ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƢỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ --------------***--------------

TRẦN THỊ THÙY DƢƠNG

BẢO VỆ MÔI TRƢỜNG SINH THÁI TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ Ở VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ Chuyên ngành: Kinh tế chính trị

Mã số: 60 31 01

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS, TS. LÊ DANH TỐN

HÀ NỘI - 2008

MỤC LỤC

1

MỞ ĐẦU............................................................................................................

Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VÀ KINH NGHIỆM CỦA TRUNG QUỐC VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG SINH THÁI TRONG QUÁ

TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ.......................................................

5

1.1. Một số vấn đề lý luận chung về bảo vệ môi trường sinh thái trong quá trình công

nghiệp hoá, hiện đại hoá……………………………………

5

1.1.1. Khái niệm và vai trò của môi trường sinh thái đối với sự phát triển bền

vững.........................................................................................................................

5

12

1.1.2. Quan hệ giữa công nghiệp hoá, hiện đại hoá và môi trường sinh thái………...

1.1.3. Nội dung, nguyên tắc, công cụ của bảo vệ môi trường sinh thái trong quá trình

công nghiệp hoá, hiện đại hoá.................................................

20

1.2. Kinh nghiệm của Trung Quốc về bảo vệ môi trường sinh thái trong quá trình công

nghiệp hoá, hiện đại hoá……………………………….

26

26

1.2.1. Thực trạng ô nhiễm môi trường ở Trung Quốc hiện nay………………

28

1.2.2. Chiến lược bảo vệ môi trường của Trung Quốc.....................................

31

1.2.3. Triển vọng của chiến lược bảo vệ môi trường ở Trung Quốc.................

Chương 2. THỰC TRẠNG MÔI TRƯỜNG SINH THÁI VÀ BẢO VỆ MÔI

TRƯỜNG SINH THÁI TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ Ở VIỆT NAM…………………………………………………...

34

2.1. Thực trạng môi trường sinh thái trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại

hoá......................................................................................................................

34

2.1.1. Tác động của sự phát triển các ngành kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá hiện

đại hoá đến môi trường sinh thái..................................

35

2.1.2. Thực trạng môi trường sinh thái ở Việt Nam dưới tác động của công nghiệp hoá,

hiện đại hoá……………………………………………….

51

2.2. Thực trạng hoạt động bảo vệ môi trường trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá,

hiện đại hoá ở Việt Nam......................................................

65

65

2.2.1. Những hoạt động bảo vệ môi trường.......................................................

2.2.2. Đánh giá chung về thực trạng bảo vệ môi trường sinh thái và những vấn đề đặt

ra............................................................................................

72

Chương 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG SINH THÁI

TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ Ở VIỆT

82

NAM THỜI GIAN TỚI...........................................................................................

3.1. Bối cảnh mới và tác động của nó đến bảo vệ môi trường sinh thái của Việt Nam trong

quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.......................

82

82

3.1.1. Bối cảnh Quốc tế………………………………………………………….

84

3.1.2. Bối cảnh trong nước..................................................................................................

3.2. Quan điểm, mục tiêu và nhiệm vụ bảo vệ môi trường trong quá trình đẩy mạnh công

nghiệp hoá, hiện đại hoá................................................................

85

85

3.2.1. Quan điểm................................................................................................................

86

3.2.2. Mục tiêu và nhiệm vụ............................................................................................

3.3. Các giải pháp chủ yếu bảo vệ môi trường sinh thái trong quá trình công nghiệp hoá,

hiện đại hoá thời gian tới.....................................................

91

3.3.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về môi trường sinh thái và bảo vệ môi trường sinh

thái………………………………………………………...

91

3.3.2. Hoàn thiện cơ chế chính sách và tổ chức bộ máy quản lý môi trường sinh

thái………………………………………………………………

92

3.3.3. Hoàn thiện hệ thống chính sách thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá

gắn với bảo vệ môi trường sinh thái……………………...

95

98

3.3.4. Tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền và giáo dục, đào tạo về bảo vệ môi

trường sinh thái……………………………………………

100

3.3.5. Mở rộng hợp tác quốc tế trong bảo vệ môi trường……………………..

102

KẾT LUẬN.............................................................................................................................

103

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

2

Trước ngưỡng cửa của thế kỷ XXI, cuộc cách mạng khoa học và công

nghệ hiện đại của thế giới đang phát triển với nhịp độ ngày một nhanh, tạo ra

những thành tựu mang tính đột phá, làm thay đổi nhanh chóng, sâu sắc và quyết

định tới sự phát triển của kinh tế, xã hội và bản thân con người. Bên cạnh những

thành tựu rực rỡ về khoa học và công nghệ, loài người cũng đang phải đối mặt

với những thách thức lớn lao về chính trị, văn hoá, xã hội và đặc biệt là môi

trường.

Trong vài thập kỷ gần đây, do sức ép gắt gao về dân số và sự phát triển

kinh tế thiếu tính toán, các nguồn tài nguyên trên trái đất ngày càng cạn kiệt,

môi trường bị suy thoái nghiêm trọng, thậm chí một số vùng còn bị phá huỷ

hoàn toàn. Hàng loạt các vấn đề về môi trường như thay đổi khí hậu, suy thoái

tầng ôzôn, suy thoái đa dạng sinh học, suy giảm tài nguyên đất và nước ngọt…

đang là những thách thức đối với sự tồn tại của loài người và của trái đất, Việt

Nam cũng không đứng ngoài những thách thức đó.

Theo quan điểm phát triển bền vững, Việt Nam đang đứng trước những

thử thách lớn. Một đất nước nghèo, điểm xuất phát thấp, lại bị 2 cuộc chiến

tranh tàn phá, nền kinh tế và môi trường đã đặt ra hàng loạt vấn đề cần giải

quyết. Tuy nhiên, nếu quá vội vàng trong việc áp dụng các giải pháp chính sách

đầu tư, đổi mới thiếu quy hoạch Kinh tế - xã hội và môi trường theo quan điểm

phát triển bền vững trên cơ sở nghiên cứu một cách khoa học và hệ thống thì tất

yếu sẽ dẫn đến những hậu quả đáng tiếc. Hậu quả đó có thể có lợi cho kinh tế

trước mắt nhưng lại có hại lâu dài, nền kinh tế sẽ bị suy thoái khi phát triển quá

ngưỡng chịu đựng của môi trường.

Việt Nam đang trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá,

đất nước ta đã khởi sắc về kinh tế, đời sống nhân dân được nâng cao, nhận thức

về bảo vệ môi trường và phát triển bền vững đã có tiến bộ rõ rệt. Tuy nhiên, tài

nguyên thiên nhiên nước ta đang được khai thác ngày càng mạnh mẽ và có xu

hướng cạn kiệt, môi trường thiên nhiên đang bị ô nhiễm. Vì vậy việc phân tích,

đánh giá và dự báo các tác động của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đến môi

3

trường của Việt nam, đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế, chính

sách bảo vệ môi trường mang tính cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn.

Từ nhận thức trên, tôi chọn đề tài: “Bảo vệ môi trường sinh thái trong

quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam”. Để thực hiện luận văn

của mình.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Trong thời gian qua đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề bảo vệ

môi trường sinh thái trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm hướng

tới sự phát triển bền vững ở Việt Nam. Tiêu biểu là:

- Một số vấn đề bảo vệ môi trường với phát triển kinh tế ở nước ta hiện

nay của TS. Nguyễn Văn Ngừng, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

- Vấn đề môi trường trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của

GS. TSKH Vũ Hy Chương, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2007.

- Chính sách công nghiệp định hướng phát triển bền vững, Bộ kế hoạch

và đầu tư, 11/ 2005.

- Quản lý môi trường bằng công cụ kinh tế của Trần Thanh Lâm, NXB

Lao động, Hà Nội, 2006.

- Phát triển nông thôn bền vững - những vấn đề lý luận và kinh nghiệm

Thế giới do TS. Trần Ngọc Ngoạn chủ biên, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội,

2008.

- Thực hiện đồng bộ các giải pháp bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy

mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Phạm Khôi Nguyên, tạp chí Khoa học

Xã hội Việt Nam, 4/ 2006.

- Sử dụng các công cụ kinh tế trong quản lý tài nguyên và bảo vệ môi

trường ở Việt Nam của PGS. TS. Nguyễn Thế Chinh, Tạp chí Phát triển bền

vững, số 4 (13) tháng 12/2006.

- Giải quyết tốt các vấn đề môi trường trong bối cảnh hội nhập kinh tế

quốc tế của TS. Đoàn Văn Khải, Tạp chí Lý luận chính trị, 10/ 2007.

Hầu hết các công trình nói trên đều nghiên cứu môi trường sinh thái dưới

góc độ của Khoa học Môi trường và Khoa học phát triển mà chưa nghiên cứu

4

tập trung và hệ thống tác động của công nghiệp hoá, hiện đại hoá tới môi trường

sinh thái và bảo vệ môi trường sinh thái trong quá trình công nghiệp hoá, hiện

đại hoá ở Việt Nam dưới góc độ của Khoa học Kinh tế chính trị. Đây là lý do

chủ yếu để tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu: “Bảo vệ môi trường sinh thái trong

quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam” làm luận văn Thạc sỹ

của mình.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

* Mục đích:

Trên cơ sở nghiên cứu các tác động của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đến

môi trường sinh thái, phân tích, đánh giá thực trạng bảo vệ môi trường sinh thái

ở Việt Nam thời gian qua, luận văn đề xuất hệ thống giải pháp nhằm bảo vệ môi

trường sinh thái trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam thời

gian tới.

* Nhiệm vụ nghiên cứu

- Làm rõ mối quan hệ giữa công nghiệp hoá, hiện đại hoá và môi trường

sinh thái.

- Phân tích kinh nghiệm của Trung Quốc trong việc giải quyết các vấn đề

môi trường trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

- Phân tích thực trạng môi trường sinh thái và bảo vệ môi trường sinh thái

trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam.

- Đưa ra một số giải pháp cơ bản nhằm bảo vệ môi trường trong thời kỳ

đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

* Đối tượng nghiên cứu:

Vấn đề môi trường và bảo vệ môi trường sinh thái trong quá trình công

nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam.

* Phạm vi nghiên cứu:

Đề tài nghiên cứu vấn đề bảo vệ môi trường sinh thái trong quá trình công

nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam trong những năm gần đây dưới góc độ của

khoa học kinh tế chính trị.

5

5. Phương pháp nghiên cứu

Đề tài dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng

và chủ nghĩa duy vật lịch sử đồng thời kết hợp một số phương pháp cụ thể khác

như: Trừu tượng hoá khoa học, phân tích, tổng hợp, logic và lịch sử, so sánh,

thống kê....

6. Đóng góp mới của luận văn

- Hệ thống hoá, phân tích và góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về bảo

vệ môi trường sinh thái trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam.

- Phân tích đánh giá thực trạng môi trường và bảo vệ môi trường sinh thái

trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam.

- Đưa ra quan điểm định hướng và đề xuất một số giải pháp bảo vệ môi

trường sinh thái trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt

Nam.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo luận văn

gồm 3 chương, 7 tiết:

Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung và kinh nghiệm của Trung Quốc

về bảo vệ môi trường sinh thái trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Chương 2: Thực trạng môi trường sinh thái và bảo vệ môi trường sinh thái

trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam.

Chương 3: Quan điểm và giải pháp bảo vệ môi trường sinh thái trong quá

trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam thời gian tới.

6

Chương1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VÀ KINH NGHIỆM

CỦA TRUNG QUỐC VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG SINH THÁI

TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ

1.1. Một số vấn đề lý luận chung về bảo vệ môi trường sinh thái

trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá

1.1.1. Khái niệm và vai trò của môi trường sinh thái đối với sự phát triển bền vững

1.1.1.1. Khái niệm và chức năng của môi trường sinh thái.

Từ khi cách mạng kỹ thuật lần thứ nhất nổ ra, các nước Châu Âu đã có

những bước phát triển mạnh mẽ, nhất là trong những thế kỷ thực hiện công

nghiệp hoá. Họ khai thác mạnh tài nguyên trong nước để mở mang công nghiệp

và phát triển kinh tế, cho đến nay sau hơn 300 năm, thế giới đã hình thành một

cục diện phát triển không đồng đều, chia thành hai nhóm nước chủ yếu: những

nước công nghiệp, hay còn gọi là những nước phát triển, nước giàu; và những

nước đang phát triển, nói chung là những nước nghèo. Nhưng dù là nước phát

triển hay đang phát triển, là nước giàu hay nước nghèo, một vấn đề chung đặt ra

hiện nay cho tất cả các nước là làm thế nào để có mối quan hệ hài hoà giữa tăng

trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường. Bởi vì, muốn tăng trưởng tất nhiên phải

khai thác, sử dụng nhiều tài nguyên và phát thải cũng nhiều hơn, tất nhiên là

không tránh được gây ra những tác động tiêu cực đến môi trường. Tại các nước

đang phát triển, mối quan hệ giữa nghèo khổ và suy thoái môi trường đã tạo nên

một vòng luẩn quẩn vì còn sống dựa nhiều vào nguồn lợi thiên nhiên, lại bị hạn

chế nhiều bởi sự thiếu tri thức, thiếu vốn, thiếu công nghệ, năng suất lao động

thấp, sử dụng năng lượng và nguyên liệu với hiệu suất và hiệu quả thấp, tốn

nhiều tài nguyên và còn nhiều vấn đề môi trường không xử lý được… Thậm chí,

tại nhiều nơi, người dân vẫn còn phải tìm mọi cách để sống được bằng cách thức

đơn thuần là khai phá tài nguyên.

7

Việt Nam trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội cũng vậy, cũng có

những yêu cầu tăng trưởng nhanh để cải thiện và nâng cao đời sống, nhưng cũng

nổi lên rất nhiều vấn đề về môi trường. Dường như càng phát triển kinh tế-xã

hội, càng thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì vấn đề môi trường càng trở

nên bức xúc gay gắt hơn. Kinh tế - xã hội càng phát triển lại càng thấy rõ sự liên

quan ràng buộc với điều kiện tự nhiên và môi trường. Một đòi hỏi tất yếu với

Việt Nam là phải giải quyết hài hoà vấn đề bảo vệ môi trường với yêu cầu tăng

trưởng kinh tế trong thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế -

xã hội, nhất là vào giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Nhiều báo cáo khoa học của các nước khác nhau đã nêu lên những vấn đề mới

trên phạm vi toàn cầu liên quan đến các cơ chế điều tiết của sinh quyển như: lỗ

hổng tầng ôzôn, hiệu ứng nhà kính, tính đa dạng sinh học bị suy giảm…Nhưng

đặc biệt các nhà khoa học chú ý đến là những vấn đề về sự biến đổi của môi

trường, nguồn sống của loài người đang dần bị cạn kiệt, môi trường sinh thái bị

huỷ hoại.

Môi trường sinh thái là một mạng lưới chỉnh thể có mối liên quan chặt chẽ

với nhau giữa đất, nước, không khí và các cơ thể sống trong phạm vi toàn cầu.

Sự tương tác hoà đồng giữa các hệ thống của thiên nhiên tạo ra môi trường

tương đối ổn định. Sự rối loạn bất ổn định ở một khâu nào đó trong hệ thống sẽ

gây ra hậu quả nghiêm trọng. Con người và xã hội xuất thân từ tự nhiên, là một

bộ phận của thiên nhiên. Hoạt động của con người và xã hội được xem là một

khâu, một yếu tố trong hệ thống, thông qua quá trình lao động, con người khai

thác bảo vệ bồi đắp cho thiên nhiên. "Môi trường bao gồm những yếu tố tự

nhiên và vật chất nhân tạo bao quanh con người, có ảnh hưởng tới đời sống, sản

xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và sinh vật" [20, tr.5]. Theo Từ điển

Bách khoa Việt Nam thì môi trường sinh thái là tập hợp các điều kiện địa lý tự

nhiên của một vùng lãnh thổ có tác động trực tiếp đến mức sống của dân cư và

các chỉ tiêu kinh tế trong vùng lãnh thổ ấy.

Do sự phát triển của xã hội công nghiệp, môi trường tự nhiên bị đe doạ

nghiêm trọng, phá huỷ sự cân bằng sinh thái và để lại những hậu quả không

8

lường được. Tuỳ theo khả năng khoa- học kỹ thuật và kinh tế của sự thay đổi có

chủ đích mà các nhân tố của môi trường sinh thái với tính chất quy ước nào đó

được chia thành các nhân tố điều khiển được và những nhân tố không điều khiển

được. Các nhân tố điều khiển được đó là sự gây ô nhiễm bầu khí quyển, nguồn

nước và đất, sự xói mòn đất và sự huỷ diệt giới động vật và thực vật…Những

nhân tố không điều khiển được là loại đất, địa hình vùng, chế độ gió, chế độ

nhiệt, tình hình động đất trên lãnh thổ….việc tính đến của các nhân tố không

điều khiển được của môi trường cho phép xây dựng sát thực tế hơn các phương

án phát triển kinh tế chấp nhận được trên vùng lãnh thổ đã cho. Đối với các nhân

tố điều khiển được của môi trường tự nhiên cần có các thông tin kỹ thuật, kinh tế

và xã hội cần thiết mới có thể xác định được mục tiêu tối ưu của các phương án.

Bảo vệ môi trường sinh thái đã, đang và sẽ là vấn đề mang tính toàn cầu.

Nội dung cơ bản của bảo vệ môi trường là: Bảo vệ rừng và đảm bảo độ che phủ

trên lãnh thổ, chống ô nhiễm không khí, nước và đất, giải quyết và tận dụng các

phế thải, chống xói mòn, hoang mạc hoá đất đai, quản lý nơi cư trú cho các loài

sinh vật, bảo vệ và chống sự tiêu diệt các loài sinh vật quý hiếm, khai thác, sử

dụng hợp lý và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên.

Môi trường tự nhiên trong quan hệ với đời sống của con người và sự phát

triển của xã hội loài người là một hệ thống tự nhiên co các chức năng sau:

- Môi trường là sinh quyển, sinh thái cần thiết cho sự sống tự nhiên của

con người.

