ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƢỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ --------------***--------------
TRẦN THỊ THÙY DƢƠNG
BẢO VỆ MÔI TRƢỜNG SINH THÁI TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ Ở VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ Chuyên ngành: Kinh tế chính trị
Mã số: 60 31 01
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS, TS. LÊ DANH TỐN
HÀ NỘI - 2008
MỤC LỤC
1
MỞ ĐẦU............................................................................................................
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VÀ KINH NGHIỆM CỦA TRUNG QUỐC VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG SINH THÁI TRONG QUÁ
TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ.......................................................
5
1.1. Một số vấn đề lý luận chung về bảo vệ môi trường sinh thái trong quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá……………………………………
5
1.1.1. Khái niệm và vai trò của môi trường sinh thái đối với sự phát triển bền
vững.........................................................................................................................
5
12
1.1.2. Quan hệ giữa công nghiệp hoá, hiện đại hoá và môi trường sinh thái………...
1.1.3. Nội dung, nguyên tắc, công cụ của bảo vệ môi trường sinh thái trong quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá.................................................
20
1.2. Kinh nghiệm của Trung Quốc về bảo vệ môi trường sinh thái trong quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá……………………………….
26
26
1.2.1. Thực trạng ô nhiễm môi trường ở Trung Quốc hiện nay………………
28
1.2.2. Chiến lược bảo vệ môi trường của Trung Quốc.....................................
31
1.2.3. Triển vọng của chiến lược bảo vệ môi trường ở Trung Quốc.................
Chương 2. THỰC TRẠNG MÔI TRƯỜNG SINH THÁI VÀ BẢO VỆ MÔI
TRƯỜNG SINH THÁI TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ Ở VIỆT NAM…………………………………………………...
34
2.1. Thực trạng môi trường sinh thái trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại
hoá......................................................................................................................
34
2.1.1. Tác động của sự phát triển các ngành kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá hiện
đại hoá đến môi trường sinh thái..................................
35
2.1.2. Thực trạng môi trường sinh thái ở Việt Nam dưới tác động của công nghiệp hoá,
hiện đại hoá……………………………………………….
51
2.2. Thực trạng hoạt động bảo vệ môi trường trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá,
hiện đại hoá ở Việt Nam......................................................
65
65
2.2.1. Những hoạt động bảo vệ môi trường.......................................................
2.2.2. Đánh giá chung về thực trạng bảo vệ môi trường sinh thái và những vấn đề đặt
ra............................................................................................
72
Chương 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG SINH THÁI
TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ Ở VIỆT
82
NAM THỜI GIAN TỚI...........................................................................................
3.1. Bối cảnh mới và tác động của nó đến bảo vệ môi trường sinh thái của Việt Nam trong
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.......................
82
82
3.1.1. Bối cảnh Quốc tế………………………………………………………….
84
3.1.2. Bối cảnh trong nước..................................................................................................
3.2. Quan điểm, mục tiêu và nhiệm vụ bảo vệ môi trường trong quá trình đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá................................................................
85
85
3.2.1. Quan điểm................................................................................................................
86
3.2.2. Mục tiêu và nhiệm vụ............................................................................................
3.3. Các giải pháp chủ yếu bảo vệ môi trường sinh thái trong quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá thời gian tới.....................................................
91
3.3.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về môi trường sinh thái và bảo vệ môi trường sinh
thái………………………………………………………...
91
3.3.2. Hoàn thiện cơ chế chính sách và tổ chức bộ máy quản lý môi trường sinh
thái………………………………………………………………
92
3.3.3. Hoàn thiện hệ thống chính sách thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá
gắn với bảo vệ môi trường sinh thái……………………...
95
98
3.3.4. Tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền và giáo dục, đào tạo về bảo vệ môi
trường sinh thái……………………………………………
100
3.3.5. Mở rộng hợp tác quốc tế trong bảo vệ môi trường……………………..
102
KẾT LUẬN.............................................................................................................................
103
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
2
Trước ngưỡng cửa của thế kỷ XXI, cuộc cách mạng khoa học và công
nghệ hiện đại của thế giới đang phát triển với nhịp độ ngày một nhanh, tạo ra
những thành tựu mang tính đột phá, làm thay đổi nhanh chóng, sâu sắc và quyết
định tới sự phát triển của kinh tế, xã hội và bản thân con người. Bên cạnh những
thành tựu rực rỡ về khoa học và công nghệ, loài người cũng đang phải đối mặt
với những thách thức lớn lao về chính trị, văn hoá, xã hội và đặc biệt là môi
trường.
Trong vài thập kỷ gần đây, do sức ép gắt gao về dân số và sự phát triển
kinh tế thiếu tính toán, các nguồn tài nguyên trên trái đất ngày càng cạn kiệt,
môi trường bị suy thoái nghiêm trọng, thậm chí một số vùng còn bị phá huỷ
hoàn toàn. Hàng loạt các vấn đề về môi trường như thay đổi khí hậu, suy thoái
tầng ôzôn, suy thoái đa dạng sinh học, suy giảm tài nguyên đất và nước ngọt…
đang là những thách thức đối với sự tồn tại của loài người và của trái đất, Việt
Nam cũng không đứng ngoài những thách thức đó.
Theo quan điểm phát triển bền vững, Việt Nam đang đứng trước những
thử thách lớn. Một đất nước nghèo, điểm xuất phát thấp, lại bị 2 cuộc chiến
tranh tàn phá, nền kinh tế và môi trường đã đặt ra hàng loạt vấn đề cần giải
quyết. Tuy nhiên, nếu quá vội vàng trong việc áp dụng các giải pháp chính sách
đầu tư, đổi mới thiếu quy hoạch Kinh tế - xã hội và môi trường theo quan điểm
phát triển bền vững trên cơ sở nghiên cứu một cách khoa học và hệ thống thì tất
yếu sẽ dẫn đến những hậu quả đáng tiếc. Hậu quả đó có thể có lợi cho kinh tế
trước mắt nhưng lại có hại lâu dài, nền kinh tế sẽ bị suy thoái khi phát triển quá
ngưỡng chịu đựng của môi trường.
Việt Nam đang trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá,
đất nước ta đã khởi sắc về kinh tế, đời sống nhân dân được nâng cao, nhận thức
về bảo vệ môi trường và phát triển bền vững đã có tiến bộ rõ rệt. Tuy nhiên, tài
nguyên thiên nhiên nước ta đang được khai thác ngày càng mạnh mẽ và có xu
hướng cạn kiệt, môi trường thiên nhiên đang bị ô nhiễm. Vì vậy việc phân tích,
đánh giá và dự báo các tác động của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đến môi
3
trường của Việt nam, đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế, chính
sách bảo vệ môi trường mang tính cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn.
Từ nhận thức trên, tôi chọn đề tài: “Bảo vệ môi trường sinh thái trong
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam”. Để thực hiện luận văn
của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong thời gian qua đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề bảo vệ
môi trường sinh thái trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm hướng
tới sự phát triển bền vững ở Việt Nam. Tiêu biểu là:
- Một số vấn đề bảo vệ môi trường với phát triển kinh tế ở nước ta hiện
nay của TS. Nguyễn Văn Ngừng, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Vấn đề môi trường trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của
GS. TSKH Vũ Hy Chương, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2007.
- Chính sách công nghiệp định hướng phát triển bền vững, Bộ kế hoạch
và đầu tư, 11/ 2005.
- Quản lý môi trường bằng công cụ kinh tế của Trần Thanh Lâm, NXB
Lao động, Hà Nội, 2006.
- Phát triển nông thôn bền vững - những vấn đề lý luận và kinh nghiệm
Thế giới do TS. Trần Ngọc Ngoạn chủ biên, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội,
2008.
- Thực hiện đồng bộ các giải pháp bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Phạm Khôi Nguyên, tạp chí Khoa học
Xã hội Việt Nam, 4/ 2006.
- Sử dụng các công cụ kinh tế trong quản lý tài nguyên và bảo vệ môi
trường ở Việt Nam của PGS. TS. Nguyễn Thế Chinh, Tạp chí Phát triển bền
vững, số 4 (13) tháng 12/2006.
- Giải quyết tốt các vấn đề môi trường trong bối cảnh hội nhập kinh tế
quốc tế của TS. Đoàn Văn Khải, Tạp chí Lý luận chính trị, 10/ 2007.
Hầu hết các công trình nói trên đều nghiên cứu môi trường sinh thái dưới
góc độ của Khoa học Môi trường và Khoa học phát triển mà chưa nghiên cứu
4
tập trung và hệ thống tác động của công nghiệp hoá, hiện đại hoá tới môi trường
sinh thái và bảo vệ môi trường sinh thái trong quá trình công nghiệp hoá, hiện
đại hoá ở Việt Nam dưới góc độ của Khoa học Kinh tế chính trị. Đây là lý do
chủ yếu để tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu: “Bảo vệ môi trường sinh thái trong
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam” làm luận văn Thạc sỹ
của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích:
Trên cơ sở nghiên cứu các tác động của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đến
môi trường sinh thái, phân tích, đánh giá thực trạng bảo vệ môi trường sinh thái
ở Việt Nam thời gian qua, luận văn đề xuất hệ thống giải pháp nhằm bảo vệ môi
trường sinh thái trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam thời
gian tới.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ mối quan hệ giữa công nghiệp hoá, hiện đại hoá và môi trường
sinh thái.
- Phân tích kinh nghiệm của Trung Quốc trong việc giải quyết các vấn đề
môi trường trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
- Phân tích thực trạng môi trường sinh thái và bảo vệ môi trường sinh thái
trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam.
- Đưa ra một số giải pháp cơ bản nhằm bảo vệ môi trường trong thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu:
Vấn đề môi trường và bảo vệ môi trường sinh thái trong quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam.
* Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu vấn đề bảo vệ môi trường sinh thái trong quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam trong những năm gần đây dưới góc độ của
khoa học kinh tế chính trị.
5
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử đồng thời kết hợp một số phương pháp cụ thể khác
như: Trừu tượng hoá khoa học, phân tích, tổng hợp, logic và lịch sử, so sánh,
thống kê....
6. Đóng góp mới của luận văn
- Hệ thống hoá, phân tích và góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về bảo
vệ môi trường sinh thái trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam.
- Phân tích đánh giá thực trạng môi trường và bảo vệ môi trường sinh thái
trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam.
- Đưa ra quan điểm định hướng và đề xuất một số giải pháp bảo vệ môi
trường sinh thái trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt
Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo luận văn
gồm 3 chương, 7 tiết:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung và kinh nghiệm của Trung Quốc
về bảo vệ môi trường sinh thái trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Chương 2: Thực trạng môi trường sinh thái và bảo vệ môi trường sinh thái
trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp bảo vệ môi trường sinh thái trong quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam thời gian tới.
6
Chương1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VÀ KINH NGHIỆM
CỦA TRUNG QUỐC VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG SINH THÁI
TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ
1.1. Một số vấn đề lý luận chung về bảo vệ môi trường sinh thái
trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá
1.1.1. Khái niệm và vai trò của môi trường sinh thái đối với sự phát triển bền vững
1.1.1.1. Khái niệm và chức năng của môi trường sinh thái.
Từ khi cách mạng kỹ thuật lần thứ nhất nổ ra, các nước Châu Âu đã có
những bước phát triển mạnh mẽ, nhất là trong những thế kỷ thực hiện công
nghiệp hoá. Họ khai thác mạnh tài nguyên trong nước để mở mang công nghiệp
và phát triển kinh tế, cho đến nay sau hơn 300 năm, thế giới đã hình thành một
cục diện phát triển không đồng đều, chia thành hai nhóm nước chủ yếu: những
nước công nghiệp, hay còn gọi là những nước phát triển, nước giàu; và những
nước đang phát triển, nói chung là những nước nghèo. Nhưng dù là nước phát
triển hay đang phát triển, là nước giàu hay nước nghèo, một vấn đề chung đặt ra
hiện nay cho tất cả các nước là làm thế nào để có mối quan hệ hài hoà giữa tăng
trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường. Bởi vì, muốn tăng trưởng tất nhiên phải
khai thác, sử dụng nhiều tài nguyên và phát thải cũng nhiều hơn, tất nhiên là
không tránh được gây ra những tác động tiêu cực đến môi trường. Tại các nước
đang phát triển, mối quan hệ giữa nghèo khổ và suy thoái môi trường đã tạo nên
một vòng luẩn quẩn vì còn sống dựa nhiều vào nguồn lợi thiên nhiên, lại bị hạn
chế nhiều bởi sự thiếu tri thức, thiếu vốn, thiếu công nghệ, năng suất lao động
thấp, sử dụng năng lượng và nguyên liệu với hiệu suất và hiệu quả thấp, tốn
nhiều tài nguyên và còn nhiều vấn đề môi trường không xử lý được… Thậm chí,
tại nhiều nơi, người dân vẫn còn phải tìm mọi cách để sống được bằng cách thức
đơn thuần là khai phá tài nguyên.
7
Việt Nam trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội cũng vậy, cũng có
những yêu cầu tăng trưởng nhanh để cải thiện và nâng cao đời sống, nhưng cũng
nổi lên rất nhiều vấn đề về môi trường. Dường như càng phát triển kinh tế-xã
hội, càng thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì vấn đề môi trường càng trở
nên bức xúc gay gắt hơn. Kinh tế - xã hội càng phát triển lại càng thấy rõ sự liên
quan ràng buộc với điều kiện tự nhiên và môi trường. Một đòi hỏi tất yếu với
Việt Nam là phải giải quyết hài hoà vấn đề bảo vệ môi trường với yêu cầu tăng
trưởng kinh tế trong thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế -
xã hội, nhất là vào giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Nhiều báo cáo khoa học của các nước khác nhau đã nêu lên những vấn đề mới
trên phạm vi toàn cầu liên quan đến các cơ chế điều tiết của sinh quyển như: lỗ
hổng tầng ôzôn, hiệu ứng nhà kính, tính đa dạng sinh học bị suy giảm…Nhưng
đặc biệt các nhà khoa học chú ý đến là những vấn đề về sự biến đổi của môi
trường, nguồn sống của loài người đang dần bị cạn kiệt, môi trường sinh thái bị
huỷ hoại.
Môi trường sinh thái là một mạng lưới chỉnh thể có mối liên quan chặt chẽ
với nhau giữa đất, nước, không khí và các cơ thể sống trong phạm vi toàn cầu.
Sự tương tác hoà đồng giữa các hệ thống của thiên nhiên tạo ra môi trường
tương đối ổn định. Sự rối loạn bất ổn định ở một khâu nào đó trong hệ thống sẽ
gây ra hậu quả nghiêm trọng. Con người và xã hội xuất thân từ tự nhiên, là một
bộ phận của thiên nhiên. Hoạt động của con người và xã hội được xem là một
khâu, một yếu tố trong hệ thống, thông qua quá trình lao động, con người khai
thác bảo vệ bồi đắp cho thiên nhiên. "Môi trường bao gồm những yếu tố tự
nhiên và vật chất nhân tạo bao quanh con người, có ảnh hưởng tới đời sống, sản
xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và sinh vật" [20, tr.5]. Theo Từ điển
Bách khoa Việt Nam thì môi trường sinh thái là tập hợp các điều kiện địa lý tự
nhiên của một vùng lãnh thổ có tác động trực tiếp đến mức sống của dân cư và
các chỉ tiêu kinh tế trong vùng lãnh thổ ấy.
Do sự phát triển của xã hội công nghiệp, môi trường tự nhiên bị đe doạ
nghiêm trọng, phá huỷ sự cân bằng sinh thái và để lại những hậu quả không
8
lường được. Tuỳ theo khả năng khoa- học kỹ thuật và kinh tế của sự thay đổi có
chủ đích mà các nhân tố của môi trường sinh thái với tính chất quy ước nào đó
được chia thành các nhân tố điều khiển được và những nhân tố không điều khiển
được. Các nhân tố điều khiển được đó là sự gây ô nhiễm bầu khí quyển, nguồn
nước và đất, sự xói mòn đất và sự huỷ diệt giới động vật và thực vật…Những
nhân tố không điều khiển được là loại đất, địa hình vùng, chế độ gió, chế độ
nhiệt, tình hình động đất trên lãnh thổ….việc tính đến của các nhân tố không
điều khiển được của môi trường cho phép xây dựng sát thực tế hơn các phương
án phát triển kinh tế chấp nhận được trên vùng lãnh thổ đã cho. Đối với các nhân
tố điều khiển được của môi trường tự nhiên cần có các thông tin kỹ thuật, kinh tế
và xã hội cần thiết mới có thể xác định được mục tiêu tối ưu của các phương án.
Bảo vệ môi trường sinh thái đã, đang và sẽ là vấn đề mang tính toàn cầu.
Nội dung cơ bản của bảo vệ môi trường là: Bảo vệ rừng và đảm bảo độ che phủ
trên lãnh thổ, chống ô nhiễm không khí, nước và đất, giải quyết và tận dụng các
phế thải, chống xói mòn, hoang mạc hoá đất đai, quản lý nơi cư trú cho các loài
sinh vật, bảo vệ và chống sự tiêu diệt các loài sinh vật quý hiếm, khai thác, sử
dụng hợp lý và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên.
Môi trường tự nhiên trong quan hệ với đời sống của con người và sự phát
triển của xã hội loài người là một hệ thống tự nhiên co các chức năng sau:
- Môi trường là sinh quyển, sinh thái cần thiết cho sự sống tự nhiên của
con người.
Trong hoạt động sống của mình, con người cần phải có một không gian
sống với đặc trưng về quy mô và chất lượng cho phép. Lịch sử loài người đã cho
thấy rõ là trong khi trái đất không thay đổi về độ lớn, nhưng dân số thế giới lại
không ngừng gia tăng. Vì vậy diện tích đất bình quân đầu người (không gian
sống) ngày càng chật hẹp và giảm sút nhanh chóng. Trước tình hình đó đã xuất
hiện quan điểm coi việc dân số gia tăng không kiềm chế được là cuộc khủng
hoảng chủ yếu mà nhân loại ngày nay phải đương đầu, là nguyên nhân chính của
nạn đói nghèo, lạc hậu, mức sống thấp, suy dinh dưỡng và bệnh tật, sự xuống
9
cấp của môi trường và một loạt các vấn đề xã hội khác. Bên cạnh đó sự phân bố
dân số không đồng đều trên thế giới càng làm gay gắt hơn về không gian sống ở
nơi mật độ dân số tập trung cao, đặc biệt là tại các thành phố lớn và các khu
công nghiệp tập trung của nhiều quốc gia.
- Môi trường là nơi chứa đựng những nguồn tài nguyên làm thành đối
tượng lao động sản xuất và các nguồn lực cần thiết cho việc sản xuất ra của cải
vật chất của loài người.
Từ thời nguyên thuỷ đến nay, để tồn tại và phát triển thì con người đã liên
tục khai thác và sử dụng ngày càng nhiều các nguồn tài nguyên vào hoạt động
sống của mình. Nguồn tài nguyên chứa trong môi trường rất đa dạng và phong
phú, nhưng không phải là vô tận. Sự khai thác quá mức đã làm cho nhiều nguồn
tài nguyên ở nhiều nơi bị cạn kiệt. Sự tăng cường thăm dò, khảo sát tài nguyên
thiên nhiên cùng với sự mở mang các vùng đất mới hoặc việc sử dụng những
công nghệ mới thay thế nguyên, nhiên, vật liệu… chính là những biện pháp tình
thế của con người hiện nay để bù đắp vào sự suy giảm chức năng của môi
trường mà nguyên nhân chính là do con người gây ra.
- Môi trường là nơi chứa đựng chất thải của quá trình sinh hoạt trong cuộc
sống của con người và của quá trình sản xuất.
Trong sinh hoạt và hoạt động sản xuất xã hội, con người không ngừng
thải các loại chất khác nhau vào môi trường. Đồng thời quá trình này là quá trình
môi trường không ngừng phân huỷ, hấp thụ và trung hoà các chất thải để chúng
trở thành vô hại, ít gây độc nhờ các lực lượng tự nhiên (vật lý, hoá học, sinh
học…). Tuy nhiên, quá trình đó chỉ có thể được đảm bảo khi lượng chất thải vào
môi trường không lớn hơn khả năng hấp thụ của môi trường. Còn trong điều
kiện lượng chất thải vào môi trường lớn hơn khả năng hấp thụ của môi trường
hoặc có chất thải không thể phân huỷ tự nhiên hay có độc tính cao thì chức năng
này của môi trường sẽ bị vi phạm.
Tóm lại, mọi sự sống trên trái đất và mọi quá trình hoạt động của con
người đều được tiến hành trong môi trường, dựa vào môi trường và sử dụng các
10
yếu tố sẵn có của môi trường. Xuất phát từ những nhận thức đó, chúng ta khẳng
định môi trường có vai trò to lớn, quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của
mọi loại sinh vật sống trên trái đất.
11
1.1.1.2. Vai trò của môi trường sinh thái đối với sự phát triển bền vững
Phát triển kinh tế - xã hội là quá trình nâng cao điều kiện sống về vật chất
và tinh thần của con người thông qua việc sản xuất ra của cải vật chất, cải tiến
quan hệ xã hội, nâng cao chất lượng văn hoá. Phát triển là xu thế chung của từng
cá nhân và cả loài người trong quá trình sống. Giữa môi trường và sự phát triển
có mối quan hệ hết sức chặt chẽ: môi trường là địa bàn và đối tượng của sự phát
triển, còn phát triển là nguyên nhân tạo nên các biến đổi của môi trường.
Tác động của hoạt động phát triển đến môi trường thể hiện ở khía cạnh có
lợi là cải tạo môi trường tự nhiên hoặc tạo ra kinh phí cần thiết cho sự cải tạo đó,
nhưng có thể gây ra ô nhiễm môi trường tự nhiên hoặc nhân tạo. Mặt khác, môi
trường tự nhiên đồng thời cũng tác động đến sự phát triển kinh tế xã hội thông
qua việc làm suy thoái nguồn tài nguyên đang là đối tượng của hoạt động phát
triển hoặc gây ra thảm hoạ, thiên tai đối với các hoạt động kinh tế xã hội trong
khu vực.
Có thể nói rằng mọi vấn đề về môi trường đều bắt nguồn từ phát triển.,
nhưng con người cũng như tất cả mọi sinh vật khác không thể đình chỉ tiến hoá
và ngừng sự phát triển của mình. Con đường để giải quyết mâu thuẫn giữa môi
trường và phát triển là phải chấp nhận phát triển, nhưng giữ sao cho phát triển
không tác động một cách tiêu cực tới môi trường. Phát triển bền vững là một
khái niệm mới nảy sinh từ sau cuộc khủng hoảng môi trường, do đó cho đến nay
chưa có một định nghĩa nào đầy đủ và thống nhất. Dưới đây là một số định
nghĩa về phát triển bền vững:
- Hội nghị môi trường toàn cầu Rio de Janerio (6/1992) đưa ra thuyết phát
triển bền vững; nghĩa là sử dụng hợp lý và có hiệu quả các nguồn tài nguyên,
bảo vệ Môi trường một cách khoa học đồng thời với sự phát triển kinh tế.
- Phát triển bền vững là một mô hình chuyển đổi mà nó tối ưu các lợi ích
kinh tế và xã hội trong hiện tại nhưng không hề gây hại cho tiềm năng của
những lợi ích tương tự trong tương lai [1, tr.23].
12
Định nghĩa này bao gồm hai nội dung then chốt: các nhu cầu của con
người và những giới hạn đối với khả năng của môi trường đáp ứng các nhu cầu
hiện tại và tương lai của con người.
- Phát triển bền vững là mô hình phát triển mới trên cơ sở ứng dụng hợp
lý và tiết kiệm các nguồn tài nguyên thiên nhiên để phục vụ cho nhu cầu của con
người thế hệ hiện nay mà không làm hại cho thế hệ mai sau [18, tr.17].
Tuy nhiên, định nghĩa được sử dụng nhiều hơn cả trong các nghiên cứu về
phát triển bền vững là định nghĩa của Uỷ ban Thế giới về Môi trường và Phát
triển(WCED) đưa ra năm 1987: "Phát triển bền vững là sự phát triển đáp ứng
các nhu cầu hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu của
các thế hệ tương lai".
Định nghĩa này được mở rộng ra với ba cấu thành về sự phát triển bền
vững:
- Về kinh tế: Một hệ thống bền vững về kinh tế phải thể hiện ở sự tăng
trưởng và phát triển lành mạnh của tất cả các ngành kinh tế, đặc biệt là các
ngành kinh tế liên quan đến sử dụng tài nguyên thiên nhiên, có thể tạo ra hàng
hoá và dịch vụ một cách liên tục, với mức độ có thể kiểm soát của chính phủ về
nợ bên ngoài, tránh sự mất cân đối giữa các khu vực làm tổn hại đến mỗi ngành
sản xuất.
- Về xã hội: Hệ thống bền vững về mặt xã hội phải đạt được sự công bằng
trong phân phối, cung cấp đầy đủ các dịch vụ xã hội bao gồm y tế, giáo dục...,
công bằng giới tính, sự tham gia và trách nhiệm chính trị cho mọi người, đảm
bảo sức khoẻ, giảm đói nghèo, hạn chế các tệ nạn xã hội.
- Về môi trường: Hệ thống phát triển bền vững thể hiện ở sử dụng hợp lý
tài nguyên thiên nhiên, duy trì một nền tảng nguồn lực ổn định, tránh khai thác
quá mức các hệ thống nguồn lực tái sinh hay những vận động tiềm ẩn của môi
trường. Việc khai thác các nguồn lực không thể tái tạo không được vượt quá
mức độ đầu tư cho sự thay thế một cách đầy đủ. Điều này bao gồm việc duy trì
đa dạng sinh học, sự ổn định khí quyển và các hoạt động sinh thái khác mà
13
thường không được coi như các nguồn lực kinh tế, hạn chế ô nhiễm môi trường,
có chính sách và kế hoạch hành động cải thiện môi trường. Như vậy, "Phát triển
bền vững là sự phát triển đáp ứng các nhu cầu hiện tại mà không làm tổn hại đến
khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai trên cơ sở kết hợp chặt chẽ,
hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế, đảm bảo tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường"
[20, tr.7].
Như vậy, bảo vệ môi trường là một trong ba thành tố hay trụ cột của phát
triển bền vững ở bất kỳ quốc gia nào trong thế giới đương đại và tương lai.
Trong thời đại ngày nay, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững không còn là
vấn đề riêng của một quốc gia, một khu vực, mà đã thực sự trở thành mối quan
tâm toàn cầu. Thực tế cho thấy tính nguy cấp, phức tạp và nan giải của các vấn
đề môi trường đang đòi hỏi chúng ta cần phải nhìn nhận và đánh giá đúng đắn
vai trò của môi trường trong quá trình thực hiện phát triển bền vững.
Có thể nói, môi trường và phát triển bền vững là một vấn đề có tính cấp
thiết liên quan tới nhiều ngành, nhiều lĩnh vực và xuyên suốt nhiều thời đại.
Quản lý môi trường, bảo vệ, cải thiện môi trường, sử dụng hợp lý các yếu tố môi
trường và các điều kiện thuận lợi của môi trường nhằm phục vụ sự tồn tại và
phát triển kinh tế - xã hội loài người là những nội dung quan trọng trong hoạt
động hiện nay và mai sau của toàn nhân loại.
Ngày nay, nhiều nước trên thế giới đã đặt phát triển bền vững trên cơ sở
nâng cao, cải thiện chất lượng sống của con người theo phạm vi khả năng chịu
được của các hệ sinh thái. Đó là mục tiêu về phát triển bền vững, chỉ tiêu đánh
giá cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia trên thế giới.
Việt Nam đang thực hiện đường lối đổi mới, tiến hành công nghiệp hoá,
hiện đại hoá trên quan điểm phát triển bền vững với mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Trong thập niên đầu thế kỷ XXI, quan điểm
phát triển bền vững của Việt Nam đã được thể hiện rõ trong văn kiện đại hội
Đảng IX về chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2001-2010, theo đó
phát triển bền vững của Việt Nam là: “Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững,
14
tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi
trường”, “Phát triển kinh tế - xã hội gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi trường,
bảo đảm sự hài hoà giữa môi trường nhân tạo với môi trường thiên nhiên, giữ
gìn đa dạng sinh học” và “Chủ động gắn kết yêu cầu cải thiện môi trường trong
mỗi quy hoạch, kế hoạch, chương trình và dự án phát triển kinh tế - xã hội, coi
yêu cầu về môi trường là một tiêu chí quan trọng đánh giá các giải pháp phát
triển” .
1.1.2. Quan hệ giữa công nghiệp hoá, hiện đại hoá và môi trường sinh thái
1.1.2.1 . Khái niệm và nội dung của công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Cho đến nay, chúng ta có thể khẳng định rằng, công nghiệp hoá, hiện đại
hoá là phương thức hữu hiệu làm thay đổi căn bản bộ mặt kinh tế - xã hội của
các nước đang phát triển. Việc thực hiện có kết quả quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá trước hết sẽ thủ tiêu tình trạng lạc hậu về trình độ lực lượng sản
xuất, từ công cụ lao động, phương tiện sản xuất đến yếu tố người lao động, thay
vào đó là những công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại,
đồng thời thúc đẩy mạnh mẽ phân công lao động xã hội, hình thành cơ cấu kinh
tế hợp lý, nhờ vậy năng lực sản xuất tăng lên, kinh tế phát triển. Mặt khác, công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nâng cao mức sống dân cư, tạo điều kiện phát triển dân
trí, đưa xã hội đến trình độ văn minh công nghiệp. Tuy nhiên công nghiệp hoá,
hiện đại hoá mang lại hiệu quả phát triển kinh tế - xã hội đến đâu còn phụ thuộc
vào tính ưu việt trong mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá của mỗi nước.
Song dù thế nào thì cũng có sự thừa nhận chung rằng: Công nghiệp hoá tạo ra
nền kinh tế hiện đại với những ưu thế nổi bật là năng suất lao động cao, chất lượng
sản phẩm tốt, cơ cấu sản xuất đa dạng, việc làm nhiều và phong phú, thu nhập quốc
dân chung và tính theo đầu người cao hơn nhiều so với nền kinh tế chưa công
nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 (khoá VII) của Đảng chỉ rõ: “Công
nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt
động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao
15
động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với
công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến hiện đại, dựa trên sự phát triển
của công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã
hội cao”.
Đối với nước ta hiện nay, nền kinh tế vẫn mang nặng tính chất của nền
kinh tế nông nghiệp lạc hậu, công nghiệp nhỏ bé. Để ra khỏi tình trạng nước
nghèo chậm phát triển, tránh khỏi nguy cơ tụt hậu xa hơn, không có con đường
nào khác ngoài tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là xây dựng nước ta thành
một nước công nghiệp có cơ sở vật chất, kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý,
quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất,
đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu,
nước mạnh, xã hội, công bằng, dân chủ, văn minh. Phấn đấu đến năm 2020,
nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Trong giai đoạn hiện nay, Việt Nam đang thực hiện công nghiệp hoá, hiện
đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức. Nội dung cơ bản của công nghiệp hoá,
hiện đại hoá rút ngắn là phát triển mạnh các ngành và sản phẩm kinh tế có giá trị
gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức; kết hợp việc sử dụng nguồn vốn tri thức của
con người Việt Nam với tri thức mới nhất của nhân loại; Coi trọng cả về số
lượng và chất lượng tăng trưởng kinh tế trong mỗi bước phát triển của đất nước
ở từng vùng, từng địa phương, trong từng dự án kinh tế xã hội; Xây dựng cơ cấu
kinh tế hiện đại và hợp lý theo ngành, lĩnh vực và lãnh thổ; giảm chi phí trung
gian, nâng cao năng suất lao động của tất cả các ngành, lĩnh vực, nhất là những
ngành, lĩnh vực có sức cạnh tranh cao.
Nội dung cụ thể của công nghiệp hoá, hiện đại hoá giai đoạn hiện nay là:
Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn, giải quyết
đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân; Phát triển nhanh các
ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ; Phát triển kinh tế vùng; Phát triển kinh
16
tế biển; Chuyển dịch cơ cấu lao động, cơ cấu công nghệ, Bảo vệ và sử dụng có
1.1.2.2. Vai trò của môi trường sinh thái đối với công nghiệp hoá, hiện đại hoá
hiệu quả tài nguyên quốc gia, cải thiện môi trường tự nhiên.
Trước vũ trụ mênh mông, con người trở nên nhỏ bé, không còn chuyện
chiếm lĩnh tự nhiên bằng mọi giá mà phải hành động theo quy luật. Sự vi phạm
quy luật tự nhiên, trước hết sẽ gây tổn thương cho tự nhiên, điều này còn có thể
cứu vãn, nhưng một khi sự vi phạm đó ảnh hưởng đến vận mệnh của con người
thì sự nguy hiểm khó lường hậu quả.
Ăngghen đã từng nhắc nhở chúng ta rằng: Không nên quá khoái chí về
những thắng lợi của chúng ta đối với giới tự nhiên, bởi vì sự thật nhắc nhở
chúng ta hoàn toàn không thống trị giới tự nhiên như một kẻ xâm lược thống trị
một dân tộc khác, như một người sống bên ngoài thế giới tự nhiên, và tất cả sự
thống trị của chúng ta đối với tự nhiên bao hàm ở chỗ là chúng ta khác tất cả các
sinh vật khác, biết nhận thức được những quy luật của giới tự nhiên và sử dụng
những quy luật đó một cách đúng đắn [2, tr.655].
