyên khóa
nhiều nhất nước…), nên Hà Nội là điểm đến được coi là lý tưởng của nhiều bệnh
nhân khắp cả nước. Điều đó dẫn đến hiện tượng quá tải của các bệnh viện vốn đã
rất đông đúc và chật chội hiện nay.
Tại hầu hết các BV ở Hà Nội, dường như không lúc nào ngớt người bệnh.
77
Vì thể, để được khám, nhất là khám bảo hiểm người ta phải xếp hàng từ nửa
đêm. Người bệnh xếp hàng chờ lấy phiếu khám, hai đến ba bệnh nhân chung
nhau một giường bênh, người nhà trông nom bệnh nhân trải chiếu nằm ở ngoài
hành lang ... là những cảnh tượng rất phổ biến ở bất kỳ bệnh viện nào tại Hà Nội.
Tại bệnh viện Việt Đức, bệnh viện đặc biệt uy tín ở khoa ngoại, có số
lượng người khám bệnh đến rất nhiều. Bệnh viện có tới 300 bác sĩ, nhưng phải
điều trị cho hơn 3.000 bệnh nhân (bình quân 10 bệnh nhân/1 Bác sỹ, cao hơn 5
lần so với chuẩn là 1-2 bệnh nhân), đó là chưa kể đến công tác khám bệnh. Tại
BV này, mỗi tháng có đến hơn 15000 lượt người đến khám.
Tại BV Phụ sản trung ương, mỗi ngày cũng tiếp nhận khám cho khoảng
1.000 bệnh nhân ngoại trú, có ngày cao điểm lên đến 1.500 người. Đó là chưa kể
việc viện luôn phải duy trì khám, điều trị cho 600-700 bệnh nhân nội trú. Trong
khi đó, số bác sỹ trực tiếp tham gia khám chữa của viện chỉ khoảng 120 người.
Như vậy, mỗi bác sỹ phụ trách chữa bệnh trung bình từ 5-6 bệnh nhân, và khám
cho khoảng trên dưới 100 người.
78
Người bệnh xếp hàng chờ lấy phiếu khám tại bệnh viện Việt Đức
Các BV khác cũng có tình trạng tương tự. Có rất nhiều lý do để người
bệnh chọn khám và điều trị tại các bệnh viện ở Hà Nội, trong đó ngoài nguyên
nhân được BHYT chi trả, thì còn nguyên nhân nữa là đội ngũ bác sỹ có trình độ
chuyên môn cao, phương tiện KCB hiện đại. Còn một nguyên nhân không kém
phần quan trong nữa đó là yếu tố tâm lý, bởi vì trên thực tế, không ít bệnh viện
tuyến tỉnh hoặc các bệnh viện tư hiện nay cũng có “tiềm lực” mạnh, đáp ứng
được nhu cầu khám chữa bệnh của một lượng lớn dân cư, nhưng người bệnh vẫn
muốn tìm đến cácc bệnh viện Trung ương.
Hai là, chi phí y tế vượt khả năng của Quỹ KCB cho người nghèo.
Như trên đã đề cập, số lượng người đến KCN tại các BV ở Hà Nội rất lớn,
với tần suất ngày càng tăng, đã gây bất cập trong cho hoạt động tài chính của quỹ
BHYT người nghèo. Chi phí cho KCB tăng lên giá dịch vụ y tế tăng cho phù hợp
với sự phát triển kinh tế - xã hội, do cơ chế quản lý tài chính hiện hành, cũng như
do nhu cầu sử dụng các dịch vụ kỹ thuật cao của người bệnh...
Hiện nay, bệnh nhân KCB-BHYT cùng tham gia chi trả một phần viện
phí, do đó BHXH định ra giá trần cho các cơ sở KCB, tuy nhiên giá trần này còn
quá thấp so với thực tế điều trị, cách tính giá trần không theo số ngày điều trị mà
theo đợt điều trị. Như vậy, bệnh viện sẽ phải “bù” tiền viện phí của những bệnh
nhân điều trị ít ngày cho các bệnh nhân phải nằm điều trị lâu nên viện phí BHYT
tăng nhiều. Do cách tính này, nhiều bệnh viện có sự cân đối tổng tiền quyết toán
không vượt trần, dễ phát sinh tình trạng cho bệnh nhân nhẹ vào điều trị để bù cho
bệnh nhân nặng phải nằm lâu. Thực trạng quỹ KCB ngoại trú BHXH đã khoán
cho các cơ sở có đăng ký KCB BHYT ban đầu cũng chưa hợp lý, bởi kinh phí
điều trị ngoại trú cho bệnh nhân chuyển tuyến chiếm tỷ lệ khá lớn trong quỹ
79
KCB của đơn vị. Ví dụ các trường hợp bệnh nhân được chuyển từ tuyến dưới lên
tuyến trên (chuyên khoa như ung thư, nội tiết, tim mạch...) bệnh viện vẫn phải
chi trả 100% viện phí tuyến trên, trong khi đó các bệnh viện tuyến trên bị khống
chế quỹ nên chi phí bình quân/người khám bệnh tăng lên nhiều lần, khi quyết
toán, các bệnh viện thường bị vượt trần quy định dành cho ngoại trú, trong khi
BHYT cân đối quỹ cuối năm cũng chỉ thanh toán 1/3 tổng kinh phí vượt.
Ngoài ra, số lượng bệnh nhân đến khám ngoại trú đông, các bệnh như tiểu
đường, máu nhiễm mỡ... tăng cao, nhiều bệnh nhân dùng thuốc thông thường
không đỡ, phải dùng loại đắt tiền, trong khi đó chi phí cho BHYT ngoại trú có
hạn nên đơn vị điều trị gặp không ít khó khăn trong việc cung ứng thuốc phù hợp
với loại hình bệnh.
Ba là, còn nhiều rào cản khiến các bệnh nhân nghèo ít đến với các cơ sở
KCB.
+ Rào cản kinh tế.
Đó là thu nhập của người nghèo quá thấp, vượt xa nhu cầu KCB của họ,
nhất là đối với những người bị bệnh nan y. Nói là người nghèo có thẻ BHYT sẽ
được Nhà nước thành toán tiền viện phí, nhưng phải thấy rằng, số thanh toán đó
chỉ là một phần nhỏ trong tổng chi phí mà người bệnh phải trang trải. bởi một
khi phải nhập viện thì người bệnh phải trang trải những khoản chi phí gián tiếp
không nhỏ. Các chi phí gián tiếp bao gồm: chi chí đi lại, chi phí ăn ở, chi phí cơ
hội của bản thân người bệnh và người nhà bệnh nhân di theo phục vụ. Phải
khẳng định rằng, đó là những yếu tố quan trọng cản trở khả năng tiếp cận các
dịch vụ y tế của người nghèo.
+ Rào cản địa lý.
Người nghèo thường sống tại các vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa, cách
80
trung tâm Thành phố đến hàng mấy chục km, thậm chí hàng trăm km (như một
số xã của huyện Ba Vì). Khoảng cách càng xa thì chi phí cho đi lại càng lớn, và
cuộc hành trình càng khó khăn, phức tạp. Vì vậy, mỗi khi phải chuyển cơ sở
KCB lên tuyến trên thì họ đều phải đối mặt với nhiều khó khăn về phương tiện đi
lại, và thời gian đi lại… Nhiều người, chỉ nghĩ đến đoạn đường đến trung tâm
Thành phố thôi cũng đã nản rồi.
+ Rào cản thủ tục hành chính.
Ngoài yếu tố kinh tế và khoảng cách địa lý, thủ tục hành chính cũng là yếu
tố cản trở không nhỏ đến việc đáp ứng nhu cầu KCB của người nghèo. Đó là vì,
thứ nhất, họ không có tiền để “lót tay” cho Bác sĩ, nên dễ bị sách nhiễu, khám
chữa qua loa, hướng dẫn thiếu trách nhiệm…; và thứ hai, người nghèo vốn “chân
81
quê” nên rất ngại tiếp xúc, va chạm với nhân viên y tế.