Trong hoạt động sống của mình, con người cần phải có một không gian

sống với đặc trưng về quy mô và chất lượng cho phép. Lịch sử loài người đã cho

thấy rõ là trong khi trái đất không thay đổi về độ lớn, nhưng dân số thế giới lại

không ngừng gia tăng. Vì vậy diện tích đất bình quân đầu người (không gian

sống) ngày càng chật hẹp và giảm sút nhanh chóng. Trước tình hình đó đã xuất

hiện quan điểm coi việc dân số gia tăng không kiềm chế được là cuộc khủng

hoảng chủ yếu mà nhân loại ngày nay phải đương đầu, là nguyên nhân chính của

nạn đói nghèo, lạc hậu, mức sống thấp, suy dinh dưỡng và bệnh tật, sự xuống

9

cấp của môi trường và một loạt các vấn đề xã hội khác. Bên cạnh đó sự phân bố

dân số không đồng đều trên thế giới càng làm gay gắt hơn về không gian sống ở

nơi mật độ dân số tập trung cao, đặc biệt là tại các thành phố lớn và các khu

công nghiệp tập trung của nhiều quốc gia.

- Môi trường là nơi chứa đựng những nguồn tài nguyên làm thành đối

tượng lao động sản xuất và các nguồn lực cần thiết cho việc sản xuất ra của cải

vật chất của loài người.

Từ thời nguyên thuỷ đến nay, để tồn tại và phát triển thì con người đã liên

tục khai thác và sử dụng ngày càng nhiều các nguồn tài nguyên vào hoạt động

sống của mình. Nguồn tài nguyên chứa trong môi trường rất đa dạng và phong

phú, nhưng không phải là vô tận. Sự khai thác quá mức đã làm cho nhiều nguồn

tài nguyên ở nhiều nơi bị cạn kiệt. Sự tăng cường thăm dò, khảo sát tài nguyên

thiên nhiên cùng với sự mở mang các vùng đất mới hoặc việc sử dụng những

công nghệ mới thay thế nguyên, nhiên, vật liệu… chính là những biện pháp tình

thế của con người hiện nay để bù đắp vào sự suy giảm chức năng của môi

trường mà nguyên nhân chính là do con người gây ra.

- Môi trường là nơi chứa đựng chất thải của quá trình sinh hoạt trong cuộc

sống của con người và của quá trình sản xuất.

Trong sinh hoạt và hoạt động sản xuất xã hội, con người không ngừng

thải các loại chất khác nhau vào môi trường. Đồng thời quá trình này là quá trình

môi trường không ngừng phân huỷ, hấp thụ và trung hoà các chất thải để chúng

trở thành vô hại, ít gây độc nhờ các lực lượng tự nhiên (vật lý, hoá học, sinh

học…). Tuy nhiên, quá trình đó chỉ có thể được đảm bảo khi lượng chất thải vào

môi trường không lớn hơn khả năng hấp thụ của môi trường. Còn trong điều

kiện lượng chất thải vào môi trường lớn hơn khả năng hấp thụ của môi trường

hoặc có chất thải không thể phân huỷ tự nhiên hay có độc tính cao thì chức năng

này của môi trường sẽ bị vi phạm.

Tóm lại, mọi sự sống trên trái đất và mọi quá trình hoạt động của con

người đều được tiến hành trong môi trường, dựa vào môi trường và sử dụng các

10

yếu tố sẵn có của môi trường. Xuất phát từ những nhận thức đó, chúng ta khẳng

định môi trường có vai trò to lớn, quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của

mọi loại sinh vật sống trên trái đất.

11

1.1.1.2. Vai trò của môi trường sinh thái đối với sự phát triển bền vững

Phát triển kinh tế - xã hội là quá trình nâng cao điều kiện sống về vật chất

và tinh thần của con người thông qua việc sản xuất ra của cải vật chất, cải tiến

quan hệ xã hội, nâng cao chất lượng văn hoá. Phát triển là xu thế chung của từng

cá nhân và cả loài người trong quá trình sống. Giữa môi trường và sự phát triển

có mối quan hệ hết sức chặt chẽ: môi trường là địa bàn và đối tượng của sự phát

triển, còn phát triển là nguyên nhân tạo nên các biến đổi của môi trường.

Tác động của hoạt động phát triển đến môi trường thể hiện ở khía cạnh có

lợi là cải tạo môi trường tự nhiên hoặc tạo ra kinh phí cần thiết cho sự cải tạo đó,

nhưng có thể gây ra ô nhiễm môi trường tự nhiên hoặc nhân tạo. Mặt khác, môi

trường tự nhiên đồng thời cũng tác động đến sự phát triển kinh tế xã hội thông

qua việc làm suy thoái nguồn tài nguyên đang là đối tượng của hoạt động phát

triển hoặc gây ra thảm hoạ, thiên tai đối với các hoạt động kinh tế xã hội trong

khu vực.

Có thể nói rằng mọi vấn đề về môi trường đều bắt nguồn từ phát triển.,

nhưng con người cũng như tất cả mọi sinh vật khác không thể đình chỉ tiến hoá

và ngừng sự phát triển của mình. Con đường để giải quyết mâu thuẫn giữa môi

trường và phát triển là phải chấp nhận phát triển, nhưng giữ sao cho phát triển

không tác động một cách tiêu cực tới môi trường. Phát triển bền vững là một

khái niệm mới nảy sinh từ sau cuộc khủng hoảng môi trường, do đó cho đến nay

chưa có một định nghĩa nào đầy đủ và thống nhất. Dưới đây là một số định

nghĩa về phát triển bền vững:

- Hội nghị môi trường toàn cầu Rio de Janerio (6/1992) đưa ra thuyết phát

triển bền vững; nghĩa là sử dụng hợp lý và có hiệu quả các nguồn tài nguyên,

bảo vệ Môi trường một cách khoa học đồng thời với sự phát triển kinh tế.

- Phát triển bền vững là một mô hình chuyển đổi mà nó tối ưu các lợi ích

kinh tế và xã hội trong hiện tại nhưng không hề gây hại cho tiềm năng của

những lợi ích tương tự trong tương lai [1, tr.23].

12

Định nghĩa này bao gồm hai nội dung then chốt: các nhu cầu của con

người và những giới hạn đối với khả năng của môi trường đáp ứng các nhu cầu

hiện tại và tương lai của con người.

- Phát triển bền vững là mô hình phát triển mới trên cơ sở ứng dụng hợp

lý và tiết kiệm các nguồn tài nguyên thiên nhiên để phục vụ cho nhu cầu của con

người thế hệ hiện nay mà không làm hại cho thế hệ mai sau [18, tr.17].

Tuy nhiên, định nghĩa được sử dụng nhiều hơn cả trong các nghiên cứu về

phát triển bền vững là định nghĩa của Uỷ ban Thế giới về Môi trường và Phát

triển(WCED) đưa ra năm 1987: "Phát triển bền vững là sự phát triển đáp ứng

các nhu cầu hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu của

các thế hệ tương lai".

Định nghĩa này được mở rộng ra với ba cấu thành về sự phát triển bền

vững:

- Về kinh tế: Một hệ thống bền vững về kinh tế phải thể hiện ở sự tăng

trưởng và phát triển lành mạnh của tất cả các ngành kinh tế, đặc biệt là các

ngành kinh tế liên quan đến sử dụng tài nguyên thiên nhiên, có thể tạo ra hàng

hoá và dịch vụ một cách liên tục, với mức độ có thể kiểm soát của chính phủ về

nợ bên ngoài, tránh sự mất cân đối giữa các khu vực làm tổn hại đến mỗi ngành

sản xuất.

- Về xã hội: Hệ thống bền vững về mặt xã hội phải đạt được sự công bằng

trong phân phối, cung cấp đầy đủ các dịch vụ xã hội bao gồm y tế, giáo dục...,

công bằng giới tính, sự tham gia và trách nhiệm chính trị cho mọi người, đảm

bảo sức khoẻ, giảm đói nghèo, hạn chế các tệ nạn xã hội.

- Về môi trường: Hệ thống phát triển bền vững thể hiện ở sử dụng hợp lý

tài nguyên thiên nhiên, duy trì một nền tảng nguồn lực ổn định, tránh khai thác

quá mức các hệ thống nguồn lực tái sinh hay những vận động tiềm ẩn của môi

trường. Việc khai thác các nguồn lực không thể tái tạo không được vượt quá

mức độ đầu tư cho sự thay thế một cách đầy đủ. Điều này bao gồm việc duy trì

đa dạng sinh học, sự ổn định khí quyển và các hoạt động sinh thái khác mà

13

thường không được coi như các nguồn lực kinh tế, hạn chế ô nhiễm môi trường,

có chính sách và kế hoạch hành động cải thiện môi trường. Như vậy, "Phát triển

bền vững là sự phát triển đáp ứng các nhu cầu hiện tại mà không làm tổn hại đến

khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai trên cơ sở kết hợp chặt chẽ,

hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế, đảm bảo tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường"

[20, tr.7].

Như vậy, bảo vệ môi trường là một trong ba thành tố hay trụ cột của phát

triển bền vững ở bất kỳ quốc gia nào trong thế giới đương đại và tương lai.

Trong thời đại ngày nay, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững không còn là

vấn đề riêng của một quốc gia, một khu vực, mà đã thực sự trở thành mối quan

tâm toàn cầu. Thực tế cho thấy tính nguy cấp, phức tạp và nan giải của các vấn

đề môi trường đang đòi hỏi chúng ta cần phải nhìn nhận và đánh giá đúng đắn

vai trò của môi trường trong quá trình thực hiện phát triển bền vững.

Có thể nói, môi trường và phát triển bền vững là một vấn đề có tính cấp

thiết liên quan tới nhiều ngành, nhiều lĩnh vực và xuyên suốt nhiều thời đại.

Quản lý môi trường, bảo vệ, cải thiện môi trường, sử dụng hợp lý các yếu tố môi

trường và các điều kiện thuận lợi của môi trường nhằm phục vụ sự tồn tại và

phát triển kinh tế - xã hội loài người là những nội dung quan trọng trong hoạt

động hiện nay và mai sau của toàn nhân loại.

Ngày nay, nhiều nước trên thế giới đã đặt phát triển bền vững trên cơ sở

nâng cao, cải thiện chất lượng sống của con người theo phạm vi khả năng chịu

được của các hệ sinh thái. Đó là mục tiêu về phát triển bền vững, chỉ tiêu đánh

giá cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia trên thế giới.

Việt Nam đang thực hiện đường lối đổi mới, tiến hành công nghiệp hoá,

hiện đại hoá trên quan điểm phát triển bền vững với mục tiêu dân giàu, nước

mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Trong thập niên đầu thế kỷ XXI, quan điểm

phát triển bền vững của Việt Nam đã được thể hiện rõ trong văn kiện đại hội

Đảng IX về chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2001-2010, theo đó

phát triển bền vững của Việt Nam là: “Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững,

14

tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi

trường”, “Phát triển kinh tế - xã hội gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi trường,

bảo đảm sự hài hoà giữa môi trường nhân tạo với môi trường thiên nhiên, giữ

gìn đa dạng sinh học” và “Chủ động gắn kết yêu cầu cải thiện môi trường trong

mỗi quy hoạch, kế hoạch, chương trình và dự án phát triển kinh tế - xã hội, coi

yêu cầu về môi trường là một tiêu chí quan trọng đánh giá các giải pháp phát

triển” .

1.1.2. Quan hệ giữa công nghiệp hoá, hiện đại hoá và môi trường sinh thái

1.1.2.1 . Khái niệm và nội dung của công nghiệp hoá, hiện đại hoá

Cho đến nay, chúng ta có thể khẳng định rằng, công nghiệp hoá, hiện đại

hoá là phương thức hữu hiệu làm thay đổi căn bản bộ mặt kinh tế - xã hội của

các nước đang phát triển. Việc thực hiện có kết quả quá trình công nghiệp hoá,

hiện đại hoá trước hết sẽ thủ tiêu tình trạng lạc hậu về trình độ lực lượng sản

xuất, từ công cụ lao động, phương tiện sản xuất đến yếu tố người lao động, thay

vào đó là những công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại,

đồng thời thúc đẩy mạnh mẽ phân công lao động xã hội, hình thành cơ cấu kinh

tế hợp lý, nhờ vậy năng lực sản xuất tăng lên, kinh tế phát triển. Mặt khác, công

nghiệp hoá, hiện đại hoá nâng cao mức sống dân cư, tạo điều kiện phát triển dân

trí, đưa xã hội đến trình độ văn minh công nghiệp. Tuy nhiên công nghiệp hoá,

hiện đại hoá mang lại hiệu quả phát triển kinh tế - xã hội đến đâu còn phụ thuộc

vào tính ưu việt trong mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá của mỗi nước.

Song dù thế nào thì cũng có sự thừa nhận chung rằng: Công nghiệp hoá tạo ra

nền kinh tế hiện đại với những ưu thế nổi bật là năng suất lao động cao, chất lượng

sản phẩm tốt, cơ cấu sản xuất đa dạng, việc làm nhiều và phong phú, thu nhập quốc

dân chung và tính theo đầu người cao hơn nhiều so với nền kinh tế chưa công

nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 (khoá VII) của Đảng chỉ rõ: “Công

nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt

động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao

15

động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với

công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến hiện đại, dựa trên sự phát triển

của công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã

hội cao”.

Đối với nước ta hiện nay, nền kinh tế vẫn mang nặng tính chất của nền

kinh tế nông nghiệp lạc hậu, công nghiệp nhỏ bé. Để ra khỏi tình trạng nước

nghèo chậm phát triển, tránh khỏi nguy cơ tụt hậu xa hơn, không có con đường

nào khác ngoài tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là xây dựng nước ta thành

một nước công nghiệp có cơ sở vật chất, kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý,

quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất,

đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu,

nước mạnh, xã hội, công bằng, dân chủ, văn minh. Phấn đấu đến năm 2020,

nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

Trong giai đoạn hiện nay, Việt Nam đang thực hiện công nghiệp hoá, hiện

đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức. Nội dung cơ bản của công nghiệp hoá,

hiện đại hoá rút ngắn là phát triển mạnh các ngành và sản phẩm kinh tế có giá trị

gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức; kết hợp việc sử dụng nguồn vốn tri thức của

con người Việt Nam với tri thức mới nhất của nhân loại; Coi trọng cả về số

lượng và chất lượng tăng trưởng kinh tế trong mỗi bước phát triển của đất nước

ở từng vùng, từng địa phương, trong từng dự án kinh tế xã hội; Xây dựng cơ cấu

kinh tế hiện đại và hợp lý theo ngành, lĩnh vực và lãnh thổ; giảm chi phí trung

gian, nâng cao năng suất lao động của tất cả các ngành, lĩnh vực, nhất là những

ngành, lĩnh vực có sức cạnh tranh cao.

Nội dung cụ thể của công nghiệp hoá, hiện đại hoá giai đoạn hiện nay là:

Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn, giải quyết

đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân; Phát triển nhanh các

ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ; Phát triển kinh tế vùng; Phát triển kinh

16

tế biển; Chuyển dịch cơ cấu lao động, cơ cấu công nghệ, Bảo vệ và sử dụng có

1.1.2.2. Vai trò của môi trường sinh thái đối với công nghiệp hoá, hiện đại hoá

hiệu quả tài nguyên quốc gia, cải thiện môi trường tự nhiên.

Trước vũ trụ mênh mông, con người trở nên nhỏ bé, không còn chuyện

chiếm lĩnh tự nhiên bằng mọi giá mà phải hành động theo quy luật. Sự vi phạm

quy luật tự nhiên, trước hết sẽ gây tổn thương cho tự nhiên, điều này còn có thể

cứu vãn, nhưng một khi sự vi phạm đó ảnh hưởng đến vận mệnh của con người

thì sự nguy hiểm khó lường hậu quả.

Ăngghen đã từng nhắc nhở chúng ta rằng: Không nên quá khoái chí về

những thắng lợi của chúng ta đối với giới tự nhiên, bởi vì sự thật nhắc nhở

chúng ta hoàn toàn không thống trị giới tự nhiên như một kẻ xâm lược thống trị

một dân tộc khác, như một người sống bên ngoài thế giới tự nhiên, và tất cả sự

thống trị của chúng ta đối với tự nhiên bao hàm ở chỗ là chúng ta khác tất cả các

sinh vật khác, biết nhận thức được những quy luật của giới tự nhiên và sử dụng

những quy luật đó một cách đúng đắn [2, tr.655].

Cần phải nhận thức lại một cách nghiêm túc và sâu sắc rằng con người và

xã hội dù có phát triển đến đâu, đến mức cao như thế nào đi chăng nữa, thì cũng

chỉ là một bộ phận của sinh quyển, là những yếu tố trong hệ thống Tự nhiên -

Con người - Xã hội, các yếu tố trong hệ thống có mối quan hệ khăng khít và tác

động phụ thuộc lẫn nhau. Con người xã hội dù có sức mạnh nhưng hành động

của họ cũng không thể vượt ra ngoài hệ thống mà con người phải biết vận dụng

thế mạnh của mình - dạng vật chất duy nhất có ý thức, do đó chỉ có con người

mới có khả năng điều khiển một cách có ý thức mối quan hệ giữa con người với

tự nhiên. Thông qua quá trình phát triển khoa học kỹ thuật và công nghệ con

người dần dần nắm bắt được các quy luật của tự nhiên và tìm cách vận dụng một

cách hợp lý các quy luật đó vào hoạt động thực tiễn của xã hội, để tạo cơ sở tự

nhiên bền vững cho sự phát triển xã hội.

Trong mối quan hệ với công nghiệp hoá, hiện đại hoá, môi trường đóng

vai trò là nguồn cung cấp đầu vào cho quá trình phát triển vì không có quá trình

17

sản xuất nào không đòi hỏi khai thác tài nguyên thiên nhiên, các thành phần môi

trường. Tuy nhiên nguồn cung cấp này lại có giới hạn chứ không phải dồi dào

vô hạn, điều đó dẫn tới yêu cầu phải khai thác hợp lý và tiết kiệm các nguồn tài

nguyên thiên nhiên. Mối quan hệ này đã sớm được con người nhận thức được từ

thuở sơ khai, khi đó săn bắn hái lượm là nguồn thu nhập chủ yếu đảm bảo cho

sự tồn tại của loài người, con người đã sớm lệ thuộc vào thiên nhiên và môi

trường. Song, không phải ai cũng nhận thức được mối quan hệ giữa môi trường

và phát triển theo chiều ngược lại, được đặc trưng bởi sự tác động của các hoạt

động sản xuất, phát triển tới môi trường. Hiểm hoạ khôn lường là những tác

động tiêu cực lại thường không biểu hiện trực tiếp lên một cá thể nhất định, ví

dụ như một cá nhân có hành vi phá hoại môi trường, nhưng hậu quả của hành vi

đó lại tác động lên cả cộng đồng, có khi hậu quả còn kéo dài đến cả thế hệ mai

sau.