Cần phải nhận thức lại một cách nghiêm túc và sâu sắc rằng con người và
xã hội dù có phát triển đến đâu, đến mức cao như thế nào đi chăng nữa, thì cũng
chỉ là một bộ phận của sinh quyển, là những yếu tố trong hệ thống Tự nhiên -
Con người - Xã hội, các yếu tố trong hệ thống có mối quan hệ khăng khít và tác
động phụ thuộc lẫn nhau. Con người xã hội dù có sức mạnh nhưng hành động
của họ cũng không thể vượt ra ngoài hệ thống mà con người phải biết vận dụng
thế mạnh của mình - dạng vật chất duy nhất có ý thức, do đó chỉ có con người
mới có khả năng điều khiển một cách có ý thức mối quan hệ giữa con người với
tự nhiên. Thông qua quá trình phát triển khoa học kỹ thuật và công nghệ con
người dần dần nắm bắt được các quy luật của tự nhiên và tìm cách vận dụng một
cách hợp lý các quy luật đó vào hoạt động thực tiễn của xã hội, để tạo cơ sở tự
nhiên bền vững cho sự phát triển xã hội.
Trong mối quan hệ với công nghiệp hoá, hiện đại hoá, môi trường đóng
vai trò là nguồn cung cấp đầu vào cho quá trình phát triển vì không có quá trình
17
sản xuất nào không đòi hỏi khai thác tài nguyên thiên nhiên, các thành phần môi
trường. Tuy nhiên nguồn cung cấp này lại có giới hạn chứ không phải dồi dào
vô hạn, điều đó dẫn tới yêu cầu phải khai thác hợp lý và tiết kiệm các nguồn tài
nguyên thiên nhiên. Mối quan hệ này đã sớm được con người nhận thức được từ
thuở sơ khai, khi đó săn bắn hái lượm là nguồn thu nhập chủ yếu đảm bảo cho
sự tồn tại của loài người, con người đã sớm lệ thuộc vào thiên nhiên và môi
trường. Song, không phải ai cũng nhận thức được mối quan hệ giữa môi trường
và phát triển theo chiều ngược lại, được đặc trưng bởi sự tác động của các hoạt
động sản xuất, phát triển tới môi trường. Hiểm hoạ khôn lường là những tác
động tiêu cực lại thường không biểu hiện trực tiếp lên một cá thể nhất định, ví
dụ như một cá nhân có hành vi phá hoại môi trường, nhưng hậu quả của hành vi
đó lại tác động lên cả cộng đồng, có khi hậu quả còn kéo dài đến cả thế hệ mai
sau.
Chính vì vậy mà từ nhiều thập kỷ nay, con người đã nhận thức rằng Môi
trường đóng vai trò hết sức quan trọng đảm bảo sự tồn tại và phát triển của nền
kinh tế và sự sống của con người, nhất là đối với quá trình công nghiệp hoá, hiện
đại hoá nói chung và sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nói riêng ở nước
ta bởi vì Môi trường không chỉ cung cấp nguồn tài nguyên đầu vào cho sản xuất,
tiện nghi sinh hoạt cho con người mà còn là nơi chứa và hấp thụ phế thải sản
xuất và sinh hoạt do con người thải ra. Những chức năng của Môi trường liên
quan đến hoạt động kinh tế có mối tương tác chặt chẽ với nhau và trong những
trường hợp nhất định chúng có thể triệt tiêu lẫn nhau. Chẳng hạn như những chất
thải và sinh hoạt, sản xuất... có chứa nhiều chất độc hại sẽ làm giảm nguồn tài
nguyên của Môi trường. Đó là việc ô nhiễm nguồn nước, đất, do sản xuất công
nghiệp. Sự ô nhiễm đó lại có tác động trở lại quá trình sản xuất làm cho sản xuất
gặp khó khăn. Môi trường là nơi chứa đựng những nguồn tài nguyên làm thành
đối tượng lao động sản xuất. Hình thành các nguồn lực cần thiết cho việc sản
xuất ra của cải vật chất của loài người. Trong số này một số có thể tái tạo được,
một số khác không thể tái tạo được. Trong quá trình khai thác, nếu mức độ khai
18
thác nhanh hơn mức độ tái tạo thì gây ra tình trạng khan hiếm, suy kiệt hoặc
1.1.2.3. Tác động của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đối với môi trường sinh thái
khủng hoảng tới Môi trường.
Thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá là con đường tất yếu của mọi
quốc gia để tăng trưởng và phát triển bền vững. Nhờ công nghiệp hoá, hiện đại
hoá mà các nước tư bản chủ nghĩa hàng đầu đã nhanh chóng phát triển vượt bậc
để có một tiềm lực kinh tế to lớn, tiềm năng khoa học và công nghệ dồi dào, có
mức sống cao. Các nước nghèo, chậm phát triển không có con đường nào khác
cũng phải thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá để nhanh chóng thoát khỏi
tình trạng đói nghèo, lạc hậu. Nhờ tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá, các
nước chậm phát triển cũng đang dần vượt qua những chặng đường dài khó khăn,
có bước tiến nhảy vọt, rút ngắn quá trình phát triển trở nên giàu có.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá không chỉ giúp các nước đang phát triển
nói chung, Việt Nam nói riêng giải quyết các mục tiêu về kinh tế - xã hội trong
phát triển, mà còn là điều kiện để thực hiện được yêu cầu của phát triển bền
vững . Đồng thời với việc phát triển những công nghệ mới trong khai thác và sử
dụng tài nguyên, cũng phát triển theo những công nghệ xử lý môi trường do áp
dụng các công nghệ khai thác tài nguyên đó gây ra. Bên cạnh những phát triển
khoa học để tận dụng mọi tính năng có được của các loại tài nguyên thiên nhiên
phục vụ cho lợi ích của mình, con người cũng tạo ra được những phát kiến khoa
học nhằm bảo vệ và phục hồi môi trường tự nhiên nhằm đảm bảo cho sự tồn tại
lâu bền của cuộc sống con người trong thiên nhiên. Công nghiệp hoá, hiện đại
hoá là yếu tố căn bản nhất thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, lượt mình, tăng trưởng
kinh tế lại tạo tiền đề để bảo vệ và cải thiện môi trường tự nhiên, mà trước hết là
nguồn lực về tài chính cho thực hiện các nhiệm vụ bảo vệ môi trường. Thực hiện
công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập
kinh tế quốc tế, những vấn đề môi trường cũng đang được nhắc đến như là các
điều kiện trong các thương thảo quốc tế, có xu hướng trở thành những rào cản
mới, quyết định và ảnh hưởng tới thương mại và đầu tư giữa các nước. Đó chính
19
là sức ép khiến cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta tiến triển theo
hướng thân thiện với môi trường, có lợi cho bảo vệ và cải thiện môi trường. Có
thể khẳng định rằng, quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã tạo ra những
nguồn lực (Khoa học- công nghệ, vốn, nhân lực…) cho bảo vệ môi trường hiệu
quả hơn. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì
tất yếu cũng sẽ gây ra những ảnh hưởng xấu đến môi trường. Cho nên trong quá
trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, bên cạnh những thành tựu mà
chúng ta đã đạt được cũng sẽ kéo theo nhiều hậu quả cần khắc phục về vấn đề
môi trường. Vì vậy cần nhận thức rằng thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá
là nhiệm vụ trung tâm mang tính tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ, thì việc
bảo vệ môi trường trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá là
nhiệm vụ đặc biệt, mang tính cấp thiết mà toàn Đảng, toàn dân ta trong quá trình
đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước cần phải quán triệt sâu sắc.
Cũng như nhiều quốc gia khác trên thế giới, bước vào giai đoạn đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Việt Nam cũng đang phải đối mặt với
mâu thuẫn giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường. Thậm chí so với nhiều
nước công nghiệp phát triển, vấn đề môi trường ở Việt Nam còn phức tạp và gay
gắt hơn. Sự phức tạp này được lý giải với nhiều nguyên nhân khác nhau như: do
hậu quả của chiến tranh kéo dài, do các chiến dịch như “chiến tranh hoá học” mà
đế quốc Mỹ gây ra đã huỷ hoại môi trường tự nhiên, do xuất phát điểm là một
nước có nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu nên chưa đáp ứng được các yêu cầu cấp
bách cần phải xử lý của nhiều hiện tượng ô nhiễm môi trường. Trong khi đó dân
số ngày càng đông mà ý thức bảo vệ môi trường của phần lớn người dân còn
kém; thêm vào đó những năm trước đây, pháp luật của nước ta còn chưa thực sự
định hướng, kiểm soát cần thiết đối với hoạt động của con người trong môi
trường… mà trong đó, một nguyên nhân nổi bật ảnh hưởng sâu sắc đến môi
trường đó là quá trình đẩy mạnh thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước của Việt Nam chưa có sự gắn kết chặt chẽ với việc bảo vệ môi trường.
Ở chừng mực nhất định, công nghiệp hoá, hiện đại hoá là việc chuẩn bị
những điều kiện cần thiết về vật chất, kỹ thuật, con người, khoa học và công
20
nghệ và thúc đẩy sự chuyển dịch căn bản trong cơ cấu của nền kinh tế - từ cơ
cấu kinh tế nông nghiệp lạc hậu sang cơ cấu công nghiệp và dịch vụ, tạo cơ sở
vững chắc để tăng trưởng kinh tế hướng đến mục tiêu phồn thịnh, xây dựng tiền
đề vững chắc cho thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là vấn đề mang tính tất
yếu khách quan cần phải thực hiện ở nước ta. Nhưng công nghiệp hoá, hiện đại
hoá cũng chính là một trong những nguyên nhân chính gây sức ép đối với môi
trường sinh thái, là một trong những thách thức thời đại đối với bảo vệ môi
trường của đất nước. Để công nghiệp hoá, hiện đại hoá thành công cần huy động
mọi nguồn lực có sẵn của đất nước, trong đó nguồn tài nguyên thiên nhiên là
một trong những nguồn lực quan trọng, nhất là khi Việt Nam vốn là một nước
nghèo, tiềm lực kinh tế còn nhỏ bé, trình độ dân trí chưa cao, chưa đều nên tài
nguyên thiên nhiên lại càng là nguồn lực có ý nghĩa đặc biệt trong việc thực hiện
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Bên cạnh đó, công nghiệp hoá, hiện đại hoá không chỉ tăng nhanh về quy
mô mà phạm vi của nó cũng ngày càng mở rộng. Ngoài các trung tâm lớn như
Hà Nội- Hải Phòng- Quảng Ninh; thành phố Hồ Chí Minh - Biên Hoà - Vũng
Tàu; Huế - Đà Năng - Quy Nhơn - Nha Trang, còn xuất hiện nhiều thành phố
mới, nhiều khu công nghiệp, khu chế xuất mới mà trước đây là vùng xa xôi hẻo
lánh. Quy mô và phạm vi công nghiệp hoá, hiện đại hoá càng lớn đòi hỏi các
nguồn tài nguyên thiên nhiên càng nhiều, dẫn đến môi trường tự nhiên càng bị
khai thác mạnh hơn, đồng thời môi trường sống cũng bị ô nhiễm nặng nề hơn.
Trong khi đó, mặc dù những năm 60 của thế kỷ XX, chúng ta đã nói đến hoặc đã
tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá song cho đến nay, do nhiều nguyên
nhân mà Việt Nam vẫn chưa phải là một nước công nghiệp. Nếu chỉ xét về các
chỉ tiêu kinh tế, nước ta vẫn là một nước chậm phát triển, đặc biệt là trong lĩnh
vực sản xuất công nghiệp và trình độ công nghệ.
Theo như báo cáo của Bộ trưởng Bộ Khoa học - Công nghệ - Môi trường
năm 1995 (nay là Bộ Khoa học - Công nghệ): Công nghệ Việt Nam lạc hậu so
với các nước tiên tiến trên thế giới trung bình từ 50 đến 100 năm, còn thiết bị
của chúng ta so với các nước tiên tiến trung bình lạc hậu từ 2 đến 3 thế hệ hoặc
21
từ 4 đến 5 thế hệ tuỳ theo từng lĩnh vực, chuyên ngành, và được hình thành nên
từ nhiều nguồn khác nhau. Hệ số cơ giới hoá trong các lĩnh vực sản xuất công
nghiệp của Việt Nam chỉ đạt 50% so với thế giới, tức là còn ở “giai đoạn đầu
của cơ giới hoá”, tỷ lệ tự động hoá không đáng kể; nhiều khâu lao động trong
công nghiệp còn thủ công, trong nông nghiệp thì các khâu chủ yếu vẫn là thủ
công. Tuy công nghệ lạc hậu như vậy nhưng hệ số đổi mới công nghệ hàng năm
chỉ đạt 8 - 10 %. Đồng thời với tình trạng đó, trong quá trình quy hoạch phát
triển công nghiệp hoá, hiện đại hoá do thiếu sự tính toán, cân nhắc nên phân bố
xây dựng và phát triển chưa hợp lý giữa các vùng, miền, khu dân cư đã kéo theo
đó là một loạt các hậu quả cho môi trường như tình trạng xây dựng nhà máy,
khu công nghiệp ngay giữa nơi dân cư đông đúc… Sự bất cập, không đồng bộ,
quá lạc hậu của công nghệ, trình độ quản lý yếu kém và chưa biết khai thác, tận
dụng tiềm năng con người, đặc biệt là nguồn tiềm năng trí tuệ cộng với các thực
trạng nói trên đã dẫn đến nhiều hậu quả tiêu cực cho nền kinh tế, cho cuộc sống
con người và cho môi trường sinh thái. Nhìn chung năng suất lao động công
nghiệp nước ta chỉ đạt 30% mức trung bình của thế giới, năng suất lao động
nông nghiệp lại càng thấp hơn, mức độ hao phí năng lượng và nguyên vật liệu
quá lớn, thường là từ 50% trở nên. Bởi vậy đến nay công nghiệp của nước ta còn
ở trình độ thấp, nhưng nhiều nguồn tài nguyên đã bị khai thác đến cạn kiệt do
khai thác quá nhiều song lại ít nuôi dưỡng, bảo vệ các nguồn tài nguyên hiện có,
và công nghệ lại lạc hậu nên hiệu quả sử dụng thấp; mặt khác các chất thải độc
hại của quá trình sản xuất thường không được xử lý triệt để hoặc không được xử
lý đã đưa thẳng vào môi trường, gây bệnh tật cho con người và ô nhiễm nặng nề
môi trường sinh thái.
Sự khai thác ngày càng nhiều, thiếu quy hoạch với các công nghệ khai
thác giản đơn dẫn đến cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên, phá huỷ đa dạng
sinh học và môi trường sinh thái. Sự khai thác khoáng sản (thường ở vùng rừng
núi), sự khai thác quá mức các sản phẩm của rừng (đặc biệt là gỗ) cho sản xuất
công nghiệp và sinh hoạt, việc phá rừng để trồng cây công nghiệp phục vụ xuất
22
khẩu…. khiến cho rừng đầu nguồn bị triệt phá và hậu quả là lũ lụt, hạn hán xảy
ra ngày một dày đặc hơn, sức tàn phá cũng nặng nề hơn.
Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá trước hết là sự phát triển mạnh
mẽ của các ngành công nghiệp, các khu công nghiệp. Do nhiều nguyên nhân
khác nhau (ý thức thiếu trách nhiệm với môi trường của các nhà đầu tư, khả
năng hạn chế về vốn đầu tư cho xử lý chất thải, sự thiếu hoặc chưa đồng bộ và
tính thực thi hạn chế của hệ thống pháp luật về môi trường…) đã khiến cho các
chất thải công nghiệp (khí, rắn, lỏng) không được xử lý hoặc xử lý “qua loa” đã
trực tiếp thải ra môi trường. Vì vậy, cùng với quá trình công nghiệp hoá, hiện
đại hoá là quá trình môi trường tự nhiên ngày càng bị ô nhiễm (không khí, đất,
nguồn nước, tiếng ồn…)
Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá sự phát triển của các ngành
dịch vụ (thương mại, du lịch, y tế…) cũng là một tác nhân quan trọng gây ô
nhiễm môi trường ở các nước đang phát triển.
Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá bao hàm cả sự phát triển của nền
nông nghiệp hàng hoá năng suất cao. Trong rất nhiều trường hợp, năng suất cao
lại do sử dụng các loại phân vô cơ, các loại thuốc trừ sâu, diệt cỏ… vì vậy, ô
nhiễm môi trường đất, nước và cả không khí ở các vùng nông nghiệp là tất yếu.
Tác hại hơn là không ít sản phẩm nông nghiệp bị ô nhiễm, ảnh hưởng nghiêm
trọng đến sức khoẻ của người tiêu dùng.
Đô thị hoá là quá trình song hành với công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Thực
tế cho thấy, ở các nước đang phát triển, quá trình đô thị hoá cũng chính là quá
trình dẫn đến suy thoái, ô nhiễm môi trường do ý thức người dân vùng đô thị
mới (phần lớn là cư dân vùng nông thôn di cư tới), do yếu kém trong quy hoạch
xây dung đô thị, do khả năng về nguồn lực xử lý môi trường đô thị của chính
quyền còn nhiều hạn chế.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá tất yếu dẫn đến thu nhập và đời sống người
dân được nâng cao. Điều đó cũng có nghĩa là tiêu dùng cũng tăng lên, cũng có
nghĩa là các chất phát thải từ tiêu dùng hàng ngày cũng gia tăng nhanh chóng,
23
trong nhiều trường hợp vượt quá khả năng xử lý. Chính vì vậy, ô nhiễm môi
trường ngày càng tăng lên là khó tránh khỏi.
Tóm lại, công ngiệp hoá, hiện đại hoá có tác động hai mặt đến môi trường
sinh thái. Những tác động tích cực là rất to lớn, nhưng những tác động tiêu cực
cũng rất nghiêm trọng và hậu quả cũng hết sức nặng nề nếu không có các giải
pháp hữu hiệu để khắc phục, hạn chế những tác động xấu này.
1.1.3. Nội dung, nguyên tắc, công cụ của bảo vệ môi trường sinh thái
trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Sự phân tích về tác động qua lại giữa công nghiệp hoá, hiện đại hoá với
môi trường sinh thái, về vai trò của môi trường trong quá trình phát triển bền
vững đã cho thấy sự cần thiết khách quan của bảo vệ môi trường sinh thái trong
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
1.1.3.1. Nội dung
Hoạt động bảo vệ môi trường là hoạt động giữ cho môi trường được trong
lành, sạch đẹp, phòng ngừa và hạn chế tác động xấu đối với môi trường, ứng
phó sự cố môi trường; Khắc phục ô nhiễm, suy thoái, phục hồi và cải thiện môi
trường; Khai thác, sử dụng hợp lý và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, Bảo vệ đa
dạng sinh học. Đó vừa là mục tiêu vừa là nội dung cơ bản của hoạt động bảo vệ
môi trường sinh thái ở bất kỳ quốc gia nào.
Đối với Việt Nam hiện nay, những hoạt động bảo vệ môi trường được
khuyến khích là :
- Tuyên truyền giáo dục và vận động mọi người tham gia bảo vệ môi
trường, giữ gìn vệ sinh môi trường, bảo vệ cảnh quan thiên nhiên và đa dạng
sinh học.
- Bảo vệ, sử dụng hợp lý và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên.
- Giảm thiểu, thu gom, tái chế và sử dụng chất thải.
- Phát triển, sử dụng năng lượng sạch và năng lượng tái tạo; giảm thiểu
khí thải gây hiệu ứng nhà kính, phá huỷ tầng ôzôn.
24
- Đăng ký cơ sở đạt tiêu chuẩn môi trường, sản phẩm thân thiện với môi
trường.
- Nghiên cứu khoa học, chuyển giao, ứng dụng công nghệ xử lý, tái chế
chất thải, công nghệ thân thiện với môi trường.
- Đầu tư xây dựng các cơ sở sản xuất thiết bị, dụng cụ bảo vệ môi trường;
sản xuất, kinh doanh các sản phẩm thân thiện với môi trường; cung cấp dịch vụ
bảo vệ môi trường.
- Bảo tồn và phát triển nguồn gen bản địa; lai tạo, nhập nội các nguồn gen
có giá trị kinh tế và có lợi cho môi trường.
- Xây dựng thôn, làng, ấp, bản, buôn, phum, sóc, cơ quan, cơ sở sản xuất,
kinh doanh, dịch vụ thân thiện với môi trường.
- Phát triển các hình thức tự quản và tổ chức hoạt động dịch vụ giữ gìn vệ
sinh môi trường của cộng đồng dân cư.
- Hình thành nếp sống, thói quen giữ gìn vệ sinh môi trường, xoá bỏ hủ
tục gây hại đến môi trường.
- Đóng góp kiến thức, công sức, tài chính cho hoạt động bảo vệ môi
trường.
1.1.3.2. Nguyên tắc
Các nhà môi trường đã đề ra 8 nguyên tắc về quản lý và bảo vệ môi
trường sau đây:
1. Tôn trọng và quan tâm đến cuộc sống cộng đồng.
2. Cải thiện chất lượng cuộc sống con người.
3. Bảo vệ cuộc sống và tính đa dạng của trái đất.
4. Hạn chế đến mức thấp nhất việc làm suy giảm tài nguyên không tái
sinh.
5. Giữ vững trong khả năng chịu đựng được của trái đất.
6. Để cho cộng đồng tự quản lý lấy môi trường của mình.
25
7. Tạo ra một khuôn quốc gia thống nhất, thuận lợi cho việc phát triển
và bảo vệ môi trường.
8. Xây dựng một khối liên minh toàn cầu trong bảo vệ môi trường.
Đây là các nguyên tắc chi phối hoạt động quản lý, bảo vệ môi trường ở
bất kỳ quốc gia nào.
Với đặc điểm là một nước đang trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá và chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, bảo vệ môi
trường ở Việt Nam dựa trên những nguyên tắc cơ bản sau đây :
1. Bảo vệ môi trường phải gắn kết hài hoà với phát triển kinh tế và
đảm bảo tiến bộ xã hội để phát triển bền vững đất nước. Bảo vệ môi
trường quốc gia phải gắn với bảo vệ môi trường khu vực và toàn
cầu.
2. Bảo vệ môi trường là sự nghiệp của toàn xã hội, quyền và trách
nhiệm của cơ quan nhà nước, tổ chức, hộ gia đình và cá nhân.
3. Hoạt động bảo vệ môi trường phải thường xuyên lấy phòng ngừa là
chính, kết hợp với khắc phục ô nhiễm, suy thoái và cải thiện chất
lượng môi trường.
4. Bảo vệ môi trường phải phù hợp với quy luật, đặc điểm tự nhiên,
văn hoá, lịch sử, trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước
trong từng giai đoạn.
5. Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân gây ô nhiễm suy thoái môi trường có
trách nhiệm khắc phục bồi thường thiệt hại và chịu trách nhiệm
theo quy định của pháp luật [20, tr.3].
1.1.3.3. Công cụ của bảo vệ môi trường sinh thái trong quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá
Công cụ pháp luật và chính sách:
Đây là công cụ quản lý vĩ mô bao gồm các văn bản về luật quốc tế và luật
quốc gia, các văn bản dưới luật...công cụ này còn được gọi là công cụ pháp lý.
26
- Quy hoạch, kế hoạch hoá bảo vệ môi trường: Đảm bảo tính đồng bộ, cân
đối mục tiêu và nguồn lực, gắn chặt với chính sách đầu tư và phát triển.
- Về pháp luật: Thông thường hệ thống pháp luật bảo vệ môi trường của
một quốc gia bao gồm hai bộ phận chính là luật chung và luật sử dụng hợp lý
các thành phần của môi trường hoặc bảo vệ môi trường cụ thể ở một địa
phương. Luật chung gọi là Luật Bảo vệ môi trường, còn luật biển, rừng, đất đai,
khoáng sản... là các luật thành phần của môi trường.
Luật Bảo vệ môi trường của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
được Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 29 tháng 11 năm 2005, có
hiệu lực từ ngày 01 tháng 07 năm 2006, thay cho Luật bảo vệ môi trường năm
1993.
- Về chính sách: Chính sách bảo vệ môi trường là công cụ chỉ đạo toàn bộ
hoạt động bảo vệ tài nguyên và môi trường trên phạm vi lãnh thổ rộng lớn như
một vùng hoặc một quốc gia trong thời gian dài (10 đến 15 năm trở lên). Chính
sách phải nêu lên mục tiêu và định hướng lớn để thực hiện mục tiêu, chính sách
phải hợp lý, có cơ sở vững chắc về khoa học và thực tiễn.
Công cụ kinh tế:
Công cụ kinh tế (hay còn gọi là công cụ thị trường hay các cách tiếp cận
thị trường) đang ngày càng được nhiều nước sử dụng. Đây chính là sử dụng sức
mạnh của thị trường để bảo vệ môi trường, đảm bảo cân bằng sinh thái. Công cụ
kinh tế là những chính sách, biện pháp nhằm thay đổi chi phí và lợi ích của
những hành động kinh tế thường xuyên tác động tới môi trường, tăng cường ý
thức, trách nhiệm trước việc gây ra huỷ hoại môi trường. Công cụ kinh tế gồm
nhiều loại, sau đây là một số loại chính để phân biệt ranh giới giữa các công cụ
kinh tế và các công cụ chính sách khác:
- Ngân sách bảo vệ môi trường: bao gồm chi phí của Nhà nước và các
giới kinh doanh; Quỹ bảo vệ môi trường; Thuế, phí và lệ phí môi trường, tài
nguyên...
- Chương trình thương mại - môi trường: giấy phép phát thải/xả thải; Tín
hiệu giảm phát thải; Tiền trợ cấp tiêu thụ hoặc sản xuất.
27
- Động cơ tài chính: Chuyển nhượng; Kỳ phiếu vay và cho vay; Trợ cấp
tỷ lệ lãi suất; Giảm thuế/ phí.
- Hệ thống đặt cọc - hoàn trả.
- Trợ cấp tài chính: để nghiên cứu khoa học, áp dụng kỹ thuật, phục hồi
rừng, bảo vệ động vật hoang dã....
- Đầu tư cho bảo vệ môi trường: Từ ngân sách Nhà nước; Đầu tư của
nước ngoài như vốn ODA, FBI... Đầu tư trong nước như huy động vốn trong
cộng đồng dân cư, mọi thành phần kinh tế…
- Thưởng, phạt về môi trường: Hàng năm có các giải thưởng cho những
người, cơ quan, ngành, địa phương…làm tốt công tác bảo vệ môi trường. Đồng
thời, phạt nặng hay truy tố đối với các hành vi làm ô nhiễm môi trường, xâm
phạm, huỷ hoại tài nguyên.
- Cơ chế thị trường khác: Nhãn sinh thái (nhãn xanh); Bảo hiểm môi
trường; Tín phiếu xanh; Xổ số; Thu một phần lệ phí từ triển lãm, thi hoa hậu,
thế vận hội...
Công cụ kỹ thuật quản lý.
Đây là công cụ thực hiện vai trò kiểm soát và giám sát của Nhà nước về
chất lượng và thành phần môi trường, về sự hình thành và phân bố ô nhiễm
trong môi trường và có tác dụng hỗ trợ hai công cụ nói trên. Công cụ này có thể
thực hiện thành công trong bất kỳ nền kinh tế nào, bao gồm các biện pháp chính
sau đây:
- Thông tin dữ liệu tài nguyên và môi trường.
- Tổ chức bộ máy quản lý.
- Kế toán và kiểm toán môi trường.
- Quản lý tai biến môi trường.
- Đánh giá tác động môi trường.
- Nghiên cứu và triển khai khoa học kỹ thuật công nghệ.
- Thanh tra, kiểm tra, giám sát môi trường.
28
Công cụ giáo dục và truyền thông môi trường.
Bảo vệ môi trường là sự nghiệp của quần chúng, có huy động được toàn
dân tham gia thì công tác bảo vệ môi trường mới thành công. Vì vậy, giáo dục
và truyền thông môi trường có vai trò to lớn trong sự nghiệp bảo vệ môi trường
của mỗi quốc gia.
- Giáo dục môi trường là một quá trình thông qua các hoạt động giáo dục
chính quy và không chính quy nhằm giúp con người có thể hiểu biết, kỹ năng và
giá trị, tạo điều kiện cho họ tham gia vào phát triển một xã hội bền vững về sinh
thái.
- Truyền thông môi trường được hiểu là một quá trình trao đổi thông tin, ý
tưởng, tình cảm, suy nghĩ, thái độ giữa các cá nhân hoặc một nhóm người.
Truyền thông môi trường là một quá trình tương tác xã hội hai chiều nhằm giúp
cho những người liên quan hiểu được các yếu tố môi trường then chốt, mối quan
hệ phụ thuộc lẫn nhau và cách tác động vào các vấn đề liên quan một cách thích
hợp để giải quyết các vấn đề môi trường.
29
1.2. Kinh nghiệm của Trung Quốc về bảo vệ môi trường sinh thái
trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá
1.2.1. Thực trạng ô nhiễm môi trường ở Trung Quốc hiện nay
Một trong những mặt trái của phát triển kinh tế thần kỳ của Trung Quốc-
tốc độ tăng trưởng xấp xỉ 10% năm là vấn đề ô nhiễm môi trường ngày càng
nặng nề ảnh hưởng lớn đến sức khoẻ người dân và là hậu quả xấu tiềm tàng cho
nền kinh tế Trung Quốc sau này.
Tháng 8 - 2006, trong báo cáo của Phó Chủ tịch Uỷ ban thường vụ Quốc
hội Trung Quốc Sheng Huaren chỉ ra những con số đáng quan ngại về tình trạng
ô nhiễm môi trường ở Trung Quốc. Năm 2005, các nhà máy ở Trung Quốc thải
ra 25,5 triệu tấn Sulphur dioxide- hoá chất gây ra mưa axit, tăng 27% so với năm
2000, ô nhiễm từ các công xưởng và nhà máy điện tăng 9% năm. lượng Sulphur
dioxide phát ra cao gấp 2 lần mức độ an toàn. “Lượng Sulphur dioxide thải ra
cao cũng đồng nghĩa với việc 1/3 lãnh thổ Trung Quốc phải hứng chịu mưa axit,
gây nguy hại lớn cho đất và an toàn lương thực” 5 . Các con sông lớn đều bị ô
nhiễm nghiêm trọng. Hàng triệu người hiện đang thiếu nước sạch để uống. Sau
khi một loạt tai nạn công nghiệp xảy ra, nhiều sông ngòi bị nhiễm độc, không ít
thành phố phải ngừng hệ thống cấp nước, vấn đề bảo vệ môi trường trở thành
vấn đề nổi bật ở Trung Quốc.
Tháng 10 - 2006, cục phó Cơ quan Bảo vệ môi trường quốc gia Trung
Quốc (State Environmental Protection Administration - SEPA) Zhang Lijun
thông báo rằng 48,1% các thành phố Trung Quốc bị ô nhiễm không khí ở mức
trung bình và ở mức cao. Nguyên nhân chủ yếu là khí thải độc hại được thải vào
không khí do việc dùng nhiều than đá trong công nghiệp và sinh hoạt. tuy nhiên,
việc dùng than đá ở Trung Quốc trong những năm tới vẫn tiếp tục tăng mạnh.
Các chuyên gia dự báo đến năm 2010 nhu cầu than đá dùng trong nước của
Trung Quốc là 2,45 tỷ tấn, còn đến năm 2020 sẽ là 2,9 tỷ tấn. Như vậy đến năm
2010 sẽ là 35 triệu tấn Sulphur dioxide và năm 2020 là 43,5 triệu tấn chất thải
độc hại này sẽ được thải vào không khí.5
30
Ở các thành phố lớn của Trung Quốc, số lượng ô tô tăng tốc độ 10% trên
1 năm. Điều này làm tăng các khí thải khác lẫn khí Sulphur dioxide và làm tăng
hàm lượng chì trong khí quyển ở thành thị.
Tại Trung Quốc có tới 21.000 nhà máy hoá chất được đặt dọc theo các
con sông và ven biển. Trong đó có quá nửa nhà máy hoá chất được đặt dọc 2
con sông quan trọng nhất của Trung Quốc là Trường Giang (Dương Tử) và
Hoàng Hà- nguồn cung cấp nước chính của hàng triệu dân. Theo một quan chức
khác cũng là Cục phó Cục cơ quan bảo vệ môi trường quốc gia Trung Quốc, Pan
Yue cho rằng bùng nổ kinh tế làm tăng chất thải hoá học và các vụ hoá chất độc
hại tràn vào các con sông.
Ô nhiễm môi trường đã mang tới những hậu quả hết sức nặng nề.
Một là, ô nhiễm môi trường ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức khoẻ của
người dân. Tỷ lệ tử vong do bệnh phổi mãn tính, căn bệnh nguy hiểm gây tử
vong nhiều nhất ở Trung Quốc, lớn gấp 5 lần so với ở Mỹ. Những nghiên cứu
dịch tễ cho thấy sự chênh lệch của hàm lượng khí thải và Sulphur dioxide ở Bắc Kinh (300 Microgram/m3) và New York (50 Microgram /m3) liên quan đến tỷ lệ
tử vong do bệnh phổi mãn tính ở Bắc Kinh cao hơn 130% so với ở New York. ở
Bắc Kinh, 70 - 80% các ca ung thư phổi đều có liên quan đến môi trường. Ung
thư phổi đã trở thành nguyên nhân số 1 gây tử vong. Nếu ô nhiễm không khí
ngoài trời được giảm xuống mức chỉ tiêu mà chính phủ Trung Quốc đặt ra thì
trung bình mỗi năm có tới 178.000 người được cứu sống. Nếu giảm ô nhiễm
trong nhà xuống mức tương tự thì có 110.000 người nữa được cứu sống.
Ngân hàng thế giới (WB) đã báo động về nạn ô nhiễm ở Trung Quốc đạt
tới mức kinh khủng lượng Sulphur dioxide (SO2) và lượng hạt do xe cộ thải ra
nằm trong những nơi cao nhất thế giới. Theo tính toán nếu ô nhiễm môi trường
tiếp tục tăng theo đà này thì đến năm 2020 nạn ô nhiễm sẽ giết chết 600.000
người mỗi năm 5.
Hai là, ô nhiễm môi trường tác động tiêu cực đến nền kinh tế đất nước.
31
Những trận mưa axít, quá trình đô thị hoá,công nghiệp hoá và cơ khí hoá
trong hai thập kỉ qua với việc sử dụng nhiều nguồn năng lượng đã huỷ hoại
nghiêm trọng chất lượng nước và không khí ở Trung Quốc.