Chƣơng 3
ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN BHYT
CHO NGƢỜI NGHÈO Ở HÀ NỘI TRONG THỜI GIAN TỚI
3.1. Định hƣớng phát triển BHYT cho ngƣời nghèo đến năm 2020.
3.1.1. Định hướng của Việt Nam
Chăm sóc sức khỏe và thực hiện công bằng trong KCB cho người nghèo
đang là vấn đề được đảng và Nhà nước rất quan tâm. thời gian qua, việc tổ chức
KCB cho người nghèo đã được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Mỗi
một hình thức đều có những ưu điểm cũng như hạn chế khi thực thi. Mặc dù việc
KCB cho người nghèo còn có những hạn chế cả về khách quan và chủ quan do
các nguyên nhân khác nhau, nhưng việc thực hiện các hình thức KCB miễn phí
cho người nghèo đã góp phần vào công tác chăm sóc sức khỏe của nhân dân nói
chung. nhiều người nghèo đã được tiếp cận với dịch vụ y tế, thậm chí cả những
dịch vụ y tế có chất lượng cao, sử dụng thuốc đắt tiền. tuy nhiên, việc tổ chức
KCB cho người nghèo vẫn còn nhiều bất cập cần khắc phục trong thời gian tới
để thực hiện tốt hơn công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân nói chung và người
nghèo nói riêng.
Ngày 7/9/2009, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 38-CT/TW về
Đẩy mạnh công tác BHYT trong tình hình mới, trong đó chỉ rõ: “ BHYT là một
chính sách xã hội quan trọng, mang ý nghĩa nhân đạo và có tính chia sẻ cộng
đồng sâu sắc, được Đảng và Nhà nước ta hết sức coi trọng và luôn luôn đề cao
trong hệ thống chính sách an sinh xã hội”[3].
Mục tiêu chiến lược khám chữa bệnh cho người nghèo là: Đáp ứng và
nâng cao chất lượng dịch vụ y tế, tăng khả năng tiếp cận và giảm gánh nặng chi
82
phí y tế cho người nghèo, nhằm đảm bảo đến năm 2010: 80% số xã toàn quốc có
bác sỹ (trong đó miền núi 60%); 100% thôn bản có nhân viên y tế sơ học trở lên.
Cụ thể:
Thứ nhất, tiếp tục quán triệt sâu sắc và nâng cao nhận thức về vị trí, vai
trò, ý nghĩa của BHYT. Phải làm cho mọingười dân ghiểu được: BHYT là một
chính sách xã hội do Nhà nước tổ chức, nhằm huy động sự đóng góp tài chính
của cộng đồng để tạo Quỹ BHYT không vì mục đích lợi nhuận, giúp cho người
tham gia BHYT có nguồn tài chính để chăm sóc sức khỏe, bảo vệ quyền lợi của
mình theo luật định; BHYT là một bộ phận quan trọng trong chính sách tài chính
y tế quốc gia và làm một trong những phương thức tạo nguồn tài chính cho hoạt
động chăm sóc sức khỏe thông qua huy động đóng góp của người dân, được thực
hiện có tổ chức, mang tính chia sẻ trong cộng đồng và nhằm mục đích thực hiện
công bằng, nhân đạo trong lĩnh vực bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân;
BHYT là một trong các hoạt động nhân đạo nhất, thể hiện sự hỗ trợ tương thân
tương ái trong chăm sóc sức khỏe giữa người giàu với người nghèo, giữa người
thuận lợi về sức khỏe với người ốm đau và rủi ro về sức khỏe, giữa người đang
độ tuổi lao động với người già và trẻ. Đồng thời, BHYT mang tính dự phòng
những rủi ro do chi phí cao cho chăm sóc sức khỏe gây nên khi ốm đau, bệnh tật.
Việc tham gia BHYT là nghĩa vụ của mọi người dân, kể cả những đang
khỏe mạnh. Trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo công tác BHYT là của các cấp ủy
đảng và các cấp chính quyền từ Trung ương đến địa phương.
Thứ hai, tăng cường củng cố và hoàn thiện mạng lưới y tế cơ sở. Mở rộng
hình thức đào tạo và bồi dưỡng để phát triển đội ngũ cán bộ y tế cơ sở, ưu tiên
đào tạo cán bộ dân tộc ít người tại chỗ cho miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng
khó khăn ... xây dựng các chính sách đãi ngộ thích hợp (về lương, BHYT,
83
BHXH, phụ cấp tiền trực, ưu đãi trong đào tạo ...) để khuyến khích cán bộ y tế
làm việc cho khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng còn thiếu. Phát huy khả
năng y tế của các lực lượng vũ trang trong việc kết hợp quân – dân y để chăm
sóc sức khỏe nhân dân ở cơ sở, đặc biệt là khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa,
hải đảo, vùng biên giới. quản lý và phát huy tốt vai trò của lực lượng y tế ngoài
công lập.
Thứ ba, tăng cường đầu tư tài chính cho phát triển hệ thống y tế. Trong
những năm tới, Nhà nước tiếp tục thực hiện chính sách tăng đầu tư cho y tế,
trong đó chú trọng ưu tiên kinh phí để thực hiện các chính sách chăm sóc sức
khỏe cho người dân vùng núi, vùng khó khăn, vùng có tỉ lệ người nghèo cao,
vùng dân tộc ít người ... tăng kinh phí để phát triển mạng lưới y tế cơ sở. tăng
cường trang thiết bị y tế thích hợp cho y tế cơ sở, đảm bảo cung cấp đủ trang
thiết bị y tế cho y tế cơ sở, theo danh mục trang thiết bị do bộ y tế ban hành.
Đồng thời xây dựng cơ chế tài chính đảm bảo kinh phí hoạt động thường xuyên
của trung tâm y tế huyện và trạm y tế xã, phường, đặc biệt là ở vùng núi, vùng
sâu, vùng xa, vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc ít người. tăng cường các
hình thức chi trả trước cho chăm sóc sức khỏe, mở rộng BHYT, đặc biệt BHYT
nông thôn, tiến tới BHYT bắt buộc toàn dân.
Thứ tư, có các chính sách, giải pháp thích hợp và hiệu quả để giảm gánh
nặng chi phí cho người nghèo khi phải đi khám và điều trị bệnh; đồng thời tổ
chức tốt công tác khám bệnh, chữa bệnh BHYT. Nhà nước đảm bảo có đủ ngân
sách cần thiết để thực hiện tốt chính sách hỗ trợ người nghèo như: miễn giảm
dịch vụ khám chữa bệnh, mua thẻ BHYT cho người nghèo, người già cô đơn
không nơi nương tựa, người tàn tật; thực hiện tốt chính sách miễn viện phí đối
với đồng bào dân tộc ít người và trẻ em dưới 6 tuổi. Đẩy mạnh thực hiện chế độ
84
BHYT, khám chữa bệnh miễn phí cho người nghèo. tiếp tục mở rộng phạm vi và
mức hỗ trợ khám chữa bệnh, thuốc men cho người nghèo và trẻ em có hoàn cảnh
đặc biệt khó khăn.