Chính vì vậy mà từ nhiều thập kỷ nay, con người đã nhận thức rằng Môi

trường đóng vai trò hết sức quan trọng đảm bảo sự tồn tại và phát triển của nền

kinh tế và sự sống của con người, nhất là đối với quá trình công nghiệp hoá, hiện

đại hoá nói chung và sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nói riêng ở nước

ta bởi vì Môi trường không chỉ cung cấp nguồn tài nguyên đầu vào cho sản xuất,

tiện nghi sinh hoạt cho con người mà còn là nơi chứa và hấp thụ phế thải sản

xuất và sinh hoạt do con người thải ra. Những chức năng của Môi trường liên

quan đến hoạt động kinh tế có mối tương tác chặt chẽ với nhau và trong những

trường hợp nhất định chúng có thể triệt tiêu lẫn nhau. Chẳng hạn như những chất

thải và sinh hoạt, sản xuất... có chứa nhiều chất độc hại sẽ làm giảm nguồn tài

nguyên của Môi trường. Đó là việc ô nhiễm nguồn nước, đất, do sản xuất công

nghiệp. Sự ô nhiễm đó lại có tác động trở lại quá trình sản xuất làm cho sản xuất

gặp khó khăn. Môi trường là nơi chứa đựng những nguồn tài nguyên làm thành

đối tượng lao động sản xuất. Hình thành các nguồn lực cần thiết cho việc sản

xuất ra của cải vật chất của loài người. Trong số này một số có thể tái tạo được,

một số khác không thể tái tạo được. Trong quá trình khai thác, nếu mức độ khai

18

thác nhanh hơn mức độ tái tạo thì gây ra tình trạng khan hiếm, suy kiệt hoặc

1.1.2.3. Tác động của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đối với môi trường sinh thái

khủng hoảng tới Môi trường.

Thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá là con đường tất yếu của mọi

quốc gia để tăng trưởng và phát triển bền vững. Nhờ công nghiệp hoá, hiện đại

hoá mà các nước tư bản chủ nghĩa hàng đầu đã nhanh chóng phát triển vượt bậc

để có một tiềm lực kinh tế to lớn, tiềm năng khoa học và công nghệ dồi dào, có

mức sống cao. Các nước nghèo, chậm phát triển không có con đường nào khác

cũng phải thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá để nhanh chóng thoát khỏi

tình trạng đói nghèo, lạc hậu. Nhờ tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá, các

nước chậm phát triển cũng đang dần vượt qua những chặng đường dài khó khăn,

có bước tiến nhảy vọt, rút ngắn quá trình phát triển trở nên giàu có.

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá không chỉ giúp các nước đang phát triển

nói chung, Việt Nam nói riêng giải quyết các mục tiêu về kinh tế - xã hội trong

phát triển, mà còn là điều kiện để thực hiện được yêu cầu của phát triển bền

vững . Đồng thời với việc phát triển những công nghệ mới trong khai thác và sử

dụng tài nguyên, cũng phát triển theo những công nghệ xử lý môi trường do áp

dụng các công nghệ khai thác tài nguyên đó gây ra. Bên cạnh những phát triển

khoa học để tận dụng mọi tính năng có được của các loại tài nguyên thiên nhiên

phục vụ cho lợi ích của mình, con người cũng tạo ra được những phát kiến khoa

học nhằm bảo vệ và phục hồi môi trường tự nhiên nhằm đảm bảo cho sự tồn tại

lâu bền của cuộc sống con người trong thiên nhiên. Công nghiệp hoá, hiện đại

hoá là yếu tố căn bản nhất thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, lượt mình, tăng trưởng

kinh tế lại tạo tiền đề để bảo vệ và cải thiện môi trường tự nhiên, mà trước hết là

nguồn lực về tài chính cho thực hiện các nhiệm vụ bảo vệ môi trường. Thực hiện

công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập

kinh tế quốc tế, những vấn đề môi trường cũng đang được nhắc đến như là các

điều kiện trong các thương thảo quốc tế, có xu hướng trở thành những rào cản

mới, quyết định và ảnh hưởng tới thương mại và đầu tư giữa các nước. Đó chính

19

là sức ép khiến cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta tiến triển theo

hướng thân thiện với môi trường, có lợi cho bảo vệ và cải thiện môi trường. Có

thể khẳng định rằng, quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã tạo ra những

nguồn lực (Khoa học- công nghệ, vốn, nhân lực…) cho bảo vệ môi trường hiệu

quả hơn. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì

tất yếu cũng sẽ gây ra những ảnh hưởng xấu đến môi trường. Cho nên trong quá

trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, bên cạnh những thành tựu mà

chúng ta đã đạt được cũng sẽ kéo theo nhiều hậu quả cần khắc phục về vấn đề

môi trường. Vì vậy cần nhận thức rằng thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá

là nhiệm vụ trung tâm mang tính tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ, thì việc

bảo vệ môi trường trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá là

nhiệm vụ đặc biệt, mang tính cấp thiết mà toàn Đảng, toàn dân ta trong quá trình

đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước cần phải quán triệt sâu sắc.

Cũng như nhiều quốc gia khác trên thế giới, bước vào giai đoạn đẩy mạnh

công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Việt Nam cũng đang phải đối mặt với

mâu thuẫn giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường. Thậm chí so với nhiều

nước công nghiệp phát triển, vấn đề môi trường ở Việt Nam còn phức tạp và gay

gắt hơn. Sự phức tạp này được lý giải với nhiều nguyên nhân khác nhau như: do

hậu quả của chiến tranh kéo dài, do các chiến dịch như “chiến tranh hoá học” mà

đế quốc Mỹ gây ra đã huỷ hoại môi trường tự nhiên, do xuất phát điểm là một

nước có nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu nên chưa đáp ứng được các yêu cầu cấp

bách cần phải xử lý của nhiều hiện tượng ô nhiễm môi trường. Trong khi đó dân

số ngày càng đông mà ý thức bảo vệ môi trường của phần lớn người dân còn

kém; thêm vào đó những năm trước đây, pháp luật của nước ta còn chưa thực sự

định hướng, kiểm soát cần thiết đối với hoạt động của con người trong môi

trường… mà trong đó, một nguyên nhân nổi bật ảnh hưởng sâu sắc đến môi

trường đó là quá trình đẩy mạnh thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất

nước của Việt Nam chưa có sự gắn kết chặt chẽ với việc bảo vệ môi trường.

Ở chừng mực nhất định, công nghiệp hoá, hiện đại hoá là việc chuẩn bị

những điều kiện cần thiết về vật chất, kỹ thuật, con người, khoa học và công

20

nghệ và thúc đẩy sự chuyển dịch căn bản trong cơ cấu của nền kinh tế - từ cơ

cấu kinh tế nông nghiệp lạc hậu sang cơ cấu công nghiệp và dịch vụ, tạo cơ sở

vững chắc để tăng trưởng kinh tế hướng đến mục tiêu phồn thịnh, xây dựng tiền

đề vững chắc cho thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là vấn đề mang tính tất

yếu khách quan cần phải thực hiện ở nước ta. Nhưng công nghiệp hoá, hiện đại

hoá cũng chính là một trong những nguyên nhân chính gây sức ép đối với môi

trường sinh thái, là một trong những thách thức thời đại đối với bảo vệ môi

trường của đất nước. Để công nghiệp hoá, hiện đại hoá thành công cần huy động

mọi nguồn lực có sẵn của đất nước, trong đó nguồn tài nguyên thiên nhiên là

một trong những nguồn lực quan trọng, nhất là khi Việt Nam vốn là một nước

nghèo, tiềm lực kinh tế còn nhỏ bé, trình độ dân trí chưa cao, chưa đều nên tài

nguyên thiên nhiên lại càng là nguồn lực có ý nghĩa đặc biệt trong việc thực hiện

đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Bên cạnh đó, công nghiệp hoá, hiện đại hoá không chỉ tăng nhanh về quy

mô mà phạm vi của nó cũng ngày càng mở rộng. Ngoài các trung tâm lớn như

Hà Nội- Hải Phòng- Quảng Ninh; thành phố Hồ Chí Minh - Biên Hoà - Vũng

Tàu; Huế - Đà Năng - Quy Nhơn - Nha Trang, còn xuất hiện nhiều thành phố

mới, nhiều khu công nghiệp, khu chế xuất mới mà trước đây là vùng xa xôi hẻo

lánh. Quy mô và phạm vi công nghiệp hoá, hiện đại hoá càng lớn đòi hỏi các

nguồn tài nguyên thiên nhiên càng nhiều, dẫn đến môi trường tự nhiên càng bị

khai thác mạnh hơn, đồng thời môi trường sống cũng bị ô nhiễm nặng nề hơn.

Trong khi đó, mặc dù những năm 60 của thế kỷ XX, chúng ta đã nói đến hoặc đã

tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá song cho đến nay, do nhiều nguyên

nhân mà Việt Nam vẫn chưa phải là một nước công nghiệp. Nếu chỉ xét về các

chỉ tiêu kinh tế, nước ta vẫn là một nước chậm phát triển, đặc biệt là trong lĩnh

vực sản xuất công nghiệp và trình độ công nghệ.

Theo như báo cáo của Bộ trưởng Bộ Khoa học - Công nghệ - Môi trường

năm 1995 (nay là Bộ Khoa học - Công nghệ): Công nghệ Việt Nam lạc hậu so

với các nước tiên tiến trên thế giới trung bình từ 50 đến 100 năm, còn thiết bị

của chúng ta so với các nước tiên tiến trung bình lạc hậu từ 2 đến 3 thế hệ hoặc

21

từ 4 đến 5 thế hệ tuỳ theo từng lĩnh vực, chuyên ngành, và được hình thành nên

từ nhiều nguồn khác nhau. Hệ số cơ giới hoá trong các lĩnh vực sản xuất công

nghiệp của Việt Nam chỉ đạt 50% so với thế giới, tức là còn ở “giai đoạn đầu

của cơ giới hoá”, tỷ lệ tự động hoá không đáng kể; nhiều khâu lao động trong

công nghiệp còn thủ công, trong nông nghiệp thì các khâu chủ yếu vẫn là thủ

công. Tuy công nghệ lạc hậu như vậy nhưng hệ số đổi mới công nghệ hàng năm

chỉ đạt 8 - 10 %. Đồng thời với tình trạng đó, trong quá trình quy hoạch phát

triển công nghiệp hoá, hiện đại hoá do thiếu sự tính toán, cân nhắc nên phân bố

xây dựng và phát triển chưa hợp lý giữa các vùng, miền, khu dân cư đã kéo theo

đó là một loạt các hậu quả cho môi trường như tình trạng xây dựng nhà máy,

khu công nghiệp ngay giữa nơi dân cư đông đúc… Sự bất cập, không đồng bộ,

quá lạc hậu của công nghệ, trình độ quản lý yếu kém và chưa biết khai thác, tận

dụng tiềm năng con người, đặc biệt là nguồn tiềm năng trí tuệ cộng với các thực

trạng nói trên đã dẫn đến nhiều hậu quả tiêu cực cho nền kinh tế, cho cuộc sống

con người và cho môi trường sinh thái. Nhìn chung năng suất lao động công

nghiệp nước ta chỉ đạt 30% mức trung bình của thế giới, năng suất lao động

nông nghiệp lại càng thấp hơn, mức độ hao phí năng lượng và nguyên vật liệu

quá lớn, thường là từ 50% trở nên. Bởi vậy đến nay công nghiệp của nước ta còn

ở trình độ thấp, nhưng nhiều nguồn tài nguyên đã bị khai thác đến cạn kiệt do

khai thác quá nhiều song lại ít nuôi dưỡng, bảo vệ các nguồn tài nguyên hiện có,

và công nghệ lại lạc hậu nên hiệu quả sử dụng thấp; mặt khác các chất thải độc

hại của quá trình sản xuất thường không được xử lý triệt để hoặc không được xử

lý đã đưa thẳng vào môi trường, gây bệnh tật cho con người và ô nhiễm nặng nề

môi trường sinh thái.

Sự khai thác ngày càng nhiều, thiếu quy hoạch với các công nghệ khai

thác giản đơn dẫn đến cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên, phá huỷ đa dạng

sinh học và môi trường sinh thái. Sự khai thác khoáng sản (thường ở vùng rừng

núi), sự khai thác quá mức các sản phẩm của rừng (đặc biệt là gỗ) cho sản xuất

công nghiệp và sinh hoạt, việc phá rừng để trồng cây công nghiệp phục vụ xuất

22

khẩu…. khiến cho rừng đầu nguồn bị triệt phá và hậu quả là lũ lụt, hạn hán xảy

ra ngày một dày đặc hơn, sức tàn phá cũng nặng nề hơn.

Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá trước hết là sự phát triển mạnh

mẽ của các ngành công nghiệp, các khu công nghiệp. Do nhiều nguyên nhân

khác nhau (ý thức thiếu trách nhiệm với môi trường của các nhà đầu tư, khả

năng hạn chế về vốn đầu tư cho xử lý chất thải, sự thiếu hoặc chưa đồng bộ và

tính thực thi hạn chế của hệ thống pháp luật về môi trường…) đã khiến cho các

chất thải công nghiệp (khí, rắn, lỏng) không được xử lý hoặc xử lý “qua loa” đã

trực tiếp thải ra môi trường. Vì vậy, cùng với quá trình công nghiệp hoá, hiện

đại hoá là quá trình môi trường tự nhiên ngày càng bị ô nhiễm (không khí, đất,

nguồn nước, tiếng ồn…)

Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá sự phát triển của các ngành

dịch vụ (thương mại, du lịch, y tế…) cũng là một tác nhân quan trọng gây ô

nhiễm môi trường ở các nước đang phát triển.

Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá bao hàm cả sự phát triển của nền

nông nghiệp hàng hoá năng suất cao. Trong rất nhiều trường hợp, năng suất cao

lại do sử dụng các loại phân vô cơ, các loại thuốc trừ sâu, diệt cỏ… vì vậy, ô

nhiễm môi trường đất, nước và cả không khí ở các vùng nông nghiệp là tất yếu.

Tác hại hơn là không ít sản phẩm nông nghiệp bị ô nhiễm, ảnh hưởng nghiêm

trọng đến sức khoẻ của người tiêu dùng.

Đô thị hoá là quá trình song hành với công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Thực

tế cho thấy, ở các nước đang phát triển, quá trình đô thị hoá cũng chính là quá

trình dẫn đến suy thoái, ô nhiễm môi trường do ý thức người dân vùng đô thị

mới (phần lớn là cư dân vùng nông thôn di cư tới), do yếu kém trong quy hoạch

xây dung đô thị, do khả năng về nguồn lực xử lý môi trường đô thị của chính

quyền còn nhiều hạn chế.

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá tất yếu dẫn đến thu nhập và đời sống người

dân được nâng cao. Điều đó cũng có nghĩa là tiêu dùng cũng tăng lên, cũng có

nghĩa là các chất phát thải từ tiêu dùng hàng ngày cũng gia tăng nhanh chóng,

23

trong nhiều trường hợp vượt quá khả năng xử lý. Chính vì vậy, ô nhiễm môi

trường ngày càng tăng lên là khó tránh khỏi.

Tóm lại, công ngiệp hoá, hiện đại hoá có tác động hai mặt đến môi trường

sinh thái. Những tác động tích cực là rất to lớn, nhưng những tác động tiêu cực

cũng rất nghiêm trọng và hậu quả cũng hết sức nặng nề nếu không có các giải

pháp hữu hiệu để khắc phục, hạn chế những tác động xấu này.

1.1.3. Nội dung, nguyên tắc, công cụ của bảo vệ môi trường sinh thái

trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá

Sự phân tích về tác động qua lại giữa công nghiệp hoá, hiện đại hoá với

môi trường sinh thái, về vai trò của môi trường trong quá trình phát triển bền

vững đã cho thấy sự cần thiết khách quan của bảo vệ môi trường sinh thái trong

quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

1.1.3.1. Nội dung

Hoạt động bảo vệ môi trường là hoạt động giữ cho môi trường được trong

lành, sạch đẹp, phòng ngừa và hạn chế tác động xấu đối với môi trường, ứng

phó sự cố môi trường; Khắc phục ô nhiễm, suy thoái, phục hồi và cải thiện môi

trường; Khai thác, sử dụng hợp lý và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, Bảo vệ đa

dạng sinh học. Đó vừa là mục tiêu vừa là nội dung cơ bản của hoạt động bảo vệ

môi trường sinh thái ở bất kỳ quốc gia nào.

Đối với Việt Nam hiện nay, những hoạt động bảo vệ môi trường được

khuyến khích là :

- Tuyên truyền giáo dục và vận động mọi người tham gia bảo vệ môi

trường, giữ gìn vệ sinh môi trường, bảo vệ cảnh quan thiên nhiên và đa dạng

sinh học.

- Bảo vệ, sử dụng hợp lý và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên.

- Giảm thiểu, thu gom, tái chế và sử dụng chất thải.

- Phát triển, sử dụng năng lượng sạch và năng lượng tái tạo; giảm thiểu

khí thải gây hiệu ứng nhà kính, phá huỷ tầng ôzôn.

24

- Đăng ký cơ sở đạt tiêu chuẩn môi trường, sản phẩm thân thiện với môi

trường.

- Nghiên cứu khoa học, chuyển giao, ứng dụng công nghệ xử lý, tái chế

chất thải, công nghệ thân thiện với môi trường.

- Đầu tư xây dựng các cơ sở sản xuất thiết bị, dụng cụ bảo vệ môi trường;

sản xuất, kinh doanh các sản phẩm thân thiện với môi trường; cung cấp dịch vụ

bảo vệ môi trường.

- Bảo tồn và phát triển nguồn gen bản địa; lai tạo, nhập nội các nguồn gen

có giá trị kinh tế và có lợi cho môi trường.

- Xây dựng thôn, làng, ấp, bản, buôn, phum, sóc, cơ quan, cơ sở sản xuất,

kinh doanh, dịch vụ thân thiện với môi trường.