Theo bộ đất đai và Tài nguyên Trung Quốc, chỉ riêng tình trạng ô nhiễm
kim loại nặng đã khiến nước này mất 12 triệu tấn thóc mỗi năm, gây thiệt hại
khoảng 2,6 ty USD/năm. Theo đánh giá của các nhà nghiên cứu Trung Quốc và
nước ngoài thì thiệt hại kinh tế do ô nhiễm môi trường chiếm từ 3 - 7% GDP.
Một tài liệu khác chỉ ra rằng thiệt hại này còn hơn gấp đôi con số kể trên, lên tới
8 - 15% GDP 6, tr.35.
Ô nhiễm môi trường tại Trung Quốc không chỉ có tác động xấu tới đời
sống và phát triển kinh tế của nước này mà còn ảnh hưởng tới môi trường toàn
cầu nói chung.
Những nghiên cứu của các nhà khoa học thế giới và các tổ chức quốc tế
chỉ rõ tại Trung Quốc chỉ đứng sau Mỹ là nước có số lượng khí thải lớn nhất thế
giới. Đồng thời những nghiên cứu này cũng dự báo rằng đến năm 2010 và có thể
là ngay năm 2007 Trung Quốc sẽ vượt Mỹ trở thành nước có số lượng khí thải
gây hiệu ứng nhà kính lớn nhất thế giới.
1.2.2. Chiến lược bảo vệ môi trường của Trung Quốc
Những năm gần đây ô nhiễm môi trường trở thành một trong những vấn
đề được quan tâm hàng đầu trong chiến lược phát triển kinh tế của Trung Quốc.
Ngày 17 và 18 - 4 - 2006 tại Bắc Kinh đã diễn ra hội nghị toàn quốc bảo vệ môi
trường. Theo thủ tướng Ôn Gia Bảo, trong kế hoạch 5 năm lần thứ X (2001-
2005) đã đạt được nhiều mục tiêu phát triển kinh tế đất nước nhưng chưa đạt
được những chỉ số chính của việc bảo vệ môi trường. “Bảo vệ môi trường là
khâu yếu trong phát triển kinh tế - xã hội của Trung Quốc. Nguyên nhân chính
là của việc này chúng ta không chú ý đầy đủ đến việc bảo vệ môi trường, những
biện pháp tăng trưởng kinh tế tích cực, kiểm soát yếu kém việc thực hiện luật
bảo vệ tự nhiên”.
32
Trên thực tế, chiến lược bảo vệ môi trường đã được Trung Quốc tiến hành
từ những năm cuối thế kỷ XX. Bước sang thế kỉ XXI, công tác này được đẩy
mạnh hơn nhằm thực hiện thắng lợi những chỉ tiêu đặt ra theo kế hoạch 5 năm
lần thứ XI. Xuyên suốt quá trình thực hiện chiến lược bảo vệ môi trường của
Trung Quốc là hai trụ cột cơ bản:
Một là: Hành lang pháp lý thực hiện chiến lược bảo vệ môi trường.
Chính phủ Trung Quốc xác định để thực hiện tốt việc bảo vệ môi trường
trước hết phải có một hành lang pháp lý với những luật và chính sách cụ thể làm
nền tảng thực hiện công cuộc khó khăn này. Nhà nước đã ban hành “Luật bảo vệ
môi trường nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa”, coi đây là chủ thể của hệ
thống pháp luật và bảo vệ môi trường. Tháng 3 - 1994, Chính phủ Trung Quốc
đã phê chuẩn và ban hành “Sách trắng về phát triển và dân số, bảo vệ môi
trường”.
Trong quá trình thực hiện Luật Môi trường. Trung Quốc nhận ra rằng việc
lơ là trong bảo vệ môi trường và không tuân thủ nghiêm ngặt Luật Môi trường là
một trong những nguyên nhân làm cho ô nhiễm môi trường ở Trung Quốc ngày
càng trầm trọng.
Những sai lệch trên đã được chấn chỉnh. Ngày 14 - 3 - 2006 tại cuộc họp
báo nhân kết thúc kỳ họp thứ 4 khoá X Quốc hội Trung Quốc, Thủ tướng Quốc
vụ viện Trung Quốc Ôn Gia Bảo nói Trung Quốc cần những biện pháp thực tiễn
trong cuộc đấu tranh chống ô nhiễm môi trường, không nên theo nối cũ là gây ô
nhiễm môi trường rồi sau đó mới xử lý: “Chúng ta nên dành những dãy núi xanh
và nước sạch cho con cháu chúng ta”.
Thủ tướng cho rằng trong thời gian tới thay vì chỉ tập trung phát triển kinh
tế, Trung Quốc cần chú ý bảo tồn năng lượng và bảo vệ môi trường. Trung Quốc
sẽ thắt chặt việc thi hành luật và bảo vệ môi trường song song với luật; sẽ thi
hành nghiêm ngặt chính sách công nghiệp, đặc biệt là xử lý từng bước ô nhiễm
nước, không khí và đất. Những doanh nghiệp tiêu thụ nhiều năng lượng và gây ô
nhiễm sẽ bị phạt, nếu nặng sẽ bị đóng cửa.
33
Hai là: Những biện pháp cụ thể thực hiện chiến lược bảo vệ môi trường.
Bước sang kế hoạch 5 năm lần thứ XI (2006 - 2010), vấn đề bảo vệ môi
trường được đẩy lên là một trong những nhiệm vụ quan trọng của kế hoạch nhà
nước. Hai hướng chính trong những biện pháp cụ thể thực hiện chiến lược bảo
vệ môi trường là:
Tăng cường hoàn thiện ngành bảo vệ môi trường.
Ngành bảo vệ môi trường ở Trung Quốc xếp vào lĩnh vực ưu tiên và dành
cho ngành những chính sách ưu đãi trong các lĩnh vực đầu tư, giá cả, thuế.v.v.
Hiện nay, Trung Quốc có hơn 100 nghìn đơn vị chuyên trách hoặc bán chuyên
trách về bảo vệ môi trường trong đó có hơn 8500 doanh nghiệp, hơn 1500 đơn vị
sự nghiệp (Bao gồm các Viện, Sở nghiên cứu khoa học…) với hơn 1,8 triệu
người làm việc. Tổng giá trị của ngành bảo vệ môi trường là 108 tỷ NDT, có tài
sản cố định trị giá là 45,011 tỷ NDT, tổng giá trị sản lượng hàng năm là31,248
NDT lợi nhuận là 4,091 tỷ NDT, mức tăng trưởng hàng năm của ngành bảo vệ
môi trường là 15%.
Trung Quốc đã thực thi 4 biện pháp cụ thể lớn nhằm phát triển ngành bảo
vệ môi trường.
1, Thiết lập và hoàn thiện chính sách cho ngành bảo vệ môi trường. Nhà
nước công bố danh mục khuyến khích phát triển ngành; thiết lập và hoàn thiện
chính sách ưu đãi, miễn giảm thuế, sử dụng tổng hợp tài nguyên; xây dựng và
hoàn thiện chế độ thu phí xử lý rác, nước thải thành phố, điều chỉnh tiêu chuẩn
thu phí xử lý rác thích hợp để thoả mãn nhu cầu vận chuyển và xây dựng công
trình xử lý rác, nước thải thành phố. Các vùng có điều kiện phải xây dựng quỹ
phát triển cho ngành bảo vệ môi trường.
2, Đẩy nhanh việc phát triển khoa học kỹ thuật bảo vệ môi trường, đưa
những vấn đề khoa học công nghệ lớn của ngành bảo vệ môi trường vào trong
kế hoạch đầu tư thường niên; tăng cường xây dựng năng lực kỹ thuật mới cho
doanh nghiệp bảo vệ môi trường, tăng cường đầu tư vào sáng tạo kỹ thuật mới;
thúc đẩy hơn nữa việc kết hợp "nghiên cứu khoa học với sản xuất"… Lấy nội
34
địa hoá trang thiết bị và công nghệ then chốt của ngành bảo vệ môi trường làm
nội dung quan trọng trong kế hoạch sáng tạo kỹ thuật mới của Nhà nước.
3, Tăng cường quản lý, giám sát, bồi dưỡng và chuẩn hoá thị trường
ngành bảo vệ môi trường. Nhà nước đã chỉ đạo các cấp, các ngành vận dụng
tổng hợp các biện pháp kinh tế, pháp luật và hành chính cần thiết để xây dựng
một thị trường bảo vệ môi trường thống nhất, mở cửa, cạnh tranh lành mạnh và
có trật tự.
4, Nghiên cứu xây dựng cơ chế phát triển ngành bảo vệ môi trường phù
hợp với yêu cầu của thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa.
Những biện pháp cụ thể khác nhằm thực hiện chiến lược bảo vệ
môi trường.
Trong kế hoạch phát triển kinh tế xã hội Trung Quốc 5 năm lần thứ XI,
Trung Quốc đặt ra những nhiệm vụ môi trường chủ yếu: giảm bớt sử dụng năng
lượng theo đơn vị GDP xuống 20% so với cuối kế hoạch 5 năm lần thứ X, hạn
chế 10% chất thải độc hại và tăng diện tích che phủ rừng từ 18,2% lên 20% diện
tích đất trước.
Để thực hiện những mục tiêu này, chương trình hành động vì môi trường
của Trung Quốc trong những năm kế hoạch 5 năm lần thứ XI và sau đó sẽ tập
trung vào 3 giải pháp chính là thúc đẩy các lực lượng thị trường, khuyến khích
đầu tư vào công nghệ sản xuất sạch và thực hiện chính sách điều tiết hiệu quả.
1.2.3. Triển vọng của chiến lược bảo vệ môi trường ở Trung Quốc
Việc thực thi chiến lược bảo vệ môi trường trong những năm đầu thế kỷ
XXI của Trung Quốc đã đạt được những thành quả nhất định.
Trước hết, Chính phủ Trung Quốc đã làm thay đổi được nhận thức của
các nhà hoạch định chính sách, các nhà làm kinh tế cũng như của đa phần người
dân trong nước hiểu rõ về thực trạng ô nhiễm môi trường trầm trọng mà đất
nước phải đối đầu. Từ đó nhiều người dân đã cùng có ý thức trong việc bảo vệ
môi trường xung quanh. Chiến lược chống ô nhiễm môi trường ở Trung Quốc
được thực hiện một cách khoa học, trước hết là xây dựng được quan điểm, sau
35
đó là thống nhất được chủ trương, chính sách và các phương pháp được tiến
hành một cách cụ thể.
Việc Trung Quốc thực thi chiến lược bảo vệ môi trường của mình không
chỉ làm thay đổi điều kiện trong nước mà có ảnh hưởng lớn đến nhiều nước khác
trên thế giới và trong khu vực. Trong thời gian tới, việc thực hiện chiến lược bảo
vệ môi trường của Trung Quốc sẽ có những thuận lợi như:
- Trung Quốc có được sự đồng thuận về quan điểm, chủ trương chính sách
và lòng dân trong việc thực thi chiến lược bảo vệ môi trường của mình. Tất cả
mọi thành phần xã hội đều được huy động để thực hiện những mục tiêu cụ thể
mà Chính phủ đề ra để bảo đảm chống ô nhiễm môi trường.
- Trung Quốc đã và đang trở thành một cường quốc về kinh tế. Tiềm lực
kinh tế hiện nay với dự trữ ngoại tệ đạt trên 120 tỷ USD cho phép Trung Quốc
thực hiện những dự án bảo vệ môi trường lớn có lợi nhất cho mình dựa trên cơ
sở kinh tế.
- Những kinh nghiệm và bài học thành công và chưa thành công mà
Trung Quốc rút ra được trong suốt những năm cuối thế kỷ XX và đầu thế kỷ
XXI vừa qua trong việc thực hiện chiến lược trên.
Tuy nhiên, Trung Quốc vẫn phải đối mặt với những thách thức mới đến từ
nhiều phía trong việc bảo vệ môi trường. Đó là:
- Mâu thuẫn giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường. Để đạt tốc độ
tăng trưởng kinh tế theo mục tiêu đề ra, trung Quốcc cần nhiều nguồn lực khác
nhau trong đó có việc sử dụng ngày càng nhiều các nguồn nguyên liệu, chủ yếu
là các nguồn truyền thống như than đá. Việc sử dụng hoá chất trong công nghiệp
dầu khí và lọc dầu vẫn phải tiếp tục. Để đảm bảo phát triển kinh tế, trong tương
lai Trung Quốc sẽ vẫn phải duy trì các nguồn năng lượng có nguy cơ gây ô
nhiễm môi trường cao, tạo khí thải hiệu ứng nhà kính.
- Sự chênh lệch về khả năng đáp ứng trong nước đối với yêu cầu quốc tế.
Trước dư luận Thế giới đòi hỏi Trung Quốc cắt giảm khí thải gây ô nhiễm môi
36
trường, hiệu ứng nhà kính...với khả năng hiện có của mình, Trung Quốc không
thể đáp ứng được những yêu cầu đó.
Trong hai mươi năm đầu thế kỷ XXI, Trung Quốc tiếp tục đẩy mạnh
chiến lược chống ô nhiễm môi trường, đòi hỏi Chính phủ và nhân dân Trung
Quốc tìm ra những phương pháp mới phù hợp hơn, hiệu quả hơn, một mặt duy
trì tốc độ phát triển kinh tế của mình, mặt khác nâng dần khả năng và trình độ
Trung Quốc ngang bằng với những tiêu chí của cộng đồng quốc tế.
Là một nước có rất nhiều đặc điểm tương đồng với Trung Quốc trong quá
trình thực hiện công nghiệp hoá, hiệnđại hoá, Việt Nam có thể vận dụng nhiều
kinh nghiệm của Trung Quốc về xây dựng và thực hiện chiến lược bảo vệ môi
trường sinh thái vào điều kiện cụ thể của đất nước. Đó là kinh nghiệm trong xây
dựng hành lang pháp lý bảo vệ môi trường sinh thái, trong xác định và thực hiện
có hiệu quả tổng thể các biện pháp bảo vệ môi trường sinh thái.
37
Chương 2
THỰC TRẠNG MÔI TRƯỜNG SINH THÁI
VÀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG SINH THÁI TRONG QUÁ TRÌNH
CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ Ở VIỆT NAM
2.1. Thực trạng môi trường sinh thái trong quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá
Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã mang lại những tác động tích
cực đối với môi trường như đã được phân tích tổng quát ở phần trên. Trong công
nghiệp, việc phát triển các khu công nghiệp, cụm công nghiệp tập trung đã tạo
điều kiện thuận lợi hơn cho việc xử lý các vấn đề môi trường. Việc thay xăng
không chì đã góp phần giảm 9/10 lượng chì trong không khí tại các đô thị, được
cộng đồng đánh giá cao. Công nghiệp đã bước đầu có những điều chỉnh thông
qua chương trình xử lý và di dời nhằm giảm các cơ sở gây ô nhiễm nghiêm
trọng tại các khu đô thị, khu dân cư. Phát triển công nghiệp theo hướng xuất
khẩu cũng góp phần không nhỏ vào cải thiện môi trường sinh thái do phải thực
hiện những định chế quốc tế về môi trường, vệ sinh và sức khoẻ.
Các chương trình phát triển nông nghiệp nông thôn theo hướng công
nghiệp hoá, hiện đại hoá cũng mang lại những hiệu ứng tích cực đối với môi
trường sinh thái. Đó là các chương trình nước sạch và vệ sinh môi trường ở nông
thôn; chương trình công nghệ sinh học trong nông nghiệp; chương trình giao
đất, giao rừng; chương trình phủ xanh đất trống đồi núi trọc (chương trình
3.2.7), sau đó là chương trình 6.6.1 (thay thế chương trình 3.2.7); chương trình
khai thác chế biến và kinh doanh lâm sản; chương trình phát triển nuôi trồng
thuỷ hải sản thời kỳ 1999- 2010... Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đang tạo
những điều kiện tiền đề cho bảo vệ, cải thiện môi trường sinh thái cả về tài
chính, công nghệ và nhân lực (đào tạo đội ngũ cán bộ có năng lực về phẩm chất
và chuyên môn cho bảo vệ môi trường, người dân với tác phong, kỷ luật, ý thức
cộng đồng có được trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá sẽ là nhân tố
38
đặc biệt quan trọng trong bảo vệ môi trường). Tuy nhiên , những tác động tích
cực của công nghiệp hoá, hiện đại hoá thời gian qua còn ở mức khiêm tốn, về
căn bản còn ở dạng tiềm năng, mang tính xu hướng và định tính. Những tác
động tiêu cực của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã và đang tăng lên cả
về quy mô, loại hình và hậu quả. Vì thế luận văn chỉ tập trung nghiên cứu những
tác động tiêu cực của sự phát triển các ngành đối với môi trường sinh thái trong
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam thời gian qua cùng những
hậu quả của nó.
2.1.1. Tác động của sự phát triển các ngành kinh tế trong quá trình
công nghiệp hoá hiện đại hoá đến môi trường sinh thái
2.1.1.1. Tác động của quá trình phát triển công nghiệp tới môi trường
Để thực hiện công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nền công
nghiệp nước ta phải duy trì giá trị gia tăng sản lượng ở mức hai con số. Điều này
tất yếu dẫn tới nhu cầu sử dụng năng lượng và nguyên vật liệu mà chủ yếu là do
khai thác khoáng sản và sử dụng nguyên liệu từ nông - lâm - thuỷ sản sẽ phải
tăng theo tương ứng.
Hiện nay tiêu thụ khoảng 3.5 đến 4 triệu tấn than/năm và phải nhập khẩu
khoảng 2.5 triệu tấn xăng dầu/năm. Dự kiến đến năm 2010 mức tiêu thụ năng
lượng ở nước ta sẽ tăng gấp 2 lần hiện nay. Trong công nghiệp giấy, hiện nay
nước ta đang sản xuất được khoảng 170 nghìn tấn bột giấy và 190 nghìn tấn
giấy. Để đáp ứng nhu cầu nguyên liệu phục vụ cho sản xuất số sản phẩm đó, cần
phải khai thác từ 70 - 80 nghìn ha rừng tre, nứa, gỗ mỗi năm. Như vậy phải tiến
hành trồng từ 10 đến 17 năm trước mới có rừng để khai thác hôm nay.
Thực tế cho thấy, để phát triển công nghiệp và xuất khẩu, tài nguyên thiên
nhiên đang bị khai thác một cách tối đa và tính chất lãng phí trong khai thác, sử
dụng bộc lộ hết sức rõ nét.
Nhìn chung, nhiều ngành công nghiệp chủ lực của Việt Nam hiện nay là
những ngành công nghiệp thâm dụng tài nguyên. Cụ thể là các ngành khai thác
năng lượng, khoáng sản (dầu, than, điện, quặng các loại), ngành công nghiệp sản
39
xuất phân bón, hoá chất, xi măng, nhựa; ngành công nghiệp khai thác chế biến
gỗ và các sản phẩm lâm sản; ngành công nghiệp chế biến hải sản, cao su và các
loại nông thổ sản; ngành công nghiệp sản xuất giấy, diêm; ngành công nghiệp
sản xuất vật liệu xây dựng; ngành công nghiệp cơ khí, luyện kim; ngành công
nghiệp sản xuất mía đường; ngành công nghiệp thuộc da và một số ngành sản
xuất đồ gia dụng khác.
Nguồn lực thuỷ hải sản là một trong những nguồn tài nguyên của nước ta,
có ý nghĩa quan trọng trong phát triển công nghiệp chế biến và đẩy mạnh xuất
khẩu. Ở nước ta hiện nay, do thiếu phương tiện đánh bắt xa bờ và cũng do việc
đánh bắt gần bờ dễ dàng, chi phí ít hơn, thu lợi nhuận trước mắt cao hơn nên
việc các doanh nghiệp đánh bắt hải sản của quốc doanh và tư nhân, ngư dân đều
chủ yếu diễn ra gần bờ. Vùng biển gần bờ là vùng tập trung chủ yếu các loại cá
con, là bãi đẻ chính của nhiều loại cá và hải sản khác. Cường độ khai thác ở khu
vực này quá lớn, nhiều nơi mức khai thác đã vượt quá giới hạn cho phép gây ảnh
hưởng xấu đến nguồn lợi. Trong nhiều trường hợp, người ta còn dùng các
phương tiện đánh bắt cá mang tính huỷ diệt như mìn, xung điện…
Những hiện tượng trên đã làm cho nguồn lợi biển của nước ta đang trên
đà cạn kiệt nhanh chóng. Việc nuôi trồng tôm và các loại hải sản khác để xuất
khẩu trong vài năm qua cũng đang gia tăng. Nhưng do việc quy hoạch các bãi và
vùng chăn thả còn chưa hợp lý và đặc biệt là kỹ thuật nuôi trồng còn theo kiểu
quảng canh, không quan tâm đến việc bảo vệ môi trường cùng với việc chặt phá
rừng đước, rừng tràm một cách bừa bãi cũng làm cho diện tích rừng ngập mặn
trong tình trạng bị đe doạ nghiêm trọng, làm mất dần bình phong chống bão,
sóng biển và xói mòn ven bờ, khống chế lũ lụt, bãi đẻ, bãi nuôi các loại sinh vật
biển có giá trị cao. Nguồn cá và các loại thuỷ sản nước ngọt khác cũng đang bị
cạn kiệt nhanh chóng do tình trạng ô nhiễm đất, nước thải (đặc biệt là nước thải
công nghiệp), sử dụng tràn lan phân bón hoá học, thuốc trừ sâu, đánh bắt ồ ạt,
nhất là dùng các phương tiện mang tính chất huỷ diệt như xung điện hoặc thuốc
nổ.
40
Khoáng sản là tài nguyên không tái tạo được, vì vậy khi khai thác cần cân
nhắc cẩn trọng tránh lãng phí. Tuy nhiên với tình hình khai thác khoáng sản như
hiện nay thì nguy cơ thất thoát và mất mỏ là rất cao, hơn nữa còn đe doạ mất cân
bằng sinh thái. Theo tổng hợp gần đây, tỷ lệ tổn thất trong khai thác khoáng sản
rất cao, có nơi tới 50%.
Tổn thất trong khai thác than hầm lò là: 40 - 60% -
Tổn thất trong khai thác than lộ thiên là: 10 - 15% -
Tổn thất trong khai thác apatit là: 26 - 43% -
Tổn thất trong khai thác quặng kim loại là: 15 - 30% -
Tổn thất trong khai thác vật liệu xây dung là: 15 - 20% -
Tổn thất trong khai thác dầu khí là: 50 - 60% [3, tr.24] -
Trong chế biến khoáng sản, tổn thất cũng rất cao. Khoáng sản vàng là ví
dụ điển hình. Hiện tại, độ thu hồi quặng vàng trong chế biến (tổng thu hồi) chỉ
đạt 30 - 40%, có nghĩa là hơn một nửa thải ra ngoài bãi thải, không chỉ mất mát
to lớn về tài nguyên quý hiếm mà còn gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.
Hệ quả môi trường không mong muốn gia tăng cùng với quá trình công
nghiệp hoá. Sản xuất công nghiệp với quy trình lạc hậu kéo theo tỷ xuất phát
thải cũng cao hơn. Mức thải trung bình của các doanh nghiệp Việt Nam nhìn
chung cao hơn mức trung bình của khu vực và thế giới. Nước thải của các nhà máy giấy Việt Nam tính trên đơn vị sản phẩm đạt mức trên 500m3/1 tấn giấy, gấp 5 lần so với chỉ tiêu tương tự của thế giới (khoảng 100m3/1 tấn). Nước thải
của công nghiệp chế biến thực phẩm cũng cao gấp 3-4 lần. Phần lớn nước thải
công nghiệp chưa được xử lý (Theo thống kê của Bộ tài nguyên và môi trường,
năm 2005 có đến 95,74 nước thải chưa được xử lý thải trực tiếp ra môi trường)
đã huỷ hoại nghiêm trọng môi trường đất, không khí và nước- trường hợp công
ty Vedan là một điển hình, ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất nông nghiệp và đời
sống của cư dân. Công nghiệp phát thải cao, hơn nữa lại phân bố thiếu hợp lý
xen lẫn với khu dân cư đã đưa lại những hậu quả môi trường nặng nề ảnh hưởng
đến sinh hoạt cộng đồng.
41
Kèm theo sự gia tăng nhu cầu sử dụng năng lượng, nguyên liệu trong phát
triển công nghiệp thì lượng các chất phế thải trong công nghiệp, tiêu dùng cũng
tăng lên nhanh chóng ở cả 3 dạng vật chất (rắn, lỏng, khí). Các chất phế thải này
đã- đang và sẽ là hiểm hoạ đe doạ nghiêm trọng đối với môi trường sinh thái
nước ta. Đáng lưu ý là nước ta là một nước nông nghiệp, đang trong giai đoạn
chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nên
ngành công nghiệp nước ta đang trong giai đoạn xây dựng và phát triển để nước
ta căn bản trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020. Nền công nghiệp
nước ta hiện nay vẫn còn trong tình trạng kém phát triển với quy mô vừa và nhỏ
là chính, chưa có sự quy hoạch xây dựng ở những địa điểm thích hợp, phần lớn
đều phân bố tập trung tại khu vực đông dân cư, trung tâm đô thị. Thiết bị và
công nghệ sản xuất vừa cũ kĩ vừa lạc hậu với 80% thiết bị sản xuất thuộc thế hệ
những năm 1980. Gần đây một số xí nghiệp được trang bị khá hiện đại song
cũng chỉ đạt trình độ hiện đại trung bình của thế giới và chiếm khoảng 20%, chỉ
một số rất ít, không đáng kể thiết bị và công nghệ sản xuất đạt trình độ tiên tiến.
Có tới 80% nhà máy công nghiệp chưa có hệ thống xử lý chất phế thải, số còn
lại có hệ thống xử lý chất phế thải nhưng chưa hoàn chỉnh. Nhiều nhà máy quy
tụ vào một số vùng và trùng với sự phân bố chung của nhà máy thuộc các nhóm
sản xuất công nghiệp khác nhau khiến cho mức độ ô nhiễm tại một nơi nào đó
(thường là các khu công nghiệp, khu chế xuất) càng tăng lên. Tình trạng ô nhiễm
môi trường do sản xuất công nghiệp đặc biệt nghiêm trọng, tập trung ở một số
đô thị, khu công nghiệp lớn. Thực tế cho thấy sự tập trung thái quá tại một số
điểm và thiếu các cân nhắc cần thiết, các tính năng công nghiệp thích hợp, đặc
biệt là ở vùng Đông Nam Bộ ( TP Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương...)
chiếm trên 50% giá trị công nghiệp cả nước đã tạo ra các vấn đề nóng về môi
trường, kéo theo các vấn đề xã hội bức xúc.
Tình trạng nước thải do sản xuất công nghiệp gây ô nhiễm môi trường nước ta
hiện đang là vấn đề nghiêm trọng và bức xúc. Ở Hà Nội có từ 100 - 150 nghìn m3
nước thải công nghiệp mỗi ngày không qua xử lý được xả trực tiếp xuống các sông
Kim Ngưu, Tô Lịch khiến cho nước ở các sông này bị ô nhiễm nặng. Với tốc độ phát
42
triển công nghiệp và thương mại như hiện nay thì ước tính sau 15 năm nữa, lượng
chất thải sẽ tăng lên gấp 10 lần hiện nay nếu không có giải pháp hữu hiệu và kịp thời.
Trong công nghiệp sản xuất giấy, ngay cả những nhà máy xí nghiệp lớn,
được trang bị công nghệ xử lý chất thải trong giai đoạn 1975 - 1980 như Bãi
Bằng, Cogido, Tân Mai cũng đã thải xuống sông một lượng độc tố (Lighin) có
hàm lượng cao và thải vào khí quyển H2, H2S, SO2, bụi Na2CO, CH3CH (Metyl
veercaptan),… với hàm lượng lớn hơn mức cho phép nhiều lần, gây nguy hại
cho môi trường và sức khoẻ cộng đồng.
Công nghiệp sản xuất mía đường, thuộc da cũng làm ô nhiễm môi trường
do lượng nước bùn, khí và chất thải rắn, những phế thải này không chỉ gây tác
hại cho môi trường dưới tác động hoá học mà còn cả tác động sinh học làm bẩn
môi trường (vi sinh vật lên men, gây thối).
Ngành khai thác than có những đóng góp to lớn vào sự phát triển kinh tế
nước ta trong những năm gần đây. Tuy nhiên, hậu quả để lại cho môi trường
cũng vô cùng nghiêm trọng, cần có sự đánh giá và phân tích khách quan để tìm
ra giải pháp khắc phục. Hiện nay trên địa bàn vùng mỏ Quảng Ninh có hơn 30
mỏ được khai thác hợp pháp (hầu hết số mỏ đó khai thác lộ thiên, chỉ có 9 mỏ
khai thác hầm lò). Nhiều mỏ trong số đó đã hoạt động từ thời Pháp thuộc và tiếp
tục được gia tăng cường độ khai thác. Hiện nay, theo quy định của Nhà nước
trước khi khai thác phải có báo cáo đánh giá tác động môi trường và sau khi khai
thác xong phải phủ lại các lớp đất mùn và trồng cây trên đó để hoàn lại cảnh
quan ban đầu. Quy trình công nghệ khai thác được quy định như vậy nhưng tất
cả các mỏ than tại Quảng Ninh đều không thực hiện đúng theo quy định. Do vậy
đã hình thành những bãi rác và núi thải đất đá khổng lồ. Hàng chục ha rừng và
đất canh tác bị xâm phạm và biến thành các bãi thải, núi thải khổng lồ, không
được che phủ cây xanh lên và không có sinh vật nào có thể sinh sống được với
bụi than, bụi cát cao gấp 10 đến 100 lần tiêu chuẩn cho phép. Sông Mông
Dương, Diên Vọng bị thu hẹp dòng chảy, nguồn nước sinh hoạt của thợ mỏ và
dân cư trong vùng bị ô nhiễm nặng nề. Qua điều tra, cứ 4000 người dân Quảng
43
Ninh khám bệnh thì có tới 2500 người mắc bệnh (trong đó 80% mắc bệnh bụi
phổi, hen phế quản, tai mũi họng) và tỷ lệ ung thư cũng ngày càng cao.
Trên vùng biển Quảng Ninh, lượng tàu vào lấy than ngày càng nhiều làm
cho lượng dầu thải lớn rơi vãi trên vịnh. Thêm vào đó, các xà lan chở dầu để xả
nước lẫn dầu xuống biển, gây ô nhiễm nước biển. Vịnh Hạ Long bị ô nhiễm
nghiêm trọng không chỉ bởi các chất hoà tan, không hoà tan từ các mỏ than thải
ra tích tụ lại mà còn do lượng dầu thải của các tàu chở dầu, lấy than hoạt động
trong vùng vịnh. Cảnh quan du lịch ở vịnh Hạ Long cũng đang bị đe doạ nghiêm
trọng bởi nạn ô nhiễm môi trường.
Các mỏ khai thác khoáng sản khác ở nước ta như mỏ quặng sắt, khoáng
titan ở vùng biển miền Trung từ nghệ An đến Khánh Hoà, mỏ thiếc Tĩnh Túc
(Cao Bằng), các mỏ kim loại khác như chì, kẽm, cromit, đồng… và đặc biệt là
tình trạng khai thác trái phép ở các mỏ vàng, đá quý ở Kim Bôi, Xuân Mai (Hoà
Bình), Bảo Yên (Lào Cai), Bình Gia (Lạng Sơn)… cũng tương tự như ở Quảng
Bình. Tình trạng lãng phí tài nguyên, xáo trộn cảnh quan thiên nhiên và huỷ hoại
môi trường xảy ra rất nghiêm trọng do hoạt động khai thác bừa bãi, bất hợp
pháp.
Có thể nói hầu như không một ngành sản xuất công nghiệp, một xí nghiệp
công nghiệp nào trong quá trình hoạt động, sản xuất, phát triển lại không hề gây
ra tác động tiêu cực đến môi trường. Như vậy, cùng với quá trình phát triển công
nghiệp trong thời gian qua là sự gia tăng của cạn kiệt tài nguyên và ô nhiễm môi
trường.
2.1.1.2 Tác động của quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn tới môi
trường.
Sản xuất nông nghiệp và các hoạt động ở nông thôn trong những năm
thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã có nhiều biến đổi quan trọng. Việc
phát triển sản xuất nông nghiệp đã tăng lượng sử dụng các loại phân vô cơ,
thuốc hoá chất bảo vệ thực vật vừa làm tăng năng suất cây trồng nhưng cũng
làm tăng độ ô nhiễm các chất độc hại đối với đất, nước và cả với sức khoẻ con
44
người. Nguồn nước tưới dùng trong nông nghiệp chịu ảnh hưởng của các nguồn
nước thải từ đô thị và các nhà máy công nghiệp, tại hầu hết các khu vực đều bị ô
nhiễm khá cao. Việc phát triển nuôi tôm một cách thiếu quy hoạch và không
đúng kỹ thuật, không chỉ gây nên tình trạng đầm tôm lấn đất lúa, mà còn gây ô
nhiễm nguồn nước tăng vọt do vùng nước đầm nuôi tôm không được xử lý hợp
lý. Sự phát triển của các làng nghề có ý nghĩa rất lớn về mặt kinh tế - xã hội,
song do chưa chú ý đúng mức đến các biện pháp bảo vệ môi trường nên đã làm
tăng mức độ ô nhiễm cho làng xóm dân cư sinh sống.
Lấy đồng bằng sông Hồng làm điển hình để xem xét tình trạng môi
trường nông thôn do phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỷ công nghiệp hoá,
hiện đại hoá hiện nay. Đây là một trong những vùng có biến chuyển nhiều nhất
trong những năm qua về trình độ sản xuất, phát triển kinh tế - xã hội theo yêu
cầu thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, và cũng chịu ảnh hưởng rất lớn về
môi trường của phát triển đô thị, các khu công nghiệp, giao thông và hoạt động
làng nghề.