Cần tăng đầu tư, phân bổ ngân sách thích hợp và sử dụng có hiệu quả các
nguồn ngân sách đã có để củng cố và phát triển mạng lưới khám bệnh, chữa
bệnh, đặc biệt là mạng lưới y tế cơ sở, đáp ứng nhu cầu khám bệnh, chữa bệnh
tại các địa phương; chuyển việc chi ngân sách nhà nước cho các cơ sở khám
bệnh, chữa bệnh sang chi trực tiếp cho người được thụ hưởng BHYT thông qua
việc hộ trợ BHYT cho vùng nghèo, người nghèo, người hưởng các chính sách xã
hội, hỗ trợ một phần mức đóng BHYT cho người thuộc hộ cận nghèo. Đông thời,
nâng cao chất lượng khám bệnh, chữa bệnh BHYT tại các cơ sở y tế. Đặc biệt,
cần cải tiến thủ tục hành chính trong tổ chức khám bệnh, chữa bệnh BHYT tại
các bệnh viện để tạo điều kiện thuận lợi cho người khám bệnh, chữa bệnh BHYT
được thụ hưởng tốt các dịch vụ y tế; thường xuyên giáo dục nâng cao đạo đức
nghề nghiệp để thầy thuốc không có thái độ phân biệt trong ứng xử với người
khám bệnh, chữa bệnh BHYT; phát hiện kịp thời, có biện pháp ngăn ngừa, khắc
phục các biểu hiện lạm dụng thuốc, dịch vụ kỹ thuật cao và biểu hiện trục lợi
BHYT khác của cả thầy thuốc lẫn người bệnh; khuyến khích và tạo điều kiện để
y tế tư nhân tham gia khám bệnh, chữa bệnh BHYT; tăng cường quản lý giá
thuốc không để giá thuốc trong các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh cao hơn giá
thuốc trên thị trường...
Thứ năm, đẩy mạnh công tác xã hội hoá y tế. Phát triển BHYT toàn dân,
nhằm từng bước đạt tới công bằng trong chăm sóc sức khỏe, thực hiện sự chia sẻ
giữa người khỏe với người ốm, người giàu với người nghèo, người trong độ tuổi
lao động với trẻ em, người già; công bằng trong đãi ngộ với cán bộ y tế”. Đổi
85
mới và hoàn thiện chính sách tài chính theo hướng tăng nhanh tỉ trọng các nguồn
tài chính công (bao gồm ngân sách Nhà nước và bảo hiểm y tế), giảm dần hình
thức thanh toán viện phí trực tiếp từ người bệnh ... Nhà nước đảm bảo cung cấp
kinh phí khám chữa bệnh cho người có công với cm, người nghèo, trẻ em dưới 6
tuổi và các đối tượng chính sách xã hội ... xây dựng và thực hiện chính sách viện
phí phù hợp trên cơ sở tính đúng, tính đủ các chi phí trực tiếp phục vụ bệnh
nhân. Nhà nước có chính sách trợ giúp đối với những người có thu nhập thấp và
có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn”.
Khuyến khích các thành phần kinh tế liên kết với Nhà nước, với các cơ sở
đầu tư để một mặt đáp ứng yêu cầu về KCB của một bộ phận người có thu nhập
cao trong xã hội, mặt khác để có thêm nguồn thu nhằm hỗ trợ cho người nghèo.
Như vậy XHH y tế có tác động lớn trong việc huy động mọi nguồn lực tài
chính trong xã hội nhằm mục tiêu chăm sóc tốt nhất sức khoẻ cho nhân dân.
3.1.2. Định hướng của Thành phố Hà Nội
Trong Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội Thành phố Hà Nội đến năm
2030 và tầm nhìn đến năm 2050, UBND Thành phố Hà Nội đã đặc biệt coi trọng
vấn đề về CSSK cho người dân Thủ đô, đặc biệt là CSSK cho người nghèo,
nhằm đạt tới mục tiêu: “Sức khỏe của nhân dân phải được nâng cao, thể trạng,
tầm vóc người Thủ đô được cải thiện: tuổi thọ trung bình đạt 78 tuổi năm 2020
và trên 80 tuổi năm 2030. Tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi thể nhẹ cân
dưới 9% vào năm 2020 và dưới 3% năm 2030. Xây dựng, phát triển và vận hành
mạng lưới an sinh xã hội rộng khắp, đa dạng và hiệu quả. Tỷ lệ nghèo năm 2020
khoảng 1-2%, năm 2030 dưới 1% (theo chuẩn nghèo tại thời điểm). Năm 2020
trên 60% người lao động được tham gia BHXH và thực hiện BHYT toàn dân.
86
Năm 2030 có trên 80% người lao động được tham gia BHXH và 100% tham gia
BHYT. Thực hiện có hiệu quả các chính sách xã hội (chính sách đối với người
có công với nước, chính sách giảm nghèo, chính sách trợ cấp xã hội…)”[14].
Để đạt được mục tiêu đó, Ngành Y tế Hà Nội cần phát triển theo các định
hướng cơ bản sau:
+ Phát triển mạnh sự nghiệp y tế, nâng cao chất lượng công tác CSSK và
các hoạt động thể dục-thể thao để tăng cường thể lực và cải thiện tầm vóc người
dân Thủ đô. Bảo đảm để mọi người dân Thủ đô được hưởng các dịch vụ y tế có
chất lượng ngày càng cao và thuận tiện. Tổ chức cung cấp dịch vụ y tế công
bằng, hiệu quả, rút ngắn chênh lệch về chất lượng dịch vụ y tế giữa khu vực nội
thành và các huyện ngoại thành.
Tăng cường y tế tuyến cơ sở, nhằm đảm bảo 100% xã đạt tiêu chuẩn quốc
gia vào năm 2012. Phát triển mạnh y tế dự phòng.
+ Chú trọng CSSK bà mẹ và trẻ em, người cao tuổi, người nghèo. Giảm tỷ
lệ mắc bệnh, nâng cao thể lực, tăng tuổi thọ của người dân, làm cho mọi người
đều được sống trong cộng đồng an toàn, phát triển tốt về thể chất và tinh thần.
Giảm mạnh tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng đi đối với nâng cao sức khỏe, tầm vóc
con người Thủ đô.
+ Tăng cường phát triển nhanh hệ thống y tế theo hướng hiện đại , đồng
thời quan tâm phát triển rộng rãi y học cổ truyền dân tộc. Xây dựng, phát triển
Hà Nội trở thành trung tâm y học, dược học hiện đại chất lượng cao của cả
nước, đạt trình độ tiên tiến tương đương các nước tiên tiến trong khu vực về chất
lượng, trình độ kỹ thuật, một số lĩnh vực đạt trình độ các nước tiên tiến trên thế
giới. Thời kỳ 2011-2030, xây dựng Hà Nội trở thành trung tâm dịch vụ y tế có
87
uy tín của khu vực Đông Á.
+ Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện trung tâm y tế chuyên sâu Hà Nội và xây
dựng một số cơ sở y tế đạt trình độ quốc tế. Xây dựng thêm một số bệnh viện
chuyên khoa có trình độ cao tại Hà Nội. Khuyến khích xây dựng một số bệnh
viện quốc tế. Xây dựng trung tâm nghiên cứu, ứng dụng công nghệ gen, di
truyền cấp quốc gia. Quy hoạch và xây dựng một số cụm bệnh viện lớn có chất
lượng cao ở ngoại thành, trong đó có xây dựng 5 tổ hợp công trình y tế đa chức
năng, chất lượng cao để khám chữa bệnh, nghiên cứu, đào tạo, sản xuất thuốc và
Trong quy hoạch dành diện tích đất 5 tổ hợp công trình y tế đa chức năng gồm tổ hợp
công trình y tế Sóc Sơn 200ha; tổ hợp công trình y tế Hòa Lạc 200ha; tổ hợp công
trình y tế Phú Xuyên 200ha; tổ hợp công trình y tế Sơn Tây 50ha; tổ hợp công trình y
tế Gia Lâm-Long Biên 50ha.
Việc xây dựng các tổ hợp y tế sẽ tạo điều kiện thuận lợi về mặt đầu tư hạ tầng kỹ thuật
liên thông, sử dụng trang thiết bị kỹ thuật cao, hỗ trợ nhau về kỹ thuật, hợp tác nghiên
cứu khoa học, đào tạo chuyên sâu.
Ngoài ra, đối với các bệnh viện ở nội thành chủ yếu sẽ cải tạo, nâng cấp cơ sở hiện có;
các cơ sở cũ được chuyển đổi thành các cơ sở nghiên cứu, đào tạo hoặc dịch vụ khám
chữa bệnh, phục vụ dân cư đô thị Trung tâm. Xây dựng mạng lưới Trung tâm y tế khu
vực tại các khu, cụm dân cư quận, huyện, đô thị vệ tinh theo quy mô dân số từng khu
vực.