- Phát triển các hình thức tự quản và tổ chức hoạt động dịch vụ giữ gìn vệ

sinh môi trường của cộng đồng dân cư.

- Hình thành nếp sống, thói quen giữ gìn vệ sinh môi trường, xoá bỏ hủ

tục gây hại đến môi trường.

- Đóng góp kiến thức, công sức, tài chính cho hoạt động bảo vệ môi

trường.

1.1.3.2. Nguyên tắc

Các nhà môi trường đã đề ra 8 nguyên tắc về quản lý và bảo vệ môi

trường sau đây:

1. Tôn trọng và quan tâm đến cuộc sống cộng đồng.

2. Cải thiện chất lượng cuộc sống con người.

3. Bảo vệ cuộc sống và tính đa dạng của trái đất.

4. Hạn chế đến mức thấp nhất việc làm suy giảm tài nguyên không tái

sinh.

5. Giữ vững trong khả năng chịu đựng được của trái đất.

6. Để cho cộng đồng tự quản lý lấy môi trường của mình.

25

7. Tạo ra một khuôn quốc gia thống nhất, thuận lợi cho việc phát triển

và bảo vệ môi trường.

8. Xây dựng một khối liên minh toàn cầu trong bảo vệ môi trường.

Đây là các nguyên tắc chi phối hoạt động quản lý, bảo vệ môi trường ở

bất kỳ quốc gia nào.

Với đặc điểm là một nước đang trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp

hoá, hiện đại hoá và chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, bảo vệ môi

trường ở Việt Nam dựa trên những nguyên tắc cơ bản sau đây :

1. Bảo vệ môi trường phải gắn kết hài hoà với phát triển kinh tế và

đảm bảo tiến bộ xã hội để phát triển bền vững đất nước. Bảo vệ môi

trường quốc gia phải gắn với bảo vệ môi trường khu vực và toàn

cầu.

2. Bảo vệ môi trường là sự nghiệp của toàn xã hội, quyền và trách

nhiệm của cơ quan nhà nước, tổ chức, hộ gia đình và cá nhân.

3. Hoạt động bảo vệ môi trường phải thường xuyên lấy phòng ngừa là

chính, kết hợp với khắc phục ô nhiễm, suy thoái và cải thiện chất

lượng môi trường.

4. Bảo vệ môi trường phải phù hợp với quy luật, đặc điểm tự nhiên,

văn hoá, lịch sử, trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước

trong từng giai đoạn.

5. Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân gây ô nhiễm suy thoái môi trường có

trách nhiệm khắc phục bồi thường thiệt hại và chịu trách nhiệm

theo quy định của pháp luật [20, tr.3].

1.1.3.3. Công cụ của bảo vệ môi trường sinh thái trong quá trình công

nghiệp hoá, hiện đại hoá

 Công cụ pháp luật và chính sách:

Đây là công cụ quản lý vĩ mô bao gồm các văn bản về luật quốc tế và luật

quốc gia, các văn bản dưới luật...công cụ này còn được gọi là công cụ pháp lý.

26

- Quy hoạch, kế hoạch hoá bảo vệ môi trường: Đảm bảo tính đồng bộ, cân

đối mục tiêu và nguồn lực, gắn chặt với chính sách đầu tư và phát triển.

- Về pháp luật: Thông thường hệ thống pháp luật bảo vệ môi trường của

một quốc gia bao gồm hai bộ phận chính là luật chung và luật sử dụng hợp lý

các thành phần của môi trường hoặc bảo vệ môi trường cụ thể ở một địa

phương. Luật chung gọi là Luật Bảo vệ môi trường, còn luật biển, rừng, đất đai,

khoáng sản... là các luật thành phần của môi trường.

Luật Bảo vệ môi trường của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam

được Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 29 tháng 11 năm 2005, có

hiệu lực từ ngày 01 tháng 07 năm 2006, thay cho Luật bảo vệ môi trường năm

1993.

- Về chính sách: Chính sách bảo vệ môi trường là công cụ chỉ đạo toàn bộ

hoạt động bảo vệ tài nguyên và môi trường trên phạm vi lãnh thổ rộng lớn như

một vùng hoặc một quốc gia trong thời gian dài (10 đến 15 năm trở lên). Chính

sách phải nêu lên mục tiêu và định hướng lớn để thực hiện mục tiêu, chính sách

phải hợp lý, có cơ sở vững chắc về khoa học và thực tiễn.

 Công cụ kinh tế:

Công cụ kinh tế (hay còn gọi là công cụ thị trường hay các cách tiếp cận

thị trường) đang ngày càng được nhiều nước sử dụng. Đây chính là sử dụng sức

mạnh của thị trường để bảo vệ môi trường, đảm bảo cân bằng sinh thái. Công cụ

kinh tế là những chính sách, biện pháp nhằm thay đổi chi phí và lợi ích của

những hành động kinh tế thường xuyên tác động tới môi trường, tăng cường ý

thức, trách nhiệm trước việc gây ra huỷ hoại môi trường. Công cụ kinh tế gồm

nhiều loại, sau đây là một số loại chính để phân biệt ranh giới giữa các công cụ

kinh tế và các công cụ chính sách khác:

- Ngân sách bảo vệ môi trường: bao gồm chi phí của Nhà nước và các

giới kinh doanh; Quỹ bảo vệ môi trường; Thuế, phí và lệ phí môi trường, tài

nguyên...

- Chương trình thương mại - môi trường: giấy phép phát thải/xả thải; Tín

hiệu giảm phát thải; Tiền trợ cấp tiêu thụ hoặc sản xuất.

27

- Động cơ tài chính: Chuyển nhượng; Kỳ phiếu vay và cho vay; Trợ cấp

tỷ lệ lãi suất; Giảm thuế/ phí.

- Hệ thống đặt cọc - hoàn trả.

- Trợ cấp tài chính: để nghiên cứu khoa học, áp dụng kỹ thuật, phục hồi

rừng, bảo vệ động vật hoang dã....

- Đầu tư cho bảo vệ môi trường: Từ ngân sách Nhà nước; Đầu tư của

nước ngoài như vốn ODA, FBI... Đầu tư trong nước như huy động vốn trong

cộng đồng dân cư, mọi thành phần kinh tế…

- Thưởng, phạt về môi trường: Hàng năm có các giải thưởng cho những

người, cơ quan, ngành, địa phương…làm tốt công tác bảo vệ môi trường. Đồng

thời, phạt nặng hay truy tố đối với các hành vi làm ô nhiễm môi trường, xâm

phạm, huỷ hoại tài nguyên.

- Cơ chế thị trường khác: Nhãn sinh thái (nhãn xanh); Bảo hiểm môi

trường; Tín phiếu xanh; Xổ số; Thu một phần lệ phí từ triển lãm, thi hoa hậu,

thế vận hội...

 Công cụ kỹ thuật quản lý.

Đây là công cụ thực hiện vai trò kiểm soát và giám sát của Nhà nước về

chất lượng và thành phần môi trường, về sự hình thành và phân bố ô nhiễm

trong môi trường và có tác dụng hỗ trợ hai công cụ nói trên. Công cụ này có thể

thực hiện thành công trong bất kỳ nền kinh tế nào, bao gồm các biện pháp chính

sau đây:

- Thông tin dữ liệu tài nguyên và môi trường.

- Tổ chức bộ máy quản lý.

- Kế toán và kiểm toán môi trường.

- Quản lý tai biến môi trường.

- Đánh giá tác động môi trường.

- Nghiên cứu và triển khai khoa học kỹ thuật công nghệ.

- Thanh tra, kiểm tra, giám sát môi trường.

28

 Công cụ giáo dục và truyền thông môi trường.

Bảo vệ môi trường là sự nghiệp của quần chúng, có huy động được toàn

dân tham gia thì công tác bảo vệ môi trường mới thành công. Vì vậy, giáo dục

và truyền thông môi trường có vai trò to lớn trong sự nghiệp bảo vệ môi trường

của mỗi quốc gia.

- Giáo dục môi trường là một quá trình thông qua các hoạt động giáo dục

chính quy và không chính quy nhằm giúp con người có thể hiểu biết, kỹ năng và

giá trị, tạo điều kiện cho họ tham gia vào phát triển một xã hội bền vững về sinh

thái.

- Truyền thông môi trường được hiểu là một quá trình trao đổi thông tin, ý

tưởng, tình cảm, suy nghĩ, thái độ giữa các cá nhân hoặc một nhóm người.

Truyền thông môi trường là một quá trình tương tác xã hội hai chiều nhằm giúp

cho những người liên quan hiểu được các yếu tố môi trường then chốt, mối quan

hệ phụ thuộc lẫn nhau và cách tác động vào các vấn đề liên quan một cách thích

hợp để giải quyết các vấn đề môi trường.

29

1.2. Kinh nghiệm của Trung Quốc về bảo vệ môi trường sinh thái

trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá

1.2.1. Thực trạng ô nhiễm môi trường ở Trung Quốc hiện nay

Một trong những mặt trái của phát triển kinh tế thần kỳ của Trung Quốc-

tốc độ tăng trưởng xấp xỉ 10% năm là vấn đề ô nhiễm môi trường ngày càng

nặng nề ảnh hưởng lớn đến sức khoẻ người dân và là hậu quả xấu tiềm tàng cho

nền kinh tế Trung Quốc sau này.

Tháng 8 - 2006, trong báo cáo của Phó Chủ tịch Uỷ ban thường vụ Quốc

hội Trung Quốc Sheng Huaren chỉ ra những con số đáng quan ngại về tình trạng

ô nhiễm môi trường ở Trung Quốc. Năm 2005, các nhà máy ở Trung Quốc thải

ra 25,5 triệu tấn Sulphur dioxide- hoá chất gây ra mưa axit, tăng 27% so với năm

2000, ô nhiễm từ các công xưởng và nhà máy điện tăng 9% năm. lượng Sulphur

dioxide phát ra cao gấp 2 lần mức độ an toàn. “Lượng Sulphur dioxide thải ra

cao cũng đồng nghĩa với việc 1/3 lãnh thổ Trung Quốc phải hứng chịu mưa axit,

gây nguy hại lớn cho đất và an toàn lương thực” 5 . Các con sông lớn đều bị ô

nhiễm nghiêm trọng. Hàng triệu người hiện đang thiếu nước sạch để uống. Sau

khi một loạt tai nạn công nghiệp xảy ra, nhiều sông ngòi bị nhiễm độc, không ít

thành phố phải ngừng hệ thống cấp nước, vấn đề bảo vệ môi trường trở thành

vấn đề nổi bật ở Trung Quốc.

Tháng 10 - 2006, cục phó Cơ quan Bảo vệ môi trường quốc gia Trung

Quốc (State Environmental Protection Administration - SEPA) Zhang Lijun

thông báo rằng 48,1% các thành phố Trung Quốc bị ô nhiễm không khí ở mức

trung bình và ở mức cao. Nguyên nhân chủ yếu là khí thải độc hại được thải vào

không khí do việc dùng nhiều than đá trong công nghiệp và sinh hoạt. tuy nhiên,

việc dùng than đá ở Trung Quốc trong những năm tới vẫn tiếp tục tăng mạnh.

Các chuyên gia dự báo đến năm 2010 nhu cầu than đá dùng trong nước của

Trung Quốc là 2,45 tỷ tấn, còn đến năm 2020 sẽ là 2,9 tỷ tấn. Như vậy đến năm

2010 sẽ là 35 triệu tấn Sulphur dioxide và năm 2020 là 43,5 triệu tấn chất thải

độc hại này sẽ được thải vào không khí.5

30

Ở các thành phố lớn của Trung Quốc, số lượng ô tô tăng tốc độ 10% trên

1 năm. Điều này làm tăng các khí thải khác lẫn khí Sulphur dioxide và làm tăng

hàm lượng chì trong khí quyển ở thành thị.

Tại Trung Quốc có tới 21.000 nhà máy hoá chất được đặt dọc theo các

con sông và ven biển. Trong đó có quá nửa nhà máy hoá chất được đặt dọc 2

con sông quan trọng nhất của Trung Quốc là Trường Giang (Dương Tử) và

Hoàng Hà- nguồn cung cấp nước chính của hàng triệu dân. Theo một quan chức

khác cũng là Cục phó Cục cơ quan bảo vệ môi trường quốc gia Trung Quốc, Pan

Yue cho rằng bùng nổ kinh tế làm tăng chất thải hoá học và các vụ hoá chất độc

hại tràn vào các con sông.

Ô nhiễm môi trường đã mang tới những hậu quả hết sức nặng nề.

Một là, ô nhiễm môi trường ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức khoẻ của

người dân. Tỷ lệ tử vong do bệnh phổi mãn tính, căn bệnh nguy hiểm gây tử

vong nhiều nhất ở Trung Quốc, lớn gấp 5 lần so với ở Mỹ. Những nghiên cứu

dịch tễ cho thấy sự chênh lệch của hàm lượng khí thải và Sulphur dioxide ở Bắc Kinh (300 Microgram/m3) và New York (50 Microgram /m3) liên quan đến tỷ lệ

tử vong do bệnh phổi mãn tính ở Bắc Kinh cao hơn 130% so với ở New York. ở

Bắc Kinh, 70 - 80% các ca ung thư phổi đều có liên quan đến môi trường. Ung

thư phổi đã trở thành nguyên nhân số 1 gây tử vong. Nếu ô nhiễm không khí

ngoài trời được giảm xuống mức chỉ tiêu mà chính phủ Trung Quốc đặt ra thì

trung bình mỗi năm có tới 178.000 người được cứu sống. Nếu giảm ô nhiễm

trong nhà xuống mức tương tự thì có 110.000 người nữa được cứu sống.

Ngân hàng thế giới (WB) đã báo động về nạn ô nhiễm ở Trung Quốc đạt

tới mức kinh khủng lượng Sulphur dioxide (SO2) và lượng hạt do xe cộ thải ra

nằm trong những nơi cao nhất thế giới. Theo tính toán nếu ô nhiễm môi trường

tiếp tục tăng theo đà này thì đến năm 2020 nạn ô nhiễm sẽ giết chết 600.000

người mỗi năm 5.

Hai là, ô nhiễm môi trường tác động tiêu cực đến nền kinh tế đất nước.

31

Những trận mưa axít, quá trình đô thị hoá,công nghiệp hoá và cơ khí hoá

trong hai thập kỉ qua với việc sử dụng nhiều nguồn năng lượng đã huỷ hoại

nghiêm trọng chất lượng nước và không khí ở Trung Quốc.

Theo bộ đất đai và Tài nguyên Trung Quốc, chỉ riêng tình trạng ô nhiễm

kim loại nặng đã khiến nước này mất 12 triệu tấn thóc mỗi năm, gây thiệt hại

khoảng 2,6 ty USD/năm. Theo đánh giá của các nhà nghiên cứu Trung Quốc và

nước ngoài thì thiệt hại kinh tế do ô nhiễm môi trường chiếm từ 3 - 7% GDP.

Một tài liệu khác chỉ ra rằng thiệt hại này còn hơn gấp đôi con số kể trên, lên tới

8 - 15% GDP 6, tr.35.

Ô nhiễm môi trường tại Trung Quốc không chỉ có tác động xấu tới đời

sống và phát triển kinh tế của nước này mà còn ảnh hưởng tới môi trường toàn

cầu nói chung.

Những nghiên cứu của các nhà khoa học thế giới và các tổ chức quốc tế

chỉ rõ tại Trung Quốc chỉ đứng sau Mỹ là nước có số lượng khí thải lớn nhất thế

giới. Đồng thời những nghiên cứu này cũng dự báo rằng đến năm 2010 và có thể

là ngay năm 2007 Trung Quốc sẽ vượt Mỹ trở thành nước có số lượng khí thải

gây hiệu ứng nhà kính lớn nhất thế giới.

1.2.2. Chiến lược bảo vệ môi trường của Trung Quốc

Những năm gần đây ô nhiễm môi trường trở thành một trong những vấn

đề được quan tâm hàng đầu trong chiến lược phát triển kinh tế của Trung Quốc.

Ngày 17 và 18 - 4 - 2006 tại Bắc Kinh đã diễn ra hội nghị toàn quốc bảo vệ môi

trường. Theo thủ tướng Ôn Gia Bảo, trong kế hoạch 5 năm lần thứ X (2001-

2005) đã đạt được nhiều mục tiêu phát triển kinh tế đất nước nhưng chưa đạt

được những chỉ số chính của việc bảo vệ môi trường. “Bảo vệ môi trường là

khâu yếu trong phát triển kinh tế - xã hội của Trung Quốc. Nguyên nhân chính

là của việc này chúng ta không chú ý đầy đủ đến việc bảo vệ môi trường, những

biện pháp tăng trưởng kinh tế tích cực, kiểm soát yếu kém việc thực hiện luật

bảo vệ tự nhiên”.

32

Trên thực tế, chiến lược bảo vệ môi trường đã được Trung Quốc tiến hành

từ những năm cuối thế kỷ XX. Bước sang thế kỉ XXI, công tác này được đẩy

mạnh hơn nhằm thực hiện thắng lợi những chỉ tiêu đặt ra theo kế hoạch 5 năm

lần thứ XI. Xuyên suốt quá trình thực hiện chiến lược bảo vệ môi trường của

Trung Quốc là hai trụ cột cơ bản:

Một là: Hành lang pháp lý thực hiện chiến lược bảo vệ môi trường.

Chính phủ Trung Quốc xác định để thực hiện tốt việc bảo vệ môi trường

trước hết phải có một hành lang pháp lý với những luật và chính sách cụ thể làm

nền tảng thực hiện công cuộc khó khăn này. Nhà nước đã ban hành “Luật bảo vệ

môi trường nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa”, coi đây là chủ thể của hệ

thống pháp luật và bảo vệ môi trường. Tháng 3 - 1994, Chính phủ Trung Quốc

đã phê chuẩn và ban hành “Sách trắng về phát triển và dân số, bảo vệ môi

trường”.

Trong quá trình thực hiện Luật Môi trường. Trung Quốc nhận ra rằng việc

lơ là trong bảo vệ môi trường và không tuân thủ nghiêm ngặt Luật Môi trường là

một trong những nguyên nhân làm cho ô nhiễm môi trường ở Trung Quốc ngày

càng trầm trọng.