Có thể xem xét vấn đề môi trường nông thôn trong các khía cạnh sau:
a) Liên quan trước hết đến tài nguyên và môi trường là vấn đề dân số,
nhất là đồng bằng sông Hồng từ trước đến nay vốn nổi tiếng là vùng đất chật
người đông, chiếm 21,88% dân số cả nước. Đặc biệt đáng lưu ý là tuy có hạn
chế được mức tăng dân số trong toàn vùng, nhưng đồng bằng sông Hồng vẫn là nơi có mật độ dân số cao nhất trong cả nước (năm 2007 là 1238 người/km2, trong khi mật độ dân số của các nước là 257 người/km2). Do dân số đông với
mật độ dân số quá cao, nhiều nơi chưa có phương hướng hợp lý phát triển kinh
tế nông thôn, lại chịu tác động rất mạnh của xu thế đô thị hoá, công nghiệp hoá
còn thiếu ý thức bảo vệ môi trường, nên mức độ ô nhiễm môi trường nông thôn
đang ngày một tăng thêm.
b) Nông nghiệp vẫn giữ vị trí hết sức quan trọng trong bối cảnh kinh tế -
xã hội của đồng bằng sông Hồng nhưng diện tích bình quân đất nông nghiệp tính
45
theo đầu người rất thấp, chỉ khoảng 500m2/người hoặc 620m2/ nhân khẩu nông
nghiệp. Cho nên, vấn đề đáng quan tâm là cơ cấu sử dụng đất và chất lượng đất.
Trong giai đoạn 1991-1995 đất nông nghiệp của vùng tăng 3.645ha và
trong giai đoạn 1996-2000 tăng 21.345ha, chủ yếu do huy động phần đất chưa
sử dụng và do việc áp dụng các biện pháp đầu tư cải tạo đất hoang hoá. Đó là xu
hướng tất yếu để bù lại diện tích đất nông nghiệp phải chuyển đổi sang đất phát
triển công nghiệp, giao thông và đô thị.
Xu thế suy thoái chất lượng đất thể hiện ngày càng rõ trong quá trình phát
triển nông nghiệp nói riêng và phát triển kinh tế - xã hội nói chung. Dựa trên
những kết quả nghiên cứu tại một số địa phương vùng đồng bằng sông Hồng, có
thể thấy trong vòng 10 năm kể từ năm 1991, quá trình thâm canh lúa nước đã có
ảnh hưởng rõ rệt đến các tính chất đất, nhất là hiện tượng chua hoá và suy giảm
hàm lượng kali dễ tiêu. Tuy quá trình này diễn ra chậm chạp, nhưng nhìn về lâu
dài thì đây là một nguy cơ làm thoái hoá đất. Một số yếu tố về độ phì của đất đã
được cải thiện, như mùn, nitơ và phốtpho, nhưng ở mức thấp. Cho nên, việc sử
dụng phân bón, nhất là kết hợp sử dụng phân hữu cơ với phân vô cơ trong canh
tác lúa là yêu cầu không thể thiếu để đảm bảo năng suất một cách lâu bền. Việc
sử dụng các loại hoá chất bảo vệ thực vật tuy chưa để lại dư lượng đáng kể trong
đất và nước mương tiêu, nhưng cần chú ý tác động của chúng với quá trình tích
luỹ lâu dài trong đất.Vấn đề bức xúc lại là tình trạng ngộ độc thuốc bảo vệ thực
vật.
c) Về chất lượng nước, theo kết quả phân tích quan trắc trong những năm
1995, 2000 và 2001 có thể thấy: Tại một số địa điểm trên sông Hồng, nước bị ô
nhiễm hữu cơ, thể hiện ở các chỉ số BOD và COD. Tuy nhiên, do khả năng pha
loãng và tự làm sạch của hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình khá lớn, cho
nên nồng độ các chất hữu cơ còn thấp. Hầu hết giá trị các chỉ tiêu đều nằm trong
phạm vi cho phép theo TCVN 5942-1995, trừ trường hợp nước sông gần các
điểm xả của các nhà máy và khu công nghiệp, như ở Lâm Thao, Việt Trì.
46
Đối với lưu vực sông Thái Bình nói chung và các sông Đá Bạch, sông
Kinh Thầy, sông Cấm, nước mặt có thể chia thành hai nhóm với đặc điểm ô
nhiễm khác nhau. Nước sông và cửa biển ít bị ảnh hưởng của nước thái, mức độ
ô nhiễm thấp, khả năng tự làm sạch cao. Còn nước các kênh mương và ao hồ bị
ảnh hưởng của nhiều nguồn thải, ảnh hưởng của chế độ thuỷ văn các sông tới
việc vận chuyển các chất bẩn, cho nên nước của các kênh mương, ao hồ thường
bị ô nhiễm nặng.
Nhìn chung, trong tất cả các con sông đã được khảo sát, thì không có sông
nào đạt tiêu chuẩn nước mặt loại A, tức là nước có thể làm nguồn cấp nước sinh
hoạt, mà chỉ đạt tiêu chuẩn nước loại B. Các sông nội thành ở các đô thị, như Hà
Nội, Hải Phòng, Hải Dương đều có mức độ ô nhiễm khá cao.
Hiện nay hàng năm đồng bằng sông Hồng còn trồng khoảng 400ha đay,
trong mùa sản xuất đay, toàn bộ nguồn nước mặt nơi có ngâm đay bị ô nhiễm
hữu cơ cao, gây tác động xấu đến sức khoẻ con người. Nước ao hồ khu vực
ngâm đay có nhu cầu oxy sinh hoạt tới 100mg O2/l, hay nước thải muối dưa
chuột ở Đoàn Thượng (Gia Lộc) đã làm cho nước giếng của các gia đình không
thể sử dụng cho sinh hoạt.
Một khía cạnh rất đáng lưu ý về tài nguyên nước ở đồng bằng sông Hồng
là hiện nay còn tồn tại nhiều vấn đề có tính liên tỉnh, liên ngành trong việc sử
dụng, quản lý và bảo vệ tài nguyên nước. Nhiều hoạt động gây ảnh hưởng lẫn
nhau giữa các địa phương trong việc lấy nước, sử dụng nước, đổ thải vào các lưu
vực, cũng như những tồn tại bất cập trong các hệ thống công trình thuỷ lợi. Điển
hình là vùng Lục Đầu Giang: nguồn thải từ các vùng thượng lưu sông Cầu, sông
Đuống, sông Lục Nam và sông Thương, bao gồm chất thải công nghiệp, nông
nghiệp, chất thải từ các làng nghề, các bệnh viện... theo dòng nước đổ xuống các
sông Kinh Thầy, sông Thái Bình và ảnh hưởng tới vùng hạ lưu. Lưu vực sông
Tô Lịch, sông Nhuệ, sông Đáy có liên quan đến thành phố Hà Nội và các tỉnh
như Hà Nam, Ninh Bình và Nam Định. Sông Tô Lịch hàng ngày nhận trực tiếp 123.000m3 nước thải của Hà Nội, ngoài ra còn nước thải từ hai con sông nội
47
thành là sông Sét và sông Lừ. Sông Tô Lịch lại đổ vào sông Nhuệ, hệ thống thuỷ
lợi liên tỉnh, và tình trạng ô nhiễm nước ảnh hưởng ngay tới các địa phương ở hạ
lưu.
Vấn đề cấp bách liên quan đến bảo đảm chất lượng nước ở đồng bằng
Sông Hồng, kể cả các vấn đề có tính liên tỉnh, là việc giảm thiểu tác động gây ô
nhiễm của các hoạt động sản xuất và sinh hoạt; thoát nước bẩn, xử lý nước thải
các đô thị, các khu công nghiệp và khu dân cư. Những nước thải, chất thải chưa
qua xử lý đổ trực tiếp vào sông, kênh không những gây ô nhiễm cục bộ mà còn
gây ảnh hưởng rộng hơn, bởi nước trong sông, kênh chuyển tải xuống khu vực
cuối kênh về mùa cạn, còn về mưa lũ nước thải đổ tràn lên cả bờ bãi khu dân cư
làm cho mức độ ô nhiễm càng rộng và càng nghiêm trọng hơn. Ngoài ra, nên có
hình thức phối hợp và hợp tác giữa các tỉnh và thành phố theo tinh thần của Luật
Tài nguyên nước.
d) Về chất lượng không khí, kết quả quan trắc trong giai đoạn 1996-2001
cho thấy tình hình ô nhiễm không khí nông thôn thường là do các hoạt động sản
xuất tiểu thủ công nghiệp, đặc biệt là tại các làng nghề. Mức độ ô nhiễm tại các
vùng ven đô thị, xung quanh các khu, cụm công nghiệp và dọc các tuyến giao
thông chính có mức độ cao hơn rõ rệt.
đ) Tại khu vực nông thôn, chất thải rắn hiện nay cũng đang trở hành vấn
đề bức xúc, tuy về tính chất và đặc điểm không hoàn toàn giống vấn đề chất thải
rắn đô thị, về số lượng, cơ cấu chất thải và khả năng thu gom, xử lý chúng. Tại
vùng đồng bằng sông Hồng, ngoài các thị xã và thị trấn mà tình hình quản lý
chất thải rắn mang tính chất đô thị, còn ở các làng xã là mang tính chất và đặc
điểm nông thôn mà chủ yếu là thiêu đốt tại các bãi đổ rác của mỗi xóm thôn.
e) Tại các đô thị, ngộ độc là do sử dụng các nông sản có chứa hàm lượng
thuốc trừ sâu quá cao, cũng như các phụ gia trong quá trình chế biến thực phẩm.
Còn ở nông thôn, thì ngộ độc xảy ra cả trong quá trình sử dụng các hoá chất bảo
vệ thực vật, như không có trang bị bảo hộ lao động trong khi chuẩn bị và phun
thuốc, sử dụng nhầm do sơ suất. Theo tài liệu của Sở Khoa học, Công nghệ và
48
môi trường Thái Bình, riêng trong 2 năm 1997-1998 đã có 890 người bị ngộ độc
hoá chất bảo vệ thực vật, trong đó có 129 người chết, chiếm 14,5%. Trong số
nạn nhân, có 562 người bị ngộ độc thuốc diệt chuột (63,1%) và 328 người ngộ
độc thuốc trừ sâu (36,9%). Rất đáng chú ý là các nguyên nhân rất đa dạng mà
chủ yếu do thiếu cẩn thận dẫn đến ngộ độc, như ăn phải bả chuột vì nhầm với
hạt gạo, uống phải thuốc chuột do tưởng là thuốc uống được (người già và trẻ
em, có tới 100 trường hợp), uống nhầm chai thuốc trừ sâu do để cạnh chai đồ
uống, tra nhầm thuốc trừ sâu vào thức ăn vì chai thuốc trừ sâu để ở cạnh bếp, ăn
phải thịt động vật đã bị đánh bả chuột, ăn phải hoa quả vừa mới phun thuốc trừ
sâu. Tình trạng ngộ độc từ nông sản và thực phẩm đang là vấn đề nhức nhối, đòi
hỏi nhiều biện pháp tổng hợp và kiên quyết cả về mặt quản lý nhà nước, về nâng
cao nhận thức chung, ý thức trách nhiệm và trình độ dân trí.
g) Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn cũng
đồng thời là quá trình phát triển đô thị và công nghiệp ở khu vực này. Phát triển
đô thị, khu dân cư, tiểu thủ công nghiệp có tác động ảnh hưởng rất lớn đến môi
trường nông thôn:
- Nông nghiệp sử dụng nguồn nước tưới phần lớn chịu ảnh hưởng ô nhiễm
từ nguồn nước thải sinh hoạt đô thị, nước thải công nghiệp của các nhà máy,
nước thải do hoạt động của các làng nghề....
- Sự tích luỹ kim loại nặng trong đất do sử dụng nước thải trong công
nghiệp.
Bảng 1: Kim loại nặng trong đất nông nghiệp dùng nước tưới từ nguồn
thải của các nhà máy
n Địa điểm Đặc điểm mẫu Cu Pn Zn Cd Hg
Ppm
Chịu ảnh hưởng 29,877 30,737 242,23 0,734 0,082 3
Đối chứng 22,180 18,240 45,060 0,218 0,040 1 Nhà máy pin Văn Điển
Công ty Chịu ảnh hưởng 20,950 23,070 40,640 0,106 0,056 4
49
Đối chứng 20,010 13,650 32,250 0,085 0,020 1 Orion- Hanel
Chịu ảnh hưởng 0,370 2,320 0,050 0,160 3 -
Nhà máy nhiệt điện Đối chứng 0,160 2,000 0,030 0,110 3 -
Làng nghề Chịu ảnh hưởng 21,67 304,59 130,12 - - 7
Phùng Xá Đối chứng 22,57 30,76 45,97 - - 1
Làng nghề Chịu ảnh hưởng 45,89 273,63 28,66 0,351 - 11
Chỉ Đạo Đối chứng 21,35 35,11 19,72 0,304 - 3
Dao động Di động 4 - 40 - 3,5-2,6 - - -
Tổng số 2 - 10 10 -140 0,1-0,2 0,005 - -
trung bình trong đất 5 100 - 0,2
G.hạn cho Đức 100 100 300 3 2 -
phépđấtNN Anh 140 550 280 3,5 1 -
Nguồn: Vũ Huy Chương, Vấn đề môi trường trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa [6, tr.138].
Nhìn chung, nếu so sánh với giá trị cho phép sẽ không thấy có dấu hiệu
của ô nhiễm môi trường đáng kể của kim loại nặng trong đất. Tuy nhiên, so với
khoảng dao động trung bình trong đất thì hàm lượng Cu, Pb, Zn và Cd ở đây đều
rất lớn. Hàm lượng Zn và Cd cao nhất được xác định tương ứng là 268 ppm và
0,99 ppm.
h) Phát triển các làng nghề là một trong những nội dung cơ bản của quá
trình chuyển dịch cơ cấu nông thôn theo hướng tiến bộ, giải quyết việc làm, xoá
đói giảm nghèo, phát triển thị trường nông thôn. Hiện cả nước có khoảng 1450
làng nghề, trong đó có trên 300 làng nghề truyền thống, phân bố ở 56 tỉnh. Miền
Bắc có 972 làng nghề, miền Trung có 290 làng nghề, miền Nam có 188 làng
nghề. Tuy nhiên sự phát triển làng nghề một cách tự phát, trình độ công nghệ và
trang thiết bị phần lớn là lạc hậu, thủ công, thiết bị cũ, chắp vá, thiếu đồng bộ,
thiếu công nhân lành nghề, thiếu nghệ nhân, thiếu vốn....cũng như hạn chế trong
50
công tác quản lý, bảo vệ môi trường tại các làng nghề đã dẫn đến tình trạng ô
nhiễm môi trường đang diễn ra hết sức trầm trọng.
Hiện trạng môi trường và tác động của làng nghề tới môi trường nông
thôn mang một số đặc điểm tiêu biểu sau:
- Ô nhiễm môi trường tại làng nghề là hình thái ô nhiễm tập trung trên
phạm vi khu vực nông thôn (thôn, làng, xã...), tập trung nhiều thành phần ô
nhiễm trọng điểm (cơ sở sản xuất nhỏ) ảnh hưởng trực tiếp đến không gian liền
kề, chính là nơi sinh hoạt dân cư nên tác động trực tiếp đến sức khoẻ cộng đồng.
- Ô nhiễm môi trường làng nghề mang đậm nét đặc thù của hoạt động sản
xuất theo ngành nghề và loại hình sản phẩm, ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường
nước, đất và không khí trong khu vực dân sinh. Làng nghề chế biến nông sản
thực phẩm ô nhiễm chủ yếu do nước thải có hàm lượng BOD5 và COD rất cao.
Làng nghề dệt, nhuộm gây ô nhiễm do nước thải có hàm lượng hoá chất, thuốc
nhuộm, COD cao (gấp 3- 8 lần tiêu chuẩn cho phép). Công nghệ sản xuất vật
liệu xây dựng gây ô nhiễm chủ yếu do sử dụng nhiên liệu chủ yếu là than, củi.
Làng nghề thủ công mỹ nghệ gây ô nhiễm tới môi trường chủ yếu do bụi, hơi
dung môi hữu cơ. Làng nghề tái chế chất thải (tái chế nhựa, kim loại...) gây ô
nhiễm không khí, đất, nước và mức độ ô nhiễm rất nặng.
- Mức độ ô nhiễm tại các làng nghề cồn thể hiện rất rõ ở môi trường lao
động. Hầu hết điều kiện lao động ở các làng nghề đều không đạt tiêu chuẩn như
tiếng ồn, ánh sáng, độ rung, nhiệt độ cao...
- Ô nhiễm môi trường ở các làng nghề ảnh hưởng rõ rệt, trực tiếp đến sức
khoẻ của người lao động, dân cư làng nghề và một số dân cư khu vực xung
quanh. Bệnh tật của dân cư các làng nghề cao hơn nhiều so với các làng thuần
nông, thường gặp là các bệnh về đường hô hấp, mắt, bệnh ngoài da... Ví dụ tại
làng nghề tái chế chì Đông Mai (Hưng Yên), tỷ lệ người dân mắc bệnh đường
hô hấp chiếm 65,6%; Tại làng nghề sản xuất rượu Vân Hà (Bắc Giang) tỷ lệ
người mắc bệnh ngoài da là 68,5%, và các bệnh đường ruột là 58,8%.
2.1.1.3. Tác động của phát triển thương mại và du lịch tới môi trường
51
Không phải lúc nào hoạt động kinh tế nói chung và kinh doanh xuất nhập
khẩu nói riêng cũng tuân thủ đầy đủ những nguyên tắc, quy định của luật pháp,
của Nhà nước, mà thường xảy ra các hiện tượng, hành vi xấu vừa vi phạm pháp
luật Nhà nước, vừa ảnh hưởng đến nguồn thu của ngân sách và tàn phá môi
trường sinh thái.
Từ năm 1991 tới nay, lưu thông thuốc trừ sâu trở nên hỗn loạn, thị trường
không được kiểm soát chặt chẽ. Nhiều loại được nhập về vô tổ chức và không
được kiểm soát. Một số loại thuốc đã bị cấm lưu hành vẫn được nhập lậu về từ
Trung Quốc và đưa vào sử dụng. Nhiều lô hàng bán trên thị trường không có
xuất xứ nước sản xuất, đơn vị nhập (không có lý lịch). Nhiều loại thuốc không
có trong danh mục sử dụng hoặc hoặc có nhưng không đảm bảo chất lượng vẫn
được lưu thông trên thị trường. Tình trạng hỗn loạn trong lĩnh vực lưu thông
thuốc trừ sâu đã đến mức báo động, gây ra tình trạng ô nhiễm môi trường ở
nhiều khu vực. Một số trường hợp dẫn đến hậu quả nghiêm trọng là gây tử vong
cho con người. Bộ Y tế đã phải đình chỉ hàng chục loại thuốc nhập khẩu không
đủ tiêu chuẩn lưu hành.
Tình trạng nhập khẩu tràn lan xe máy, ô tô bãi rác, quần áo cũ, và nhiều
đồ gia dụng cũ khác vào nước ta qua cả đường chính ngạch, tiểu ngạch và đặc
biệt là nhập lậu chưa được kiểm soát đầy đủ.
Việc nhập lậu ốc bươu vàng về nuôi đã gây nện đại dịch ốc bươu vàng,
lan tràn trên khắp đồng ruộng ao hồ, sông ngòi, đe doạ trực tiếp mùa màng nông
nghiệp và hệ sinh thái thực vật ở nước ta hiện nay.
Với tình trạng nhập khẩu tràn lan và không được kiểm soát như vậy, mặc
dù trong thời gian gần đây, một số quy định về vấn đề này đã được ban hành để
ngăn chặn tình trạng nhập khẩu này, trong một chừng mực nào đó thì đã biến
nước ta trở thành một bãi thải lớn chứa các thiết bị công nghệ cũ và hàng tiêu
dùng công nghiệp đã qua sử dụng cho các nước công nghiệp phát triển. Ngoài
ra, bằng con đường nhập lậu, có doanh nghiệp đã nhập từ nước ngoài hàng ngàn
tấn rác thải.
52
Hàng xuất khẩu của nước ta ra thị trường nước ngoài hiện nay chủ yếu
vẫn là hàng nông sản, thực phẩm, nông sản sơ chế (gạo, cà phê, cao su, hạt điều,
hải sản đông lạnh…) và các loại khoáng sản thô (dầu thô, than…), các loại sản
phẩm chế biến lâm sản như gỗ, song mây và hàng dệt may tơ tằm. Sản phẩm có
hàm lượng công nghệ cao ở nước ta được xuất khẩu còn rất ít, vì nền công
nghiệp còn kém phát triển, hàng công nghiệp sản xuất ra chưa đủ sức cạnh tranh
trên thị trường khu vực và thế giới, và thậm chí chưa cạnh tranh được ngay trên
thị trường trong nước cả về chất lượng và giá cả. Cơ cấu hàng xuất khẩu nặng về
xuất nguyên liệu thô, chưa qua chế biến. Thêm vào đó là sự quản lý Nhà nước
đối với hoạt động thương mại, đối với lĩnh vực bảo vệ môi trường, bảo vệ nguồn
khoáng sản, tài nguyên thiên nhiên có sẵn của đất nước còn thiếu chặt chẽ và
chưa nghiêm minh.Bởi vậy tác động tiêu cực của hoạt động xuất nhập khẩu,
khai thác và chế biến tài nguyên thiên nhiên đối với môi trường ở nước ta là rất
nghiêm trọng. Nguồn tài nguyên thiên nhiên rừng quý giá đang từng ngày từng
giờ bị chặt phá, khai thác bừa bãi để thoả mãn cho mọi loại nhu cầu trong tiêu
dùng và sản xuất. Từ làm chất liệu đốt, chế biến đồ gỗ gia dụng, làm nguyên liệu
chế tác đồ thủ công mỹ nghệ đến làm cột gỗ chống hầm lò trong khai thác mỏ,
dùng trong công nghiệp xây dựng, làm nguyên liệu trong công nghiệp sản xuất
bột giấy, giấy… Ước tính hàng năm có tới 22 triệu tấn gỗ được khai thác làm củi
đốt và khoảng 2.5 triệu m3 được sử dụng trong chế biến công nghiệp. Từ năm
1994 trở về trước (khi Nhà nước chưa ban hành Luật Bảo vệ môi trường), các
loại gỗ quý trong nhóm I, II, III còn là mặt hàng xuất khẩu quan trọng đối với
nhiều doanh nghiệp Nhà nước, và lúc đó gỗ còn nằm trong danh mục hàng xuất
khẩu chính ngạch của nhà nước và tiểu ngạch của nhiều địa phương. Tới nay, gỗ
xuất khẩu theo nguồn này được Nhà nước quản lý khá chặt chẽ bằng hạn ngạch
và hàng rào thuế quan, nên lượng gỗ xuất khẩu không lớn và có thể quản lý
được. Song nguồn gỗ khai thác trái phép để xuất khẩu lậu và buôn bán trái phép
trên thị trường nội địa lại không giảm mà còn có nguy cơ gia tăng.
Điều đáng quan tâm là sau khi Luật Bảo vệ và phát triển rừng có hiệu lực
thì những khu rừng được khoanh nuôi vẫn bị tàn phá nghiêm trọng, chưa được
53
các cấp chính quyền địa phương và các ngành chức năng bảo vệ tích cực và xử
lý nghiêm minh đối với các trường hợp phá rừng bừa bãi.
Việc buôn bán và vận chuyển trái phép gỗ quý như gỗ Pơmu ở Yên Bái,
Lai Châu, Lào Cai, Nghệ An vẫn còn tiếp diễn. Nếu các cấp chính quyền và các
cơ quan chức năng không sớm thực hiện quản lý chặt chẽ và xử lý vi phạm một
cách nghiêm minh thì tình trạng trên sẽ vẫn còn tiếp tục gây ảnh hưởng nghiêm
trọng đến môi trường nước ta.
Quá trình tự do hoá trong thương mại ở nước ta đã nhanh chóng đưa số hộ
kinh doanh thương mại nhỏ lên xấp xỉ 2 triệu hộ, tập trung chủ yếu ở các thành
phố lớn và khu vực đông dân cư. Trong số trên, số hộ kinh doanh không chuyên
nghiệp, không đăng ký kinh doanh cũng lên tới con số hàng chục nghìn hộ. Đại
đa số các hộ kinh doanh thương mại nhỏ có diện tích kinh doanh chật hẹp, thậm
chí nhiều hộ không có diện tích kinh doanh. Tình trạng mang tính phổ biến, lan
tràn là người buôn bán lấn chiếm lòng đường vỉa hè để làm địa điểm kinh doanh
làm nơi họp chợ. Riêng ở thành phố Hà Nội có 555 chợ trong đó có 25 chợ tạm
họp ở lòng đường) với khoảng 40000 cửa hàng, cửa hiệu, ki ốt nằm rải rác trên
đường phố nội thành và hàng vạn người kinh doanh ngoài vỉa hè gây cản trở
giao thông, ảnh hưởng đến vệ sinh môi trường, mất mỹ quan văn minh thành
phố. Mặc dù việc thực hiện Chỉ thị 36/CP của Thủ tướng Chính phủ được triển
khai một cách tích cực đã mấy năm qua nhưng tình trạng lấn chiếm lòng đường
vỉa hè làm nơi buôn bán vẫn tiếp diễn phổ biến ở nhiều nơi, nhiều lúc. Xét khía
cạnh ảnh hưởng của tình trạng trên đối với môi trường chúng ta có thể thấy chợ
và nơi tập trung buôn bán xen lẫn các khu dân cư sẽ gây nên ô nhiễm môi
trường, ô nhiễm do tiếng ồn. Chợ họp không được quy hoạch dẫn đến tình trạng
ứ đọng rác thải, nước thải, làm mất vệ sinh đường phố và gây ô nhiễm các khu
vực dân cư xung quanh, làm ảnh hưởng tới sức khoẻ, phát sinh bệnh tật.
Đứng về mặt vệ sinh an toàn, rõ ràng thị trường thực phẩm của ta hiện
nay không tốt. Tình trạng này làm giàu nhanh cho những người làm ăn gian dối,
ngược lại gây nhiều tác hại cho xã hội, kìm hãm sản xuất lành mạnh phát triển,
54
trút hậu quả nghiêm trọng lên người tiêu dùng. Hiện nay đã chứng kiến rất nhiều
vụ ngộ độc thức ăn dẫn đến hậu quả nghiêm trọng cho người tiêu dùng (do ăn
thực phẩm có chất màu hoặc có dư lượng thuốc trừ sâu cao…) Nhưng sự nguy
hiểm hơn chính là ở chỗ các loại thực phẩm chứa độc tố còn mang tính chất tiềm
ẩn lâu dài. Khi vào cơ thể con người, nó được tích tụ dần, đến một lúc nhất định
sẽ gây bệnh tật. Như vậy việc sử dụng thực phẩm thiếu an toàn không chỉ gây
nguy hiểm cho người sử dụng mà còn có thể làm ảnh hưởng tới các thế hệ sau
này. Những tác động của các hoạt động thương mại nói trên đối với môi trường
sống và con người cần được sớm hạn chế và loại bỏ.
Về du lịch. Trong thời kỳ đổi mới, đặc biệt là những năm gần đây, ngành
du lịch của Việt Nam đã có sự phát triển vượt bậc, góp phần quan trọng vào tăng
trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại
hoá, đặc biệt là cơ cấu kinh tế nông thôn, tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước,
xoá đói giảm nghèo, cải thiện tình trạng bất bình đẳng giữa các vùng , giảm tình
trạng thất nghiệp, khôi phục và gìn giữ các giá trị văn hoá truyền thống….Tuy
nhiên, do sự phát triển du lịch thiếu quy hoạch khoa học, việc chạy theo lợi ích
kinh tế đơn thuần của các doanh nghiệp kinh doanh du lịch cũng như các địa
phương, do nhận thức của một bộ phận cán bộ quản lý doanh nghiệp du lịch,
người dân tại các điểm du lịch, khách du lịch về bảo vệ môi trường nói riêng,
phát triển bền vững du lịch nói chung còn hạn chế nên các tài nguyên du lịch tự
nhiên đang bị khai thác quá mức, thiếu đầu tư tái tạo gìn giữ và phục hồi, môi
trường sinh thái ở hầu hết các khu du lịch, điểm du lịch đang bị ô nhiễm nặng
nề. Các khu du lịch thường được xây dựng tại các vùng rừng núi, ven biển,
đảo… Để phát triển các dịch vụ du lịch, nhiều khu rừng bị triệt phá, nhiều bãi
biển, khu ven biển bị san lấp thay vào là hệ thống các quán ăn, nhà trọ, khách
sạn, nhà hàng…làm biến đổi cảnh quan, mất cân bằng sinh thái vốn có và gây ô
nhiễm dường như không có điểm dừng. Môi trường tại các khu du lịch (Hương
Sơn, Hạ Long, Sầm Sơn, Nha Trang, Vũng Tàu…) bị ô nhiễm và xuống cấp
nghiêm trọng. Có thể khẳng định rằng sự phát triển du lịch của Việt Nam hiện
nay là thiếu tính bền vững.
55
2.1.2. Thực trạng môi trường sinh thái ở Việt Nam dưới tác động của
công nghiệp hoá, hiện đại hoá
2.1.2.1. Suy thoái và ô nhiễm môi trường
* Suy thoái và ô nhiễm môi trường đất.
Việt Nam có gần 33 triệu ha đất tự nhiên với 3/4 lãnh thổ là đồi núi và
trung du, trong đó trên 50% diện tích đất ở vùng đồng bằng (khoảng 3,2 triệu
ha) và trên 60% diện tích vùng đồi núi (13 triệu ha) bị suy thoái và ô nhiễm đất.
Suy thoái và ô nhiễm môi trường đất diễn ra ở cả khu vực thành thị và khu vực
nông thôn.
Hà Nội (trước khi mở rộng - tháng 8/2008) với diện tích 43000ha nhưng
mới chỉ dành riêng 120 nơi tập trung rác trong khi có gần 2 triệu dân. Mỗi ngày
Hà Nội có khoảng 2000 m3 rác thải, 400.000m3 nước thải công nghiệp… Có 24
bệnh viện lớn và hàng nghìn phòng khám hàng ngày đổ ra cống rãnh chất thải
bệnh viện chưa qua xử lý. Còn tại khu vực nội thành Hà Nội vẫn còn nhiều gia
đình chưa có nhà vệ sinh riêng. Hà Nội hiện có hàng ngàn dự án của hàng chục
nước đầu tư xây dựng nhưng rất ít dự án đề cập đến vấn đề xử lý chất thải.
Thành phố Hồ Chí Minh - thành phố đông dân nước ta - mỗi ngày sản
sinh ra hơn 3000 tấn rác, đặc biệt nghiêm trọng là trong đó có từ 80 - 200 tấn rác
từ các bệnh viện. Dự kiến năm 2010, mỗi ngày thành phố phải xử lý gần chục
nghìn tấn rác thải.
Rác và chất thải bẩn là thành phần cũng là nguyên nhân chính dẫn đến ô
nhiễm môi trường đất. Ngoài ra còn do những tập quán lạc hậu từ bao đời nay để
lại chưa xoá sạch cũng góp phần làm cho môi trường đất bị ô nhiễm như phóng uế
bừa bãi, vứt bỏ những chất độc hại không đúng nơi quy định… Trong những năm
gần đây, do quá trình đô thị hoá phát triển nhanh, quy mô các thành phố hiện có
không đủ sức cho dân số hiện tại, thêm vào là làn sóng di cư đến các thành phố tìm
việc làm cũng góp phần không nhỏ làm ô nhiễm đất ở thành phố.
Không chỉ đất ở thành phố lớn mà ở các địa phương khác cũng bị ô nhiễm
do người dân tác động. Tại các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ, phương thức canh tác
56
trước đây chủ yếu sử dụng các loại phân hữu cơ, thuốc diệt cỏ làm bằng phương
pháp thủ công nên nhìn chung độ phì của đất vẫn đảm bảo. Hiện nay khi nền
kinh tế chuyển mạnh sang cơ chế thị trường, việc áp dụng khoa học kỹ thuật tiên
tiến làm cho năng suất được nâng cao nhưng cũng là nguyên nhân chính làm
nghèo chất dinh dưỡng của đất và làm ô nhiễm môi trường đất. Có nhiều diện
tích đất trở nên bạc màu, ô nhiễm do độc tố từ phân bón, thuốc trừ sâu thấm vào
đất mà không tiêu huỷ được. Đất còn bị ô nhiễm do tình trạng sử dụng máy móc
như máy cày, máy bơm… vì trong quá trình vận hành do nhiều nguyên nhân dầu
có thể bị rò rỉ loang ra ruộng hoặc do người sử dụng không ý thức được đã đổ
dầu cặn, dầu thừa bừa bãi ra ruộng hoặc do sơ suất làm đổ dầu.
Có thể nói kiểu khai thác tài nguyên đất và rừng của vùng núi phía Bắc
trước đây về cơ bản không phù hợp với quy luật tự nhiên và do vậy, việc khai
thác tài nguyên ở đây trong quan hệ với việc mở rộng vùng kinh tế mới rốt cuộc
đã làm cạn kiệt và phá hoại 2 loại tài nguyên chủ yếu là đất và rừng, làm cho đất
trơ, bị xói mòn, rửa trôi dẫn tới bạc màu và bị ô nhiễm do nhiều nguyên nhân tác
động. Đã có hàng trăm hecta đất trở thành đất trống đồi trọc, trong thời gian qua,
nhiều vùng đất bị ô nhiễm do phá rừng, làm xói mòn đất, không chỉ làm cạn kiệt
nguồn tài nguyên tại chỗ mà điều quan trọng là làm mất cân bằng sinh thái và
môi trường của một vùng rộng lớn.
Ở các tình Tây Nguyên như Đắc Lắc, Gia Lai, trong nhiều năm qua nhiều
diện tích đất bạc màu bị ô nhiễm bởi cách sử dụng thuốc trừ sâu, diệt cỏ và máy
móc. Đặc biệt ô nhiễm đất ở Tây Nguyên còn bị tác động bởi rác thải. Những
năm gần đây, trước sự gia tăng dân số, các tỉnh Tây Nguyên cũng có mật độ dân
số tăng nhanh nên rác thải cũng tăng dẫn tới đất bị ô nhiễm.