Ở khu vực khám chữa bệnh tư nhân, phấn đấu đến năm 2020-2030 đạt 20-30% giường
bệnh ngoài công lập, các dự án có quy mô từ 200-400 giường đầu tư vào các quận mới
và các khu đô thị mới. Các dự án có quy mô trên 500 giường bệnh và đạt tiêu chuẩn
quốc tế nên đầu tư vào các cụm công trình y tế đa chức năng theo quy hoạch trên địa
bàn Hà Nội.
Quy hoạch cũng chú trọng củng cố và hoàn thiện các trạm y tế xã, phường về cơ sở vật
chất, trang thiết bị và cán bộ y tế; nâng cao chất lượng dịch vụ y tế... Đảm bảo 100%
88
trang thiết bị y tế.
các trạm y tế có bác sĩ hoặc cử nhân y tế công cộng; mỗi thôn có 1-2 nhân viên y tế
thôn có trình độ sơ học trở lên...
Ngoài ra quy hoạch cũng xây dựng mạng lưới vận chuyển cấp cứu; hệ thống y tế dự
phòng; mạng lưới sản xuất, cung ứng thuốc và trang thiết bị y tế... nhằm xây dựng hệ
thống y tế của Hà Nội ngày càng hoàn thiện và hiện đại trở thành Trung tâm y tế lớn
của cả nước và dần tiến tới là một Trung tâm y tế tầm cỡ quốc tế.
(http://www.qdnd.vn/QDNDSite/vi-vn/75/43/7/21/21/129369/Default.aspx)
+ Thực hiện đồng bộ chính sách BHYT, chính sách KCB và chính sách
viện phí phù hợp, tiến tới BHYT toàn dân, trong đó chú trọng đến các đối tượng
chính sách, người nghèo và trẻ em.
3.2. Một số giải pháp chủ yếu đẩy mạnh hoạt động BHYT cho ngƣời
nghèo ở hà nội.
3.2.1. Tăng cường công tác tuyên truyền chủ trương chính sách của
Đảng và Nhà nước về CSSK cho người nghèo và cận nghèo
Một trong những “rào cản” lớn đối với hoạt động BHYT cho người nghèo
ở Hà Nội hiện nay là trình độ nhận thức của người nghèo còn thấp.
Đây là một giải pháp tuy không tạo sự đột phá trong việc nâng cao hiệu
quả hoạt động BHYT cho người nghèo song lại có ý nghĩa vô cùng quan trọng,
có ý nghĩa thiết thực và lâu dài. Điều này được thể hiện trên hai khía cạnh:
Một là, việc tăng cường tuyên truyền để người nghèo hiểu được chính
sách của Đảng và Nhà nước về chăm sóc sức khỏe đối với họ sẽ hạn chế được
tình trạng kém hiểu biết của người nghèo về vấn đề này. Trên thực tế, nhiều
người nghèo đã “vô hiệu hoá” tấm thẻ BHYT do Nhà nước cấp, vì có là nhiều
người nghèo khi nhận tấm BHYT về đã không biết sử dụng như thế nào, và
quyền lợi được hưởng ra sao thì lại càng không biết. Đã có những câu chuyện về
89
người nghèo khi nhận thẻ BHYT về cất kỹ ở gác bếp rồi khi đến khám chữa
bệnh lại không mang theo, gây khó khăn cho cả cơ sở khám chữa bệnh lẫn cơ
quan BHYT.
Hai là, một khi người nghèo hiểu được giá trị (vật chất và tinh thần) tấm
thẻ BHYT thì sẽ tránh được tình trạng “Mất bò mới lo làm chuồng” của những
hộ cận nghèo khi tham gia BHYT. Đó là tình trạng những hộ cận nghèo ỷ lại
trông chờ vào việc Nhà nước nâng mức chuẩn nghèo để trở thành hộ nghèo và
nghiễm nhiên sẽ được cấp phát miễn phí thẻ BHYT. Vậy nên khi có “ Sự cố về
sức khoẻ” họ phải chạy vạy, vay mượn tiền để vào bệnh viện chữa trị, trong khi
phải chi tiêu hàng chục, thậm chí hàng trăm triệu đồng “Lực bất tòng tâm” họ
buộc phải chấp nhận số mệnh. Thiết nghĩ, nếu họ có sự hiểu biết nhất định về sự
cần thiết tham gia BHYT thì họ sẽ có cơ hội nhận được sự hỗ trợ trong trường
hợp rủi ro về sức khoẻ và giảm được gánh nặng về chi phí KCB.
Vậy nên công tác thông tin tuyên truyền phải được tiếp tục đẩy mạnh hơn
nữa, nhất là đối với người nghèo tại các xã, huyện vùng dân tộc thiểu số, vùng
sâu vùng xa. Tuy nhiên, trong tuyên truyền cần có các hình thức, nội dung tuyên
truyền phù hợp với đặc thù đối tượng thì mới có thể mang lại hiệu quả như mong
muốn. Các cơ quan thông tấn, báo chí và các cơ quan truyền thông đại chúng cần
tập trung việc thông tin, truyền thông và tuyên truyền theo hướng nhấn mạnh vị
trí, vai trò, ý nghĩa của BHYT trong hệ thống an sinh xã hội; đề cao nghĩa vụ và
quyền lợi của mọi người dân, nhất là với người nghèo trong tham gia BHYT;
phát hiện những bất cập hoặc những yếu kém của chính sách BHYT và việc
khám bệnh, chữa bệnh BHYT để kịp thời khắc phục và điều chỉnh; giới thiệu,
động viên các đơn vị, cá nhân và các mô hình thực hiện tốt BHYT; phê phán
90
những hiện tượng lệch lạc trong thực hiện BHYT.
Trong công tác thông tin, truyền thông và tuyên truyền về BHYT, cần tập
trung vào các đối tượng: nông dân, người cận nghèo, học sinh, sinh viên, các chủ
sử dụng lao động, nhất là các chủ doanh nghiệp tư nhân. Ban Tuyên giáo Trung
ương chủ trì, phối hợp với Ban cán sự đảng Bộ Thông tin và Truyền thông chỉ
đạo các cơ quan truyền thông đại chúng xây dựng kế hoạch đẩy mạnh công tác
thông tin, truyền thông và tuyên truyền về BHYT.
Việc tuyên truyền về chính sách BHYT cho người nghèo không chỉ trên
các phương tiện thông tin đại chúng, mà ngày tại các các cơ sở KCB, mỗi y bác
sỹ phải là một thành viên tuyên truyền tích cực đối với người bệnh. Đây là hình
thức tuyên truyền khá hiệu qua, bởi tại đó người bệnh, nhất là người nghèo được
đội ngũ nhân viên y tế tư vấn chính sách để họ hiểu rõ nhất về lợi ích của tấm thẻ
BHYT. Vì vậy, để thực hiện được vấn đề này, một vấn đề quan trọng nữa là
phải coi công tác thông tin tuyên truyền không chỉ là trách nhiệm của riêng
ngành bảo hiểm xã hội mà phải là trách nhiệm của tất cả các ngành, các cấp có
liên quan, của tất cả các cấp chính quyền. Đồng thời, hàng năm ngành BHXH
nói chung, BHYT nói riêng cần tổ chức đánh giá kết quả thực hiện công tác
khám chữa bệnh cho người nghèo, có chế độ khen thưởng cho các đơn vị y tế
làm tốt công tác khám chữa bệnh cho người nghèo và tìm ra các giải pháp khắc
phục những hạn chế trong công tác chăm sóc sức khỏe, khám chữa bệnh đối với
người nghèo.