Những sai lệch trên đã được chấn chỉnh. Ngày 14 - 3 - 2006 tại cuộc họp

báo nhân kết thúc kỳ họp thứ 4 khoá X Quốc hội Trung Quốc, Thủ tướng Quốc

vụ viện Trung Quốc Ôn Gia Bảo nói Trung Quốc cần những biện pháp thực tiễn

trong cuộc đấu tranh chống ô nhiễm môi trường, không nên theo nối cũ là gây ô

nhiễm môi trường rồi sau đó mới xử lý: “Chúng ta nên dành những dãy núi xanh

và nước sạch cho con cháu chúng ta”.

Thủ tướng cho rằng trong thời gian tới thay vì chỉ tập trung phát triển kinh

tế, Trung Quốc cần chú ý bảo tồn năng lượng và bảo vệ môi trường. Trung Quốc

sẽ thắt chặt việc thi hành luật và bảo vệ môi trường song song với luật; sẽ thi

hành nghiêm ngặt chính sách công nghiệp, đặc biệt là xử lý từng bước ô nhiễm

nước, không khí và đất. Những doanh nghiệp tiêu thụ nhiều năng lượng và gây ô

nhiễm sẽ bị phạt, nếu nặng sẽ bị đóng cửa.

33

Hai là: Những biện pháp cụ thể thực hiện chiến lược bảo vệ môi trường.

Bước sang kế hoạch 5 năm lần thứ XI (2006 - 2010), vấn đề bảo vệ môi

trường được đẩy lên là một trong những nhiệm vụ quan trọng của kế hoạch nhà

nước. Hai hướng chính trong những biện pháp cụ thể thực hiện chiến lược bảo

vệ môi trường là:

 Tăng cường hoàn thiện ngành bảo vệ môi trường.

Ngành bảo vệ môi trường ở Trung Quốc xếp vào lĩnh vực ưu tiên và dành

cho ngành những chính sách ưu đãi trong các lĩnh vực đầu tư, giá cả, thuế.v.v.

Hiện nay, Trung Quốc có hơn 100 nghìn đơn vị chuyên trách hoặc bán chuyên

trách về bảo vệ môi trường trong đó có hơn 8500 doanh nghiệp, hơn 1500 đơn vị

sự nghiệp (Bao gồm các Viện, Sở nghiên cứu khoa học…) với hơn 1,8 triệu

người làm việc. Tổng giá trị của ngành bảo vệ môi trường là 108 tỷ NDT, có tài

sản cố định trị giá là 45,011 tỷ NDT, tổng giá trị sản lượng hàng năm là31,248

NDT lợi nhuận là 4,091 tỷ NDT, mức tăng trưởng hàng năm của ngành bảo vệ

môi trường là 15%.

Trung Quốc đã thực thi 4 biện pháp cụ thể lớn nhằm phát triển ngành bảo

vệ môi trường.

1, Thiết lập và hoàn thiện chính sách cho ngành bảo vệ môi trường. Nhà

nước công bố danh mục khuyến khích phát triển ngành; thiết lập và hoàn thiện

chính sách ưu đãi, miễn giảm thuế, sử dụng tổng hợp tài nguyên; xây dựng và

hoàn thiện chế độ thu phí xử lý rác, nước thải thành phố, điều chỉnh tiêu chuẩn

thu phí xử lý rác thích hợp để thoả mãn nhu cầu vận chuyển và xây dựng công

trình xử lý rác, nước thải thành phố. Các vùng có điều kiện phải xây dựng quỹ

phát triển cho ngành bảo vệ môi trường.

2, Đẩy nhanh việc phát triển khoa học kỹ thuật bảo vệ môi trường, đưa

những vấn đề khoa học công nghệ lớn của ngành bảo vệ môi trường vào trong

kế hoạch đầu tư thường niên; tăng cường xây dựng năng lực kỹ thuật mới cho

doanh nghiệp bảo vệ môi trường, tăng cường đầu tư vào sáng tạo kỹ thuật mới;

thúc đẩy hơn nữa việc kết hợp "nghiên cứu khoa học với sản xuất"… Lấy nội

34

địa hoá trang thiết bị và công nghệ then chốt của ngành bảo vệ môi trường làm

nội dung quan trọng trong kế hoạch sáng tạo kỹ thuật mới của Nhà nước.

3, Tăng cường quản lý, giám sát, bồi dưỡng và chuẩn hoá thị trường

ngành bảo vệ môi trường. Nhà nước đã chỉ đạo các cấp, các ngành vận dụng

tổng hợp các biện pháp kinh tế, pháp luật và hành chính cần thiết để xây dựng

một thị trường bảo vệ môi trường thống nhất, mở cửa, cạnh tranh lành mạnh và

có trật tự.

4, Nghiên cứu xây dựng cơ chế phát triển ngành bảo vệ môi trường phù

hợp với yêu cầu của thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa.

 Những biện pháp cụ thể khác nhằm thực hiện chiến lược bảo vệ

môi trường.

Trong kế hoạch phát triển kinh tế xã hội Trung Quốc 5 năm lần thứ XI,

Trung Quốc đặt ra những nhiệm vụ môi trường chủ yếu: giảm bớt sử dụng năng

lượng theo đơn vị GDP xuống 20% so với cuối kế hoạch 5 năm lần thứ X, hạn

chế 10% chất thải độc hại và tăng diện tích che phủ rừng từ 18,2% lên 20% diện

tích đất trước.

Để thực hiện những mục tiêu này, chương trình hành động vì môi trường

của Trung Quốc trong những năm kế hoạch 5 năm lần thứ XI và sau đó sẽ tập

trung vào 3 giải pháp chính là thúc đẩy các lực lượng thị trường, khuyến khích

đầu tư vào công nghệ sản xuất sạch và thực hiện chính sách điều tiết hiệu quả.

1.2.3. Triển vọng của chiến lược bảo vệ môi trường ở Trung Quốc

Việc thực thi chiến lược bảo vệ môi trường trong những năm đầu thế kỷ

XXI của Trung Quốc đã đạt được những thành quả nhất định.

Trước hết, Chính phủ Trung Quốc đã làm thay đổi được nhận thức của

các nhà hoạch định chính sách, các nhà làm kinh tế cũng như của đa phần người

dân trong nước hiểu rõ về thực trạng ô nhiễm môi trường trầm trọng mà đất

nước phải đối đầu. Từ đó nhiều người dân đã cùng có ý thức trong việc bảo vệ

môi trường xung quanh. Chiến lược chống ô nhiễm môi trường ở Trung Quốc

được thực hiện một cách khoa học, trước hết là xây dựng được quan điểm, sau

35

đó là thống nhất được chủ trương, chính sách và các phương pháp được tiến

hành một cách cụ thể.

Việc Trung Quốc thực thi chiến lược bảo vệ môi trường của mình không

chỉ làm thay đổi điều kiện trong nước mà có ảnh hưởng lớn đến nhiều nước khác

trên thế giới và trong khu vực. Trong thời gian tới, việc thực hiện chiến lược bảo

vệ môi trường của Trung Quốc sẽ có những thuận lợi như:

- Trung Quốc có được sự đồng thuận về quan điểm, chủ trương chính sách

và lòng dân trong việc thực thi chiến lược bảo vệ môi trường của mình. Tất cả

mọi thành phần xã hội đều được huy động để thực hiện những mục tiêu cụ thể

mà Chính phủ đề ra để bảo đảm chống ô nhiễm môi trường.

- Trung Quốc đã và đang trở thành một cường quốc về kinh tế. Tiềm lực

kinh tế hiện nay với dự trữ ngoại tệ đạt trên 120 tỷ USD cho phép Trung Quốc

thực hiện những dự án bảo vệ môi trường lớn có lợi nhất cho mình dựa trên cơ

sở kinh tế.

- Những kinh nghiệm và bài học thành công và chưa thành công mà

Trung Quốc rút ra được trong suốt những năm cuối thế kỷ XX và đầu thế kỷ

XXI vừa qua trong việc thực hiện chiến lược trên.

Tuy nhiên, Trung Quốc vẫn phải đối mặt với những thách thức mới đến từ

nhiều phía trong việc bảo vệ môi trường. Đó là:

- Mâu thuẫn giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường. Để đạt tốc độ

tăng trưởng kinh tế theo mục tiêu đề ra, trung Quốcc cần nhiều nguồn lực khác

nhau trong đó có việc sử dụng ngày càng nhiều các nguồn nguyên liệu, chủ yếu

là các nguồn truyền thống như than đá. Việc sử dụng hoá chất trong công nghiệp

dầu khí và lọc dầu vẫn phải tiếp tục. Để đảm bảo phát triển kinh tế, trong tương

lai Trung Quốc sẽ vẫn phải duy trì các nguồn năng lượng có nguy cơ gây ô

nhiễm môi trường cao, tạo khí thải hiệu ứng nhà kính.

- Sự chênh lệch về khả năng đáp ứng trong nước đối với yêu cầu quốc tế.

Trước dư luận Thế giới đòi hỏi Trung Quốc cắt giảm khí thải gây ô nhiễm môi

36

trường, hiệu ứng nhà kính...với khả năng hiện có của mình, Trung Quốc không

thể đáp ứng được những yêu cầu đó.

Trong hai mươi năm đầu thế kỷ XXI, Trung Quốc tiếp tục đẩy mạnh

chiến lược chống ô nhiễm môi trường, đòi hỏi Chính phủ và nhân dân Trung

Quốc tìm ra những phương pháp mới phù hợp hơn, hiệu quả hơn, một mặt duy

trì tốc độ phát triển kinh tế của mình, mặt khác nâng dần khả năng và trình độ

Trung Quốc ngang bằng với những tiêu chí của cộng đồng quốc tế.

Là một nước có rất nhiều đặc điểm tương đồng với Trung Quốc trong quá

trình thực hiện công nghiệp hoá, hiệnđại hoá, Việt Nam có thể vận dụng nhiều

kinh nghiệm của Trung Quốc về xây dựng và thực hiện chiến lược bảo vệ môi

trường sinh thái vào điều kiện cụ thể của đất nước. Đó là kinh nghiệm trong xây

dựng hành lang pháp lý bảo vệ môi trường sinh thái, trong xác định và thực hiện

có hiệu quả tổng thể các biện pháp bảo vệ môi trường sinh thái.

37

Chương 2

THỰC TRẠNG MÔI TRƯỜNG SINH THÁI

VÀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG SINH THÁI TRONG QUÁ TRÌNH

CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ Ở VIỆT NAM

2.1. Thực trạng môi trường sinh thái trong quá trình công nghiệp

hoá, hiện đại hoá

Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã mang lại những tác động tích

cực đối với môi trường như đã được phân tích tổng quát ở phần trên. Trong công

nghiệp, việc phát triển các khu công nghiệp, cụm công nghiệp tập trung đã tạo

điều kiện thuận lợi hơn cho việc xử lý các vấn đề môi trường. Việc thay xăng

không chì đã góp phần giảm 9/10 lượng chì trong không khí tại các đô thị, được

cộng đồng đánh giá cao. Công nghiệp đã bước đầu có những điều chỉnh thông

qua chương trình xử lý và di dời nhằm giảm các cơ sở gây ô nhiễm nghiêm

trọng tại các khu đô thị, khu dân cư. Phát triển công nghiệp theo hướng xuất

khẩu cũng góp phần không nhỏ vào cải thiện môi trường sinh thái do phải thực

hiện những định chế quốc tế về môi trường, vệ sinh và sức khoẻ.

Các chương trình phát triển nông nghiệp nông thôn theo hướng công

nghiệp hoá, hiện đại hoá cũng mang lại những hiệu ứng tích cực đối với môi

trường sinh thái. Đó là các chương trình nước sạch và vệ sinh môi trường ở nông

thôn; chương trình công nghệ sinh học trong nông nghiệp; chương trình giao

đất, giao rừng; chương trình phủ xanh đất trống đồi núi trọc (chương trình

3.2.7), sau đó là chương trình 6.6.1 (thay thế chương trình 3.2.7); chương trình

khai thác chế biến và kinh doanh lâm sản; chương trình phát triển nuôi trồng

thuỷ hải sản thời kỳ 1999- 2010... Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đang tạo

những điều kiện tiền đề cho bảo vệ, cải thiện môi trường sinh thái cả về tài

chính, công nghệ và nhân lực (đào tạo đội ngũ cán bộ có năng lực về phẩm chất

và chuyên môn cho bảo vệ môi trường, người dân với tác phong, kỷ luật, ý thức

cộng đồng có được trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá sẽ là nhân tố

38

đặc biệt quan trọng trong bảo vệ môi trường). Tuy nhiên , những tác động tích

cực của công nghiệp hoá, hiện đại hoá thời gian qua còn ở mức khiêm tốn, về

căn bản còn ở dạng tiềm năng, mang tính xu hướng và định tính. Những tác

động tiêu cực của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã và đang tăng lên cả

về quy mô, loại hình và hậu quả. Vì thế luận văn chỉ tập trung nghiên cứu những

tác động tiêu cực của sự phát triển các ngành đối với môi trường sinh thái trong

quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam thời gian qua cùng những

hậu quả của nó.

2.1.1. Tác động của sự phát triển các ngành kinh tế trong quá trình

công nghiệp hoá hiện đại hoá đến môi trường sinh thái

2.1.1.1. Tác động của quá trình phát triển công nghiệp tới môi trường

Để thực hiện công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nền công

nghiệp nước ta phải duy trì giá trị gia tăng sản lượng ở mức hai con số. Điều này

tất yếu dẫn tới nhu cầu sử dụng năng lượng và nguyên vật liệu mà chủ yếu là do

khai thác khoáng sản và sử dụng nguyên liệu từ nông - lâm - thuỷ sản sẽ phải

tăng theo tương ứng.

Hiện nay tiêu thụ khoảng 3.5 đến 4 triệu tấn than/năm và phải nhập khẩu

khoảng 2.5 triệu tấn xăng dầu/năm. Dự kiến đến năm 2010 mức tiêu thụ năng

lượng ở nước ta sẽ tăng gấp 2 lần hiện nay. Trong công nghiệp giấy, hiện nay

nước ta đang sản xuất được khoảng 170 nghìn tấn bột giấy và 190 nghìn tấn

giấy. Để đáp ứng nhu cầu nguyên liệu phục vụ cho sản xuất số sản phẩm đó, cần

phải khai thác từ 70 - 80 nghìn ha rừng tre, nứa, gỗ mỗi năm. Như vậy phải tiến

hành trồng từ 10 đến 17 năm trước mới có rừng để khai thác hôm nay.

Thực tế cho thấy, để phát triển công nghiệp và xuất khẩu, tài nguyên thiên

nhiên đang bị khai thác một cách tối đa và tính chất lãng phí trong khai thác, sử

dụng bộc lộ hết sức rõ nét.

Nhìn chung, nhiều ngành công nghiệp chủ lực của Việt Nam hiện nay là

những ngành công nghiệp thâm dụng tài nguyên. Cụ thể là các ngành khai thác

năng lượng, khoáng sản (dầu, than, điện, quặng các loại), ngành công nghiệp sản

39

xuất phân bón, hoá chất, xi măng, nhựa; ngành công nghiệp khai thác chế biến

gỗ và các sản phẩm lâm sản; ngành công nghiệp chế biến hải sản, cao su và các

loại nông thổ sản; ngành công nghiệp sản xuất giấy, diêm; ngành công nghiệp

sản xuất vật liệu xây dựng; ngành công nghiệp cơ khí, luyện kim; ngành công

nghiệp sản xuất mía đường; ngành công nghiệp thuộc da và một số ngành sản

xuất đồ gia dụng khác.

Nguồn lực thuỷ hải sản là một trong những nguồn tài nguyên của nước ta,

có ý nghĩa quan trọng trong phát triển công nghiệp chế biến và đẩy mạnh xuất

khẩu. Ở nước ta hiện nay, do thiếu phương tiện đánh bắt xa bờ và cũng do việc

đánh bắt gần bờ dễ dàng, chi phí ít hơn, thu lợi nhuận trước mắt cao hơn nên

việc các doanh nghiệp đánh bắt hải sản của quốc doanh và tư nhân, ngư dân đều

chủ yếu diễn ra gần bờ. Vùng biển gần bờ là vùng tập trung chủ yếu các loại cá

con, là bãi đẻ chính của nhiều loại cá và hải sản khác. Cường độ khai thác ở khu

vực này quá lớn, nhiều nơi mức khai thác đã vượt quá giới hạn cho phép gây ảnh

hưởng xấu đến nguồn lợi. Trong nhiều trường hợp, người ta còn dùng các

phương tiện đánh bắt cá mang tính huỷ diệt như mìn, xung điện…

Những hiện tượng trên đã làm cho nguồn lợi biển của nước ta đang trên

đà cạn kiệt nhanh chóng. Việc nuôi trồng tôm và các loại hải sản khác để xuất

khẩu trong vài năm qua cũng đang gia tăng. Nhưng do việc quy hoạch các bãi và

vùng chăn thả còn chưa hợp lý và đặc biệt là kỹ thuật nuôi trồng còn theo kiểu

quảng canh, không quan tâm đến việc bảo vệ môi trường cùng với việc chặt phá

rừng đước, rừng tràm một cách bừa bãi cũng làm cho diện tích rừng ngập mặn

trong tình trạng bị đe doạ nghiêm trọng, làm mất dần bình phong chống bão,

sóng biển và xói mòn ven bờ, khống chế lũ lụt, bãi đẻ, bãi nuôi các loại sinh vật

biển có giá trị cao. Nguồn cá và các loại thuỷ sản nước ngọt khác cũng đang bị

cạn kiệt nhanh chóng do tình trạng ô nhiễm đất, nước thải (đặc biệt là nước thải

công nghiệp), sử dụng tràn lan phân bón hoá học, thuốc trừ sâu, đánh bắt ồ ạt,

nhất là dùng các phương tiện mang tính chất huỷ diệt như xung điện hoặc thuốc

nổ.

40

Khoáng sản là tài nguyên không tái tạo được, vì vậy khi khai thác cần cân

nhắc cẩn trọng tránh lãng phí. Tuy nhiên với tình hình khai thác khoáng sản như

hiện nay thì nguy cơ thất thoát và mất mỏ là rất cao, hơn nữa còn đe doạ mất cân

bằng sinh thái. Theo tổng hợp gần đây, tỷ lệ tổn thất trong khai thác khoáng sản

rất cao, có nơi tới 50%.