Nhìn chung, đất ở nước ta được coi là nguồn tài nguyên thiên nhiên quý
giá, song trên thực tế do nhiều nguyên nhân trong đó có nguyên nhân phát triển
kinh tế nên nhiều diện tích đất bị ô nhiễm và tình trạng ô nhiễm ngày càng trầm
trọng. Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ thì hiện nay chúng ta có khoảng 6 - 7
triệu ha đất trống đồi trọc. Đặc biệt nghiêm trọng là có 440.800 ha đã hoàn toàn
57
bị xói mòn, trơ sỏi đá, không có khả năng trồng trọt (chiếm 1,35% diện tích tự
nhiên cả nước). Nhà máy giấy Bãi Bằng (Phú Thọ) gần 10 năm đã chặt 85.590ha
rừng bồ đề, mỡ, tre nứa để làm nguyên liệu sản xuất giấy. Riêng lưu vực sông
Hồng, để xây dựng những công trình thuỷ điện lớn như Sông Đà (Hoà Bình),
Thác Bà trên sông Chảy cũng đã chặt phá hàng triệu ha rừng đầu nguồn từ đó
góp phần làm cho cường độ thoái hoá, bào mòn mặt đất trên lưu vực đầu nguồn
ngày một tăng.
* Suy thoái và ô nhiễm môi trường nước.
Nước rất cần cho sự sống, ngoài ra nước còn chứa đựng những tiềm năng
khai thác như duy trì độ ẩm của đất, tưới tiêu cho nông nghiệp, sử dụng trong
các ngành công nghiệp, tạo ra các tiềm năng và danh lam thắng cảnh văn hoá
khác. Do nhu cầu sinh hoạt, sản xuất nên nước có vị trí đặc biệt quan trọng.
Nước ta có trữ lượng nước ( nước mặt, nước ngầm) khá lớn, khoảng 310
tỷ m3 nước mưa, 520 tỷ m3 nước sông. Tổng trữ lượng có khả năng khai thác
của các tầng trữ nước trên toàn lãnh thổ khoảng 60 tỷ m3/ năm. Tuy nhiên sự
phát triển nhanh của công nghiệp hoá, đô thị hoá, gia tăng dân số đã làm cho
chất lượng nước đã có những suy thoái khá nghiêm trọng. Chỉ riêng hơn 70 khu
vực công nghiệp và hơn 1000 bệnh viện trên cả nước mỗi ngày đã thải ra hàng
triệu m3 nước thải ra môi trường mà không qua xử lý làm nhiều nguồn nước
trên phạm vi cả nước bị ô nhiễm nghiêm trọng. Dự báo lượng nước thải ra sẽ
tăng gấp nhiều lần trong những năm tới.
Do nhầm lẫn cho rằng nước là tài nguyên vô tận nên người dân Việt Nam
khai thác nguồn nước tối đa phục vụ sinh hoạt và sản xuất. Nghịch lý ở chỗ rất
nhiều người dân sống ở hai bên bờ sông ăn uống nước bằng nước sông nhưng lại
thải nước sinh hoạt ra chính con sông ấy. Các cơ sở sản xuất công nghiệp, dù
của nhà nước hay tư nhân cũng đều coi sông, hồ là nơi chứa nước thải rẻ mà hữu
hiệu nhất. Rất nhiều doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh đã dùng nguồn
nước như vật hy sinh cho mục tiêu kinh tế của mình. Lẽ dĩ nhiên sẽ dẫn đến thực
trạng suy giảm nguồn nước và ô nhiễm nước như hiện nay.
58
Môi trường nước ở nước ta tập trung chủ yếu ở hệ thống các sông hồ chảy
trong nội địa. Phần lớn chất lượng nước sông ở nước ta thuộc loại B nhưng có
một số sông ngòi ở Trung Bộ còn đạt tiêu chuẩn loại A và sạch hơn các sông
ngòi ở Nam Bộ. Nước các sông chảy qua các thành phố ở Nam Bộ bị ô nhiễm
hơn các sông ở Bắc Bộ. Trong các sông đã quan trắc thì các sông bị ô nhiễm
nhất là sông Cấm, sông Trâu Bạc (Hải Phòng), sông Quan Lộ, sông Tắc Thủ (Cà
Mau)…
Nhìn chung ô nhiễm nước sông ở nước ta chủ yếu biểu hiện về ô nhiễm
chất hữu cơ, hàm lượng các chất NH4+, NO3- thường cao hơn 2 - 4 lần. Qua số
liệu quan sát đã phát hiện các hoá chất bảo vệ thực vật trong nước mặt, có nơi
hàm lượng cao hơn tiêu chuẩn cho phép nhiều lần.
Đặc điểm của hệ thống thoát nước đô thị hiện nay là hệ thống thoát nước
chung hỗn hợp. Nó được bảo dưỡng kém và không theo kịp tốc độ tăng dân số
đô thị. Mức độ bao phủ của hệ thống thu gom nước thải còn rất thấp, chỉ đạt 20 -
35% tại Hà Nội, và 50 - 60% tại Hải Phòng. Tại thành phố Hồ Chí Minh, hệ
thống này chỉ phục vụ cho khu vực ở trung tâm thành phố. Hiện nay cả nước
mới có 44% số hộ ở đô thị có đường ống thoát nước chung, trong đó các đô thị ở
miền Bắc là 27% và ở miền Nam là 52%. Khoảng 46% nước thải từ các công
trình vệ sinh các hộ gia đình được xử lý bằng bể phốt, trong khi 54% còn lại và
100% nước thải sinh hoạt không được xử lý. Hiện có rất ít các cơ sở công
nghiệp và bệnh viện có trạm xử lý nước thải. Khoảng 90% lượng nước thải công
nghiệp được đưa trực tiếp vào môi trường mà không hề qua một công đoạn xử lý
nào, trong đó có rất nhiều chất độc hại có nguy cơ tiềm ẩn, và tích tụ lâu dài
trong môi trường. Các chất thải gây ô nhiễm nguồn nước được tạo ra từ nhiều
nguồn: do hoạt động của dân cư, trong sinh hoạt, bệnh viện… nhưng chủ yếu
vẫn là trong các cơ sở sản xuất công nghiệp và nông nghiệp… Đó là mối lo ngại
đối với dân cư đô thị, đặc biệt ở các thành phố lớn. Tình trạng ô nhiễm nguồn
nước mặt ở các đô thị xảy ra là trầm trọng, nhất là khu vực có dân cư đông đúc
sống bao quanh và những khu vực đô thị có kết cấu hạ tầng yếu kém hoặc khu
dân cư nghèo. Nguồn nước thải một phần được đổ vào đường ống thải ra ao, hồ,
59
sông biển, một phần thải trực tiếp tại khu ở (Hà Nội có 23,3% số hộ được điều
tra thải trực tiếp ra mặt bằng khu ở hoặc xuống mặt nước sông, ngòi, ao, hồ cạnh
nhà). Vào mùa mưa, nhiều đô thị bị tràn ngập nước do hệ thống đường ống thoát
nước bị tắc hoặc do quá tải khi nước không thoát kịp. Về phân bố, nhìn chung và
các đô thị, khu công nghiệp nước ta hầu hết nằm gần lưu vực các sông. Trong số
gần 80 đô thị lớn của cả nước thì khoảng 70% số đô thị sử dụng nguồn nước mặt
và 30% sử dụng nguồn nước ngầm. Nhưng chính dòng sông cung cấp cho dân
cư nguồn nước sinh hoạt lại bị nước thải của thành phố đổ vào. Mức độ ô nhiễm
như đã đề cập rõ ràng ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nước cung cấp, ảnh
hưởng đến sức khoẻ của dân cư. Nhiều công trình nghiên cứu cho thấy có 71%
số giếng khoan khai thác nước ngầm có hàm lượng nhiễm bẩn tăng theo thời
gian thậm chí có giếng hàm lượng nhiễm bẩn vượt mức tiêu chuẩn cho phép tới
10 lần.
Bảng 2: Mức độ ô nhiễm kim loại nặng trong nước ngầm ở một số tỉnh
phía Bắc (% tổng số mẫu nghiên cứu)
Nguyên tố Hà Nội Hải Phòng Nam Định Việt Trì
80% 100% 87,1% 100% Hg
73% 48% 7,5% 27,9% 8,3% - 70% 33,3% - 2,8% 5,3% - 82,6% 40,6% - - 58,3% - 7,1% 40,7% - 11,9% - 16,7% Fe Mn Pb As Cr Cd
Nguồn: Nguyễn Hữu Dực, Nguyễn Văn Hảo [11, tr.13]
60
* Suy thoái và ô nhiễm môi trường không khí
Không khí vô cùng quan trọng đối với đời sống, mọi sinh vật tồn tại và
phát triển được cũng nhờ vào quá trình hô hấp. Nhưng hiện nay bầu không khí
trên trái đất đang bị ô nhiễm nghiêm trọng và đang là vấn đề quan tâm chung
của nhân loại.
Ở Việt Nam, vấn đề ô nhiễm không khí nói chung đã đến mức báo động,
nhất là tại các khu dân cư, khu công nghiệp, đô thị lớn. Nguyên nhân gây ô
nhiễm không khí ở nước ta thì rất nhiều song tựu chung lại là do những tác động
hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp của quá trình phát triển kinh tế và các hoạt động
trong đời sống sinh hoạt của dân cư.
Kinh tế phát triển làm quá trình đô thị hoá ở Việt Nam diễn ra nhanh
nhưng còn mang tính tự phát và vượt quá sự phát triển của công nghiệp hoá nên
ở các khu đô thị không khí bị ô nhiễm nặng nề do sinh hoạt, chất thải của các
phương tiện giao thông, do rác thải… trong điều kiện thiếu tiện nghi và điều
kiện thiết bị xử lý. ở các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh
lượng bụi trong không khí vượt quá giới hạn cho phép từ 2 - 20 lần, hơi chì từ 6
-10 lần, khí CO2 từ 2 - 5 lần, khí SO2 là 30 lần. Cụ thể ở Hà Nội tình trạng ô
nhiễm không khí rất nghiêm trọng bắt đầu từ nguyên nhân đô thị hoá nhanh và
sự phát triển ồ ạt của nhiều cơ sở kinh tế, đặc biệt là kinh tế tư nhân. Tình trạng
máy móc sản xuất cũ kỹ, lạc hậu càng làm cho vấn đề ô nhiễm không khí trở nên
trầm trọng. Các cơ sở sản xuất vì lợi ích kinh tế không quan tâm đến đầu tư cải
tiến máy móc, công cụ thân thiện với môi trường nên bảo vệ môi trường nói
chung và môi trường không khí nói riêng không được quan tâm. ở nhiều khu dân
cư như khu vực Thượng Đình, tỷ lệ bụi lên tới 0,3 - 1,0 mg/m3 (vượt quá mức cho phép 2 - 6 lần); SO2: 0,15 - 0,3 mg/m3 (vượt quá mức cho phép 3 - 6 lần); CO2: 2 - 5 mg/m3 (vượt 2 - 5 lần).
Qua điều tra chọn mẫu ở Hà Nội cho thấy có 56% số hộ bị ảnh hưởng do
khói bụi gây nên. Thành phần bụi gây ô nhiễm môi trường chủ yếu do bụi đất,
cát chiếm 82%; bụi than xỉ chiếm 19,7%; bột hoá chất 5,6%, còn lại là bụi khác
61
3,7%. Các nguyên nhân gây bụi do hệ thống phương tiện giao thông chiếm lớn
nhất tới 75,2%, do sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp 15,7%, công
trường xây dựng 5,5%, còn các nguyên nhân khác 2,4%. Môi trường không khí
cũng rất xấu ở các vùng dân cư quanh các khu chợ hoặc ven các dòng sông nội
thị và ở quanh bãi rác thải mới khi các chất hữu cơ bị phân huỷ mạnh. Xét về
mặt cư trú, ở một số khu phố cổ mật độ dân số lớn gấp 2 lần so với mật độ cư trú
tối đa tiêu chuẩn được quy định cho một đô thị hiện đại. Hệ thống cây xanh ở Hà Nội cũng rất thiếu, bình quân chỉ có 1,1 m2/người nhưng chỉ tập trung ở một số
khu vực. Sự gia tăng nhanh chóng dân số đô thị đã ảnh hưởng tới tình hình kể
trên. [28, tr.163].
Kinh tế thị trường phát triển làm cho mức sống của nhân dân cũng được
nâng cao, dẫn đến việc bung ra của các phương tiện giao thông tư nhân. Cũng do
bị lợi nhuận chi phối, vì những tác động mặt trái của kinh tế thị trường cần phải
khấu hao triệt để mọi nguồn tài sản hiện có để đạt hiệu quả cao trong sản xuất
kinh doanh nên các phương tiện giao thông cũ kỹ lạc hậu vẫn được đưa vào sử
dụng ở trong nước làm ô nhiễm thêm môi trường không khí do khói xe. Trên các
trục giao thông chính của Hà Nội, ô nhiễm do bụi gấp từ 4 - 10 lần, khí CO2,
NO2 vượt từ 2 - 4 lần; SO2 vượt 3 - 15 lần so với tiêu chuẩn cho phép. Môi
trường không khí của Hà Nội đang bị ô nhiễm nghiêm trọng có ảnh hưởng xấu
tới sức khoẻ con người.
Tình trạng ô nhiễm không khí ở thành phố Hồ Chí Minh cũng tương tự. Ô
nhiễm không khí và tiếng ồn gây ra chủ yếu do hoạt động giao thông, sản xuất
công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp của mọi thành phần kinh tế. Theo thống kê
chưa đầy đủ, mỗi năm các loại xe trong thành phố thải ra khoảng 110.000 tấn
xăng, 100000 tấn dầu diezen và thải vào môi trường khoảng 577 tấn bụi, 13,5
tấn chì, 2200 tấn SO2, 2370 tấn NO2, 61110 tấn CO, 630.000 tấn khí CO2… Hầu
như 100% số cơ sở sản xuất đều không có hệ thống xử lý khí thải, tiếng ồn nên
đã gây ô nhiễm cho các khu dân cư lân cận. Các nguồn ô nhiễm đã làm cho chất
lượng không khí ngày càng xấu đi, nồng độ bụi cao hơn tiêu chuẩn cho phép rất
cao.
62
Tóm lại, không khí không phải là thành phần ô nhiễm nhất môi trường
Việt Nam nhưng ở các thành phố lớn, các khu công nghiệp không khí lại ô
nhiễm nghiêm trọng, mà nguyên nhân chủ yếu từ hoạt động sản xuất công
nghiệp, từ giao thông… đã xả ra một lượng khí độc hại vào môi trường, gây suy
giảm chất lượng không khí và dẫn đến ô nhiễm khí quyển. Phát triển kinh tế ở
Việt Nam do chưa có sự gắn kết chặt chẽ với việc bảo vệ môi trường nên sự ô
nhiễm ngày càng tăng bởi sự mất cân đối giữa một bên là quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá và một bên là công tác bảo vệ môi trường, máy móc, thiết bị
xử lý khói thải không được đầu tư phát triển và chú trọng đúng mức. Vai trò
quan trọng của không khí nói riêng và môi trường nói chung đòi hỏi Đảng và
Nhà nước ta trước tiên vừa phải quan tâm đến phát triển kinh tế - xã hội vừa
phải có chính sách và có sự đầu tư cho bảo vệ môi trường một cách hợp lý.
2.1..2.2. Sự suy giảm, cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên
* Tài nguyên biển.
Việt Nam là quốc gia ven biển có diện tích vùng biển độc quyền khoảng 1 triệu km2 tạo ra tính đa dạng về cảnh quan thiên nhiên và nguồn lợi thuỷ sinh
vật. Tuy nhiên, việc khai thác các nguồn lợi thuỷ sản và các hoạt động khác của
cư dân ven biển hiện nay đang đe doạ nghiêm trọng đến đa dạng sinh thái này.
Ngày càng nhiều chất thải không qua xử lý từ trên 100 con sông, các
thành phố, các khu công nghiệp, các khu du lịch ven biển, các khu nuôi trồng
hải sản, các tàu thuyền, các dàn khoan thăm dò dầu khí… làm cho môi trường
biển đặc biệt là khu vực bờ biển bị ô nhiễm, thiếu ô xy trên diện rộng, khiến cho
một số loài sinh vật biển bị đe doạ. Đã có hơn 85 loài hải sản có mức độ nguy
cấp khác nhau và trên 70 loài được đưa vào Sách đỏ Việt Nam. Hiệu quả khai
thác giảm, nguồn giống tự nhiên cũng bị giảm sút nghiêm trọng so với trước
đây.
Phát triển công nghiệp trên bờ và dọc các lưu vực sông lớn cũng đang làm
cho bờ biển nước ta ô nhiễm, có nơi ở mức nghiêm trọng. Nhiều rặng san hô bị
chết, hiện tượng thuỷ triều đỏ xuất hiện ở một số nơi.
63
Việc nuôi trồng thuỷ sản ven biển tràn lan đi liền với nạn phá rừng ngập
mặn đã làm suy thoái mạnh các hệ sinh thái ven biển. Chỉ trong vòng 20 năm
qua, diện tích rừng ngập mặn ở nước ta giảm hơn một nửa. Hậu quả là lũ quét,
triều cường, sóng biển dẫn tới sạt lở bờ biển làm cho các loài sinh vật bị mất nơi
cư trú và suy giảm mạnh về chủng loại và số lượng.
* Tài nguyên rừng.
Rừng của Việt Nam đã trải qua sự phá hoại nghiêm trọng trong vòng 50
năm lại đây. Theo số liệu thống kê, khoảng 60% tổng diện tích đất của nước ta
đã được rừng che phủ (năm 1943), đến 1987 con số này giảm xuống còn 30%.
Việc chặt phá rừng xảy ra trước tiên ở các vùng ven biển và vùng đồng bằng sau
đó mở rộng lên các vùng đồi và núi. Quá trình này càng được đẩy nhanh do hậu
quả chiến tranh phá hoại đối với cả các vùng nông nghiệp và rừng. Hiện tại chỉ
còn khoảng 9,4 triệu ha rừng, chiếm 28,4% tổng diện tích tự nhiên. Đây là một
tỷ lệ đáng báo động về mặt sinh thái đối với một nước nhiệt đới như nước ta.
Mức mất rừng hiện tại được đánh giá khoảng 200.000ha hàng năm, do
chặt phá rừng làm nông nghiệp, cháy rừng, khai thác gỗ và củi đốt. Trong khi đó
mức trồng rừng (theo nhiều chương trình khác nhau) chỉ mới chiếm 7,15% tổng
diện tích đất có rừng.
Xói mòn, sụt lở đất đá đã xuất hiện mạnh ở Lai Châu, Sơn La, Kon Tum,
Quảng Ngãi.
Khô hạn, hoang hoá, bạc màu, xâm nhập mặn, chua phèn hoá nhiều vùng
đất đai rộng lớn, tập trung ở ven biển Đồng bằng sông Cửu Long, Thừa Thiên -
Huế, Ninh Thuận, Bình Thuận (miền Trung)
Suy thoái rừng phòng hộ đầu nguồn xung yếu của các sông quan trọng,
xuất hiện nhiều lũ quét, nghiêm trọng ở lưu vực sông Đà, sông Mã, sông Đồng
Nai, sông Sêrêpok.
Suy thoái nhiều vùng sinh vật cảnh thích nghi của động vật hoang dã,
giảm nhanh mức độ đa dạng sinh học, mất đi nhiều hệ sinh thái tối ưu: rừng
ngập mặn ở Nam bộ và Bắc bộ.
64
* Tài nguyên khoáng sản.
Nước ta nằm trên bản lề vành đai kiến tạo và sinh khoáng cỡ lớn của hành
tinh, vành đai Thái Bình Dương và Địa Trung Hải. Bởi vậy khoáng sản nước ta
rất phong phú về chủng loại, đa dạng về nguồn gốc. Nước ta có khoảng 3500 mỏ
và điểm quặng của 80 loại khoáng sản trong đó có hơn 32 loại và trên 270 mỏ và
điểm quặng đã được đưa vào khai thác.
Về trữ lượng khoáng sản: than có khoảng 3,5 tỷ tấn, bôxit vài tỷ tấn, riêng
mỏ Thạch Khê đạt tới hàng trăm triệu tấn, ngoài ra có các loại kim loại quý như
vàng, bạc, các nguyên tố phóng xạ… Dầu mỏ và khí đốt có trữ lượng lớn: Vịnh
Bắc Bộ 500 triệu tấn, Nam Côn Sơn 4000 triệu tấn, Cửu Long 300 triệu tấn,
vịnh Thái Lan 300 triệu tấn và gần đây lại phát hiện ra các mỏ dầu Lan Tây, Lan
Đỏ có trữ lượng rất lớn…
Nguồn tài nguyên khoáng sản nước ta vô cùng phong phú và đa dạng như
vậy là điều kiện thuận lợi cho phát triển các ngành công nghiệp. Nhưng thực
trạng khai thác và chế biến khoáng sản ở Việt Nam lại vô cùng lãng phí, kém
hiệu quả và gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Kinh tế thị trường không đơn
thuần chỉ thúc đẩy mọi ngành nghề, mọi thành phần kinh tế phát triển mà còn
mở ra nhiều con đường hoạt động sản xuất và thu lợi nhuận. Tuy nhiên, trong đó
có rất nhiều con đường gây hại cho môi trường, sức khoẻ của người dân và an
ninh kinh tế nhưng lại thu lợi rất lớn, đặc biệt là những nguồn lợi trước mắt. Mặt
trái của kinh tế thị trường tác động sâu sắc đến mọi giai đoạn khai thác khoáng
sản làm cho lượng khoáng sản suy giảm nghiêm trọng và môi trường bị ô nhiễm
nặng nề hơn do quá trình khai thác bừa bãi gây ra. Khói bụi làm ô nhiễm không
khí, chất độc làm ô nhiễm nguồn nước, đất đai, trong khai thác đã phá huỷ mọi
cảnh quan và môi trường. Trong điều kiện kinh tế còn thấp kém, khoa học công
nghệ còn lạc hậu công nghiệp khai thác mỏ ở nước ta không chỉ gây lãng phí về
tài nguyên mà còn huỷ hoại môi trường. Ví dụ khu mỏ Quảng Ninh hơn 100
năm qua đã khai thác hơn 200 triệu tấn than, ngoài việc triệt hạ hết rừng tự nhiên
trên đó, các mỏ còn thải ra hơn 1600 tấn đất đá tạo nên nhưng núi chất thải cao
65
hàng trăm mét, những bãi thải hàng nghìn hecta. Mặt đất bị đào bới, sông suối bị
lồi lấp, bãi triều bị xâm lấn, rừng ngập mặn bị tàn lụi, nước bị ô nhiễm bởi cám
than… do sự sơ hở trong quản lý mà hiện tượng khai thác than thổ phỉ tăng
nhanh, với công nghệ, kỹ thuật thô sơ đã làm lãng phí than và gây ô nhiễm môi
trường nặng nề hơn.
Bên cạnh việc khai thác than còn phải kể đến việc khai thác vàng, bạc,
quặng bôxit, kẽm… ồ ạt, không có tổ chức làm suy giảm nhanh chóng những
nguồn tài nguyên khoáng sản này và gây ô nhiễm môi trường (như khai thác
vàng ở Thái Nguyên, thiếc ở Cao Bằng…). Tuy không trong tình trạng đáng báo
động như tài nguyên rừng nhưng cứ với cách khai thác khoáng sản như hiện nay
ở nước ta thì không lâu nữa nguồn khoáng sản sẽ bị cạn kiệt vì đó là nguồn tài
nguyên không thể phục hồi tái tạo nên phải có cách sử dụng, khai thác hợp lý,
tiết kiệm.
* Sự suy giảm đa dạng sinh học.
Đa dạng sinh học là mức độ phong phú của thiên nhiên sống, là toàn bộ
tài nguyên thiên nhiên tạo nên do tất cả các dạng sống trên trái đất. Đa dạng sinh
học không chỉ cung cấp trực tiếp phúc lợi cho con người như lương thực, thực
phẩm, thuốc men, năng lượng… mà nó đang bảo tồn và phát triển cuộc sống của
chúng ta, thế nhưng trong quá trình phát triển kinh tế, đa dạng sinh học đang bị
suy giảm nghiêm trọng.
Theo UNICEP (1995) số loài được mô tả đến 1750000 loài, dao động
trong số lượng có thể từ 3.635.000 đến 11.655.000 loài. Trong tiến trình phát
triển của lịch sử, số lượng loài còn đông gấp bội song nhiều loài trong đó bị tiêu
diệt do con người từ khi con người xuất hiện và phát triển nền văn minh của
mình. Trong vài thập kỷ qua hàng ngàn loài động thực vật bị tiêu diệt hoặc bị đe
doạ tiêu diệt. Nhiều loài, khoa học chưa kịp được biết đến đã bị tiêu diệt hoặc
lâm vào cảnh suy thoái nghiêm trọng. Nếu như tốc độ huỷ hoại tài nguyên cứ
như hiện tại thì 5 - 10 % số loài trên thế giới sẽ bị tiêu diệt vào khoảng thời gian
từ 1990 - 2020 nghĩa là mỗi ngày mất đi khoảng 40 - 140 loài và số loài bị diệt
vong tăng lên 25% vào giữa thế XXI. Việt Nam được xem là một trong những
66
nước thuộc vùng Đông Nam Á giàu và đa dạng sinh học. Hệ thực vật phong phú
về chủng loại mặc dù đã có những tổn thất quan trọng về rừng. Có nhiều loài
cây mà cho đến nay chúng ta vẫn chưa biết đến công dụng của chúng. Hệ động
vật Việt Nam cũng hết sức phong phú. Hiện đã thống kê được 275 loài thú, 830
loài chim, 180 loài bò sát, 80 loài ếch nhái, 472 loài cá nước ngọt, hơn 2000 loài
cá biển và hàng chục nghìn loài động vật không xương trên cạn, ở biển, và ở
nước ngọt. Nguồn tài nguyên thiên nhiên này không những là cơ sở vững chắc
cho sự tồn tại của Việt Nam nhiều thế hệ qua mà còn là cơ sở vững chắc cho sự
phát triển của Việt Nam trong những năm tới. Tuy nhiên, thay vì bảo tồn tài
nguyên quý giá này và sử dụng một cách hợp lý, trong quá trình phát triển kinh
tế, đặc biệt là những năm gần đây nguồn tài nguyên đó đang bị khai thác quá
mức. Quá trình phát triển kinh tế đã tàn phá mạnh mẽ sự đa dạng sinh thái ở một
số vùng. Tài nguyên rừng bị suy giảm nghiêm trọng. Rừng là lá phổi xanh, là
phương tiện tự nhiên điều hoà không khí, dòng chảy, rừng bảo vệ đất, rừng cũng
là môi trường sinh sống của sinh vật. Do vậy, nạn voi dữ ở Tánh Linh, lũ lụt
hàng năm chỉ là một trong những sự nổi giận và trả thù của tự nhiên trước những
hành động của con người trong việc tàn phá tự nhiên.
Kinh tế thị trường cho phép người ta dễ dàng thoả mãn nhu cầu của mình.
Nhiều cá nhân và tổ chức khác nhau vào rừng sâu săn bắt thú rừng bằng nhiều
biện pháp khác nhau để bán ra thị trường thu lợi. Thịt thú rừng là món ăn ngon,
phương thuốc quý… nên số lượng gấu, hổ, khỉ… ít dần đi, thậm chí có loài đã bị
tiệt chủng. Nhưng rất ít người quan tâm đến điều đó, sự tự do buôn bán và kinh
tế thị trường càng kích thích hơn nữa sự phá hoại môi trường. Hiện nay, Sách
Đỏ Việt Nam thống kê phân loại các loài theo mức độ cần được bảo vệ đã quy
định 360 loài thực vật, 350 loài động vật quý hiếm cần được bảo vệ khỏi bị tuyệt
chủng. Nhiều loài động vật quý hiếm như voi, vẹt ngũ sắc, vượn đen, hổ bò
xám, bò tót, trâu rừng, tê giác một sừng (ở Bù Gia Mập hiện còn sót lại một số
con) đã được tổ chức bảo về tài nguyên thiên nhiên quốc tế hỗ trợ. Bên cạnh đó,
các hệ sinh thái vùng cửa sông, ven biển có nhiều nguồn lợi thuỷ sản đang có
chiều hướng giảm sút do việc tăng cường khai thác và do môi trường bị ô nhiễm
nặng nề. Bằng mọi cách, mọi phương tiện con người đang ra sức khai thác các
67
nguồn tài nguyên và môi trường nhằm mang lại nhiều lợi ích nhất cho mình. Sự
suy kiệt của rừng, của đất đai và nhiều loại tài nguyên khoáng sản khác cùng với
sự ô nhiễm nặng nề môi trường sinh thái (đặc biệt là ở các thành phố lớn) là
những bằng chứng rất rõ ràng về sự tàn phá thiên nhiên của con người vì những
mục đích thiển cận.
Tóm lại, thực trạng môi trường ở nước ta trong quá trình phát triển kinh
tế, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã đến lúc cần phải được quan tâm và cần phải
có những biện pháp tích cực để bảo vệ môi trường vì sự ô nhiễm và suy thoái
xảy ra đối với tất cả các yếu tố của môi trường tự nhiên như không khí, nước,
đất, rừng, biển… đã ảnh hưởng xấu đối với sức khoẻ con người và là lực cản đối
với sự phát triển kinh tế - xã hội, tổn hại đến sự đáp ứng nhu cầu của các thế hệ
2.1.2.3. Hậu quả của ô nhiễm môi trường và suy kiệt tài nguyên thiên nhiên
tương lai.
Về sức khoẻ: Môi trường có vai trò đặc biệt đối với sự sống của con
người. Con người tồn tại được là nhờ có bầu không khí, nguồn nước, môi trường
đất và cảnh quan trong sạch, đẹp đẽ, không bị ô nhiễm của môi trường. Những
yếu tố tự nhiên đó phải trong sạch, tươi đẹp, hài hoà thì mới đảm bảo chất lượng
không gian sống cho con người. Nếu do nguyên nhân nào đó, chất lượng của
không gian sống giảm đi (hay nói cách khác là bị ô nhiễm) thì sức khoẻ, sự sống
của con người trong môi trường đó bị huỷ hoại.
Theo số liệu báo cáo hiện trạng môi trường Việt Nam, do ô nhiễm bụi
trong môi trường lao động cao nên tỷ lệ công nhân bị bệnh phổi silic ở một số
ngành nghề rất cao, cụ thể: gần 39,9% ở ngành đúc kim loại, và theo kết quả khảo
sát 275 doanh nghiệp thuộc các ngành như: hoá chất, cơ khí, luyện kim và sản
xuất vật liệu xây dựng cho thấy có 23% số cơ sở này có nồng độ các khí độc hại
vượt tiêu chuẩn cho phép từ 1,5 đến 50 lần, gây ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ của
con người, gây ra các chứng bệnh về đường hô hấp, mắt, thần kinh.
Sự ô nhiễm trong môi trường nước cũng gây ra những nguy hại đáng kể
đối với sức khoẻ con người. Các bệnh tật nảy sinh từ việc sử dụng nước không
đảm bảo vệ sinh, bị ô nhiễm hiện nay vẫn là nguồn chính gây ra tỷ lệ mắc bệnh
68
và tử vong cao ở trẻ em Việt Nam… Bởi vậy, sự khan hiếm và ô nhiễm nước
ngọt đang là vấn đề sinh thái - xã hội rất đáng lo ngại.
Sự nghiệp phát triển kinh tế, công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta do
chưa được gắn kết chặt chẽ với việc bảo vệ môi trường nên ngoài gây ô nhiễm
do bụi, khí thải… còn gây ô nhiễm do tiếng ồn làm ảnh hưởng trực tiếp đến sức
khoẻ con người, gây tổn hại hệ thần kinh, trí tuệ, tình cảm và năng lực làm việc
của con người. Kết quả khảo sát ở 11 cơ sở công nghiệp có mức ồn lớn hơn tiêu
chuẩn cho phép cho thấy tỷ lệ người bị điếc nghề nghiệp lên tới 11%...
Mặt khác sự ô nhiễm môi trường ở các vùng nông thôn cũng đang là một
trong những vấn đề nhức nhối gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức khoẻ con
người. Vùng núi vẫn còn bệnh sốt rét, bướu cổ, suy dinh dưỡng, và nhiều dịch
bệnh… Môi trường thực phẩm vẫn còn nguy cơ bị ô nhiễm, còn nhiều vụ nhiễm
độc thực phẩm tươi sống… Việc ô nhiễm do dùng các hoá chất trừ sâu, diệt cỏ
đã không những làm thay đổi môi trường sinh thái và các sinh vật sống trong
nước mà đã gián tiếp hoặc trực tiếp gây ảnh hưởng tới sức khoẻ con người. Tóm
lại, ô nhiễm và suy giảm môi trường gây ra nhiều hậu quả xấu đối với đời sống
con người.
Như vậy, ô nhiễm và suy giảm môi trường làm cho sức khoẻ của con
người bị ảnh hưởng nghiêm trọng, hạnh phúc của con người giảm xuống do ốm
đau và chết yểu, do suy thoái của chất lượng không khí, nước và những nguy
hiểm khác về môi trường. Các chất gây ô nhiễm có thể làm nảy sinh các vấn đề
về y tế, trực tiếp hoặc gián tiếp do sự thay đổi môi trường vật lý tác động của nó
trải rộng từ bức xạ mặt trời tăng lên tới việc giảm dinh dưỡng. Mối liên quan
giữa các chất gây ô nhiễm và sức khoẻ bắt đầu được phát hiện thông qua những
nghiên cứu về bệnh dịch xảy ra ở những nước có thu nhập cao, hậu quả của nó
càng sâu rộng hơn ở những nước có thu nhập thấp, nơi dân chúng có mức sống
và trình độ dân trí thấp hơn.