3.2.2. Củng cố hệ thống y tế, trước hết là mạng lưới y tế cơ sở
Có một thực tế mà ai cũng nhận thấy là đói nghèo thường đi đối với bệnh
tật. Đói nghèo, nhất là đói về lương thực (như chuẩn đói nghèo hiện nay) làm
cho con người suy giảm khả năng đề kháng với các loại bệnh tật, kể các loại
91
bệnh tật thông thường nhất, như viêm ruột thừa, viêm phổi… Hơn nữa, sự thiếu
thốn về khả năng tài chính làm cho các nhu cầu về phòng bệnh không được đảm
bảo cũng là nguyên nhân dẫn tới người đói nghèo có nhiều bệnh tật.Vậy nhưng,
qua các nghiên cứu trên cho thấy một nghịch lý là số lượng người nghèo được
cấp thẻ BHYT có tỉ lệ khám chữa bệnh thấp hơn rất nhiều so với các đối tượng
BHYT khác, nguyên nhân cơ bản tạo nên bất hợp lý này là do khả năng tiếp cận
dịch vụ y tế của người nghèo quá thấp. Trong thực tế thì đa số người nghèo sống
ở các vùng sâu, vùng xa, để đến được với y tế cơ sở, cho dù chỉ là cấp xã, cấp
huyện đã là một vấn đề hết sức khó khăn. việc đi lại, ăn ở trong thời gian khám,
chữa bệnh là khó khăn không nhỏ đối với đa số người nghèo nên số người nghèo
bị bệnh nặng có thể đến khám, chữa bệnh ở tuyến tỉnh, tuyến trung ương chỉ là
số lượng rất ít.
Mặt khác, khi bệnh nhân nghèo bị chuyển lên tuyến trên thì hàng loạt các
chi phí sẽ phát sinh cùng với họ như: Chi phí đi lại, chi phí người nhà thăm nuôi
… điều này sẽ làm ghánh nặng về kinh tế của họ càng tăng lên.
Trong điều kiện hiện nay, khả năng về chuyên môn cũng như cơ sở vật
chất ở tuyến cơ sở là rất hạn chế. vì vậy, để người nghèo tiếp cận tốt hơn với các
dịch vụ y tế thì cần phải tăng cường đầu tư cho y tế cơ sở với một số giải pháp cụ
thể sau :
Đầu tư để xây dựng mới, nâng cấp các nhà trạm, mua sắm dụng cụ trang
thiết bị đảm bảo các vật tư thiết yếu thực hiện chăm sóc sức khỏe ban đầu cho
người nghèo. Tiếp tục củng cố hệ thống y tế, đặc biệt là mạng lưới y tế cơ sở
(tuyến xã) và tuyến huyện, vì người nghèo đại đa số KCB ở các tuyến này. Việc
đầu tư nâng cấp các cơ sở KCB tuyến xã, huyện cần phải được đồng bộ cả cơ sở
vật chất và đội ngũ y bác sỹ. Có như vậy người nghèo mới được hưởng đầy đủ
92
các dịch vụ kỹ thuật, đặc biệt là các dịch vụ kỹ thuật cao.
Quy định cụ thể về quy trình, cơ chế quản lý, điều hành khám chữa bệnh
tại cấp xã, phường, thị trấn.
Bổ sung danh mục vật tư y tế và thuốc thiết yếu ở tuyến xã đáp ứng kỹ
thuật cao về phòng và chữa bệnh.
Có chính sách đào tạo lại đội ngũ cán bộ y tế thôn bản, y tế xã tại chỗ,
đảm bảo cập nhật về những thành tựu của khoa học kỹ thuật y tế. Có chính sách
về lương, phụ cấp để thực hiện được mục tiêu đưa bác sỹ về xã phấn đấu đạt các
chỉ tiêu đã đề ra trong chiến lược của Nhà nước về số y, bác sỹ tại tuyến y tế cơ
sở.
Xây dựng vốn kinh phí sự nghiệp cho y tế xã thông qua việc đóng góp từ
thu viện phí, từ khám chữa bệnh cho đối tượng có thẻ BHYT, từ đóng góp hỗ trợ
của cộng đồng theo tinh thần “Nhà nước và nhân dân cùng làm”.
Mở ra hình thức chăm sóc sức khỏe đến hộ gia đình thông qua y tế cơ sở,
có tác dụng trong việc quản lý và hướng dẫn chăm sóc sức khỏe, đáp ứng được
nhu cầu đang hình thành trong xã hội.
Cần tạo điều kiện cho người dân tiếp cận dễ dàng hơn các dịch vụ y tế
bằng cách phân bố một cách hợp lý các cơ sở y tế trong toàn quốc; Mở rộng
mạng lưới và tăng cường chất lượng của y tế các tuyến.
Thành phố cần từng bước tăng mức chi cho ngân sách cho y tế cả về số
lượng ngân sách tuyệt đối và về tỷ lệ chi cho ngân sách y tế so với GDP và so
với tổng ngân sách địa phương. Đồng thời, cần xúc tiến các biện pháp nhằm tăng
dần các hình thức chi trả trước, bao gồm mở rộng BHYT bắt buộc, phát triển các
loại hình BHYT tự nguyện, các hình thức BHYT dựa vào cộng đồng cho nông
dân và các đối tượng làm nghề tự do ở khu vực nội thành, tiến tới mục đích lâu
93
dài là BHYT toàn dân (theo chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đã được đề ra
tại đại hội toàn quốc lần thứ IX của đảng). Trước mắt, cần thực hiện chăm sóc
sức khỏe, khám chữa bệnh cho người nghèo thông qua một hình thức duy nhất là
cấp thẻ BHYT cho toàn bộ số người nghèo hiện có.
Bên cạnh đó cần phát huy truyền thống tương thân tương ái, huy động sự
đóng góp của cộng đồng hỗ trợ cho người nghèo về chăm sóc sức khỏe.
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền vận động, xã hội hóa công tác khám
chữa bệnh cho người nghèo. thống nhất một hình thức khám chữa bệnh cho
người nghèo thông qua hình thức phát hành thẻ BHYT. Người nghèo khi đi
khám chữa bệnh cần được hưởng một số ưu đãi hơn so với các đối tượng BHYT
khác, như sử dụng dịch vụ kỹ thuật cao, chi phí lớn, được hỗ trợ chi phí vận
chuyển khi chuyển tuyến. có như vậy mới có điều kiện tốt nhất để đảm bảo
quyền lợi về khám chữa bệnh đối với người nghèo.
Tăng mức đóng quỹ BHYT cho người nghèo lên thay vì mức đóng
194.000đ/người/năm quá thấp so với các đối tượng tham gia BHYT bắt buộc
khác như hiện nay , bởi vì người nghèo thường ốm đau nhiều, chi phí khám
chữa bệnh cao hơn. theo tính toán sơ bộ tính toán, với mặt bằng giá thuốc và vật
tư thiết bị y tế như hiện nay, nếu tần suất KCB BHYT người nghèo năm 2007
tăng lên 1,3 lần, thì mức đóng BHYT người nghèo cũng phải tăng lên 30%, nếu
tăng lên 1,77 lần bằng mức bình quân của các đối tượng thì mức đóng cũng phải
tăng lên 70% so với mức đóng hiện hành. mức đóng của các đối tượng khác
cũng phải tăng lên tương ứng với mức hưởng.
Điều chỉnh chuẩn nghèo theo hướng tiếp cận với mức chuẩn nghèo chung
của thế giới. Như vậy thì số người cận nghèo hiện nay sẽ được coi là người
nghèo theo chuẩn mới và được hưởng quyền lợi về khám chữa bệnh đối với
94
người nghèo. Việc điều chỉnh chuẩn nghèo theo chuẩn nghèo của thế giới đương
nhiên không thể thực hiện ngay được mà phải điều chỉnh từng bước, tùy thuộc
vào sự phát triển kinh tế xã hội của từng thời kỳ. Tuy nhiên, việc điều chỉnh
chuẩn nghèo cần phải được làm thường xuyên để theo kịp sự phát triển kinh tế
xã hội của đất nước.
3.2.3. Tổ chức chặt chẽ quy trình bình chọn người nghèo và cấp phát
thẻ BHYT cho người nghèo.