Tổn thất trong khai thác than hầm lò là: 40 - 60% -

Tổn thất trong khai thác than lộ thiên là: 10 - 15% -

Tổn thất trong khai thác apatit là: 26 - 43% -

Tổn thất trong khai thác quặng kim loại là: 15 - 30% -

Tổn thất trong khai thác vật liệu xây dung là: 15 - 20% -

Tổn thất trong khai thác dầu khí là: 50 - 60% [3, tr.24] -

Trong chế biến khoáng sản, tổn thất cũng rất cao. Khoáng sản vàng là ví

dụ điển hình. Hiện tại, độ thu hồi quặng vàng trong chế biến (tổng thu hồi) chỉ

đạt 30 - 40%, có nghĩa là hơn một nửa thải ra ngoài bãi thải, không chỉ mất mát

to lớn về tài nguyên quý hiếm mà còn gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.

Hệ quả môi trường không mong muốn gia tăng cùng với quá trình công

nghiệp hoá. Sản xuất công nghiệp với quy trình lạc hậu kéo theo tỷ xuất phát

thải cũng cao hơn. Mức thải trung bình của các doanh nghiệp Việt Nam nhìn

chung cao hơn mức trung bình của khu vực và thế giới. Nước thải của các nhà máy giấy Việt Nam tính trên đơn vị sản phẩm đạt mức trên 500m3/1 tấn giấy, gấp 5 lần so với chỉ tiêu tương tự của thế giới (khoảng 100m3/1 tấn). Nước thải

của công nghiệp chế biến thực phẩm cũng cao gấp 3-4 lần. Phần lớn nước thải

công nghiệp chưa được xử lý (Theo thống kê của Bộ tài nguyên và môi trường,

năm 2005 có đến 95,74 nước thải chưa được xử lý thải trực tiếp ra môi trường)

đã huỷ hoại nghiêm trọng môi trường đất, không khí và nước- trường hợp công

ty Vedan là một điển hình, ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất nông nghiệp và đời

sống của cư dân. Công nghiệp phát thải cao, hơn nữa lại phân bố thiếu hợp lý

xen lẫn với khu dân cư đã đưa lại những hậu quả môi trường nặng nề ảnh hưởng

đến sinh hoạt cộng đồng.

41

Kèm theo sự gia tăng nhu cầu sử dụng năng lượng, nguyên liệu trong phát

triển công nghiệp thì lượng các chất phế thải trong công nghiệp, tiêu dùng cũng

tăng lên nhanh chóng ở cả 3 dạng vật chất (rắn, lỏng, khí). Các chất phế thải này

đã- đang và sẽ là hiểm hoạ đe doạ nghiêm trọng đối với môi trường sinh thái

nước ta. Đáng lưu ý là nước ta là một nước nông nghiệp, đang trong giai đoạn

chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nên

ngành công nghiệp nước ta đang trong giai đoạn xây dựng và phát triển để nước

ta căn bản trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020. Nền công nghiệp

nước ta hiện nay vẫn còn trong tình trạng kém phát triển với quy mô vừa và nhỏ

là chính, chưa có sự quy hoạch xây dựng ở những địa điểm thích hợp, phần lớn

đều phân bố tập trung tại khu vực đông dân cư, trung tâm đô thị. Thiết bị và

công nghệ sản xuất vừa cũ kĩ vừa lạc hậu với 80% thiết bị sản xuất thuộc thế hệ

những năm 1980. Gần đây một số xí nghiệp được trang bị khá hiện đại song

cũng chỉ đạt trình độ hiện đại trung bình của thế giới và chiếm khoảng 20%, chỉ

một số rất ít, không đáng kể thiết bị và công nghệ sản xuất đạt trình độ tiên tiến.

Có tới 80% nhà máy công nghiệp chưa có hệ thống xử lý chất phế thải, số còn

lại có hệ thống xử lý chất phế thải nhưng chưa hoàn chỉnh. Nhiều nhà máy quy

tụ vào một số vùng và trùng với sự phân bố chung của nhà máy thuộc các nhóm

sản xuất công nghiệp khác nhau khiến cho mức độ ô nhiễm tại một nơi nào đó

(thường là các khu công nghiệp, khu chế xuất) càng tăng lên. Tình trạng ô nhiễm

môi trường do sản xuất công nghiệp đặc biệt nghiêm trọng, tập trung ở một số

đô thị, khu công nghiệp lớn. Thực tế cho thấy sự tập trung thái quá tại một số

điểm và thiếu các cân nhắc cần thiết, các tính năng công nghiệp thích hợp, đặc

biệt là ở vùng Đông Nam Bộ ( TP Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương...)

chiếm trên 50% giá trị công nghiệp cả nước đã tạo ra các vấn đề nóng về môi

trường, kéo theo các vấn đề xã hội bức xúc.

Tình trạng nước thải do sản xuất công nghiệp gây ô nhiễm môi trường nước ta

hiện đang là vấn đề nghiêm trọng và bức xúc. Ở Hà Nội có từ 100 - 150 nghìn m3

nước thải công nghiệp mỗi ngày không qua xử lý được xả trực tiếp xuống các sông

Kim Ngưu, Tô Lịch khiến cho nước ở các sông này bị ô nhiễm nặng. Với tốc độ phát

42

triển công nghiệp và thương mại như hiện nay thì ước tính sau 15 năm nữa, lượng

chất thải sẽ tăng lên gấp 10 lần hiện nay nếu không có giải pháp hữu hiệu và kịp thời.

Trong công nghiệp sản xuất giấy, ngay cả những nhà máy xí nghiệp lớn,

được trang bị công nghệ xử lý chất thải trong giai đoạn 1975 - 1980 như Bãi

Bằng, Cogido, Tân Mai cũng đã thải xuống sông một lượng độc tố (Lighin) có

hàm lượng cao và thải vào khí quyển H2, H2S, SO2, bụi Na2CO, CH3CH (Metyl

veercaptan),… với hàm lượng lớn hơn mức cho phép nhiều lần, gây nguy hại

cho môi trường và sức khoẻ cộng đồng.

Công nghiệp sản xuất mía đường, thuộc da cũng làm ô nhiễm môi trường

do lượng nước bùn, khí và chất thải rắn, những phế thải này không chỉ gây tác

hại cho môi trường dưới tác động hoá học mà còn cả tác động sinh học làm bẩn

môi trường (vi sinh vật lên men, gây thối).

Ngành khai thác than có những đóng góp to lớn vào sự phát triển kinh tế

nước ta trong những năm gần đây. Tuy nhiên, hậu quả để lại cho môi trường

cũng vô cùng nghiêm trọng, cần có sự đánh giá và phân tích khách quan để tìm

ra giải pháp khắc phục. Hiện nay trên địa bàn vùng mỏ Quảng Ninh có hơn 30

mỏ được khai thác hợp pháp (hầu hết số mỏ đó khai thác lộ thiên, chỉ có 9 mỏ

khai thác hầm lò). Nhiều mỏ trong số đó đã hoạt động từ thời Pháp thuộc và tiếp

tục được gia tăng cường độ khai thác. Hiện nay, theo quy định của Nhà nước

trước khi khai thác phải có báo cáo đánh giá tác động môi trường và sau khi khai

thác xong phải phủ lại các lớp đất mùn và trồng cây trên đó để hoàn lại cảnh

quan ban đầu. Quy trình công nghệ khai thác được quy định như vậy nhưng tất

cả các mỏ than tại Quảng Ninh đều không thực hiện đúng theo quy định. Do vậy

đã hình thành những bãi rác và núi thải đất đá khổng lồ. Hàng chục ha rừng và

đất canh tác bị xâm phạm và biến thành các bãi thải, núi thải khổng lồ, không

được che phủ cây xanh lên và không có sinh vật nào có thể sinh sống được với

bụi than, bụi cát cao gấp 10 đến 100 lần tiêu chuẩn cho phép. Sông Mông

Dương, Diên Vọng bị thu hẹp dòng chảy, nguồn nước sinh hoạt của thợ mỏ và

dân cư trong vùng bị ô nhiễm nặng nề. Qua điều tra, cứ 4000 người dân Quảng

43

Ninh khám bệnh thì có tới 2500 người mắc bệnh (trong đó 80% mắc bệnh bụi

phổi, hen phế quản, tai mũi họng) và tỷ lệ ung thư cũng ngày càng cao.

Trên vùng biển Quảng Ninh, lượng tàu vào lấy than ngày càng nhiều làm

cho lượng dầu thải lớn rơi vãi trên vịnh. Thêm vào đó, các xà lan chở dầu để xả

nước lẫn dầu xuống biển, gây ô nhiễm nước biển. Vịnh Hạ Long bị ô nhiễm

nghiêm trọng không chỉ bởi các chất hoà tan, không hoà tan từ các mỏ than thải

ra tích tụ lại mà còn do lượng dầu thải của các tàu chở dầu, lấy than hoạt động

trong vùng vịnh. Cảnh quan du lịch ở vịnh Hạ Long cũng đang bị đe doạ nghiêm

trọng bởi nạn ô nhiễm môi trường.

Các mỏ khai thác khoáng sản khác ở nước ta như mỏ quặng sắt, khoáng

titan ở vùng biển miền Trung từ nghệ An đến Khánh Hoà, mỏ thiếc Tĩnh Túc

(Cao Bằng), các mỏ kim loại khác như chì, kẽm, cromit, đồng… và đặc biệt là

tình trạng khai thác trái phép ở các mỏ vàng, đá quý ở Kim Bôi, Xuân Mai (Hoà

Bình), Bảo Yên (Lào Cai), Bình Gia (Lạng Sơn)… cũng tương tự như ở Quảng

Bình. Tình trạng lãng phí tài nguyên, xáo trộn cảnh quan thiên nhiên và huỷ hoại

môi trường xảy ra rất nghiêm trọng do hoạt động khai thác bừa bãi, bất hợp

pháp.

Có thể nói hầu như không một ngành sản xuất công nghiệp, một xí nghiệp

công nghiệp nào trong quá trình hoạt động, sản xuất, phát triển lại không hề gây

ra tác động tiêu cực đến môi trường. Như vậy, cùng với quá trình phát triển công

nghiệp trong thời gian qua là sự gia tăng của cạn kiệt tài nguyên và ô nhiễm môi

trường.

2.1.1.2 Tác động của quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn tới môi

trường.

Sản xuất nông nghiệp và các hoạt động ở nông thôn trong những năm

thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã có nhiều biến đổi quan trọng. Việc

phát triển sản xuất nông nghiệp đã tăng lượng sử dụng các loại phân vô cơ,

thuốc hoá chất bảo vệ thực vật vừa làm tăng năng suất cây trồng nhưng cũng

làm tăng độ ô nhiễm các chất độc hại đối với đất, nước và cả với sức khoẻ con

44

người. Nguồn nước tưới dùng trong nông nghiệp chịu ảnh hưởng của các nguồn

nước thải từ đô thị và các nhà máy công nghiệp, tại hầu hết các khu vực đều bị ô

nhiễm khá cao. Việc phát triển nuôi tôm một cách thiếu quy hoạch và không

đúng kỹ thuật, không chỉ gây nên tình trạng đầm tôm lấn đất lúa, mà còn gây ô

nhiễm nguồn nước tăng vọt do vùng nước đầm nuôi tôm không được xử lý hợp

lý. Sự phát triển của các làng nghề có ý nghĩa rất lớn về mặt kinh tế - xã hội,

song do chưa chú ý đúng mức đến các biện pháp bảo vệ môi trường nên đã làm

tăng mức độ ô nhiễm cho làng xóm dân cư sinh sống.

Lấy đồng bằng sông Hồng làm điển hình để xem xét tình trạng môi

trường nông thôn do phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỷ công nghiệp hoá,

hiện đại hoá hiện nay. Đây là một trong những vùng có biến chuyển nhiều nhất

trong những năm qua về trình độ sản xuất, phát triển kinh tế - xã hội theo yêu

cầu thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, và cũng chịu ảnh hưởng rất lớn về

môi trường của phát triển đô thị, các khu công nghiệp, giao thông và hoạt động

làng nghề.

Có thể xem xét vấn đề môi trường nông thôn trong các khía cạnh sau:

a) Liên quan trước hết đến tài nguyên và môi trường là vấn đề dân số,

nhất là đồng bằng sông Hồng từ trước đến nay vốn nổi tiếng là vùng đất chật

người đông, chiếm 21,88% dân số cả nước. Đặc biệt đáng lưu ý là tuy có hạn

chế được mức tăng dân số trong toàn vùng, nhưng đồng bằng sông Hồng vẫn là nơi có mật độ dân số cao nhất trong cả nước (năm 2007 là 1238 người/km2, trong khi mật độ dân số của các nước là 257 người/km2). Do dân số đông với

mật độ dân số quá cao, nhiều nơi chưa có phương hướng hợp lý phát triển kinh

tế nông thôn, lại chịu tác động rất mạnh của xu thế đô thị hoá, công nghiệp hoá

còn thiếu ý thức bảo vệ môi trường, nên mức độ ô nhiễm môi trường nông thôn

đang ngày một tăng thêm.

b) Nông nghiệp vẫn giữ vị trí hết sức quan trọng trong bối cảnh kinh tế -

xã hội của đồng bằng sông Hồng nhưng diện tích bình quân đất nông nghiệp tính

45

theo đầu người rất thấp, chỉ khoảng 500m2/người hoặc 620m2/ nhân khẩu nông

nghiệp. Cho nên, vấn đề đáng quan tâm là cơ cấu sử dụng đất và chất lượng đất.

Trong giai đoạn 1991-1995 đất nông nghiệp của vùng tăng 3.645ha và

trong giai đoạn 1996-2000 tăng 21.345ha, chủ yếu do huy động phần đất chưa

sử dụng và do việc áp dụng các biện pháp đầu tư cải tạo đất hoang hoá. Đó là xu

hướng tất yếu để bù lại diện tích đất nông nghiệp phải chuyển đổi sang đất phát

triển công nghiệp, giao thông và đô thị.

Xu thế suy thoái chất lượng đất thể hiện ngày càng rõ trong quá trình phát

triển nông nghiệp nói riêng và phát triển kinh tế - xã hội nói chung. Dựa trên

những kết quả nghiên cứu tại một số địa phương vùng đồng bằng sông Hồng, có

thể thấy trong vòng 10 năm kể từ năm 1991, quá trình thâm canh lúa nước đã có

ảnh hưởng rõ rệt đến các tính chất đất, nhất là hiện tượng chua hoá và suy giảm

hàm lượng kali dễ tiêu. Tuy quá trình này diễn ra chậm chạp, nhưng nhìn về lâu

dài thì đây là một nguy cơ làm thoái hoá đất. Một số yếu tố về độ phì của đất đã

được cải thiện, như mùn, nitơ và phốtpho, nhưng ở mức thấp. Cho nên, việc sử

dụng phân bón, nhất là kết hợp sử dụng phân hữu cơ với phân vô cơ trong canh

tác lúa là yêu cầu không thể thiếu để đảm bảo năng suất một cách lâu bền. Việc

sử dụng các loại hoá chất bảo vệ thực vật tuy chưa để lại dư lượng đáng kể trong

đất và nước mương tiêu, nhưng cần chú ý tác động của chúng với quá trình tích

luỹ lâu dài trong đất.Vấn đề bức xúc lại là tình trạng ngộ độc thuốc bảo vệ thực

vật.

c) Về chất lượng nước, theo kết quả phân tích quan trắc trong những năm

1995, 2000 và 2001 có thể thấy: Tại một số địa điểm trên sông Hồng, nước bị ô

nhiễm hữu cơ, thể hiện ở các chỉ số BOD và COD. Tuy nhiên, do khả năng pha

loãng và tự làm sạch của hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình khá lớn, cho

nên nồng độ các chất hữu cơ còn thấp. Hầu hết giá trị các chỉ tiêu đều nằm trong

phạm vi cho phép theo TCVN 5942-1995, trừ trường hợp nước sông gần các

điểm xả của các nhà máy và khu công nghiệp, như ở Lâm Thao, Việt Trì.

46

Đối với lưu vực sông Thái Bình nói chung và các sông Đá Bạch, sông

Kinh Thầy, sông Cấm, nước mặt có thể chia thành hai nhóm với đặc điểm ô

nhiễm khác nhau. Nước sông và cửa biển ít bị ảnh hưởng của nước thái, mức độ

ô nhiễm thấp, khả năng tự làm sạch cao. Còn nước các kênh mương và ao hồ bị

ảnh hưởng của nhiều nguồn thải, ảnh hưởng của chế độ thuỷ văn các sông tới

việc vận chuyển các chất bẩn, cho nên nước của các kênh mương, ao hồ thường

bị ô nhiễm nặng.

Nhìn chung, trong tất cả các con sông đã được khảo sát, thì không có sông

nào đạt tiêu chuẩn nước mặt loại A, tức là nước có thể làm nguồn cấp nước sinh

hoạt, mà chỉ đạt tiêu chuẩn nước loại B. Các sông nội thành ở các đô thị, như Hà

Nội, Hải Phòng, Hải Dương đều có mức độ ô nhiễm khá cao.

Hiện nay hàng năm đồng bằng sông Hồng còn trồng khoảng 400ha đay,

trong mùa sản xuất đay, toàn bộ nguồn nước mặt nơi có ngâm đay bị ô nhiễm

hữu cơ cao, gây tác động xấu đến sức khoẻ con người. Nước ao hồ khu vực

ngâm đay có nhu cầu oxy sinh hoạt tới 100mg O2/l, hay nước thải muối dưa

chuột ở Đoàn Thượng (Gia Lộc) đã làm cho nước giếng của các gia đình không

thể sử dụng cho sinh hoạt.

Một khía cạnh rất đáng lưu ý về tài nguyên nước ở đồng bằng sông Hồng

là hiện nay còn tồn tại nhiều vấn đề có tính liên tỉnh, liên ngành trong việc sử

dụng, quản lý và bảo vệ tài nguyên nước. Nhiều hoạt động gây ảnh hưởng lẫn

nhau giữa các địa phương trong việc lấy nước, sử dụng nước, đổ thải vào các lưu

vực, cũng như những tồn tại bất cập trong các hệ thống công trình thuỷ lợi. Điển

hình là vùng Lục Đầu Giang: nguồn thải từ các vùng thượng lưu sông Cầu, sông

Đuống, sông Lục Nam và sông Thương, bao gồm chất thải công nghiệp, nông

nghiệp, chất thải từ các làng nghề, các bệnh viện... theo dòng nước đổ xuống các

sông Kinh Thầy, sông Thái Bình và ảnh hưởng tới vùng hạ lưu. Lưu vực sông

Tô Lịch, sông Nhuệ, sông Đáy có liên quan đến thành phố Hà Nội và các tỉnh

như Hà Nam, Ninh Bình và Nam Định. Sông Tô Lịch hàng ngày nhận trực tiếp 123.000m3 nước thải của Hà Nội, ngoài ra còn nước thải từ hai con sông nội

47

thành là sông Sét và sông Lừ. Sông Tô Lịch lại đổ vào sông Nhuệ, hệ thống thuỷ

lợi liên tỉnh, và tình trạng ô nhiễm nước ảnh hưởng ngay tới các địa phương ở hạ

lưu.