Về sản xuất và hiệu quả kinh tế: Sức khoẻ con người bị suy yếu có thể
làm giảm năng suất lao động và sự suy thoái môi trường làm giảm hiệu năng của
nhiều nguồn tài nguyên mà con người sử dụng trực tiếp. Ô nhiễm nước gây tổn
69
thất cho nghề cá. Tình trạng úng ngập và đất đai bị nhiễm mặn làm giảm năng
suất thu hoạch trong nông nghiệp. Một số trường hợp giảm hiệu quả kinh tế do
tài nguyên môi trường mà người dân gián tiếp sử dụng bị hư hại. Chẳng hạn
những lưu vực sông có rừng bị chặt phá nhiều sẽ gây thiệt hại lớn về kinh tế do
lụt ở vùng hạ lưu.
Về tiện nghi sinh hoạt: Phong cảnh đẹp hoặc một không gian trong sạch,
yên tĩnh sẽ bổ sung cho chất lượng cuộc sống con người. Vì vậy, sự suy giảm
môi trường làm tổn hại đến tiện nghi của con người. Nếu môi trường trong sạch
sẽ tạo điều kiện sinh hoạt tốt cho con người, làm cho con người phát triển toàn
diện năng lực thể chất và tinh thần của mình.
Như vậy, hậu quả của ô nhiễm và suy giảm môi trường là rất lớn, nó tác
động tới sức khoẻ, tới mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội , vì vậy đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta cần phải đi đôi với việc bảo vệ môi
trường. Có như vậy mới đảm bảo sự phát triển bền vững lâu dài trong tương lai.
2.2. Thực trạng hoạt động bảo vệ môi trường trong quá trình thực
hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam
2.2.1. Những hoạt động bảo vệ môi trường
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 được đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ IX của Đảng thông qua đã khẳng định quan điểm phát triển
đất nước là “phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi
với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường”. Để giải quyết các
vấn đề về môi trường trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá
đất nước cần phải có sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và hành động, sự
đổi mới trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành và đặc biệt trong tổ chức, triển khai
thực hiện công tác bảo vệ môi trường trong toàn đảng, và toàn xã hội.
2.2.1.1. Thiết lập thể chế, chính sách bảo vệ môi trường
. Hệ thống luật pháp, chính sách liên quan đến bảo vệ môi trường được
xây dựng và ban hành ngày càng hoàn thiện.
70
- Trước hết, là những văn kiện quan trọng của Đảng chỉ đạo về công tác
bảo vệ môi trường của nước ta. Trong các Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VII,
lần thứ VIII, lần thứ IX, lần thứ X đều có những đoạn nêu rõ đường lối, quan
điểm và những nhiệm vụ lớn của nước ta trong thực hiện công nghiệp hoá, hiện
đại hoá phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường để phát triển bền vững đất
nước, gắn nhiệm vụ bảo vệ môi trường với phát triển kinh tế - xã hội.
Trực tiếp về công tác bảo vệ môi trường, ngày 20/6/1998 Bộ Chính trị
Ban chấp hành Trung ương Đảng (Khoá VIII) ra chỉ thị số 36 - CT/TW về tăng
cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hoá và hiện đại hoá
đất nước, đã đặt ra các mục tiêu, xác định các quan điểm và giải pháp cụ thể chỉ
đạo công tác bảo vệ môi trường của nước ta. Chỉ thị 36 - CT/TW đã được triển
khai đến mọi ngành, mọi cấp, đến tận mọi cơ sở để toàn Đảng, toàn dân và các
cấp chính quyền, đoàn thể xã hội cùng chung sức thực hiện nhiệm vụ bảo vệ môi
trường.
Ngày 15/11/2004, Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá
IX) đã ra Nghị quyết số 41 - NQ/TW về BVMT trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nhấn mạnh thêm tầm quan trọng đặc biệt của
công tác bảo vệ môi trường trong phát triển bền vững của Việt Nam. Nghị quyết
nêu rõ 5 quan điểm về bảo vệ môi trường, xác định các mục tiêu tổng quát và 5
nhiệm vụ chung định hướng cho các chính sách lớn về bảo vệ môi trường cần cụ
thể hoá, đưa ra 7 giải pháp chính cần thực hiện.
- Luật bảo vệ môi trường được Quốc hội (khoá IX) thông qua ngày
27/12/1993 là một dấu mốc quan trọng trong việc thể chế hoá các quan điểm về
bảo vệ môi trường trong phát triển bền vững ở nước ta. Luật bảo vệ môi trường
được Quốc hội (Khoá XI) kỳ họp thứ 8 ngày 29/5/2005 thông qua, thay thế cho
Luật Bảo vệ môi trường năm 1993.
Các luật khác có liên quan đến bảo vệ môi trường cũng lần lượt được ban
hành, như: Bộ luật hình sự (sửa đổi) có hiệu lực từ ngày 01/7/2000, trong đó
Chương XVII - các tội phạm về môi trường; Luật bảo vệ sức khoẻ nhân dân
(1981); pháp lệnh bảo vệ đê điều (1989); pháp lệnh thu thuế tài nguyên (1989);
71
pháp lệnh bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản (1989); luật bảo vệ và phát triển rừng
(1991); sửa đổi (2004); luật đất đai (1993; sửa đổi 2003); luật dầu khí (1993);
pháp lệnh thú y (1993); pháp lệnh bảo vệ và kiểm dịch thực vật (1993); pháp
lệnh an toàn và kiểm soát bức xạ (1996); luật khoáng sản (1996); luật tài nguyên
nước (1998); luật khuyến khích đầu tư trong nước (1999); v.v…
- Các kế hoạch, chương trình hành động quốc gia về bảo vệ môi trường
được xây dựng và các ngành, các địa phương đều có kế hoạch, chương trình cụ
thể thực hiện.
. Hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường được xây
dựng đồng bộ từ trung ương đến địa phương và cơ sở.
Thời kỳ những năm 80, công tác bảo vệ môi trường do một vụ thuộc uỷ
ban khoa học và kỹ thuật nhà nước phụ trách. Năm 1993 đã thành lập cục môi
trường thuộc Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường. Đến năm 2002, Bộ tài
nguyên và Môi trường được thành lập; đồng thời cũng có quyết định thành lập
Quỹ môi trường Việt Nam.
Ở các Bộ, ngành, các Vụ khoa học và Công nghệ đều có chức năng quản
lý về công tác bảo vệ môi trường trong ngành mình. Các tỉnh, thành phố trước
đây có Phòng Môi trường nằm trong Sở khoa học, Công nghệ và Môi trường; từ
đầu năm 2003 đã thành lập Sở tài nguyên và Môi trường theo hệ thống ngành từ
trung ương. Cấp quận, huyện, thị xã có cán bộ chuyên trách về môi trường trong
cơ quan quản lý về đất đai - tài nguyên và môi trường thuộc Uỷ ban Nhân dân.
. Công tác thanh tra môi trường đã được tiến hành đều đặn trong những
năm gần đây. Nhiều đợt thanh tra diện rộng, thanh tra định kỳ được tiến hành ở
các tỉnh, các khu công nghiệp, tại nhiều xí nghiệp và khu dân cư. Các cuộc thanh
tra này đã thúc đẩy công tác bảo vệ môi trường tại địa phương và cơ sở tiến
hành tốt hơn, đồng thời cũng phát hiện và xử lý nghiêm túc những hoạt động
gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, kiến nghị những giải pháp cần thiết kịp
thời để ngăn chặn tình trạng gia tăng ô nhiễm.
Riêng năm 1997 đã thanh tra hơn 8.000 xí nghiệp, khoảng 50% xí nghiệp
đã bị xử phạt do gây ô nhiễm vượt giới hạn cho phép, 54 xí nghiệp đã buộc phải
72
đóng cửa. Đã đánh giá và phân thành 3 nhóm xí nghiệp: các xí nghiệp được tiếp
tục hoạt động, các xí nghiệp có thể tiếp tục hoạt động nhưng phải có kế hoạch
cải thiện môi trường, các xí nghiệp phải ngừng hoạt động hoặc di dời địa điểm.
Báo cáo hiện trạng môi trường được thực hiện thường xuyên hàng năm và
có nền nếp thống nhất từ trung ương đến địa phương.
. Đầu tư cho lĩnh vực bảo vệ môi trường ngày càng được chú trọng. Ngoài
mức đầu tư từ ngân sách nhà nước (hiện nay mới chỉ đạt 0,1%, tiến tới nâng lên
theo Nghị quyết số 41 - NQ - TW là 1% tổng chi ngân sách), còn có các nguồn
đầu tư khác; thực hiện các hình thức thu phí bảo vệ môi trường đối với một số
nguồn gây ô nhiễm như: nước thải, khí thải,…; tiến hành thu phí tài nguyên theo
quy định của pháp luật.
2.2.1.2. Sử dụng các công cụ kinh tế trong quản lý tài nguyên và bảo vệ
môi trường
Dưới đây là một số công cụ cơ bản đã và đang được sử dụng tại Việt
Nam:
* Thuế tài nguyên: Ngoài mục đích kinh tế, mục đích môi trường của thuế
tài nguyên là nhằm hạn chế những nhu cầu không thực sự cần thiết và xác định
mức tối đa việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên, khuyến khích những hành vi bảo
đảm sự phát triển bền vững. Năm 1998, Nhà nước đã ban hành Pháp lệnh thuế
tài nguyên sửa đổi (theo Quyết định số 05/ 1998/PL - UBTVQH 10 ngày 16 - 4 -
1998 của uỷ ban Thường vụ Quốc hội ). Pháp lệnh gồm 8 chương, 21 điều quy
định khá chi tiết và cụ thể.
* Thuế, phí môi trường: Để phân biệt thuế môi trường với thuế tài
nguyên, cần hiểu thuế môi trường là loại thuế sử dụng để kiểm soát ô nhiễm,
mục tiêu của thuế môi trường đòi hỏi những người gây ô nhiễm môi trường, làm
thiệt hại cho xã hội phải trả tiền cho việc gây ra thiệt hại đó.
Phí môi trường là các loại phí chủ yếu được tính theo lượng phát thải ra
môi trường gây ô nhiễm và thiệt hại cho môi trường hoặc từ sản lượng quy ra
chất thải gây ô nhiễm. Pháp lệnh phí và lệ phí ban hành ngày 28-8-2001 và bắt
đầu thực hiện từ 01-01-2002 trên cơ sở hướng dẫn thi hành của Nghị định
73
57/2002/NĐ-CP ngày 03-03-2002 về quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh phí và
lệ phí. Hiện nay, phí môi trường của Việt Nam cơ bản có hai loại:
- Phí nước thải: Là công cụ kinh tế đang được triển khai trong cả nước
trên cơ sở nghị định 67/2003/NĐ-CP của Chính phủ ngày 13-6-2003 nhằm hạn
chế ô nhiễm môi trường từ nước thải, sử dụng tiết kiệm nước sạch và tạo nguồn
kinh phí cho Quỹ bảo vệ môi trường thực hiện việc bảo vệ, khắc phục ô nhiễm
môi trường.
- Phí rác thải đô thị: Là công cụ kinh tế được sử dụng khá sớm, chủ yếu sử
dụng ở khu vực đô thị, việc quy định thu phí do UBND thành phố hoặc các tỉnh
quy định, do vậy mức thu phí có thể khác nhau và phụ thuộc vào từng địa
phương.
* Ký quỹ môi trường: Loại công cụ này chúng ta đã có thông tư liên tịch
số 126/1999/TTLT- BTC- BCN- BKHCNMT ngày 22-10-1999 về hướng dẫn
việc ký quỹ để phục hồi môi trường trong khai thác khoáng sản. Trong đó, về cơ
bản có 5 nội dung gồm: đối tượng và mục đích của việc ký quỹ; căn cứ, phương
pháp xác định mức tiền ký quỹ; trình tự thủ tục ký quỹ; quản lý sử dụng tiền ký
quỹ và tổ chức thực hiện. Có thể thấy văn bản này quy định khá rõ ràng và rất cụ
thể cho các đối tượng thực hiện khai thác khoáng sản.
Thực tế vận hành cho thấy, từ khi Thông tư này có hiệu lực đến nay nhiều
tổ chức được cấp phép khoáng sản đẫ đi vao hoạt động khai thác nhưng không
thực hiện nghĩa vụ ký quỹ khôi phục môi trường. Những hành vi vi phạm về ký
quỹ khôi phục môi trường cũng không được xử lý theo quy định. Đối với một số
lĩnh vực khác, như khai thác rừng, khai thác hải sản tự nhiên... chúng ta vẫn
chưa có chế tài cho phục hồi môi trường thông qua ký quỹ môi trường.
* Quỹ môi trường: Là loại công cụ kinh tế được sử dụng khá phổ biến cho
mục đích bảo vệ môi trường, hai loại quỹ cơ bản là:
- Quỹ môi trường quốc gia: Được thành lập theo quyết định số
82/2002/QĐ-TTgngày 26-06-2002 để huy động vố từ các tốt chức, cá nhân
trong và ngoài nước, tiếp nhận vốn đầu tư của nhà nước nhằm hỗ trợ các chương
74
trình, dự án, hoạt động, nhiệm vụ bảo vệ môi trường trên phạm vi cả nước. Quỹ
môi trường Việt Nam bắt đầu đi vào hoạt động từ năm 2004, đã hình thành bộ
máy hoạt động cùng với những cơ chế chính sách để hình thành bộ máy đó.
Trong quá trình hoạt động, Quỹ cũng gặp phải những khó khăn, vướng mắc về
nhân lực, cơ chế cho vay cũng như nguồn vốn bổ sung ngoài vốn điều lệ, khó
khăn trong việc thẩm định, đánh giá công nghệ của các dự án vay vốn…
- Quỹ môi trường địa phương: ở nước ta có thể kể đến Quỹ môi trường Hà
Nội, Quỹ môi trường TP. Hồ Chí Minh. Quỹ môi trường Hà Nội được hình
thành trên cơ sở hỗ trợ của dự án VIE/97/007 với vốn điều lệ ban đầu là
100.000USD. Hiện tại, Quỹ này do Sở Tài nguyên và môi trường Hà Nội quản
lý, chủ yếu hỗ trợ cho vay các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn thành phố
với lãi suất ưu đãi nhằm giảm thiểu ô nhiễm. Quỹ môi trường TP. Hồ Chí Minh
có số vốn ban đầu lớn hơn, mục tiêu chủ yếu là cho vay ưu đãi đối với các doanh
nghiệp có hoạt động sản xuất sạch hơn.
Các cơ chế tài chính khác cũng là một dạng của công cụ kinh tế được sử
dụng cho bảo vệ môi trường như đầu tư cho bảo vệ môi trường, thưởng, phạt
cho ô nhiễm môi trường.
2.2.1.3. Gắn bảo vệ môi trường với phát triển kinh tế xã hội
Để đảm bảo quá trình phát triển bền vững, cần thiết phải xác lập sự cân
đối giữa các yếu tố kinh tế - xã hội- môi trường, kết hợp Chiến lược bảo vệ môi
trường và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội một cách hài hoà ở tất cả các
cấp.
Tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường cùng có mục đích thống nhất là
vì sự phát triển bền vững của xã hội. Nhưng lại có mâu thuẫn với nhau khi lựa
chọn các giải pháp để thực hiện mục đích đó. Thống nhất và mâu thuẫn đó là tất
yếu đòi hỏi con người luôn phải cân nhắc khi chọn lựa những giải pháp cho thực
hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.
Khi cân nhắc phương án phát triển kinh tế - xã hội cho tăng trưởng phải
đồng thời gắn với các công tác bảo vệ môi trường, nhất là những vấn đề môi
75
trường mới nảy sinh do phương án phát triển kinh tế - xã hội đó gây ra. Phương
án phát triển nào cũng có ảnh hưởng xấu đến môi trường. Phát triển để tăng
trưởng; bảo vệ môi trường cũng là để tăng trưởng. Bảo vệ môi trường phải là
một điều kiện trong cân nhắc của bất cứ phương án phát triển kinh tế - xã hội
nào; giải pháp bảo vệ môi trường phải là một bộ phận bắt buộc của phương án
phát triển kinh tế - xã hội.
Biết lựa chọn cái cần hy sinh khi có mâu thuẫn giữa giải pháp phát triển
kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường. Mâu thuẫn không bao giờ là không có, tuỳ
thuộc quan điểm khi cân nhắc, nếu biết chú ý cả yêu cầu tăng trưởng và yêu cầu
bảo vệ môi trường thì mức độ mâu thuẫn không đến mức không thể chấp nhận
được; còn nếu chỉ chú ý vào yêu cầu một phía sẽ làm tăng mức căng thẳng của
mâu thuẫn.
Tóm lại, trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và mở rộng hội nhập
với sức ép của toàn cầu hoá kinh tế quốc tế can thiệp mạnh vào nền kinh tế của
từng quốc gia, thì không thể mỗi địa phương, thậm chí mỗi quốc gia, có thể nghĩ
đến việc muốn phát triển cơ cấu kinh tế toàn diện để không lệ thuộc nhờ cậy vào
cơ sở kinh tế của địa phương khác, quốc gia khác. Mở rộng và tăng cường quan
hệ kinh tế giữa các địa phương, giữa các quốc gia để cùng phát triển và tạo nên
khả năng thoả mãn nhu cầu ngày càng phong phú của đời sống xã hội là một xu
thế tất yếu của xã hội phát triển hiện đại.
2.2.1.4. Tuyên truyền giáo dục bảo vệ môi trường
Đây là một trong những giải pháp quan trọng để thực hiện công tác bảo vệ
môi trường có hiệu quả thiết thực, được Việt Nam rất coi trọng. Các nội dung về
giáo dục môi trường cũng được sớm định hình và đưa vào giảng dạy trong các
trường học kể từ bậc mẫu giáo. Bậc đại học và đào tạo sau đại học đã mở thêm
các ngành đào tạo về môi trường ở nhiều trường đại học với quy mô tăng lên rất
nhanh chóng.
Nhiều hoạt động mang tính quần chúng rộng rãi đã liên tiếp được tiến
hành. Những cuộc mít tinh đông đảo lực lượng các thành phần dân chúng tham
76
gia nhân tổ chức các ngày về bảo vệ môi trường, các hoạt động triển lãm, nhiều
cuộc hội thảo khoa học trong nước và có các đại biểu quốc tế tham dự về các
chủ đề bảo vệ môi trường. Ngày môi trường Thế giới 5/6 được tổ chức hàng
năm với những hoạt động thiết thực thu hút hàng triệu người khắp nơi tham gia.
Những đợt tổ chức nhân Ngày nước sạch thế giới, Tuần lễ nước sạch và vệ sinh
môi trường, các phong trào "Vì thành phố Xanh- Sạch- Đẹp", "Sạch làng tốt
ruộng", xây dựng 3 công trình nông thôn hố xí- nhà tắm- giếng nước, các hoạt
động vận động dọn vệ sinh chung đường phố hàng tuần, vận động không đổ rác
ra đường và giữ gìn đường phố sạch sẽ...liên tiếp tác động và động viên lôi cuốn
đông đảo các tầng lớp nhân dân quan tâm và đóng góp thực sự vào hoạt động
bảo vệ môi trường. Với sự nỗ lực liên tục của mọi cấp, của đoàn thể cộng đồng
và các tổ chức xã hội quần chúng, hoạt động bảo vệ môi trường ở Việt Nam đã
sớm được xã hội hoá và có những kết quả tốt.
Những cuộc thi vẽ, thi ảnh chụp, thi làm phim, làm áp phích, sáng tác bài
hát, hoạt động văn nghệ, thi trên truyền hình,...với chủ đề bảo vệ môi trường gây
nên sự hứng thú và phong phú trong hoạt động, có tác dụng giáo dục rất hiệu
quả.
2.2.1.5. Liên kết quốc tế trong bảo vệ môi trường
Việt nam tuy là một nước chậm phát triển, nhưng lại là một nước rất sớm
hưởng ứng các hoạt động chung về môi trường của thế giới. Các hội nghị
Thượng đỉnh thế giới ở Rio de Janeiro 1992, ở Johannesburg 2002 đều có đoàn
cấp cao của chính phủ Việt Nam tham gia, và sau hội nghị không lâu, Việt Nam
đã hưởng ứng Tuyên bố chung của Hội nghị bằng những chương trình hành
động cụ thể của mình. Cho đến nay, Việt Nam đã ký kết, phê chuẩn và nghiêm
túc thực hiện 15 Công ước quốc tế liên quan đến bảo vệ môi trường và các vấn
đề có liên quan đến phát triển bền vững của nhân loại. Đối với sự hợp tác trong
khối ASEAN, Việt Nam luôn chủ động đề xuất hoặc hưởng ứng những đề xuất
của các nước thành viên trong phối hợp và hợp tác thực hiện phát triển bền vững
ở toàn khu vực Đông Nam Á.
77
Các hội nghị khoa học Quốc Tế, Hội nghị chuyên đề về các vấn đề môi
trường Thế giới, Việt Nam đều có đoàn cán bộ khoa học tham dự và có những
báo cáo tham luận đóng góp vào kết quả chung của các hội nghị. Trong đó có
nhiều lần Việt Nam đứng ra đăng cai tổ chức các Hội nghị khoa học Quốc tế và
được hưởng ứng rộng rãi của các nước tham dự. Những hoạt động này đã gắn
kết Việt Nam với thế giới trong sự nghiệp bảo vệ môi trường chung của Trái đất,
đã thể hiện rõ quan điểm và chủ trương của Việt Nam trong thực hiện phát triển
bền vững và bảo vệ môi trường.
Đồng thời, Việt Nam cũng đã tranh thủ được sự hỗ trợ giúp đỡ của nhiều
tổ chức Quốc tế, của các nước phát triển trong tài trợ thực hiện các dự án nghiên
cứu và giải quyết những vấn đề môi trường đang là vấn đề nan giải của Việt
Nam. Hợp tác song phương với nhiều Chính phủ, tiếp nhận và sử dụng có hiệu
quả sự giúp đỡ về bảo vệ môi trường của các tổ chức Quốc tế, các Chính phủ,
các tổ chức phi chính phủ và các cá nhân. Viện trợ chính thức ODA về môi
trường tại Việt Nam trong giai đoạn 1985 – 2000 đạt mức 2 tỷ USD. Đầu năm
2002 đã thành công trong việc vận động và thành lập Nhóm hỗ trợ Quốc tế trong
lĩnh vực môi trường.
2.2.2. Đánh giá chung về thực trạng bảo vệ môi trường sinh thái và
những vấn đề đặt ra
2.2.2.1. Những thành tựu
Được sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước, sự nỗ lực của các cấp
các ngành, các đoàn thể, sự hưởng ứng của nhân dân và sự giúp đỡ thông qua
viện trợ, cam kết quốc tế, công tác bảo vệ môi trường ở nước ta trong thời gian
qua đã đạt được những kết quả bước đầu hết sức quan trọng trên các mặt sau:
- Điểm nổi bật cơ bản nhất, là chúng ta ngày càng nhận thức rõ hơn vai trò
của bảo vệ môi trường trong sự phát triển bền vững của đất nước. Điều đó được
thể hiện trước hết trong các văn kiện của Đảng. Nghị quyết Đại hội lần thứ IX
của Đảng đã nêu rõ: "phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng cường kinh tế
đi đôi với bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ trường". Theo tinh thần
78
đó, Nghị quyết 41- NQ/TW của Bộ Chính trị đã khẳng định quan điểm chỉ đạo
xuyên suốt về bảo vệ môi trường phải được gắn kết chặt chẽ, hài hoà với phát
triển kinh tế và bảo đảm công bằng xã hội.
Trong xã hội, nhận thức về môi trường cũng ngày càng được nâng cao,
nhất là trong bối cảnh môi trường đã trở thành vấn đề toàn cầu và thực tế trong
nước cho thấy không thể không bảo vệ môi trường, nếu muốn được sống trong
môi trường trong lành và có được sự phát triển bền vững.
- Từng bước xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về
bảo vệ môi trường. Các quan điểm của Đảng về bảo vệ môi trường trong phát
triển bền vững đã nhanh chóng được thể chế hoá bằng các công cụ chính sách,
pháp luật cụ thể. Bên cạnh hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ
môi trường, nhiều chiến lược, kế hoạch cũng đã được ban hành, trong đó phải kể
đến chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến
năm 2020, chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xoá đói, giảm nghèo và Định
hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam (Chương trình nghị sự 21 của
Việt Nam), kế hoạch xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm
trọng. Việc ban hành và áp dụng các công cụ kinh tế trong quản lý bảo vệ môi
trường đã bước đầu được triển khai có hiệu quả. Nhiều bộ, ngành đã ban hành
các quy định, kế hoạch hành động về bảo vệ môi trường trong khu vực mình
quản lý.
- Hệ thống tổ chức quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường đã bắt đầu
được hình thành từ năm 1992 với việc thành lập Bộ khoa học, Công nghệ và môi
trường và cơ sở khoa học, công nghệ và môi trường các tỉnh, thành. Sau khi
thành lập Bộ Tài nguyên và môi trường, bên cạnh việc tăng cường và hoàn thiện
bộ máy quản lý Nhà nước về môi trường cấp bộ, hệ thống quản lý Nhà nước về
môi trường đã được hình thành đến cấp huyện và một số nơi đã bố trí cán bộ
giúp uỷ ban nhân dân cấp xã quản lý môi trường. Hội bảo vệ Thiên nhiên và
Môi trường Việt Nam và các hội viên thành viên ở các tỉnh, thành được thành
lập và đi vào hoạt động ổn định. Nhiều hội nghề nghiệp liên quan đến môi
79
trường cũng được thành lập hoặc tổ chức nhiều hoạt động có hiệu quả về môi
trường.
- Nhiệm vụ tổ chức triển khai thực thi đường lối, chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước về môi trường đã được các cấp, các ngành
đặc biệt chú trọng. Nhiều đề án, dự án, mô hình nhằm ngăn ngừa, ứng phó và
khắc phục ô nhiễm, suy thái và sự cố môi trường đã được thực hiện có kết quả.
Công tác quan trắc và giám sát môi trường đã đặt trọng tâm vào các vùng kinh tế
trọng điểm, các khu công nghiệp, các đô thị, các lưu vực sông bị ô nhiễm nặng,
qua đó cung cấp các thông tin cần thiết cho công tác giáo dục truyền thông, xây
dựng các chương trình, dự án khắc phục ô nhiễm, nhất là ô nhiễm nguồn nước
các lưu vực sông Cầu, sông Đáy, sông Nhuệ, sông Sài Gòn và sông Đồng Nai.
Hệ thống quan trắc môi trường quốc gia đang được tiến hành xây dựng với quy
hoạch mạng lưới trạm quan trắc khí tượng thuỷ văn. Hiện nay số trạm, số điểm
quan trắc đã được phân bổ trên hầu khắc lãnh thổ nước ta và tần suất quan trắc
đã được tăng lên.
- Công tác đánh giá tác động môi trường thời gian qua đã được chú ý, vừa
tạo thuận lợi khuyến khích đầu tư phát triển vừa có tác dụng ngăn ngừa ô nhiễm.
Quy trình thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường đã không ngừng
được cải tiến, hoàn thiện. Công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát thực hiện pháp
luật về bảo vệ môi trường được tăng cường. Việc tổ chức nghiên cứu, áp dụng
tiến bộ khoa học, công nghệ, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực
bảo vệ môi trường không ngừng được đẩy mạnh. Nhiệm vụ tuyên truyền, nâng
cao nhận thức và ý thức về bảo vệ môi trường được đặc biệt coi trọng. Các lớp
đào tạo, tập huấn ngắn hạn trong nước và nước ngoài về môi trường đã được
nâng cao rõ rệt kiến thức về pháp luật môi trường cũng như kỹ năng quản lý cho
cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, các ngành, các doanh nghiệp và các tổ chức xã
hội, hoạt động hợp tác quốc tế về môi trường cũng như kỹ năng quản lý cho cán
bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, các ngành, các doanh nghiệp và các tổ chức xã hội.
Hoạt động hợp tác quốc tế về môi trường không ngừng được củng cố và phát
triển.
80
2.2.2.2. Những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân
* Tồn tại và hạn chế:
Bên cạnh những việc làm được, công tác bảo vệ môi trường vẫn còn nhiều
yếu kém và đang tồn tại nhiều vấn đề cần phải giải quyết một cách tích cực hơn
trong thời gian tới.
Thứ nhất, tư tưởng coi trọng lợi ích cục bộ, trước mắt về kinh tế mà
không chú ý đến lợi ích về môi trường còn khá phổ biến. Hiện tượng xem nhẹ
bảo vệ môi trường, không thực hiện hoặc chỉ thực hiện một cách đối phó còn
xảy ra ở các cấp, các ngành. Nhiều khu công nghiệp, cơ sở sản xuất, dịch vụ
chưa tuân thủ nghiêm túc các quy định về phòng ngừa ô nhiễm, giảm thiểu ô
nhiễm, xử lý chất thải. Tình trạng vứt rác, phong uế bừa bãi, làm mất vệ sinh nơi
công cộng, sử dụng các biện pháp huỷ diệt trong khai thác thuỷ sản, đánh bắt
động vật quý hiếm, thậm chí nhập khẩu chất thải ở nhiều nơi, nhưng chưa có
biện pháp khắc phục kịp thời.
Thứ hai, bộ máy tổ chức quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường tuy đã
được tăng cường một bước, nhưng còn thiếu về số lượng và yếu về năng lực; sự
phối hợp liên ngành, liên vùng còn kém hiệu quả dẫn đến chồng chéo chức năng
trong khi bỏ trống nhiệm vụ quản lý.
Thứ ba, đầu tư cho bảo vệ môi trường còn rất thấp. Các nguồn vốn đầu tư
xây dựng cơ bản chưa chú trọng khâu đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng về bảo vệ
môi trường, nguồn chi thường xuyên của ngân sách nhà nước cho hoạt động sự
nghiệp môi trường còn quá thấp, các doanh nghiệp chưa chú ý tới đầu tư thay
đổi công nghệ, thiết bị, công trình xử lý chất thải nhằm giảm thiểu ô nhiễm môi
trường. So với các nước trong khu vực và trên thế giới, đầu tư bảo vệ môi
trường ở Việt Nam còn rất thấp. Ở Trung Quốc và các nước ASEAN đầu tư cho
môi trường trung bình hàng năm chiếm khoảng 1% GDP, ở các nước phát triển
thường chiếm 3-4% GDP.
Thứ tư, chúng ta chưa có chế tài đủ mạnh nhằm ngăn ngừa các hành vi vi
phạm pháp luật về bảo vệ môi trường, nhất là chậm phát triển các biện pháp
81
kinh tế phù hợp với cơ chế thị trường. Đây là một trong những nguyên nhân cơ
bản dẫn đến việc hầu hết các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ không tuân thủ
quy định pháp luật. Thực tế cho thấy có đến 70% các khu công nghiệp không có
hệ thống xử lý nước thải mà đổ thẳng ra môi trường. Mặc dù, Bộ luật Hình sự đã
ban hành, có dành một chương về tội phạm môi trường, nhưng triển khai trên
thực tế gặp rất nhiều khó khăn do quy định dấu hiệu tội phạm chưa rõ ràng, khó
định lượng hậu quả gây ra cho môi trường.
Thứ năm, chúng ta đang đứng trước thực trạng và những thách thức gay
gắt đối với công tác bảo vệ môi trường. Nguồn tài nguyên nước đang bị ô
nhiễm, chủ yếu là ở các vùng hạ lưu sông do ảnh hưởng chất thải chưa qua xử
lý, xuất phát từ các hoạt động sinh hoạt của dân cư đô thị và các hoạt động sản
xuất công nghiệp. Các dạng thoái hoá đất chủ yếu là: xói mòn, rửa trôi, đất có độ
phì thấp và mất cân bằng dinh dưỡng, đất chua hoá, mặn hoá, phèn hoá, bạc
màu, khô hạn và sa mạc hoá, đất ngập úng, lũ quét, đất trượt và sạt lở, đất bị ô
nhiễm. Trên 50% diện tích đất (3,2 triệu ha) ở vùng đồng bằng và trên 60% diện
tích đất (13% triệu ha) ở vùng đồi núi có những vấn đề liên quan tơi suy thoái
đất. Các yếu tố gây ô nhiễm không khí hiện nay là bụi và khí thải từ sản xuất
công nghiệp và hoạt động giao thông - vận tải rất nghiêm trọng. Chất lượng rừng
và đa dạng sinh học đang là một trong những vấn đề môi trường bức xúc nhất
của nước ta hiện nay. Theo thống kê, diện tích đất có rừng của nước ta hiện nay
vào khoảng 11,5 triệu ha, trong đó 84% là rừng tự nhiên. trong vòng chưa đầy
50 năm, diện tích che phủ giảm từ 43% xuống còn 27% (năm 1990). Sau đó,
nhờ những giải pháp kịp thời, diện tích rừng đã được nâng lên 33% (năm 2001)
và 34,4% (năm 2003). Mặc dù vậy, rừng tự nhiên đầu nguồn và rừng nguyên
sinh chỉ còn chiếm khoảng 13% và rừng tái sinh chiếm 55% tổng diện tích rừng.
Việt Nam được coi là một trong những quốc gia có tính đa dạng sinh học
cao nhất trên thế giới. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, đa dạng sinh học ở
nước ta suy giảm mạnh. Nguyên nhân chính là do cháy rừng, tình trạng phá rừng
bừa bãi và chuyển đổi mục đích sử dụng đất đai (làm đầm nuôi thuỷ sản, xây
dựng đường sá, chuyển đất rừng thành đất nông nghiệp), dẫn đến thu hẹp nơi cư
82
trú và nguồn nuôi dưỡng các giống loài. tình trạng buôn bán trái phép động thực
vật quý hiếm, sử dụng các biện pháp khai thác có tính huỷ diệt và gia tăng ô
nhiễm môi trường cũng góp phần làm suy giảm đa dạng sinh học.
* Nguyên nhân:
- Nước ta tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện điểm
xuất phát rất thấp về kinh tế xã hội, hậu quả chiến tranh (trong đó có vấn đề môi
trường) để lại rất nặng nề. Cùng một lúc vừa đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá vừa hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, tích cực chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế. Vì thế kinh nghiệm, nguồn lực cho bảo vệ môi trường trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn nhiều hạn chế.