Ban hành quy trình xác định người nghèo phải nhanh chóng và đảm bảo
xác định đối tượng chính xác. Việc bình xét người nghèo hiện nay giao cho
ngành Lao động – Thương binh và Xã hội, trên cơ sở xác định của chính quyền
cấp cơ sở. Tuy nhiên, thực tế trong thời gian qua việc xác định danh sách người
nghèo thường rất chậm và có nhiều sai sót. Chính sách được ban hành ra nhưng
có địa phương phải mất 6 tháng thậm chí hàng năm mới đưa ra được danh sách
người nghèo của địa phương mình. Khi chưa có danh sách người nghèo thì cơ
quan BHXH không thể cấp thẻ BHYT và như vậy rõ ràng làm ảnh hưởng đến
quyền lợi khám chữa bệnh của người nghèo. sau khi đã có danh sách, đã cấp thẻ
BHYT nhưng đã không có ít trường hợp khiếu kiện, tố cáo các đối tượng không
phải là người nghèo vẫn được cấp thẻ BHYT (thường là người nhà, người thân
quen của cán bộ địa phương). Điều này cho thấy là cần thiết phải có ngay một
quy trình chuẩn để thực hiện nhanh chóng, chính xác trong việc xác định danh
sách người nghèo làm cơ sở cấp thẻ BHYT, kèm theo đó là các chế tài xử lý
nghiêm minh đối với những tổ chức hoặc cá nhân vi phạm.
Cần thống nhất việc lập danh sách, chuyển tiền, cấp phát thẻ BHYT thông
qua một đầu mối duy nhất là ngành Lao động - Thương binh và Xã hội. Hiện
nay, việc lập và xét duyệt danh sách người nghèo do ngành Lao động - Thương
95
binh và Xã hội thực hiện nhưng đóng tiền BHYT cho đối tượng lại do quỹ KCB
người nghèo của địa phương thực hiện và quản lý đối tượng. Như vậy, để thực
hiện đóng, cấp thẻ BHYT và quyết toán kinh phí mua thẻ BHYT thường phải
làm tay ba: Ngành Lao động – Thương binh và Xã hội, cơ quan BHYT và quỹ
KCB người nghèo (do sở y tế làm thường trực). quy trình này tạo nên sự phức
tạp không cần thiết, do vậy cần thiết phải cải tiến lại cho hợp lý hơn, rút ngắn
thời gian trong quá trình tổ chức thực hiện.
Tổ chức việc cấp phát thẻ BHYT cho người nghèo phải nhanh chóng,
thuận tiện, chính xác. Trên cơ sở danh sách người nghèo của các địa phương
chuyển đến cơ quan BHXH phải phối hợp với ngành Lao động – Thương binh và
Xã hội kiểm tra, thẩm định để in và cấp thẻ cho người nghèo kịp thời, theo đúng
quy định. Cần nghiên cứu mã số, ký hiệu của thẻ BHYT người nghèo phù hợp
trong quản lý, thuận tiện trong sử dụng, dễ dàng nhận biết trong thanh toán và
đảm bảo quyền lợi khi đi khám chữa bệnh. Để thực hiện tốt vấn đề này thì cần
thiết phải ứng dụng và triển khai tốt hệ thống công nghệ thông tin của ngành, đầu
tư thêm trang thiết bị cũng như luôn quán triệt và thực hiện tốt chương trình tổng
thể về cải cách hành chính.
Tăng cường giám định tại các cơ sở khám chữa bệnh nhằm đảm bảo tốt
nhất quyền lợi về BHYT cho người nghèo. Cần nghiên cứu để đơn giản hóa các
thủ tục, thuận tiện cho người nghèo khi đến khám chữa bệnh. Các giám định
viên BHYT tại các bệnh viện phải phối hợp chặt chẽ với y, bác sỹ của bệnh viện
thực hiện cải cách thủ tục hành chính, thực hiện đúng quy trình quy định, công
khai hóa các thủ tục và tận tình chu đáo trong hướng dẫn cũng như khi giải quyết
các vấn đề có liên quan khi người nghèo đến khám chữa bệnh, coi người nghèo
96
như người thân của chính mình.
3.2.4. Đổi mới chính sách và cơ chế quản lý tài chính y tế đối với các cơ
sở KCB
Các nội dung đổi mới cần phải mang tính đồng bộ sau đây:
+ Định hướng dần cho việc phân luồng ngân sách dành cho y tế theo
phương thức trực tiếp cho từng đối tượng cần hỗ trợ của Nhà nước. Theo hướng
này thì phải thực hiện cơ cấu giá viện phí được tính đủ với các yếu tố cấu thành
chi phí để trên cơ sở đó, sự hỗ trợ, bao cấp của Nhà nước với các đối tượng cần
ưu đãi, trợ giúp sẽ được ngân sách trực tiếp cấp cho đối tượng để mua thẻ
BHYT. Các đối tượng khác nếu không mua thẻ BHYT sẽ phải chi trả viện phí
với giá tính đủ, vì như vậy sẽ nhanh chóng đạt mục tiêu công bằng và hiệu quả
trong chăm sóc sức khỏe nhân dân và tiến tới BHYT toàn dân.
Đổi mới việc cấp phát NSNN, trước mắt cần đổi mới ngay việc cấp phát
NSNN cho các cơ sở KCB có đủ điều kiện theo hướng: NSNN không cấp kinh
phí cho các cơ sở KCB mà cấp cho người dân, sau đó người dân lấy tiền đó mua
BHYT. Làm như vậy, đối tượng được NSNN cấp kinh phí mua BHYT không
phải chỉ có người nghèo, các đối tượng thuộc diện chính sách... mà được mở
rộng ra các đối tượng khác như: học sinh sinh viên, cận nghèo, nông dân, người
làm nghề tự do có thu nhập thấp...
+ Giao quyền tự chủ về cân đối thu chi cho các cơ sở KCB, theo đó, các
cơ sở KCB được quyền tự chủ lấy thu nhập tự bù đắp các khoản chi phí cần thiết,
trên cơ sở tính đúng, tính đủ giá các dịch vụ y tế... Đây là các giải pháp mang
tính đồng bộ trong việc thực thi chính sách BHYT nói chung và chính sách
BHYT người nghèo nói riêng. Tuy nhiên, để thực hiện được các giải pháp này
phải có các điều kiện cần thiết, đồng thời phải có các biện pháp cụ thể, như: lộ
97
trình thực hiện, đối tượng được NSNN mở rộng cấp kinh phí mua BHYT, các
bệnh viện, các cơ sở KCB nào được thực hiện trước, hay thực hiện đồng loạt
cùng một lúc, chính sách quản lý và sử dụng tài sản cố định ở các cơ sở KCB có
nguồn gốc từ NSNN... những vấn đề này cần phải có thời gian nghiên cứu, chuẩn
bị kỹ, nhưng dù sớm hay muộn cần phải thực hiện mới phù hợp với cơ chế thị
trường và hội nhập. trước mắt nên thực hiện ngay đối với các cơ sở có đủ điều
kiện.
3.2.5. Tăng cường công tác quản lý nhà nước về hoạt động BHYT nói
chung và BHYT cho người nghèo nói riêng
Trước hết, cần nghiên cứu xây dựng và hoàn thiện bộ máy quản lý BHYT
trên địa bàn Hà Nội theo hướng vừa thể hiện được sự phân định cụ thể, rõ ràng,
vừa thể hiện sự kết hợp chặt chẽ về trách nhiệm và quyền hạn trong quản lý
BHYT giữa cấp trung ương và Hà Nội; giữa cơ quan quản lý nhà nước về BHYT
với cơ quan quản lý Quỹ BHYT; giữa quản lý Quỹ BHYT theo ngành dọc với
quản lý nhà nước về BHYT và đội ngũ cán bộ BHYT tại địa phương; giữa cơ
quan cung ứng dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh BHYT với cơ quan quản lý
BHYT và quản lý Quỹ BHYT...