Vấn đề cấp bách liên quan đến bảo đảm chất lượng nước ở đồng bằng

Sông Hồng, kể cả các vấn đề có tính liên tỉnh, là việc giảm thiểu tác động gây ô

nhiễm của các hoạt động sản xuất và sinh hoạt; thoát nước bẩn, xử lý nước thải

các đô thị, các khu công nghiệp và khu dân cư. Những nước thải, chất thải chưa

qua xử lý đổ trực tiếp vào sông, kênh không những gây ô nhiễm cục bộ mà còn

gây ảnh hưởng rộng hơn, bởi nước trong sông, kênh chuyển tải xuống khu vực

cuối kênh về mùa cạn, còn về mưa lũ nước thải đổ tràn lên cả bờ bãi khu dân cư

làm cho mức độ ô nhiễm càng rộng và càng nghiêm trọng hơn. Ngoài ra, nên có

hình thức phối hợp và hợp tác giữa các tỉnh và thành phố theo tinh thần của Luật

Tài nguyên nước.

d) Về chất lượng không khí, kết quả quan trắc trong giai đoạn 1996-2001

cho thấy tình hình ô nhiễm không khí nông thôn thường là do các hoạt động sản

xuất tiểu thủ công nghiệp, đặc biệt là tại các làng nghề. Mức độ ô nhiễm tại các

vùng ven đô thị, xung quanh các khu, cụm công nghiệp và dọc các tuyến giao

thông chính có mức độ cao hơn rõ rệt.

đ) Tại khu vực nông thôn, chất thải rắn hiện nay cũng đang trở hành vấn

đề bức xúc, tuy về tính chất và đặc điểm không hoàn toàn giống vấn đề chất thải

rắn đô thị, về số lượng, cơ cấu chất thải và khả năng thu gom, xử lý chúng. Tại

vùng đồng bằng sông Hồng, ngoài các thị xã và thị trấn mà tình hình quản lý

chất thải rắn mang tính chất đô thị, còn ở các làng xã là mang tính chất và đặc

điểm nông thôn mà chủ yếu là thiêu đốt tại các bãi đổ rác của mỗi xóm thôn.

e) Tại các đô thị, ngộ độc là do sử dụng các nông sản có chứa hàm lượng

thuốc trừ sâu quá cao, cũng như các phụ gia trong quá trình chế biến thực phẩm.

Còn ở nông thôn, thì ngộ độc xảy ra cả trong quá trình sử dụng các hoá chất bảo

vệ thực vật, như không có trang bị bảo hộ lao động trong khi chuẩn bị và phun

thuốc, sử dụng nhầm do sơ suất. Theo tài liệu của Sở Khoa học, Công nghệ và

48

môi trường Thái Bình, riêng trong 2 năm 1997-1998 đã có 890 người bị ngộ độc

hoá chất bảo vệ thực vật, trong đó có 129 người chết, chiếm 14,5%. Trong số

nạn nhân, có 562 người bị ngộ độc thuốc diệt chuột (63,1%) và 328 người ngộ

độc thuốc trừ sâu (36,9%). Rất đáng chú ý là các nguyên nhân rất đa dạng mà

chủ yếu do thiếu cẩn thận dẫn đến ngộ độc, như ăn phải bả chuột vì nhầm với

hạt gạo, uống phải thuốc chuột do tưởng là thuốc uống được (người già và trẻ

em, có tới 100 trường hợp), uống nhầm chai thuốc trừ sâu do để cạnh chai đồ

uống, tra nhầm thuốc trừ sâu vào thức ăn vì chai thuốc trừ sâu để ở cạnh bếp, ăn

phải thịt động vật đã bị đánh bả chuột, ăn phải hoa quả vừa mới phun thuốc trừ

sâu. Tình trạng ngộ độc từ nông sản và thực phẩm đang là vấn đề nhức nhối, đòi

hỏi nhiều biện pháp tổng hợp và kiên quyết cả về mặt quản lý nhà nước, về nâng

cao nhận thức chung, ý thức trách nhiệm và trình độ dân trí.

g) Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn cũng

đồng thời là quá trình phát triển đô thị và công nghiệp ở khu vực này. Phát triển

đô thị, khu dân cư, tiểu thủ công nghiệp có tác động ảnh hưởng rất lớn đến môi

trường nông thôn:

- Nông nghiệp sử dụng nguồn nước tưới phần lớn chịu ảnh hưởng ô nhiễm

từ nguồn nước thải sinh hoạt đô thị, nước thải công nghiệp của các nhà máy,

nước thải do hoạt động của các làng nghề....

- Sự tích luỹ kim loại nặng trong đất do sử dụng nước thải trong công

nghiệp.

Bảng 1: Kim loại nặng trong đất nông nghiệp dùng nước tưới từ nguồn

thải của các nhà máy

n Địa điểm Đặc điểm mẫu Cu Pn Zn Cd Hg

Ppm

Chịu ảnh hưởng 29,877 30,737 242,23 0,734 0,082 3

Đối chứng 22,180 18,240 45,060 0,218 0,040 1 Nhà máy pin Văn Điển

Công ty Chịu ảnh hưởng 20,950 23,070 40,640 0,106 0,056 4

49

Đối chứng 20,010 13,650 32,250 0,085 0,020 1 Orion- Hanel

Chịu ảnh hưởng 0,370 2,320 0,050 0,160 3 -

Nhà máy nhiệt điện Đối chứng 0,160 2,000 0,030 0,110 3 -

Làng nghề Chịu ảnh hưởng 21,67 304,59 130,12 - - 7

Phùng Xá Đối chứng 22,57 30,76 45,97 - - 1

Làng nghề Chịu ảnh hưởng 45,89 273,63 28,66 0,351 - 11

Chỉ Đạo Đối chứng 21,35 35,11 19,72 0,304 - 3

Dao động Di động 4 - 40 - 3,5-2,6 - - -

Tổng số 2 - 10 10 -140 0,1-0,2 0,005 - -

trung bình trong đất 5 100 - 0,2

G.hạn cho Đức 100 100 300 3 2 -

phépđấtNN Anh 140 550 280 3,5 1 -

Nguồn: Vũ Huy Chương, Vấn đề môi trường trong quá trình công nghiệp

hóa, hiện đại hóa [6, tr.138].

Nhìn chung, nếu so sánh với giá trị cho phép sẽ không thấy có dấu hiệu

của ô nhiễm môi trường đáng kể của kim loại nặng trong đất. Tuy nhiên, so với

khoảng dao động trung bình trong đất thì hàm lượng Cu, Pb, Zn và Cd ở đây đều

rất lớn. Hàm lượng Zn và Cd cao nhất được xác định tương ứng là 268 ppm và

0,99 ppm.

h) Phát triển các làng nghề là một trong những nội dung cơ bản của quá

trình chuyển dịch cơ cấu nông thôn theo hướng tiến bộ, giải quyết việc làm, xoá

đói giảm nghèo, phát triển thị trường nông thôn. Hiện cả nước có khoảng 1450

làng nghề, trong đó có trên 300 làng nghề truyền thống, phân bố ở 56 tỉnh. Miền

Bắc có 972 làng nghề, miền Trung có 290 làng nghề, miền Nam có 188 làng

nghề. Tuy nhiên sự phát triển làng nghề một cách tự phát, trình độ công nghệ và

trang thiết bị phần lớn là lạc hậu, thủ công, thiết bị cũ, chắp vá, thiếu đồng bộ,

thiếu công nhân lành nghề, thiếu nghệ nhân, thiếu vốn....cũng như hạn chế trong

50

công tác quản lý, bảo vệ môi trường tại các làng nghề đã dẫn đến tình trạng ô

nhiễm môi trường đang diễn ra hết sức trầm trọng.

Hiện trạng môi trường và tác động của làng nghề tới môi trường nông

thôn mang một số đặc điểm tiêu biểu sau:

- Ô nhiễm môi trường tại làng nghề là hình thái ô nhiễm tập trung trên

phạm vi khu vực nông thôn (thôn, làng, xã...), tập trung nhiều thành phần ô

nhiễm trọng điểm (cơ sở sản xuất nhỏ) ảnh hưởng trực tiếp đến không gian liền

kề, chính là nơi sinh hoạt dân cư nên tác động trực tiếp đến sức khoẻ cộng đồng.

- Ô nhiễm môi trường làng nghề mang đậm nét đặc thù của hoạt động sản

xuất theo ngành nghề và loại hình sản phẩm, ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường

nước, đất và không khí trong khu vực dân sinh. Làng nghề chế biến nông sản

thực phẩm ô nhiễm chủ yếu do nước thải có hàm lượng BOD5 và COD rất cao.

Làng nghề dệt, nhuộm gây ô nhiễm do nước thải có hàm lượng hoá chất, thuốc

nhuộm, COD cao (gấp 3- 8 lần tiêu chuẩn cho phép). Công nghệ sản xuất vật

liệu xây dựng gây ô nhiễm chủ yếu do sử dụng nhiên liệu chủ yếu là than, củi.

Làng nghề thủ công mỹ nghệ gây ô nhiễm tới môi trường chủ yếu do bụi, hơi

dung môi hữu cơ. Làng nghề tái chế chất thải (tái chế nhựa, kim loại...) gây ô

nhiễm không khí, đất, nước và mức độ ô nhiễm rất nặng.

- Mức độ ô nhiễm tại các làng nghề cồn thể hiện rất rõ ở môi trường lao

động. Hầu hết điều kiện lao động ở các làng nghề đều không đạt tiêu chuẩn như

tiếng ồn, ánh sáng, độ rung, nhiệt độ cao...

- Ô nhiễm môi trường ở các làng nghề ảnh hưởng rõ rệt, trực tiếp đến sức

khoẻ của người lao động, dân cư làng nghề và một số dân cư khu vực xung

quanh. Bệnh tật của dân cư các làng nghề cao hơn nhiều so với các làng thuần

nông, thường gặp là các bệnh về đường hô hấp, mắt, bệnh ngoài da... Ví dụ tại

làng nghề tái chế chì Đông Mai (Hưng Yên), tỷ lệ người dân mắc bệnh đường

hô hấp chiếm 65,6%; Tại làng nghề sản xuất rượu Vân Hà (Bắc Giang) tỷ lệ

người mắc bệnh ngoài da là 68,5%, và các bệnh đường ruột là 58,8%.

2.1.1.3. Tác động của phát triển thương mại và du lịch tới môi trường

51

Không phải lúc nào hoạt động kinh tế nói chung và kinh doanh xuất nhập

khẩu nói riêng cũng tuân thủ đầy đủ những nguyên tắc, quy định của luật pháp,

của Nhà nước, mà thường xảy ra các hiện tượng, hành vi xấu vừa vi phạm pháp

luật Nhà nước, vừa ảnh hưởng đến nguồn thu của ngân sách và tàn phá môi

trường sinh thái.

Từ năm 1991 tới nay, lưu thông thuốc trừ sâu trở nên hỗn loạn, thị trường

không được kiểm soát chặt chẽ. Nhiều loại được nhập về vô tổ chức và không

được kiểm soát. Một số loại thuốc đã bị cấm lưu hành vẫn được nhập lậu về từ

Trung Quốc và đưa vào sử dụng. Nhiều lô hàng bán trên thị trường không có

xuất xứ nước sản xuất, đơn vị nhập (không có lý lịch). Nhiều loại thuốc không

có trong danh mục sử dụng hoặc hoặc có nhưng không đảm bảo chất lượng vẫn

được lưu thông trên thị trường. Tình trạng hỗn loạn trong lĩnh vực lưu thông

thuốc trừ sâu đã đến mức báo động, gây ra tình trạng ô nhiễm môi trường ở

nhiều khu vực. Một số trường hợp dẫn đến hậu quả nghiêm trọng là gây tử vong

cho con người. Bộ Y tế đã phải đình chỉ hàng chục loại thuốc nhập khẩu không

đủ tiêu chuẩn lưu hành.

Tình trạng nhập khẩu tràn lan xe máy, ô tô bãi rác, quần áo cũ, và nhiều

đồ gia dụng cũ khác vào nước ta qua cả đường chính ngạch, tiểu ngạch và đặc

biệt là nhập lậu chưa được kiểm soát đầy đủ.

Việc nhập lậu ốc bươu vàng về nuôi đã gây nện đại dịch ốc bươu vàng,

lan tràn trên khắp đồng ruộng ao hồ, sông ngòi, đe doạ trực tiếp mùa màng nông

nghiệp và hệ sinh thái thực vật ở nước ta hiện nay.

Với tình trạng nhập khẩu tràn lan và không được kiểm soát như vậy, mặc

dù trong thời gian gần đây, một số quy định về vấn đề này đã được ban hành để

ngăn chặn tình trạng nhập khẩu này, trong một chừng mực nào đó thì đã biến

nước ta trở thành một bãi thải lớn chứa các thiết bị công nghệ cũ và hàng tiêu

dùng công nghiệp đã qua sử dụng cho các nước công nghiệp phát triển. Ngoài

ra, bằng con đường nhập lậu, có doanh nghiệp đã nhập từ nước ngoài hàng ngàn

tấn rác thải.

52

Hàng xuất khẩu của nước ta ra thị trường nước ngoài hiện nay chủ yếu

vẫn là hàng nông sản, thực phẩm, nông sản sơ chế (gạo, cà phê, cao su, hạt điều,

hải sản đông lạnh…) và các loại khoáng sản thô (dầu thô, than…), các loại sản

phẩm chế biến lâm sản như gỗ, song mây và hàng dệt may tơ tằm. Sản phẩm có

hàm lượng công nghệ cao ở nước ta được xuất khẩu còn rất ít, vì nền công

nghiệp còn kém phát triển, hàng công nghiệp sản xuất ra chưa đủ sức cạnh tranh

trên thị trường khu vực và thế giới, và thậm chí chưa cạnh tranh được ngay trên

thị trường trong nước cả về chất lượng và giá cả. Cơ cấu hàng xuất khẩu nặng về

xuất nguyên liệu thô, chưa qua chế biến. Thêm vào đó là sự quản lý Nhà nước

đối với hoạt động thương mại, đối với lĩnh vực bảo vệ môi trường, bảo vệ nguồn

khoáng sản, tài nguyên thiên nhiên có sẵn của đất nước còn thiếu chặt chẽ và

chưa nghiêm minh.Bởi vậy tác động tiêu cực của hoạt động xuất nhập khẩu,

khai thác và chế biến tài nguyên thiên nhiên đối với môi trường ở nước ta là rất

nghiêm trọng. Nguồn tài nguyên thiên nhiên rừng quý giá đang từng ngày từng

giờ bị chặt phá, khai thác bừa bãi để thoả mãn cho mọi loại nhu cầu trong tiêu

dùng và sản xuất. Từ làm chất liệu đốt, chế biến đồ gỗ gia dụng, làm nguyên liệu

chế tác đồ thủ công mỹ nghệ đến làm cột gỗ chống hầm lò trong khai thác mỏ,

dùng trong công nghiệp xây dựng, làm nguyên liệu trong công nghiệp sản xuất

bột giấy, giấy… Ước tính hàng năm có tới 22 triệu tấn gỗ được khai thác làm củi

đốt và khoảng 2.5 triệu m3 được sử dụng trong chế biến công nghiệp. Từ năm

1994 trở về trước (khi Nhà nước chưa ban hành Luật Bảo vệ môi trường), các

loại gỗ quý trong nhóm I, II, III còn là mặt hàng xuất khẩu quan trọng đối với

nhiều doanh nghiệp Nhà nước, và lúc đó gỗ còn nằm trong danh mục hàng xuất

khẩu chính ngạch của nhà nước và tiểu ngạch của nhiều địa phương. Tới nay, gỗ

xuất khẩu theo nguồn này được Nhà nước quản lý khá chặt chẽ bằng hạn ngạch

và hàng rào thuế quan, nên lượng gỗ xuất khẩu không lớn và có thể quản lý

được. Song nguồn gỗ khai thác trái phép để xuất khẩu lậu và buôn bán trái phép

trên thị trường nội địa lại không giảm mà còn có nguy cơ gia tăng.

Điều đáng quan tâm là sau khi Luật Bảo vệ và phát triển rừng có hiệu lực

thì những khu rừng được khoanh nuôi vẫn bị tàn phá nghiêm trọng, chưa được

53

các cấp chính quyền địa phương và các ngành chức năng bảo vệ tích cực và xử

lý nghiêm minh đối với các trường hợp phá rừng bừa bãi.

Việc buôn bán và vận chuyển trái phép gỗ quý như gỗ Pơmu ở Yên Bái,

Lai Châu, Lào Cai, Nghệ An vẫn còn tiếp diễn. Nếu các cấp chính quyền và các

cơ quan chức năng không sớm thực hiện quản lý chặt chẽ và xử lý vi phạm một

cách nghiêm minh thì tình trạng trên sẽ vẫn còn tiếp tục gây ảnh hưởng nghiêm

trọng đến môi trường nước ta.