- Chưa xây dựng được những luận cứ khoa học cho việc gắn kết công tác
bảo vệ môi trường với quá trình phát triển kinh tế xã hội. Trong bối cảnh đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, môi trường sinh thái nước ta đang
tiếp tục bị ô nhiễm và suy thoái nhanh chóng. Đây là một vấn đề báo động gay
gắt, đòi hỏi phải giải quyết hợp lý mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với phát
triển xã hội và môi trường theo quan điểm phát triển bền vững.
- Nhận thức chưa đầy đủ của các cấp, các ngành và của người dân đối với
công tác bảo vệ môi trường. Trong thời gian tới cần xoá bỏ tận gốc việc chỉ coi
trọng lợi ích cục bộ, lợi ích trước mắt về kinh tế mà thiếu chú ý lợi ích lâu dài.
Đây là tư tưởng chủ đạo, xuyên suốt, liên tục trong quá trình đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nhận thức đó được thể hiện trước tiên trong
việc chỉ đạo xây dựng các chiến lược, quy hoạch kế hoạch phát triển kinh tế xã
hội của các cấp, các ngành, các địa phương, trong đó bảo vệ môi trường phải là
mục tiêu, yếu tố quan trọng không thể thiếu.
2.2.2.3. Những vấn đề đặt ra
Trong những năm qua, với chính sách đổi mới, Việt Nam đã đạt được
nhiều thành tựu quan trọng trên các lĩnh vực kinh tế, văn hoá xã hội, đối ngoại
và an ninh quốc phòng. Đồng thời được Đảng và nhà nước quan tâm, công tác
bảo vệ môi trường đã đạt được những kết quả, bước đầu kiềm chế được tốc độ
83
gia tăng ô nhiễm, khắc phục một phần tình trạng suy thoái và cải thiện một bước
chất lương môi trường ở một số nơi, tạo tiền đề quan trọng để phát triển đất
nước trong thời gian tới. Tuy nhiên, trong giai đoạn từ nay đến năm 2020, môi
trường nước ta đứng trước nhiều vấn đề lớn cả về mặt khách quan và chủ quan.
Một số vấn đề chính là:
- Nhiều vấn đề môi trường bức xúc chưa được giải quyết trong khi dự báo
mức độ ô nhiễm tiếp tục gia tăng.
Những hậu quả do chiến tranh để lại, tác động xấu do một thời gian dài
phát triển kinh tế không chú trọng đầy đủ, đúng mức đền môi trường cùng với
việc các nguồn lực bảo vệ môi trường còn quá hạn hẹp, là nguyên nhân dẫn đến
việc tồn tại nhiều vấn đề môi trường bức xúc chưa được giải quyết.
Nhiều nguồn nước bị ô nhiễm nghiêm trọng, đặc biệt là các ao, hồ, các
dòng sông chảy qua các đô thị lớn, các khu công nghiệp; chất thải rắn đô thị và
công nghiệp có tỷ lệ chất thải nguy hại cao phát sinh hàng ngày rất lớn trong khi
năng lực thu gom và xử lý còn hạn chế; chất thải bệnh viện chưa được xử lý thải
ra môi trường làm lây lan dịch bệnh; khối lượng chất thải nguy hại tồn dư trong
khuôn viên các cơ sở sản xuất rất lớn song chưa có biện pháp giải quyết.
Nhiều cơ sở sản xuất cũ nằm xen kẽ trong các khu dân cư, các làng nghề đang
gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng; sự bùng nổ giao thông cơ giới thường gây
ách tắc, tai nạn giao thông và ô nhiễm không khí đô thị; việc nuôi trồng thuỷ sản tràn
lan, thiếu quy hoạch đang làm suy thoái môi trường và các hệ sinh thái ven biển; tệ
lạm dụng hoá chất, thuốc trừ sâu trong nông nghiệp đang gây ô nhiễm các nguồn
nước, suy thoái đất và đa dạng sinh học nông nghiệp.
Việc nhập máy móc, thiết bị cũ, nhập khẩu chất thải được che giấu dưới
nhiều hình thức trao đổi thương mại đang có nguy cơ biến nước ta thành bãi thải
của các nước công nghiệp phát triển nếu không có giải pháp ngăn chặn hữu hiệu,
kịp thời.
Nạn khai thác khoáng sản và chặt phá rừng bừa bãi lấy đất canh tác cũng
gây nhiều vấn đề bức xúc về môi trường, làm suy giảm đa dạng sinh học.
84
Theo tính toán của các chuyên gia quốc tế và thực tế diễn ra ở nhiều nước,
trung bình nếu GDP tăng gấp đôi thì mức độ ô nhiễm môi trường tăng 3 đến 4
lần. Điều này nói lên rằng, trong giai đoạn tới, nếu không có các biện pháp hữu
hiệu phòng ngừa và kiểm soát ô nhiễm thì hậu quả là môi trường nước ta sẽ bị ô
nhiễm và suy thoái nghiêm trọng.
- Thách thức trong việc lựa chọn các lợi ích trước mắt về kinh tế và lâu
dài về môi trường và phát triển bền vững.
Thời gian tới, yêu cầu đối với nước ta là tiếp tục đẩy mạnh tiến trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá để đến năm 2020 cơ bản trở thành nước công nghiệp
theo hướng hiện đại. Trong điều kiện cơ sở hạ tầng thấp kém, thiếu vốn, thiếu
nguồn nhân lực, tiềm lực khoa học và công nghệ còn hạn chế nếu không ngăn
chặn kịp thời dễ dẫn tới những hành vi chấp nhận, đánh đổi nhiều giá trị, lợi ích
về môi trường để thực hiện các mục tiêu trước mắt đơn thuần về kinh tế. Đây là
thách thức lớn nhất đối với môi trường nước ta, vì khi đã xảy ra theo chiều
hướng này thì việc khắc phục sẽ rất tốn kém, thậm chí trong nhiều trường hợp
không thể thực hiện được.
- Kết cấu hạ tầng kỹ thuật bảo vệ môi trường lạc hậu, nguồn lực bảo vệ
môi trường của Nhà nước và các doanh nghiệp đều bị hạn chế.
Hiện nay, tình trạng kết cấu hạ tầng kỹ thuật bảo vệ môi trường ở đô thị và
nông thôn, cũng như trang thiết bị xử lý ô nhiễm môi trường ở các cơ sở sản xuất,
đặc biệt là ở các xí nghiệp vừa và nhỏ còn rất lạc hậu và thấp kém. Để giải quyết
các vấn đề đang tồn tại về môi trường và hạn chế mức gia tăng ô nhiễm trong thời
gian tới đòi hỏi phải có nguồn lực đầu tư rất lớn cho môi trường, trong khi khả
năng tài chính của Nhà nước cũng như của các doanh nghiệp đều rất hạn hẹp cũng
đặt ra thách thức rất lớn đối với môi trường nước ta.
- Sự gia tăng dân số, di dân tự do và đói nghèo
Tỷ lệ tăng dân số nước ta vẫn đang ở mức cao (khoảng 1,7%/năm), dự
báo đến năm 2020 dân số sẽ xấp xỉ 100 triệu người. Nạn di dân tự do và chặt
phá rừng làm nương rẫy, trồng cây công nghiệp còn khá phổ biến. Vấn đề nghèo
85
đói ở vùng sâu, vùng xa chưa được giải quyết triệt để (hiện có 2.300 xã thuộc
diện đói nghèo). Đây là thách thức sẽ gây sức ép lớn đối với cả tài nguyên và
môi trường trên phạm vi toàn quốc và đòi hỏi phải có chiến lược tài nguyên, môi
trường phù hợp, đi đôi với chiến lược dân số và chiến lược tăng trưởng và xoá
đói, giảm nghèo.
- Ý thức bảo vệ môi trường trong xã hội còn thấp
Nhận thức về trách nhiệm bảo vệ môi trường của các cấp lãnh đạo, các
nhà quản lý, các doanh nhân và cộng đồng còn chưa đầy đủ. ý thức tự giác bảo
vệ môi trường trong cộng đồng còn thấp nên các hành vi gây ô nhiễm, suy thoái
môi trường, tác động xấu đến môi trường còn khá phổ biến. Hậu quả gây ra
trong nhiều trường hợp là rất lớn. Cháy rừng và nhiều sự cố môi trường lớn xảy ra,
ô nhiễm do rác thải nơi công cộng… trong những năm gần đây, đã báo động về các
hành vi vô ý thức và cả có ý thức đang gây hậu quả rất lớn cho môi trường.
Tình trạng này có thể còn kéo dài và sẽ làm phức tạp, chậm trễ trong việc
giải quyết các vấn đề môi trường ở tất cả các cấp, các ngành, các địa phương và
vì vậy sẽ dẫn tới việc môi trường bị huỷ hoại cả về quy mô và mức độ cũng đặt
ra thách thức lớn đối với môi trường nước ta thời gian tới.
- Tổ chức và năng lực quản lý môi trường chưa đáp ứng yêu cầu.
Hệ thống tổ chức quản lý môi trường chưa được hoàn thiện theo chiều dọc
từ trên xuống dưới, cũng như theo chiều ngang ở các bộ/ngành; năng lực quản lý
môi trường còn nhiều bất cập cả về nhận lực, vật lực, trang bị kỹ thuật và về cơ
chế quản lý.
Việc phân công, phân nhiệm trong quản lý môi trường và tài nguyên giữa
các cơ quan quản lý ở Trung ương cũng như ở địa phương còn có sự chồng
chéo, trùng lặp, trong khi có chỗ lại bỏ trống. Sự phối hợp công tác giữa các bộ,
ban, ngành ở Trung ương, giữa các sở, ban, ngành ở tỉnh/ thành cũng như giữa
các địa phương với nhau thiếu hiệu quả, trong khi các vấn đề môi trường thường
phức tạp, mức độ ảnh hưởng lớn, muốn giải quyết tốt cần có cơ chế phối hợp
86
liên ngành hiệu quả. Đây cũng là những tồn tại được coi là thách thức đối với
môi trường nước ta trong những năm tới.
- Hội nhập kinh tế quốc tế đặt ra các yêu cầu ngày càng nâng cao về môi
trường.
Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hoá, nhiều thị trường
tiềm năng trên thế giới, các bạn hàng quốc tế đã đưa ra các yêu cầu ngày càng
cao về môi trường trong giao dịch thương mại. Đây là thách thức lớn đối với các
doanh nghiệp trong nước khi muốn mở rộng thị trường và hội nhập kinh tế quốc
tế. Để vượt qua các thách thức này, Việt Nam cần chủ động nghiên cứu xây
dựng các chính sách đáp ứng theo hướng cải tiến liên tục để hỗ trợ các doanh
nghiệp bảo vệ môi trường và hội nhập kinh tế quốc tế.
- Tác động của các vấn đề môi trường toàn cầu, khu vực ngày càng lớn và
phức tạp hơn.
Những vấn đề môi trường toàn cầu và các vấn đề môi trường khu vực,
chung biên giới đang trực tiếp tác động xấu đến môi trường nước ta. Đó là hiệu
ứng nhà kính, rác thải vũ trụ, suy giảm tầng ôzôn, mưa axit, biến đổi khí hậu,
hiện tượng El-Nino, La-Nina, khói mù do cháy rừng, ô nhiễm biển và đại dương,
dịch chuyển ô nhiễm, mất rừng và suy thoái đa dạng sinh học… Các vấn đề môi
trường xuyên biên giới, các vấn đề môi trường lưu vực sông Mê kông và sông
Hồng cũng đang ảnh hưởng xấu đến môi trường trong nước và tạo nên những
thách thức trong thời gian tới. Mẫu hình tiêu thụ lãng phí, trào lưu văn hoá
không lành mạnh, tệ nạn ma tuý, mại dâm theo dòng toàn cầu hoá sẽ tác động
mạnh đến hành vi của con người cũng sẽ trực tiếp thách thức đối với môi trường
nước ta.
Chương 3
87
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG SINH THÁI
TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ
Ở VIỆT NAM THỜI GIAN TỚI
3.1. Bối cảnh mới và tác động của nó đến bảo vệ môi trường sinh thái
của Việt Nam trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá
3.1.1. Bối cảnh Quốc tế
- Toàn cầu hoá kinh tế quốc tế.
Mối quan hệ giữa công nghiệp hóa, hiện đại hóa và bảo vệ môi trường
trong bối cảnh tốt hay xấu phụ thuộc vào chính sách phát triển kinh tế và bảo vệ
môi trường của từng quốc gia, khu vực và rộng hơn là trên phạm vi toàn cầu.
Kết quả của các hoạt động này thể hiện tính kết quả của chính sách phát triển.
Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa cùng với xu thế toàn cầu hoá đã tạo
điều kiện cho các quốc gia xích lại gần nhau liên kết và xâm nhập lẫn nhau. Bên
cạnh đó, yêu cầu đối với các liên kết mang tính khu vực và bảo vệ quốc gia ngày
càng cao. Một trong những cách để khẳng định chủ quyền và sức mạnh của từng
quốc gia là phải đề ra các chính sách trong luật lệ nhằm duy trì, củng cố và tăng
cường sức mạnh của tài nguyên. Thực tế cho thấy quốc gia nào có tiềm năng về
tài nguyên hay khả năng bảo vệ và duy trì tài nguyên lớn thì thường có tốc độ
phát triển cao và trở thành nước “lớn”.
Các quy định quốc tế về môi trường sẽ tạo ra cơ hội mới và đặt ra những
điều kiện bắt buộc cho các quốc gia, doanh nghiệp phải có chiến lược và chính
sách phát triển đúng đắn, có định hướng và biết cách sử dụng hợp lý các công cụ
kinh tế để quản lý môi trường.
- Những vấn đề môi trường mang tính khu vực và toàn cầu nhìn chung
cũng đang được các quốc gia liên quan tập trung quan tâm, khắc phục, phối hợp
hành động trong các văn bản thoả thuận song phương, đa phương và toàn cầu.
Các biện pháp quản lý thương mại có liên quan đến môi trường ngày càng được
các nước sử dụng như những biện pháp quan trọng của hệ thống hàng rào kỹ
88
thuật. Những biện pháp này thường được gọi là “Hàng rào xanh” cho các nước
phát triển sử dụng tương đối phổ biến, và hiệu quả trong việc kiểm soát nhập
khẩu các sản phẩm liên quan đến môi trường và bảo vệ các ngành sản xuất có
liên quan trong nước.
- Ngoài ra, trong nền kinh tế “không biên giới” hiện nay, sự cạnh tranh
giữa các quốc gia, các ngành hàng và các sản phẩm rất cao, nên các quốc gia và
các doanh nghiệp thường cố gắng chuyển sang sử dụng các công nghệ cao sản
xuất những sản phẩm ngày càng tiết kiệm được nguyên nhiên liệu, để tạo ra
những sản phẩm chất lượng tốt và sạch hơn. Chẳng hạn như phần lớn các nhà
máy sản xuất điện từ than đá ở các nước phát triển đều được lắp đặt các thiết bị
điện hay cơ khí nhằm loại bỏ hầu hết bụi và bồ hóng từ khí đi ra ống khói. Phần
lớn xe hơi được bán ở các nước ngày nay đều chạy bằng xăng không pha chì.
Tuy nhiên, tại các nước đang phát triển, thiết bị thu hồi cặn bụi ở ống khói và bộ
chuyển sử dụng xúc tác ở xe hơi còn chưa phổ biến, do đó ô nhiễm không khí có
nguyên nhân từ hoạt động giao thông vận tải vẫn còn là mối nguy hại nghiêm
trọng đối với sức khoẻ con người. Bên cạnh đó, các quốc gia có nền kinh tế đang
phát triển cũng mở rộng rất nhanh công nghệ sử dụng trong sản xuất mới, hiện
đại nâng cao khả năng bảo vệ môi trường. Xu thế ứng dụng công nghệ mới,
công nghệ “sạch hơn” này sẽ tạo điều kiện cho các quốc gia bảo vệ môi trường
tốt hơn và dần tiến tới sản xuất và tiêu dùng những sản phẩm và công nghệ thân
thiện với môi trường.
Hơn nữa, trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa để tận dụng được
công nghệ, vốn và thị trường nhằm phát triển kinh tế bền vững, các nước đang
phát triển vừa phải chủ động mở cửa, đồng thời phải đưa ra được những chính
sách vừa có lợi cho phát triển kinh tế nhưng vẫn bảo vệ được môi trường và tài
nguyên thiên nhiên. Đây cũng là yếu tố quan trọng để đảm bảo các quốc gia có
thể phát triển bền vững trong xu thế hội nhập.
- Suy thoái kinh tế toàn cầu và ảnh hưởng của nó đến Việt Nam cũng đã
ảnh hưởng không nhỏ đến hợp tác quốc tế trong giải quyết các vấn đề môi
89
trường ở Việt nam cũng như nguồn đầu tư của Việt Nam cho bảo vệ môi trường
trong vài năm tới.
3.1.2. Bối cảnh trong nước
- Hội nhập kinh tế quốc tế.
Từ năm 2007, Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của tổ chức
thương mại thế giới (WTO). Nhiều quy định của WTO đều có các điều khoản về
bảo vệ môi trường, bảo vệ sức khoẻ và sự an toàn của con người, của các loài
động thực vật… Hiệp định rào cản kỹ thuật (TBT) quy định nghĩa vụ thông báo
các yêu cầu kỹ thuật, các quy định đánh giá phù hợp thông qua các “điểm hỏi
đáp” quốc gia. Kể từ ngày có hiệu lực của hiệp định này, có khoảng 2300 thông
báo đã được gửi cho ban thư ký WTO, trong đó có khoảng 11% có liên quan đến
môi trường.
Nhìn chung, các nước đang phát triển trong WTO đều tỏ ra lo ngại về các
quy định liên quan đến môi trường của WTO có thể bị lạm dụng hoặc bóp méo
các cam kết mở cửa thị trường của các nước đang phát triển.
Đối với các nước đang phát triển như Việt Nam, một số “Hàng rào xanh”
do các nước phát triển đưa ra chính là thách thức về môi trường trong hoạt động
Thương mại quốc tế khi gia nhập WTO. Mặt khác, những quy định này cũng tạo
sức ép buộc Việt Nam phải có các biện pháp quyết liệt, tích cực và hiệu quả
trong bảo vệ môi trường sinh thái. Khi chính thức là thành viên của WTO, Việt
Nam được đối xử công bằng hơn trong thương mại quốc tế, nhất là khi các nước
lập hàng rào kỹ thuật đối với Việt Nam. Chẳng hạn, khi muốn muốn áp dụng các
tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật đối với hàng nông sản nhập khẩu từ Việt Nam thì
các nước phải có trách nhiệm thông báo với Việt Nam về quy định kỹ thuật này
ít nhất là trước 60 ngày theo nguyên tắc minh bạch hoá, và cũng phải bảo đảm
rằng những sản phẩm tương tự của họ cũng phải áp dụng những quy định này
theo nguyên tắc đãi ngộ quốc gia.
Gia nhập WTO, Việt Nam sẽ còn có cơ hội giảm thiểu ô nhiễm môi
trường, cải thiện chất lượng môi trường thông qua việc áp dụng các nguyên tắc
90
pháp lý của WTO để xây dựng và sử dụng hợp lý “Hàng rào xanh” nhằm mục
đích bảo vệ các ngành sản xuất trong nước, đồng thời bảo vệ tài nguyên và môi
trường.
Hội nhập kinh tế quốc tế Việt Nam cũng thuận lợi hơn trong việc thu hút
vốn, kinh nghiệm, công nghệ phục vụ cho công tác bảo vệ môi trường.
- Những thành tựu to lớn trong phát triển kinh tế - xã hội sau hơn 20 năm
đổi mới đã tạo điều kiện hết sức thuận lợi cho bảo vệ môi trường trong thời gian
tới.
- Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri
thức theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã bao hàm trong đó những nội dung,
biện pháp, điều kiện thúc đẩy và nâng cao hiệu quả bảo vệ môi trường.
- Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa với các nội dung cơ bản: Nâng cao vai trò và hiệu quả quản lý của nhà
nước, phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành các loại thị trường
cơ bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh, phát triển mạnh các thành phần kinh
tế, các loại hình tổ chức sản xuất, kinh doanh. Đây là nhân tố căn bản đảm bảo
hoạt động bảo vệ môi trường đạt được các mục tiêu đề ra.
3.2. Quan điểm, mục tiêu và nhiệm vụ bảo vệ môi trường trong quá
trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
3.2.1. Quan điểm
- Bảo vệ môi trường đang là vấn đề sống còn của nhân loại; là nhân tố bảo
đảm sức khoẻ và chất lượng cuộc sống của nhân dân; góp phần quan trọng vào
việc phát triển kinh tế - xã hội, ổn định chính trị, an ninh quốc gia và thúc đẩy
hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta.
- Bảo vệ môi trường vừa là mục tiêu, vừa là một trong những nội dung cơ
bản của phát triển bền vững, phải được thể hiện trong các chiến lược, quy hoạch,
kế hoạch, dự án phát triển kinh tế - xã hội của từng ngành, từng địa phương.
Khắc phục tư tưởng chỉ chú trọng phát triển kinh tế mà coi nhẹ môi trường. Đẩu
tư cho bảo vệ môi trường là đầu tư cho phát triển bền vững.
91
- Bảo vệ môi trường là quyền lợi và nghĩa vụ của mọi tổ chức, mọi gia
đình và của mỗi người dân, là biểu hiện nếp sống văn hoá, đạo đức, là sự tiếp
nối truyền thống yêu thiên nhiên, sống hài hoà với thiên nhiên của cha ông ta.
- Bảo vệ môi trường phải theo phương châm lấy phòng ngừa và hạn chế
tác động xấu đối với môi trường là chính kết hợp với xử lý ô nhiễm, khắc phục
suy thoái, cải thiện môi trường và bảo tồn thiên nhiên; kết hợp sự đầu tư của nhà
nước với đẩy mạnh huy động nguồn lực trong xã hội và mở rộng hợp tác quốc
tế; kết hợp giữa công nghệ hiện đại với phương pháp truyền thống.
- Bảo vệ môi trường là nhiệm vụ vừa phức tạp, vừa cấp bách, có tính đa
ngành và liên tục rất cao, vì vậy cần có sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ của các cấp
uỷ Đảng, sự quản lý thống nhất của Nhà nước, sự tham gia tích cực của Mặt trận
tổ quốc và toàn thể nhân dân.
3.2.2. Mục tiêu và nhiệm vụ
Mục tiêu của Việt Nam về bảo vệ môi trường trong thời gian tới là ngăn
ngừa, hạn chế mức độ gia tăng ô nhiễm, suy thoái và sự cố môi trường do hoạt
động của con người và tác động của tự nhiên gây ra; Sử dụng bền vững tài
nguyên thiên nhiên, bảo vệ đa dạng sinh học; Khắc phục ô nhiễm môi trường,
trước hết ở những nơi đã bị ô nhiễm nghiêm trọng, phục hồi các hệ sinh thái đã
bị suy thoái, từng bước nâng cao chất lượng môi trường; Xây dựng nước ta trở
thành nước có môi trường tốt, có sự hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế với thực
hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường; mọi người đều có ý thức
bảo vệ môi trường, sống thân thiện với thiên nhiên.
Nhiệm vụ trọng điểm bảo vệ môi trường của Việt Nam trong những năm
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là:
Thứ nhất, kiên quyết phòng ngừa và hạn chế các tác động xấu đối với môi
trường do đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội.
- Đối với tất cả các phương án phát triển kinh tế - xã hội ở mọi cấp:
+ Phải bảo đảm yêu cầu về môi trường ngay từ khâu xây dựng và phê
duyệt các quy hoạch, dự án đầu tư.
92
+ Khuyến khích việc sử dụng tiết kiệm tài nguyên, năng lượng; áp dụng
ngày càng rộng rãi các kỹ thuật công nghệ sản xuất và sử dụng năng lượng sạch,
năng lượng tái tạo, các sản phẩm và bao bì sản phẩm không gây hại hoặc ít gây
hại đến môi trường. Khuyến khích các cơ sở dùng nguyên liệu tái chế và việc
tiêu dùng các sản phẩm tái chế.
+ Nâng cao trách nhiệm của các cơ sở sản xuất, cơ sở nhập khẩu đối với
người tiêu dùng những sản phẩm do cơ sở đó đã sản xuất, nhập khẩu, bằng việc
quy định phải ghi rõ trên bao bì hướng dẫn cụ thể cách sử dụng và cách thải loại,
nếu dễ gây ra sự cố trong tiêu dùng thì cơ sở đó phải tổ chức việc thu hồi và xử
lý sản phẩm đã qua sử dụng do mình sản xuất, nhập khẩu để dùng vào tái chế
hoặc xử lý loại thải đúng quy trình kỹ thuật bảo vệ môi trường, nhất là những
sản phẩm dễ gây ra ô nhiễm khi tiêu huỷ loại thải.
- Đối với các đô thị và vùng ven đô:
+ Kiểm soát chặt chẽ việc gia tăng dân số cơ học ở các đô thị, ngay cả với
các đô thị loại nhỏ.
+ Quản lý tốt các nguồn ô nhiễm đô thị, công nghiệp. Phải xây dựng các
công trình xử lý nước thải, chất thải rắn tập trung cho các nguồn thải lớn. - Đặc
biệt chú trọng bảo vệ môi trường không khí của các khu dân cư đô thị, hạn chế
mức ô nhiễm bụi, khí thải, tiếng ồn.
+ Chấm dứt nạn đổ rác và xả nước thải chưa qua xử lý đạt tiêu chuẩn môi
trường vào các sông, kênh, rạch, ao, hồ; xử lý ô nhiễm và bảo vệ môi trường các
lưu vực sông, trước hết là đối với các sông ở các thành phố lớn như sông Nhuệ,
sông Đáy, sông Sài Gòn, sông Đồng Nai, sông Cầu, sông Hương, sông Hàn.
+ Khắc phục tình trạng mất vệ sinh nơi công cộng bằng cách bảo đảm các
điều kiện về nơi vệ sinh, phương tiện đựng rác ở những nơi đông người qua lại
và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm.
+ Tăng lượng cây xanh dọc cát tuyến phố và các công viên, hình thành
các thảm cây xanh trong đô thị và vành đai xanh xung quanh đô thị.
93
+ Trong công tác quy hoạch, xây dựng các khu đô thị mới hoặc chỉnh
trang đô thị với quy mô lớn, cần chú ý bố trí diện tích đất hợp lý cho các nhu cầu
về cảnh quan môi trường và xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ cho
công tác bảo vệ môi trường.
- Đối với khu vực nông thôn.
+ Kiểm soát chặt chẽ sử dụng phân hoá học, thuốc bảo vệ thực vật, hoá
chất bảo quản nông sản, thức ăn và thuốc phòng trừ dịch bệnh trong nuôi trồng
thuỷ sản.
+ Phát triển các hình thức cung cấp nước sạch nhằm giải quyết cơ bản
nước sinh hoạt cho nhân dân ở tất cả các vùng nông thôn trong cả nước. Đa dạng
hoá các dịch vụ cung cấp nước sạch và vệ sinh môi trường cho cư dân nông
thôn.
+ Khắc phục cơ bản nạn ô nhiễm môi trường ở các làng nghề, các cơ sở
công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp.
.+ Trong cải tạo và tổ chức lại hạ tầng ở nông thôn, quy hoạch xây dựng
các cụm, điểm dân cư nông thôn phải hết sức coi trọng ngay từ đầu yêu cầu bảo
vệ môi trường sinh thái nông thôn.
- Đối với môi trường sinh thái tự nhiên:
+ Tập trung bảo vệ môi trường các khu trọng điểm; hạn chế và khắc phục
có kết quả hiện tượng xói lở ven biển và dọc các sông phù hợp với quy luật của
tự nhiên; bảo vệ môi trường biển.
+ Bảo vệ nghiêm ngặt rừng tự nhiên, đặc biệt là đối với các khu rừng
nguyên sinh, rừng đầu nguồn, rừng ngập mặn.
+ Quy hoạch phát triển nuôi trồng thuỷ sản quy mô phù hợp với khả năng
chịu tải môi trường.
+ Nghiên cứu một cách toàn diện chế độ, đặc điểm thuỷ văn, dòng chảy,
bồi lắng xói lở, hiện tượng đổi dòng của mạng lưới sông trong khu vực. Xây
dựng mô hình để đánh giá định lượng việc quy hoạch và quản lý các lưu vực
sông.
94
+ Phòng tránh thiên tai, hạn chế thấp nhất mức thiệt hại đối với đời sống
và tài sản của người dân, các công trình văn hoá - lịch sử do ngập lũ, lốc nhiệt
đới, sóng thần.
Thứ hai, khắc phục các khu vực môi trường đã bị ô nhiễm, suy thoái.
- Ưu tiên phục hồi môi trường các khu vực đã bị ô nhiễm nghiêm trọng,
các hệ sinh thái đã bị suy thoái nặng. Trong đó rất đáng chú ý là những vùng
khai thác mỏ than, mỏ khoáng sản.
- Giải quyết cơ bản tình trạng ô nhiễm nguồn nước và ô nhiễm môi trường
nghiêm trọng trong các khu dân cư do chất thải trong sản xuất công nghiệp, tiểu
thủ công nghiệp. Nhanh chóng giải quyết cơ bản tình trạng úng ngập do mưa
lớn, do triều cường ở một số khu vực trong thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí
Minh.
- Từng bước khắc phục các khu vực bị nhiễm độc do hậu quả chất độc hoá
học của Mỹ sử dụng trong chiến tranh.
Thứ ba, điều tra nắm chắc các nguồn tài nguyên thiên nhiên và có kế
hoạch bảo vệ, khai thác hợp lý, bảo vệ đa dạng sinh học.
- Chủ động tổ chức điều tra cơ bản để sớm có đánh giá toàn diện và cụ thể
về các nguồn tài nguyên thiên nhiên và về tính đa dạng sinh học ở nước ta.
- Tăng cường công tác bảo vệ và phát triển rừng. Hạn chế đến mức thấp
nhất việc mở đường giao thông và các hoạt động gây tổn hại đến tài nguyên
rừng. Không để xảy ra tình trạng phá rừng do di dân tự do như đã có trước đây ở
Tây Nguyên. Đẩy mạnh trồng rừng, phủ xanh đất trống, đồi trọc và khôi phục
rừng ngập mặn. Phát triển kỹ thuật canh tác trên đất dốc có lợi cho bảo vệ độ
màu mỡ của đất, ngăn chặn tình trạng thoái hoá đất và sa mạc hoá đất đai.
- Bảo vệ các loài động vật hoang dã, các giống loài có nguy cơ bị tuyệt
chủng; ngăn chặn sự xâm hại của các sinh vật ngoại lai, sinh vật biến đổi gien
gây ảnh hưởng xấu đến con người và môi trường. Bảo vệ và chống thất thoát các
nguồn gien bản địa quý hiếm. Nghiêm cấm triệt để việc săn bắt chim, thú trong
danh mục cần bảo vệ; ngăn chặn nạn sử dụng các phương tiện đánh bắt có tính
95
huỷ diệt nguồn lợi thuỷ, hải sản; quy hoạch phát triển các khu bảo tồn biển và
bảo tồn đất ngập nước.
- Việc khai thác và sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên phải bảo
đảm tính hiệu quả, bền vững và phải gắn với bảo vệ môi trường trước mắt và lâu
dài.
Thứ tư, xây dựng được nếp sống thân thiện với môi trường.
- Giáo dục cho mọi tầng lớp nhân dân ở mọi lứa tuổi về nếp sống văn
minh vệ sinh và bảo vệ môi trường, ý thức giữ gìn vệ sinh chung, xoá bỏ các
phong tục tập quán lạc hậu, các thói quen, nếp sống không văn minh, không hợp
vệ sinh, các hủ tục trong mai táng.
- Xây dựng công sở, xí nghiệp, gia đình, làng bản, khu phố sạch, đẹp đáp
ứng các yêu cầu về vệ sinh môi trường. Mỗi nơi đều có phương án cải tạo môi
trường xanh - sạch - đẹp thích hợp.
- Nhanh chóng xây dựng hệ thống nhà vệ sinh công cộng theo mật độ hợp
lý ở các tuyến phố khu trung tâm các thành phố và những nơi vui chơi công
cộng, các nơi di tích thường có đông người thăm viếng.
- Quan tâm bảo vệ, giữ gìn và tôn tạo cảnh quan môi trường. Thực hiện
các biện pháp nghiêm ngặt để bảo vệ môi trường các khu di tích lịch sử, danh
lam thắng cảnh, nghỉ dưỡng và du lịch sinh thái.
Thứ năm, đáp ứng yêu cầu về môi trường trong hội nhập kinh tế quốc tế.
- Xây dựng và hoàn thiện chính sách và tiêu chuẩn môi trường của nước
ta phù hợp với yêu cầu chung của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. ngăn chặn
việc lợi dụng rào cản môi trường trong xuất khẩu hàng hoá làm ảnh hưởng xấu
đến sản xuất, kinh doanh. Hình thành các cơ chế công nhận, chứng nhận phù
hợp với điều kiện trong nước và tiêu chuẩn quốc tế về môi trường.
- Tăng cường năng lực kiểm soát, phát hiện, ngăn chặn và xử lý nghiêm
mọi hành vi chuyển chất thải, công nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường vào
nước ta.
96
3.3. Các giải pháp chủ yếu bảo vệ môi trường sinh thái trong quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá thời gian tới
3.3.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về môi trường sinh thái và bảo vệ
môi trường sinh thái
Luật Bảo vệ môi trường có vai trò to lớn đối với việc điều khiển hành vi
của con người trong quan hệ với môi trường tự nhiên. Vì thế việc hoàn thiện hệ
thống pháp luật về bảo vệ môi trường, đặc biệt là việc quy định từng điều khoản
cụ thể đối với các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường, là vấn đề có
ý nghĩa lớn đối với công tác bảo vệ môi trường ở nước ta. Hệ thống pháp luật về
bảo vệ môi trường sinh thái ở nước ta phải phù hợp với tình hình thực tế Việt
Nam và thông lệ quốc tế, phải mang tính khả thi và hạn chế được sự tác động
tiêu cực tới môi trường, đồng thời phải mang tính giáo dục sâu sắc đối với mọi
người. Khi hệ thống pháp luật được ban hành cần phải có các giải pháp làm cho
luật đi vào cuộc sống, để mọi người hiểu rõ luật hơn. Chỉ có trên cơ sở hiểu biết
pháp luật người dân mới sống và làm việc theo pháp luật. Từ chỗ hiểu rõ như thế
nào là hành vi vi phạm pháp luật và việc vi phạm đó sẽ gây ra những tác hại gì
đối với sản xuất và cuộc sống, họ sẽ có ý thức hơn trong hành động của mình
đối với môi trường sống.