Thứ hai, tăng cường công tác quản lý Quỹ BHYT cho người nghèo, đảm
bảo cân đối giữa việc thu - chi của Quỹ BHYT, kết hợp với việc chống lạm dụng
và trục lợi BHYT người nghèo để xây dựng tính bền vững của Quỹ. Tăng cường
đào tạo bổ sung, không ngừng nâng cao chất lượng chuyên môn, nghiệp vụ và
năng lực tham mưu, quản lý nhà nước cho đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý
BHYT và quản lý Quỹ BHYT; tăng cường áp dụng công nghệ thông tin và các
tiến bộ khoa học và kỹ thuật để hoàn thiện công tác quản lý người tham gia
BHYT, quản lý Quỹ BHYT và quản lý chất lượng khám bệnh, chữa bệnh tại các
98
cơ sở khám bệnh, chữa bệnh BHYT theo tiêu chuẩn tiên tiến, hiện đại.
Thứ ba, Thành phố cần giám sát, quản lý chặt quy trình đấu thầu thuốc,
hoá chất, vật tư tiêu hao để giảm bớt ghánh nặng cho Quỹ BHYT người nghèo
góp phần nâng cao chất lượng KCB. Khắc phục tình trạng các cơ sở y tế lạm
dụng mở các loại hình dịch vụ nhằm tận dụng nguồn thu, như giá dịch vụ cao mà
cơ quan BHYT chỉ thanh toán mức giá theo quy định, phần còn lại người bệnh
phải tự chi trả. Chính những dịch vụ này đã làm tăng chi phí KCB của người
dân, trong đó càng làm trầm trọng hơn tình hình tài chính của người nghèo.
Trao quyền tự chủ về tài chính cho bệnh viện chỉ là một nội dung của đổi
mới bệnh viện công, muốn thành công thì phải được tiến hành cùng với quá trình
đổi mới toàn diện hoạt động bệnh viện (về cơ chế và tổ chức quản lý, năng lực
quản lý, cơ chế chi trả, phương thức chi trả, cơ chế kiểm tra, giám sát chất lượng
dịch vụ, cơ chế bảo đảm thực hiện các chức năng cơ bản của bệnh viện, như điều
trị; đào tạo; nghiên cứu khoa học; chỉ đạo tuyến; hoạt động xã hội…), và đổi mới
quản lý chung đối với việc cung ứng dịch vụ y tế (theo Luật KB,CB), quản lý
chất lượng cung cấp dịch vụ y tế (trong đó có vai trò của Bộ Y tế, tổ chức
BHYT, các hội nghề nghiệp).
Thứ tư, tăng cường năng lực tổ chức thực hiện của hệ thống các cơ quan
bảo hiểm xã hội. Để đáp ứng tốt yêu cầu thực hiện chế độ bảo hiểm y tế cho toàn
bộ số người nghèo và cả diện cận nghèo với số lượng lớn gấp nhiều lần so với
hiện nay, đòi hỏi phải có một bộ máy có tổ chức và năng lực điều hành hiệu quà
để nâng cao năng lực tổ chức thực hiện của hệ thống các cơ quan bảo hiểm xã
hội thì cần tập trung chủ yếu vào các công tác cụ thể sau :
Nghiên cứu điều chỉnh về mô hình tổ chức của hệ thống bảo hiểm xã hội.
hiện nay, hệ thống các cơ quan bhxh chỉ có tới cấp quận, huyện trong khi người
99
nghèo tập trung tại các xã, phường với số lượng lớn nhất là tại vùng cao Ba Vì.
Để có thể thực hiện tốt chế độ chính sách đối với người nghèo nói riêng và các
đối tượng khác nói chung thì thay vì hệ thống tổ chức 2 cấp như hiện nay (cấp
Thành phố, cấp Quận), cần thiết phải tổ chức hệ thống các cơ quan BHXH theo
mô hình 3 cấp, tức là có thêm cơ quan BHXH cấp Xã, Phường để đảm bảo năng
lực thực thi tốt chính sách BHYT người nghèo trong tình hình mới.
Nâng cao năng lực chuyên môn, phẩm chất, tư cách của cán bộ ngành bảo
hiểm xã hội bằng việc tăng cường đào tạo, tuyển chọn, giáo dục, kết hợp với
kiểm tra,đánh giá. Đồng thời, rèn luyện nâng cao y đức, tinh thần phục vụ người
nghèo bệnh theo lời dạy của bác hồ “thầy thuốc như mẹ hiền” là tiêu chuẩn của
một cán bộ y tế. Hơn ai hết, người nghèo cần nhận được sự chăm sóc tại các cơ
sở khám chữa bệnh một cách tận tình, chu đáo nhất. mọi quyền lợi mà người
nghèo có thẻ BHYT được hưởng theo quy định đều phải được đảm bảo tại các cơ
sở khám chữa bệnh, tuyệt đối không kê đơn, chỉ định thuốc, các vật tư y tế để
người nghèo phải tự mua do nguồn cung ứng của bệnh viện không đáp ứng
được. Tăng cường thẩm quyền của cơ quan bảo hiểm xã hội trong việc tham gia
vào quy trình tổ chức thực hiện BHYT cho người nghèo, kiểm tra, thanh tra việc
100
thực hiện chế độ chính sách BHYT người nghèo.
KẾT LUẬN
Sự phát triển kinh tế trong hơn 20 năm đổi mới đã mang lại nhiều kết quả
tốt trong việc chăm sóc sức khỏe của nhân dân nói chung và người nghèo nói
riêng. đảng ta đã chỉ rõ : Trong xã hội ta, mọi người nghèo đều phải được KCB
và chăm sóc chu đáo. từ nhiều năm qua, Nhà nước đã tập trung đầu tư để phát
triển kinh tế - xã hội ở những vùng nghèo, tạo điều kiện thuận lợi cho người
nghèo phát triển kinh tế hộ gia đình, từng bước cải thiện đời sống, bảo đảm chăm
sóc sức khỏe. công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân, đặc biệt cho
người nghèo đang từng bước được xã hội hóa. đạt được các kết quả đáng kể đó
là do sự quan tâm, chỉ đạo thường xuyên của các cấp đảng và chính quyền, các
ngành, các đoàn thể xã hội.
Tại Hà Nội, Thủ đô của cả nước dĩ nhiên là có nhiều điều kiện thuận lợi
hơn địa phương khác trong việc KCB nói chung và KCB cho người nghèo nói
riêng. Đó là vì tại đây tập trung một hệ thống lớn các bệnh viện Truong ương và
địa phương và cũng là nơi tập trung đội ngũ y, bác sỹ lớn. Trong khi đó thu nhập
quốc dân bình quân đầu người lại cao nhất nhì cả nước nên dường như người
nghèo được tiếp cận với các dịch vụ y tế tốt hơn, thuận lợi hơn.
Vậy nhưng hoạt động BHYT cho người nghèo tại Hà Nội thời gian qua
vẫn còn nhiều bất cập, những kết quả đạt được chưa tương xứng với tiềm năng
của địa phương. Đó là vấn đề đối sử phân biệt người nghèo trong quá trình KCB,
là thái độ thiếu cởi mở của đội ngũ cán bộ y tế, là tình trạng thiếu trách nhiệm
hay thậm chí gây phiền hà cho người nghèo đến KCB theo hệ thống BHYT.
Để khắc phục những hạn chế trên trong thời gian tới Hà Nội cần có nhiều
giải pháp đồng bộ để nâng cao chất lượng và mở rộng hoạt động BHYT cho
101
người nghèo. Trước mắt, Hà Nội cần tập trung vào các giải pháp có tính chất cơ
bản như: Củng cố hệ thống y tế, trước hết là mạng lưới y tế cơ sở. Tổ chức tốt
quy trình bình chọn người nghèo và cấp thẻ BHYT cho người nghèo. Tăng
cường công tác tuyên truyền về chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về
chăm sóc sức khoẻ cho người nghèo và cận nghèo. Đối với chính sách và cơ chế
quản lý tài chính y tế đối với các cơ sở KCB và tăng cường năng lực tổ chức
102
thực hiện của hệ thống các cơ quan BHXH triển khai thực hiện luật BHYT./.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng Sản Việt Nam (2002), Chỉ thị 06/CTTW
của Ban bí thư về củng cố y tế cơ sở.
2. Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng Sản Việt Nam ( 1993), Nghị quyết số
04 của Ban Chấp hành Trung ương khoá VII về Những vấn đề cấp bách trong
công tác y tế Hà Nội.
3. Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng Sản Việt Nam (2009), Chỉ thị số 38/TW
ngày 7/9/2009 về “Đẩy mạnh công tác BHYT trong tình hình mới”.
4. Bảo hiểm y tế Hà Nội (2000), Báo cáo kết quả khám chữa bệnh người nghèo
tại Thành phố Hà Nội .
5. Bảo hiểm Xã Hội Hà Nội (2005,2008), Báo cáo kết quả khám chữa bệnh
người nghèo tại Thành phố Hà Nội .
6. Bảo hiểm y tế Việt Nam (2002), Báo cáo kết quả khám chữa bệnh người
nghèo tại 10 tỉnh.
7. (Bảo hiểm Y tế Hà Nội (2005), Báo cáo kết quả khám chữa bệnh người
nghèo tại Thành phố Hà Nội .
8. Bộ Y tế (2005), Báo cáo Nghiên cứu Các giải pháp tài chính y tế cho người
nghèo, Hà Nội.
9. Bộ Y tế (2005), Chăm sóc sứ khoẻ cho người nghèo ở Việt Nam.
10. Bộ Y tế (2002), Các số liệu về tiếp cận và sử dụng dịch vụ y tế của người
nghèo và dân tộc thiểu số ở Việt Nam.
11. Bộ Lao động – Thương binh và xã hội (1997), Công văn số 1751/LĐTBXH
103
ngày 20/5/1997 về tiêu chuẩn đói nghèo.
12. UBND Tp. Hà Nội (2001), Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm
2001 – 2010, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
13. UBND Tp. Hà Nội (2010), Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Thành phố
Hà Nội đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050, Hà Nội, tháng 4.
14. Chiến lược về chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân giai đoạn 2001 – 2010
15. Trần Thị Trung Chiến và cộng sự (2002), Xây dựng ngành y tế Việt Nam
công bằng và phát triển.
16. Nguyễn Tuấn Hùng, BHYT cho người nghèo ở Việt Nam – thực trạng và giải
pháp. Luận văn tốt nghiệp đại học khoa Kinh tế Chính trị Đại học Kinh tế Đại
học Quốc gia Hà Nội, năm 2005.
17. Nguyễn Thanh Hà (2005), Sự khác biệt về giới trong sẵn sàng chi trả cho mô
hình BHYT dựa vào cộng đồng ở một vùng nông thôn Việt Nam. Luận văn
thạc sỹ y tế công cộng.
18. Lương Ngọc Khuê (2005), Nghiên cứu thực trạng và góp phần hoàn thiện
mô hình khám chữa bệnh BHYT tại trạm y tế xã Phù Linh và Đức Hoà huyện
Sóc Sơn thành phố Hà Nội. Luận án tiến sỹ y học, lưu tại Thư viện Quốc gia.
19. Trần Khắc Lộng (2007), BHYT: Sự ra đời và đổi mới chính sách an sinh xã
hội, Tạp chí Bảo hiểm xã hội số 10 năm 2007.
20. Trần Khắc Lộng (2005), Đánh giá thực trạng và hiệu quả áp dụng phương
thức chi trả BHYT bắt buộc tại các bệnh viện tuyến huyện tỉnh Thanh Hoá.
Luận án tiến sỹ y học, lưu tại Thư viện Quốc gia.
21. Dương Huy Liệu; Nguyễn Hoàng Long; Phan Thanh Thuỷ; Đặng Bội Hương
và cộng sự (2005), Các giải pháp tài chính y tế cho người nghèo. Báo cáo
nghiên cứu.
104
22. Luật Bảo hiểm y tế (2008)
23. Nghị định số 63/2005/NĐ-CP ngày 16/05/2005 về ban hành điều lệ bảo hiểm
y tế (2005).
24. Nghị quyết số 05/NQ-CP về đẩy mạnh xã hội hoá các hoạt động giáo dục, y
tế, văn hoá và thể dục thể thao (2005).
25. Nghị quyết 46 - NQ/TW về công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ
nhân dân trong tình hình mới (2005).
26. Nghị định số 73/1999/NĐ-CP về chính sách khuyến khích xã hội hoá đối với
các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hoá, thể thao (1999).
27. Nghị định số 58/1998/NĐ-CP ngày 13/08/1998 về ban hành điều lệ BHYT
(1998).
28. Ngân hàng thế giới (2001), Khoẻ để phát triển bền vững
29. Nguyễn Khang (2003), Ước tính chi phí cần thiết cho bảo hiểm y tế toàn dân
vào năm 2010.
30. Nguyễn Đức Khoa, Đánh giá việc triển khai Quyết định 139/2002/QĐ-TTg
của Thủ tướng Chính phủ về việc khám chữa bệnh của người nghèo tại huyện
Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang. Luận văn Thạc sỹ Y tế công cộng. Lưu tại thư
viện trường Đại học Y tế Công Cộng.
31. Quyết định 139/2002/QĐTTg ngày 5/10/2002 về khám chữa bệnh cho người
nghèo (2002).
32. Quyết định số 35/2001/QĐ-TTg ngày 19/03/2001 về phê duyệt chiến lược
bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ nhân dân giai đoạn 2001 – 2010.
33. James C. Knowles và cộng sự (2005), Tài chính y tế ở Việt Nam: Tạo điều
kiện cho người nghèo có khả năng chi trả cho dịch vụ y tế.
34. Đỗ Văn Sinh, Những giải pháp thúc đẩy tiến trình BHYT toàn dân. Tạp chí Y
105
học lâm sàng số 11 năm 2007.
35. Kinh tế thị trường và yêu cầu hoàn thiện an sinh xã hội. Tạp chí luật học số 4
năm 2006.
36. Tạp chí Bảo hiểm xã hội điện tử (2009), số 6B/2009(132)
37. Thủ tướng Chính phủ (2005), Quyết định số 170/2005/QĐ-TTg về việc ban
hành chuẩn nghèo cho giai đoạn 2006-2010.
38. Thủ tướng Chính phủ (2002), Công văn số 2685/VPCP-QHQT ngày
21/05/2002 phê duyệt Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xoá đói giảm
nghèo.
39. Thông tư liên Bộ 05 LĐTBXH-BTC-BYT(1999), Thông tư liên Bộ 05
LĐTBXH-BTC-BYTngày 29/1/1999 của Bộ lao động thương binh xã hội-Bộ Y
tế-Bộ Tài chính về thực hiện miễn giảm viện phí cho người nghèo.
40. Tổng cục thống kê. Điều tra mức sống dân cư 1998-2002.
41. Từ điển Bách khoa Việt Nam (1995), Tập I, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
42. Mai Thị Thanh Xuân (2010), 10 năm phát triển kinh tế-xã hội Hà Nội (2000-
2010: Thành tựu và một số vấn đề đặt ra cho công tác quản lý, Tạp chí Khoa
học, chuyên san Kinh tế và Kinh doanh, số 3
43. http://www.baohiemxhhn.com.vn;
44. http://vietbao.vn;
45. http://www.tin247.com;
46. http://wwikipedia.org.vn;
47. http://baodientuchinhphu.vn;
106
48. http://www.qdnd.vn;
Tiếng Anh
49. Báo “ Vietnam’s health care system, A macroeconomic perspective” của
Susan J. Adams, đại diện International Monetery Fund tại Hà Nội.
50. Wang H, et al. Community-based health insurance in poor rual China: the
distribution of net benefits. Health Policy and Planning 2005.
51. World Bank, 2005. Schieber, George. Financing Health Systerms in the 21st
107
Century