Kinh tế thị trường ở nước ta đang ở thời kỳ đầu phát triển nên nhiều người
cho rằng chưa cần thiết phải quan tâm đến môi trường sinh thái. Với cơ chế cạnh
tranh khốc liệt thương trường như chiến trường, đã ảnh hưởng rất lớn tới mối
quan hệ giữa con người với con người và thậm chí giữa con người với thiên
nhiên. Trong quá trình phát triển kinh tế vì mục đích lợi nhuận, con người khai
thác ồ ạt tài nguyên thiên nhiên, gây ô nhiễm môi trường, bất chấp những quy
định của pháp luật (như hành vi dùng mìn, thuốc nổ đánh bắt thuỷ sản). Các
chính sách, các quy định của Nhà nước chưa thực sự có hiệu quả vì nhiều
nguyên nhân, nhưng một trong số đó là hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện, còn
nhiều kẽ hở để người ta có thể lách luật. Ban hành các quy định mang tính
97
cưỡng chế, tạo ra hành lang pháp lý cho hoạt động của con người, đặc biệt là tác
động của con người đến tự nhiên nhằm ngăn chặn và trừng phạt những kẻ có
hành vi phá hoại nguồn tài nguyên thiên nhiên, môi trường sinh thái đồng thời
cũng nhằm hướng dẫn, phát huy, khuyến khích những hành động của những
người mang lại những lợi ích cho xã hội lẫn tự nhiên.
Cũng giống như nhiều đạo luật ở nước ta hiện nay, Luật Bảo vệ môi
trường còn mang tính chung chung, ít được phổ biến và hiệu lực thực hiện còn
thấp. Hoàn thiện và tăng cường hiệu lực của pháp luật cũng có nghĩa là phải cụ
thể hoá luật, bổ sung và sửa đổi những điểm cần thiết. Phải xác định rõ quyền sở
hữu và quyền sử dụng tài nguyên thiên nhiên. Trong các văn bản pháp luật phải
có những quy định rõ ràng, cụ thể và chặt chẽ hơn về khai thác tài nguyên. Nhà
nước đã ban hành nhiều văn bản quy định về vấn đề này nhưng hiệu lực của các
văn bản này còn thấp vì tính thực thi chưa cao. Cần hoàn thiện các thủ tục hành
chính và các quy định rõ ràng về các tiêu chuẩn môi trường, giám sát môi trường
và xử lý vi phạm về bảo vệ môi trường.
Hoàn thiện và tăng cường hiệu lực của pháp luật bảo vệ môi trường có
nghĩa là hoàn thiện phần khung trong quá trình bảo vệ môi trường của quốc gia.
Chỉ có pháp luật mới có sức cưỡng chế và khuyến khích nhân dân tự nguyện
tham gia bảo vệ môi trường. Tránh tình trạng bọn tội phạm môi trường lợi dụng
kẽ hở của pháp luật để luồn lách. Đây chính là giải pháp cơ bản đầu tiên cần đặt
ra để nâng cao hiệu quả bảo vệ môi trường trong phát triển kinh tế, đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
3.3.2. Hoàn thiện cơ chế chính sách và tổ chức bộ máy quản lý môi
trường sinh thái
Tăng cường năng lực quản lý và các điều kiện đảm bảo cho hoạt động của
hệ thống quản lý môi trường ở trung ương, đặc biệt là phục vụ công tác thanh
tra, kiểm tra, giám sát về môi trường. Hình thành và phát triển hệ thống quản lý
môi trường ở địa phương theo hướng kết hợp quản lý tài nguyên với quản lý môi
trường đủ mạnh ở các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, hình thành bộ
98
phận quản lý môi trường kết hợp với quản lý tài nguyên ở cấp huyện, có cán bộ
chuyên trách về môi trường và tài nguyên ở cấp xã.
Xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý tài nguyên và môi trường, lực lượng
thanh tra, kiểm tra, triển khai thường xuyên, định kỳ, đột xuất các đợt thanh tra,
kiểm tra và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm nhằm bảo đảm Luật Bảo vệ
môi trường được thực hiện nghiêm chỉnh.
Sự thiếu đồng bộ về chính sách và pháp luật cũng như thiếu kinh nghiệm
quản lý trong lĩnh vực môi trường là kẽ hở để các doanh nghiệp tổ chức hoạt
động kinh doanh, sản xuất chỉ tập trung tìm kiếm lợi nhuận mà quên mất lợi ích
của toàn xã hội. Một vấn đề đặt ra là các nhà đầu tư nước ngoài đang tìm cách di
chuyển các thiết bị, công nghệ cũ, lạc hậu vốn không có chỗ đứng ở thị trường
mang tính cạnh tranh cao và việc quản lý môi trường rất nghiêm ngặt tại nước
họ sang Việt Nam. Nếu chỉ vì mục tiêu giải quyết công ăn việc làm, cải thiện đôi
chút nền kinh tế thì hậu quả ô nhiễm môi trường sau này sẽ khó lường hết được.
Do vậy ngay từ bây giờ chúng ta phải nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề
quản lý môi trường sinh thái để đề ra các quyết sách cần thiết:
- Xây dựng và đưa vào thực tiễn các chính sách ưu đãi về đầu tư cho các
hoạt động về bảo vệ môi trường, cải thiện môi trường khắc phục hậu quả suy
thoái môi trường. Đối với các dự án, công trình bảo vệ môi trường cần có những
ưu đãi như miễn thuế, miễn phí, cho vay tín dụng… khuyến khích đầu tư các dự
án ứng dụng công nghệ sạch, ít chất thải, triển khai xây dựng các nhà máy, xí
nghiệp xử lý chất thải.
- Sử dụng công nghệ sạch là một hướng quan trọng cần khuyến khích.
Tăng cường quản lý môi trường sẽ đòi hỏi cải tiến và đổi mới công nghệ. Nếu có
các chính sách mở rộng cấp giấy phép chuyển giao công nghệ chấp nhận việc
mua bán bằng sáng chế, bảo hộ sáng chế sẽ làm tăng tốc độ truyền bá công nghệ
sẽ là môi trường thuận lợi cho việc ứng dụng công nghệ sạch vào sản xuất.
99
- Nhanh chóng xây dựng quy hoạch mạng lưới hệ thống quan trắc về môi
trường. Đây là một thành phần quan trọng của hệ thống quản lý và kế hoạch hoá
về môi trường.
- Cần có chính sách và biện pháp thúc đẩy, áp dụng các công cụ kinh tế
trong bảo vệ môi trường [5].
+ Về thuế, trước hết cần xem xét lại tính phù hợp của hệ thống thuế tài
nguyên đối với việc bảo vệ môi trường để tiếp tục điều chỉnh. Đối với thuế ô
nhiễm, nên có lộ trình nghiên cứu và thử nghiệm, và việc xây dựng, thuế này
cần cân đối với các loại thuế khác để không làm ảnh hưởng đến đầu tư cũng như
hoạt động kinh doanh bình thường của các doanh nghiệp.
+ Về phí: Trên cơ sở những phí hiện nay, chúng ta đã có như phí nước
thải, phí rác thải, cơ quan hoạch định chính sách môi trường cần tiếp tục nghiên
cứu và hoàn thiện các loại phí này phù hợp với thực tiễn khách quan, đảm bảo
mục tiêu giảm thiểu ô nhiễm và có nguồn thu cho quỹ môi trường. Tiếp tục xây
dựng nghị định thu phí rác thải, khí thải, phí ô nhiễm do khai thác khoáng sản.
+ Nhãn môi trường, đây là công cụ kinh tế rất có ý nghĩa cho người tiêu
dùng vì hình ảnh của doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp tham gia sản
xuất hàng xuất khẩu. Tuy nhiên đây là một công cụ mang tính tự nguyện, nên
đòi hỏi phải có sự chuẩn bị, tuyên truyền sâu rộng và nâng cao nhận thức của
doanh nghiệp.
+ Hệ thống đặt cọc hoàn trả: Đặt cọc hoàn trả xuất hiện có tính tự phát
giữa các đối tác trong cơ chế thị trường liên quan đến thu gom chất thải phục vụ
cho tái chế, tái sử dụng và mang lại hiệu quả kinh tế cao dựa trên nguyên tắc
“Đôi bên cùng có lợi”. Hiện nay chúng ta chưa có chính sách hay quy định một
cách rõ ràng cho công cụ này phát huy tác dụng, chính vì vậy những năm tới cần
có những nghiên cứu và quy định cụ thể để tạo điều kiện cho công cụ này phát
huy tốt hơn. Cần sớm có quy định về đặt cọc hoàn trả đối với các loại ắc quy và
pin khi đã hết hạn sử dụng.
100
+ Ký quỹ môi trường: Trên cơ sở thông tư liên tịch số 126/1999/TTLT-
BTC- BCN- BKHCNMT, cần phải đánh giá, xem xét lại tính hiệu quả của nó và
lý do vì sao các doanh nghiệp không thực hiện, từ đó có những điều chỉnh để
Thông tư này thực sự phát huy tác dụng. Tiếp tục nghiên cứu và ban hành cho
một số lĩnh vực khác như khai thác rừng, xây dựng trong đô thị...
+ Quỹ môi trường: Đối với Quỹ môi trường quốc gia, vấn đề quan trọng
là tiếp tục hoàn thiện về tổ chức và cơ chế hoạt động để tạo mọi điều kiện cho
quỹ này phát huy vai trò của nó như mục tiêu hình thành quỹ đã đề ra. Trên cơ
sở tổ chức nhân sự ổn định, đáp ứng đủ nhu cầu công việc; cần tập trung vào hai
vấn đề quan trọng nhất trong hoạch định chính sách tiếp theo là: nguồn thu cho
quỹ và cơ chế giải ngân hiệu quả, tránh tình trạng tồn đọng vốn quá nhiều, khả
năng giải ngân rất hạn chế.
+ Giấy phép thải có thể chuyển nhượng: Mặc dù là công cụ được hình
thành trong bối cảnh cạnh tranh khá hoàn hảo, nhưng với việc tác động của nghị
định thư Kyoto. xét về bản chất, chúng ta được quyền bán phát thải cho các quốc
gia khác trên cơ sở đầu tư tài chính của họ vào Việt Nam, đặc biệt là việc thực
hiện cơ chế phát triển sạch (CDM). Chính vì vậy, cần hoàn thiện các chính sách
liên quan và nghiên cứu kỹ lưỡng nguyên tắc và nội dung Nghị định thư Kyoto
để CDM phát triển tốt ở Việt Nam. Sau năm 2020, có thể cần thực hiện cấp
quota phát thải trong nước là bước phát triển cao hơn sau phí thải, công cụ này
có thể được sử dụng cho khai thác hải sản tự nhiên, nước thải và đặc biệt là khí
thải, tạo ra một sân chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp trên thị trường cạnh
tranh về công nghệ phát thải.
3.3.3. Hoàn thiện hệ thống chính sách thúc đẩy quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá gắn với bảo vệ môi trường sinh thái.
Thực hiện các quan điểm chỉ đạo của đại hội Đảng IX, trong quá trình
thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá cần có sự quy hoạch chặt chẽ, phù hợp
với tình hình thực tiễn. Việc xây dựng các cơ sở sản xuất công nghiệp phải đảm
bảo sản xuất có hiệu quả đồng thời phải kết hợp với chống ô nhiễm môi trường,
101
hạn chế các chất thải, khói bụi, chất thải rắn từ các nhà máy, xí nghiệp, các cơ sớ
sản xuất công nghiệp, thủ công nghiệp, từ các làng nghề, và hạn chế các chất
thải độc hại do các phương tiện giao thông vận tải gây ra…
Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, khi tiến hành xây dựng
một nhà máy mới, một khu công nghiệp, một liên doanh khai thác du lịch hay
lập một khu đô thị mới, một khu chế xuất mới… thì ngoài các chỉ tiêu về kinh
tế, cần phải tính đến một cách đầy đủ, toàn diện các khía cạnh về bảo vệ môi
trường, đặc biệt là những tác động có hại đến sự sống, coi đó như những điều bắt
buộc, để có những biện pháp chủ động đề phòng, xử lý kịp thời, hợp lý. Chẳng hạn
như xây dựng riêng một khu công nghiệp ở xa trung tâm thành phố và xa nơi tập
trung dân cư. Đặc biệt, trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp,
nông thôn những năm tới cần phải quán triệt quan điểm của Đảng là kết hợp phát
triển ngành và vùng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, gắn chiến
lược phát triển, quy hoạch phát triển vùng để qua đó đánh giá tác động môi trường
nhằm hạn chế các hậu quả tiêu cực đối với môi trường.
Để khắc phục hậu quả ô nhiễm môi trường do các phương tiện giao thông
cơ giới gây ra, trong thời gian tới cần phải tiến hành đánh giá các tác động môi
trường một cách cẩn thận ngay từ bước xem xét phương án tiền khả thi, nhất là
đối với các dự án lớn về sản xuất và nhập khẩu các phương tiện giao thông, hạn
chế và đi đến cấm nhập khẩu các loại phương tiện giao thông đã qua sử dụng.
Cần duy trì và thực hiện tốt hơn nữa việc sử dụng nhiên liệu sạch như thay thế
xăng pha chì bằng xăng không pha chì… Kịp thời mở rộng mạng lưới giao
thông cho các đô thị lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí
Minh, đồng thời tổ chức tốt hơn hệ thống giao thông công cộng ở các thành phố
này.
Đối với vấn đề hạn chế các tác hại đối với môi trường do phát triển năng
lượng gây ra, cần có các chính sách nhằm khuyến khích phát triển năng lượng
sạch như năng lượng gió, thuỷ điện, điện địa nhiệt, sử dụng công nghệ tiêu thụ ít
102
năng lượng hoặc không gây ô nhiễm môi trường; triển khai mạnh mẽ chương
trình tiết kiệm năng lượng.
Trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá. hiện đại hoá phải hết sức
tranh thủ công nghệ tiên tiến hiện đại, ứng dụng công nghệ sạch vào quá trình
sản xuất để hạn chế tối đa các chất thải gây ô nhiễm môi trường.
Công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta trong thời gian qua đã
đạt được nhiều thành tựu quan trọng cả về kinh tế và xã hội. Nhưng đi đôi với sự
tăng trưởng ấy cũng có nghĩa là một khối lượng lớn tài nguyên nước ta được
khai thác từ tự nhiên để chế biến và bên cạnh nó là một khối lượng chất thải
càng ngày càng lớn đã thải ra môi trường từ sản xuất và tiêu dùng, gây ra ô
nhiễm nghiêm trọng, tạo nên sức ép đối với môi trường sinh thái, đòi hỏi phải có
sự can thiệp không chỉ ở bàn tay mà còn ở khối óc, trí tuệ của con người.
Chính vì lẽ đó để có thể nhanh chóng khắc phục và hạn chế tới mức tối
thiểu tác hại của chất thải gây ra đối với môi trường- trong khi sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước về cơ bản là chưa phát triển, đất nước chưa
thể tự tạo ra được nhiều máy móc với công nghệ hiện đại để đáp ứng các yêu
cầu cấp bách mà môi trường đang đặt ra cho đất nước - ngay từ bây giờ chúng ta
phải sử dụng nó có chọn lọc các công nghệ hiện đại - công nghệ có hàm lượng
chất xám cao và công nghệ sạch của các nước phát triển. Bởi vì nước đi sau như
nước ta không thể dùng chiến lược đuổi kịp về công nghệ, vì khi ta đã đuổi kịp
và vượt lên thì công nghệ đó đã lỗi thời và bị loại trừ. Hơn nữa trên thế giới hiện
nay xu thế phát triển của loài người đang đi dần vào phát triển kinh tế tri thức
mà thực tế đã bắt đầu xuất hiện ở một số nước phát triển như Mỹ, Nhật bản,
Anh… Chính vì vậy chúng ta không thể thực hiện phát triển đất nước một cách
tuần tự hết giai đoạn này đến giai đoạn khác, lặp lại con đường của các nước đi
trước. Đảng ta đã xác định chiến lược đó phải là đi tắt đón đầu tận dụng được
các thành quả tiên tiến của các nước phát triển để ứng dụng vào phát triển thành
công sự nghiệp công nghiệp hoá của đất nước mình. Do vậy bên cạnh các biện
pháp kể trên, để giải quyết các nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường do chất
103
thải từ quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá thải ra, chúng ta không
thể không dùng đến biện pháp sử dụng khoa học - công nghệ tiên tiến và hiện
đại. Vì nó chính là phương pháp hữu hiệu nhất để kết hợp các mục tiêu kinh tế
và sinh thái.
Nhờ việc vận dụng các công nghệ hiện đại đó, chúng ta có thể thực hiện
đưa vào ứng dụng trong sản xuất ở các nhà máy, doanh nghiệp… các dây
chuyền thiết bị, máy móc hiện đại giúp tiết kiệm thời gian, tiết kiệm sức người,
sức của cũng như tiêu hao ít nhiên liệu, hạn chế sử dụng tài nguyên thiên nhiên,
xử lý chất thải tốt, tái sử dụng chất thải…giúp hạn chế tối đa nguyên nhân gây ô
nhiễm môi trường.
Tuy nhiên, để có thể thực hiện tốt biện pháp này chúng ta cần phải chú
trọng đầu tư phát triển nguồn nhân lực, giáo dục - đào tạo để nâng cao trình độ
tri thức cho người lao động cũng như cho cả cán bộ quản lý để trong quá trình
nhập công nghệ mới từ nước ngoài chúng ta phải biết và đủ sức lựa chọn, nghiên
cứu, làm chủ, thích nghi với các công nghệ nhập, ứng dụng có hiệu quả vào sản
xuất, tiếp theo là cải biến công nghệ nhập trở thành của mình, tận dụng tối đa
những thành tựu khoa học và công nghệ thế giới. Đồng thời nhờ đó ta sẽ có đủ
trình độ và khả năng thẩm định để nhập các công nghệ tiên tiến hơn công nghệ
đã có trong nước, kiên quyết không nhập công nghệ gây ô nhiễm môi trường với
bất kỳ điều kiện nào…
3.3.4. Tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền và giáo dục, đào
tạo về bảo vệ môi trường sinh thái
Thực trạng thiếu hiểu biết về môi trường, về vai trò và ý nghĩa của môi
trường đối với đời sống con người và các biện pháp phòng chống ô nhiễm môi
trường là một nguyên nhân quan trọng tác động xấu đến môi trường cũng là một
trở ngại lớn trong việc tìm kiếm các giải pháp bảo vệ môi trường. Mọi công dân
cần phải có nhận thức và hành động bảo vệ môi trường, coi việc phòng ngừa sự ô
nhiễm tốt hơn là để bị ô nhiễm rồi mới chống. Truyền thông môi trường là một quá
trình tương tác hai chiều, giúp cho mọi đối tượng tham gia vào quá trình cùng tạo
104
ra và cùng chia sẻ với nhau các thông tin môi trường với mục đích đạt được sự hiểu
biết chung về các chủ đề môi trường có liên quan và từ đó cùng chia sẻ trách nhiệm
bảo vệ môi trường. Hiểu biết chung sẽ tạo ra được nền móng của sự nhất trí chung
và từ đó có thể đưa ra những hành động tập thể bảo vệ môi trường. Hiểu biết về
môi trường có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp làm thay đổi thái độ, hành vi của
con người trong cộng đồng. Từ đó thúc đẩy họ tự nguyện tham gia vào các hoạt
động bảo vệ môi trường, từ đơn giản nhất đến phức tạp nhất. Không chỉ tự mình
tham gia mà còn lôi cuốn những người khác cùng tham gia, tạo nên kết quả chung
của toàn xã hội. Chính vì vậy, tuyên truyền về bảo vệ môi trường là một trong
những biện pháp hữu hiệu nhất.
Tuyên truyền, giáo dục về bảo vệ môi trường là việc phổ biến kiến thức
về môi trường, nhằm nâng cao nhận thức, hình thành ý thức, hành vi tích cực
bảo vệ môi trường. Có nhiều hình thức, nội dung trong tuyên truyền và giáo dục
về bảo vệ môi trường như tuyên truyền dưới dạng tờ rơi hay mở các lớp huấn
luyện, tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về môi trường và bảo vệ môi trường… Để
đạt hiệu quả cao, trong thời gian tới cần đưa nội dung bảo vệ môi trường vào
chương trình giáo dục của tất cả các bậc học trong hệ thống giáo dục quốc dân.
Cần bố trí chương trình dạy và học sao cho liên tục trong suốt quá trình học phổ
thông của học sinh để có ý thức thường xuyên và dần trở thành tiềm thức bảo vệ
môi trường… Tạo điều kiện và khuyến khích để người dân thường xuyên nhận
được các thông tin về môi trường như một biện pháp cơ bản bảo vệ môi trường.
Động viên và hướng dẫn nhân dân thực hiện nếp sống sạch, hợp vệ sinh, giữ gìn
vệ sinh công cộng. Và cần tiếp tục đẩy mạnh các phong trào quần chúng bảo vệ
môi trường như phong trào xanh - sạch - đẹp, vườn - ao - chuồng, vườn - ao-
chuồng - rừng, tuần lễ nước sạch và vệ sinh môi trường… Ngoài ra cũng nên có
những hoạt động tuyên truyền về tác hại của ô nhiễm môi trường ở các cấp, các
nơi, và bằng nhiều hình thức khác nhau cho các tầng lớp xã hội khác nhau. Như
vậy giáo dục và tuyên truyền cho bảo vệ môi trường là phương pháp chi phí thấp
nhất nhưng hiệu quả lại cao nhất. Nếu làm tốt thì có thể biến ý thức bảo vệ môi
trường thành một chuẩn mực đạo đức và trách nhiệm xã hội cho công dân.
105
Cán bộ, chuyên gia về lĩnh vực môi trường là hạt nhân trong hệ thống
chuyên trách tác nghiệp về môi trường. Do vậy, muốn bảo vệ môi trường hiệu
quả cần tổ chức hệ thống đào tạo cán bộ, chuyên gia thuộc lĩnh vực môi trường
với đủ các cấp độ, các loại ngành nghề đồng bộ, đáp ứng được công tác bảo vệ
môi trường. Nên thành lập những khoa, chuyên ngành về bảo vệ môi trường,
hoá nghiệm môi trường trong các trường đại học chuyên ngành. Ngoài ra cũng
cần chú trọng và phát triển ngành công nghệ môi trường phù hợp với điều kiện
nước ta.
Như vậy, tuyên truyền, giáo dục là một trong những biện pháp nhằm nâng
cao hiệu quả bảo vệ môi trường trong thời kỳ hiện nay. Bởi bảo vệ môi trường là
một vấn đề xã hội mà cần có ý thức tự giác thực hiện hơn là các biện pháp
cưỡng chế. Không có một văn bản pháp luật nào có thể bắt nhân dân không
dùng thuốc trừ sâu bừa bãi trong nông nghiệp, dùng mìn hoặc thuốc nổ trong
khai thác thuỷ sản nếu người dân không hiểu được những tác hại của những
hành động trên và sự nghiêm cấm của pháp luật đối với những hành động đó.
Một trong những giải pháp quan trọng trong giáo dục về bảo vệ môi trường
là giáo dục cho mọi người thấy được các vấn đề văn hoá trong bảo vệ môi trường.
Văn hoá môi trường là sự tổng hợp những tri thức, giá trị, chuẩn mực, biểu trưng về
khai thác tài nguyên và ứng xử với môi trường của con người được đúc kết từ kinh
nghiệm thực tiễn trong quá trình tương tác với tự nhiên.
3.3.5. Mở rộng hợp tác quốc tế trong bảo vệ môi trường.
Môi trường quốc gia liên quan đến môi trường khu vực và toàn cầu, vì
vậy sự nghiệp bảo vệ môi trường của nước ta gắn với sự nghiệp bảo vệ môi
trường trong khu vực và trên toàn thế giới. Mở rộng hợp tác quốc tế bảo vệ môi
trường, đáp ứng yêu cầu về môi trường trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Thực hiện đầy đủ các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia, các hoạt động
hợp tác quốc tế song phương và đa phương về môi trường, chú trọng nâng cao
năng lực đội ngũ cán bộ để đảm bảo hiệu quả các hoạt động trên. Tăng cường
hợp tác với các quốc gia có chung đường biên giới, nhất là có chung các con
106
sông để bảo vệ môi trường khu vực biên giới và kiểm soát ô nhiễm xuyên biên
giới.
Mở rộng hợp tác quốc tế về môi trường trên tinh thần tôn trọng và thực
hiện nghiêm túc các công ước quốc tế mà nước ta đã ký kết tham gia. Tận dụng
triệt để sự hỗ trợ từ bên ngoài cho các hoạt động bảo vệ môi trường. Ưu tiên mở
rộng quan hệ quốc tế về bảo vệ môi trường trong phạm vi khu vực dưới hình
thức thiết lập các chương trình, dự án đa phương và song phương. Đặc biệt, chú
ý mở rộng mối quan hệ hợp tác đôi bên cùng có lợi trong lĩnh vực bảo vệ môi
trường với các nước láng giềng.
Đẩy mạnh hợp tác với các tổ chức quốc tế như: Chương trình phát triển
của Liên Hợp Quốc (UNDP); Chương trình Môi trường Liên hợp quốc (UNEP);
Ngân hàng thế giới (WB); Quỹ môi trường toàn cầu (GEF); Các tổ chức chính
phủ, Các tổ chức phi chính phủ... nhằm tranh thủ sự hỗ trợ của họ, sử dụng hiệu
quả cho công tác bảo vệ môi trường.
Hàng năm tổ chức diễn đàn các nhà tài trợ, tiến hành các hoạt động trao
đổi thông tin, nhằm phối hợp các nguồn viện trợ cho các chương trình, dự án
hợp tác về môi trường và tăng cường hiệu quả của việc sử dụng các nguồn vốn
tài trợ từ nước ngoài cho lĩnh vực bảo vệ môi trường.
107
KẾT LUẬN
Toàn bộ những nghiên cứu trong luận văn cho phép đi tới những kết luận
sau đây:
- Môi trường sinh thái có vai trò đặc biệt quan trọng đối với phát triển bền
vững của các quốc gia và đối với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở các
nước đang phát triển. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá có mối quan hệ, tác động
qua lại biện chứng, mang tính hai mặt với môi trường sinh thái. Bảo vệ môi
trường sinh thái là vấn đề hết sức bức thiết, mang tính toàn cầu đặc biệt là đối
với các nước đang tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
- Trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, do
nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, môi trường sinh thái của Việt Nam
đã và đang bị suy thoái, ô nhiễm nặng nề, tài nguyên thiên nhiên đang dần bị suy
kiệt.
- Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Việt Nam đã tiến hành
nhiều hoạt động nhằm bảo vệ môi trường và đã đạt được những thành tựu đáng
kể, song còn nhiều hạn chế, bất cập và khó khăn.
- Bối cảnh mới trong nước và quốc tế, đặc biệt là toàn cầu hoá kinh tế, hội
nhập kinh tế quốc tế đang đặt ra nhiều cơ hội và thách thức mới đối với bảo vệ
môi trường sinh thái ở Việt Nam.
- Để bảo vệ môi trường đạt mục tiêu mong đợi trong quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá thời gian tới, Việt Nam cần thực hiện hiệu quả tổng thể
các giải pháp về bảo vệ môi trường. Đó là các giải pháp: Hoàn thiện hệ thống
pháp luật về môi trường sinh thái và bảo vệ môi trường sinh thái; Hoàn thiện cơ
chế chính sách và tổ chức bộ máy quản lý môi trường sinh thái; Hoàn thiện hệ
thống chính sách thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với bảo
vệ môi trường sinh thái; Tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền và giáo
dục, đào tạo về bảo vệ môi trường sinh thái; Mở rộng hợp tác quốc tế trong bảo
vệ môi trường…
108
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Khoa giáo Trung ương - Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường
(2001), Tiến tới kiện toàn hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ
môi trường ở Việt Nam, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường (2001), Báo cáo hiện trạng môi
trường Việt Nam năm 2001.
3. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (11/2005), Chính sách công nghiệp định hướng
phát triển bền vững ở Việt Nam.
4. TS. Đỗ Minh Cao (2007), “Chiến lược bảo vệ môi trường ở Trung Quốc”,
Nghiên cứu Trung Quốc, (6-76).
5. Nguyễn Thế Chinh (12/2006), “Sử dụng các công cụ kinh tế trong quản lý
tài nguyên và bảo vệ môi trường ở Việt Nam”, Nghiên cứu phát triển bền
vững, (4-13).
6. Vũ Hy Chương (2007), Vấn đề môi trường trong quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá, NXB. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
7. Trần Văn Chử (2004), Tài nguyên thiên nhiên môi trường với tăng trưởng
và phát triển bền vững ở Việt Nam, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
8. Cục bảo vệ Môi trường (2000), Chiến lược bảo vệ môi trường 2001- 2010.
9. Cục bảo vệ Môi trường (2005), Báo cáo diễn biến môi trường Việt Nam
2004: Chất thải rắn.
10. Cục Môi trường (2000) - Dự án “Tăng cường năng lực cho cơ quan quản
lý môi trường Việt Nam”, Báo cáo tóm tắt Hội nghị thương mại quốc tế và
môi trường.
11. Nguyễn Hữu Dực, Nguyễn Văn Hảo (2001), Khảo quả bước đầu khảo sát
khu hệ cá sông Đà thuộc địa phận các tỉnh Lai Châu, Sơn La. Báo cáo Hội
thảo quốc tế về sinh học Hà Nội, Tập 1.
12. Nghiêm Xuân Đạt, Nguyễn Minh Phong (2002), Hà Nội trong quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
109
13. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
14. Trần Hồng Hà (2004), Nghiên cứu các quy định pháp luật về môi trường
trong tiến trình hội nhập với các tổ chức quốc tế, NXB. Lao Động, Hà
Nội.
15. Lưu Đức Hải, TS. Nguyễn Ngọc Sinh (2000), Quản lý môi trường cho sự
phát triển bền vững, NXB. Đại học Quốc gia Hà Nội.
16. Nguyễn Đắc Hy, Nguyễn Văn Công, Nguyễn Văn Tài (1999), Công cụ
kinh tế trong quản lý môi trường, Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường.
17. Đoàn Văn Khát (2007), “Giải quyết tốt vấn đề môi trường trong bối cảnh
hội nhập kinh tế quốc tế”, Tạp chí Lý luận chính trị, (10).
18. Nguyễn Đức Khiển (2001), Môi trường và phát triển, NXB. Khoa học và
Kỹ thuật, Hà Nội.
19. Trần Thanh Lâm (2006), Quản lý môi trường bằng công cụ kinh tế, NXB.
Lao Động, Hà Nội.
20. Luật bảo vệ môi trường và nghị định hướng dẫn thi hành (2005), NXB
chính trị quốc gia, Hà Nội.
21. Một số vấn đề xã hội nhân văn trong việc sử dụng hợp lý tài nguyên và bảo
vệ môi trường ở Việt Nam (2001), NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
22. Trần Ngọc Ngoạn (Chủ biên - 2008), Phát triển nông thôn bền vững:
những vấn đề lý luận và kinh nghiệm Thế giới, NXB. Khoa học xã hội, Hà
Nội.
23. Phạm Hữu Nghị (2007), “Tổ chức Thương mại Thế giới với vấn đề thương
mại- môi trường và những thách thức, cơ hội đối với Việt Nam về thương
mại - Môi trường”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật (2).
24. “Phát triển kinh tế trong xu thế tự do hoá và vấn đề ô nhiễm môi trường ở
Bắc Ninh” (2006), Tạp chí Những vấn đề Kinh tế thế giới, (8), tr.124.
2006.
110
25. Nguyễn Danh Sơn (3/2007), “Tiêu dùng bền vững ở Việt Nam - một cái
nhìn từ giác độ quản lý tổng hợp chất thải bền vững”, Tạp chí Nghiên cứu
Phát triển bền vững, (1-14).
26. Võ Quý, “Phát triển bền vững một chiến lược toàn cầu”, Tài liệu giảng
dạy của Đại học Quốc gia Hà Nội.
27. Từ Thanh Thuỷ (2004), “Một số quan điểm hoàn thiện chính sách thương
mại quốc tế trong quá trình hội nhập kinh tế”, Tạp chí những vấn đề kinh tế
thế giới, (4).
28. Nguyễn Đức Tiến (2002), Thương mại và môi trường, NXB. Thế giới.
29. Trương Đình Tuyển (2005), “Toàn cầu hoá kinh tế - cách tiếp cận, cơ hội
và thách thức”, Báo nhân dân điện tử.
30. Lương Văn Tự (2004), “Đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế:
Vấn đề và giải pháp”, Tạp chí thương mại (3).
31. Viện Chiến lược và Chính sách công nghiệp - Bộ Công nghiệp (7/2004),
Tăng trưởng và bảo vệ môi trường ở Trung Quốc.
32. Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2004), “Thực trạng pháp luật môi
trường và giải pháp”, Tạp chí Thương mại, (3).
33. Viện nghiên cứu và quản lý Trung ương (2004), Kinh tế Việt Nam 2003,
NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
34. VIE/01/021 (2006), “Phát triển bền vững ở Việt Nam”, Hà Nội.
35. Đặng Hùng Võ (2007), “Tác động của môi trường đất và nước tới nông
nghiệp, nông thôn và nông dân Việt Nam trong quá trình công nghiệp hoá
và hội nhập”, Tạp chí Phát triển và hội nhập, (4 & 5).
111