Quá trình tự do hoá trong thương mại ở nước ta đã nhanh chóng đưa số hộ

kinh doanh thương mại nhỏ lên xấp xỉ 2 triệu hộ, tập trung chủ yếu ở các thành

phố lớn và khu vực đông dân cư. Trong số trên, số hộ kinh doanh không chuyên

nghiệp, không đăng ký kinh doanh cũng lên tới con số hàng chục nghìn hộ. Đại

đa số các hộ kinh doanh thương mại nhỏ có diện tích kinh doanh chật hẹp, thậm

chí nhiều hộ không có diện tích kinh doanh. Tình trạng mang tính phổ biến, lan

tràn là người buôn bán lấn chiếm lòng đường vỉa hè để làm địa điểm kinh doanh

làm nơi họp chợ. Riêng ở thành phố Hà Nội có 555 chợ trong đó có 25 chợ tạm

họp ở lòng đường) với khoảng 40000 cửa hàng, cửa hiệu, ki ốt nằm rải rác trên

đường phố nội thành và hàng vạn người kinh doanh ngoài vỉa hè gây cản trở

giao thông, ảnh hưởng đến vệ sinh môi trường, mất mỹ quan văn minh thành

phố. Mặc dù việc thực hiện Chỉ thị 36/CP của Thủ tướng Chính phủ được triển

khai một cách tích cực đã mấy năm qua nhưng tình trạng lấn chiếm lòng đường

vỉa hè làm nơi buôn bán vẫn tiếp diễn phổ biến ở nhiều nơi, nhiều lúc. Xét khía

cạnh ảnh hưởng của tình trạng trên đối với môi trường chúng ta có thể thấy chợ

và nơi tập trung buôn bán xen lẫn các khu dân cư sẽ gây nên ô nhiễm môi

trường, ô nhiễm do tiếng ồn. Chợ họp không được quy hoạch dẫn đến tình trạng

ứ đọng rác thải, nước thải, làm mất vệ sinh đường phố và gây ô nhiễm các khu

vực dân cư xung quanh, làm ảnh hưởng tới sức khoẻ, phát sinh bệnh tật.

Đứng về mặt vệ sinh an toàn, rõ ràng thị trường thực phẩm của ta hiện

nay không tốt. Tình trạng này làm giàu nhanh cho những người làm ăn gian dối,

ngược lại gây nhiều tác hại cho xã hội, kìm hãm sản xuất lành mạnh phát triển,

54

trút hậu quả nghiêm trọng lên người tiêu dùng. Hiện nay đã chứng kiến rất nhiều

vụ ngộ độc thức ăn dẫn đến hậu quả nghiêm trọng cho người tiêu dùng (do ăn

thực phẩm có chất màu hoặc có dư lượng thuốc trừ sâu cao…) Nhưng sự nguy

hiểm hơn chính là ở chỗ các loại thực phẩm chứa độc tố còn mang tính chất tiềm

ẩn lâu dài. Khi vào cơ thể con người, nó được tích tụ dần, đến một lúc nhất định

sẽ gây bệnh tật. Như vậy việc sử dụng thực phẩm thiếu an toàn không chỉ gây

nguy hiểm cho người sử dụng mà còn có thể làm ảnh hưởng tới các thế hệ sau

này. Những tác động của các hoạt động thương mại nói trên đối với môi trường

sống và con người cần được sớm hạn chế và loại bỏ.

Về du lịch. Trong thời kỳ đổi mới, đặc biệt là những năm gần đây, ngành

du lịch của Việt Nam đã có sự phát triển vượt bậc, góp phần quan trọng vào tăng

trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại

hoá, đặc biệt là cơ cấu kinh tế nông thôn, tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước,

xoá đói giảm nghèo, cải thiện tình trạng bất bình đẳng giữa các vùng , giảm tình

trạng thất nghiệp, khôi phục và gìn giữ các giá trị văn hoá truyền thống….Tuy

nhiên, do sự phát triển du lịch thiếu quy hoạch khoa học, việc chạy theo lợi ích

kinh tế đơn thuần của các doanh nghiệp kinh doanh du lịch cũng như các địa

phương, do nhận thức của một bộ phận cán bộ quản lý doanh nghiệp du lịch,

người dân tại các điểm du lịch, khách du lịch về bảo vệ môi trường nói riêng,

phát triển bền vững du lịch nói chung còn hạn chế nên các tài nguyên du lịch tự

nhiên đang bị khai thác quá mức, thiếu đầu tư tái tạo gìn giữ và phục hồi, môi

trường sinh thái ở hầu hết các khu du lịch, điểm du lịch đang bị ô nhiễm nặng

nề. Các khu du lịch thường được xây dựng tại các vùng rừng núi, ven biển,

đảo… Để phát triển các dịch vụ du lịch, nhiều khu rừng bị triệt phá, nhiều bãi

biển, khu ven biển bị san lấp thay vào là hệ thống các quán ăn, nhà trọ, khách

sạn, nhà hàng…làm biến đổi cảnh quan, mất cân bằng sinh thái vốn có và gây ô

nhiễm dường như không có điểm dừng. Môi trường tại các khu du lịch (Hương

Sơn, Hạ Long, Sầm Sơn, Nha Trang, Vũng Tàu…) bị ô nhiễm và xuống cấp

nghiêm trọng. Có thể khẳng định rằng sự phát triển du lịch của Việt Nam hiện

nay là thiếu tính bền vững.

55

2.1.2. Thực trạng môi trường sinh thái ở Việt Nam dưới tác động của

công nghiệp hoá, hiện đại hoá

2.1.2.1. Suy thoái và ô nhiễm môi trường

* Suy thoái và ô nhiễm môi trường đất.

Việt Nam có gần 33 triệu ha đất tự nhiên với 3/4 lãnh thổ là đồi núi và

trung du, trong đó trên 50% diện tích đất ở vùng đồng bằng (khoảng 3,2 triệu

ha) và trên 60% diện tích vùng đồi núi (13 triệu ha) bị suy thoái và ô nhiễm đất.

Suy thoái và ô nhiễm môi trường đất diễn ra ở cả khu vực thành thị và khu vực

nông thôn.

Hà Nội (trước khi mở rộng - tháng 8/2008) với diện tích 43000ha nhưng

mới chỉ dành riêng 120 nơi tập trung rác trong khi có gần 2 triệu dân. Mỗi ngày

Hà Nội có khoảng 2000 m3 rác thải, 400.000m3 nước thải công nghiệp… Có 24

bệnh viện lớn và hàng nghìn phòng khám hàng ngày đổ ra cống rãnh chất thải

bệnh viện chưa qua xử lý. Còn tại khu vực nội thành Hà Nội vẫn còn nhiều gia

đình chưa có nhà vệ sinh riêng. Hà Nội hiện có hàng ngàn dự án của hàng chục

nước đầu tư xây dựng nhưng rất ít dự án đề cập đến vấn đề xử lý chất thải.

Thành phố Hồ Chí Minh - thành phố đông dân nước ta - mỗi ngày sản

sinh ra hơn 3000 tấn rác, đặc biệt nghiêm trọng là trong đó có từ 80 - 200 tấn rác

từ các bệnh viện. Dự kiến năm 2010, mỗi ngày thành phố phải xử lý gần chục

nghìn tấn rác thải.

Rác và chất thải bẩn là thành phần cũng là nguyên nhân chính dẫn đến ô

nhiễm môi trường đất. Ngoài ra còn do những tập quán lạc hậu từ bao đời nay để

lại chưa xoá sạch cũng góp phần làm cho môi trường đất bị ô nhiễm như phóng uế

bừa bãi, vứt bỏ những chất độc hại không đúng nơi quy định… Trong những năm

gần đây, do quá trình đô thị hoá phát triển nhanh, quy mô các thành phố hiện có

không đủ sức cho dân số hiện tại, thêm vào là làn sóng di cư đến các thành phố tìm

việc làm cũng góp phần không nhỏ làm ô nhiễm đất ở thành phố.

Không chỉ đất ở thành phố lớn mà ở các địa phương khác cũng bị ô nhiễm

do người dân tác động. Tại các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ, phương thức canh tác

56

trước đây chủ yếu sử dụng các loại phân hữu cơ, thuốc diệt cỏ làm bằng phương

pháp thủ công nên nhìn chung độ phì của đất vẫn đảm bảo. Hiện nay khi nền

kinh tế chuyển mạnh sang cơ chế thị trường, việc áp dụng khoa học kỹ thuật tiên

tiến làm cho năng suất được nâng cao nhưng cũng là nguyên nhân chính làm

nghèo chất dinh dưỡng của đất và làm ô nhiễm môi trường đất. Có nhiều diện

tích đất trở nên bạc màu, ô nhiễm do độc tố từ phân bón, thuốc trừ sâu thấm vào

đất mà không tiêu huỷ được. Đất còn bị ô nhiễm do tình trạng sử dụng máy móc

như máy cày, máy bơm… vì trong quá trình vận hành do nhiều nguyên nhân dầu

có thể bị rò rỉ loang ra ruộng hoặc do người sử dụng không ý thức được đã đổ

dầu cặn, dầu thừa bừa bãi ra ruộng hoặc do sơ suất làm đổ dầu.

Có thể nói kiểu khai thác tài nguyên đất và rừng của vùng núi phía Bắc

trước đây về cơ bản không phù hợp với quy luật tự nhiên và do vậy, việc khai

thác tài nguyên ở đây trong quan hệ với việc mở rộng vùng kinh tế mới rốt cuộc

đã làm cạn kiệt và phá hoại 2 loại tài nguyên chủ yếu là đất và rừng, làm cho đất

trơ, bị xói mòn, rửa trôi dẫn tới bạc màu và bị ô nhiễm do nhiều nguyên nhân tác

động. Đã có hàng trăm hecta đất trở thành đất trống đồi trọc, trong thời gian qua,

nhiều vùng đất bị ô nhiễm do phá rừng, làm xói mòn đất, không chỉ làm cạn kiệt

nguồn tài nguyên tại chỗ mà điều quan trọng là làm mất cân bằng sinh thái và

môi trường của một vùng rộng lớn.

Ở các tình Tây Nguyên như Đắc Lắc, Gia Lai, trong nhiều năm qua nhiều

diện tích đất bạc màu bị ô nhiễm bởi cách sử dụng thuốc trừ sâu, diệt cỏ và máy

móc. Đặc biệt ô nhiễm đất ở Tây Nguyên còn bị tác động bởi rác thải. Những

năm gần đây, trước sự gia tăng dân số, các tỉnh Tây Nguyên cũng có mật độ dân

số tăng nhanh nên rác thải cũng tăng dẫn tới đất bị ô nhiễm.

Nhìn chung, đất ở nước ta được coi là nguồn tài nguyên thiên nhiên quý

giá, song trên thực tế do nhiều nguyên nhân trong đó có nguyên nhân phát triển

kinh tế nên nhiều diện tích đất bị ô nhiễm và tình trạng ô nhiễm ngày càng trầm

trọng. Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ thì hiện nay chúng ta có khoảng 6 - 7

triệu ha đất trống đồi trọc. Đặc biệt nghiêm trọng là có 440.800 ha đã hoàn toàn

57

bị xói mòn, trơ sỏi đá, không có khả năng trồng trọt (chiếm 1,35% diện tích tự

nhiên cả nước). Nhà máy giấy Bãi Bằng (Phú Thọ) gần 10 năm đã chặt 85.590ha

rừng bồ đề, mỡ, tre nứa để làm nguyên liệu sản xuất giấy. Riêng lưu vực sông

Hồng, để xây dựng những công trình thuỷ điện lớn như Sông Đà (Hoà Bình),

Thác Bà trên sông Chảy cũng đã chặt phá hàng triệu ha rừng đầu nguồn từ đó

góp phần làm cho cường độ thoái hoá, bào mòn mặt đất trên lưu vực đầu nguồn

ngày một tăng.

* Suy thoái và ô nhiễm môi trường nước.

Nước rất cần cho sự sống, ngoài ra nước còn chứa đựng những tiềm năng

khai thác như duy trì độ ẩm của đất, tưới tiêu cho nông nghiệp, sử dụng trong

các ngành công nghiệp, tạo ra các tiềm năng và danh lam thắng cảnh văn hoá

khác. Do nhu cầu sinh hoạt, sản xuất nên nước có vị trí đặc biệt quan trọng.

Nước ta có trữ lượng nước ( nước mặt, nước ngầm) khá lớn, khoảng 310

tỷ m3 nước mưa, 520 tỷ m3 nước sông. Tổng trữ lượng có khả năng khai thác

của các tầng trữ nước trên toàn lãnh thổ khoảng 60 tỷ m3/ năm. Tuy nhiên sự

phát triển nhanh của công nghiệp hoá, đô thị hoá, gia tăng dân số đã làm cho

chất lượng nước đã có những suy thoái khá nghiêm trọng. Chỉ riêng hơn 70 khu

vực công nghiệp và hơn 1000 bệnh viện trên cả nước mỗi ngày đã thải ra hàng

triệu m3 nước thải ra môi trường mà không qua xử lý làm nhiều nguồn nước

trên phạm vi cả nước bị ô nhiễm nghiêm trọng. Dự báo lượng nước thải ra sẽ

tăng gấp nhiều lần trong những năm tới.

Do nhầm lẫn cho rằng nước là tài nguyên vô tận nên người dân Việt Nam

khai thác nguồn nước tối đa phục vụ sinh hoạt và sản xuất. Nghịch lý ở chỗ rất

nhiều người dân sống ở hai bên bờ sông ăn uống nước bằng nước sông nhưng lại

thải nước sinh hoạt ra chính con sông ấy. Các cơ sở sản xuất công nghiệp, dù

của nhà nước hay tư nhân cũng đều coi sông, hồ là nơi chứa nước thải rẻ mà hữu

hiệu nhất. Rất nhiều doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh đã dùng nguồn

nước như vật hy sinh cho mục tiêu kinh tế của mình. Lẽ dĩ nhiên sẽ dẫn đến thực

trạng suy giảm nguồn nước và ô nhiễm nước như hiện nay.

58

Môi trường nước ở nước ta tập trung chủ yếu ở hệ thống các sông hồ chảy

trong nội địa. Phần lớn chất lượng nước sông ở nước ta thuộc loại B nhưng có

một số sông ngòi ở Trung Bộ còn đạt tiêu chuẩn loại A và sạch hơn các sông

ngòi ở Nam Bộ. Nước các sông chảy qua các thành phố ở Nam Bộ bị ô nhiễm

hơn các sông ở Bắc Bộ. Trong các sông đã quan trắc thì các sông bị ô nhiễm

nhất là sông Cấm, sông Trâu Bạc (Hải Phòng), sông Quan Lộ, sông Tắc Thủ (Cà

Mau)…

Nhìn chung ô nhiễm nước sông ở nước ta chủ yếu biểu hiện về ô nhiễm

chất hữu cơ, hàm lượng các chất NH4+, NO3- thường cao hơn 2 - 4 lần. Qua số

liệu quan sát đã phát hiện các hoá chất bảo vệ thực vật trong nước mặt, có nơi

hàm lượng cao hơn tiêu chuẩn cho phép nhiều lần.

Đặc điểm của hệ thống thoát nước đô thị hiện nay là hệ thống thoát nước

chung hỗn hợp. Nó được bảo dưỡng kém và không theo kịp tốc độ tăng dân số

đô thị. Mức độ bao phủ của hệ thống thu gom nước thải còn rất thấp, chỉ đạt 20 -

35% tại Hà Nội, và 50 - 60% tại Hải Phòng. Tại thành phố Hồ Chí Minh, hệ

thống này chỉ phục vụ cho khu vực ở trung tâm thành phố. Hiện nay cả nước

mới có 44% số hộ ở đô thị có đường ống thoát nước chung, trong đó các đô thị ở

miền Bắc là 27% và ở miền Nam là 52%. Khoảng 46% nước thải từ các công

trình vệ sinh các hộ gia đình được xử lý bằng bể phốt, trong khi 54% còn lại và

100% nước thải sinh hoạt không được xử lý. Hiện có rất ít các cơ sở công

nghiệp và bệnh viện có trạm xử lý nước thải. Khoảng 90% lượng nước thải công

nghiệp được đưa trực tiếp vào môi trường mà không hề qua một công đoạn xử lý

nào, trong đó có rất nhiều chất độc hại có nguy cơ tiềm ẩn, và tích tụ lâu dài

trong môi trường. Các chất thải gây ô nhiễm nguồn nước được tạo ra từ nhiều

nguồn: do hoạt động của dân cư, trong sinh hoạt, bệnh viện… nhưng chủ yếu

vẫn là trong các cơ sở sản xuất công nghiệp và nông nghiệp… Đó là mối lo ngại

đối với dân cư đô thị, đặc biệt ở các thành phố lớn. Tình trạng ô nhiễm nguồn

nước mặt ở các đô thị xảy ra là trầm trọng, nhất là khu vực có dân cư đông đúc

sống bao quanh và những khu vực đô thị có kết cấu hạ tầng yếu kém hoặc khu

dân cư nghèo. Nguồn nước thải một phần được đổ vào đường ống thải ra ao, hồ,

59

sông biển, một phần thải trực tiếp tại khu ở (Hà Nội có 23,3% số hộ được điều

tra thải trực tiếp ra mặt bằng khu ở hoặc xuống mặt nước sông, ngòi, ao, hồ cạnh

nhà). Vào mùa mưa, nhiều đô thị bị tràn ngập nước do hệ thống đường ống thoát

nước bị tắc hoặc do quá tải khi nước không thoát kịp. Về phân bố, nhìn chung và

các đô thị, khu công nghiệp nước ta hầu hết nằm gần lưu vực các sông. Trong số

gần 80 đô thị lớn của cả nước thì khoảng 70% số đô thị sử dụng nguồn nước mặt

và 30% sử dụng nguồn nước ngầm. Nhưng chính dòng sông cung cấp cho dân

cư nguồn nước sinh hoạt lại bị nước thải của thành phố đổ vào. Mức độ ô nhiễm

như đã đề cập rõ ràng ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nước cung cấp, ảnh

hưởng đến sức khoẻ của dân cư. Nhiều công trình nghiên cứu cho thấy có 71%

số giếng khoan khai thác nước ngầm có hàm lượng nhiễm bẩn tăng theo thời

gian thậm chí có giếng hàm lượng nhiễm bẩn vượt mức tiêu chuẩn cho phép tới

10 lần.

Bảng 2: Mức độ ô nhiễm kim loại nặng trong nước ngầm ở một số tỉnh

phía Bắc (% tổng số mẫu nghiên cứu)

Nguyên tố Hà Nội Hải Phòng Nam Định Việt Trì

80% 100% 87,1% 100% Hg

73% 48% 7,5% 27,9% 8,3% - 70% 33,3% - 2,8% 5,3% - 82,6% 40,6% - - 58,3% - 7,1% 40,7% - 11,9% - 16,7% Fe Mn Pb As Cr Cd

Nguồn: Nguyễn Hữu Dực, Nguyễn Văn Hảo [11, tr.13]

60

* Suy thoái và ô nhiễm môi trường không khí

Không khí vô cùng quan trọng đối với đời sống, mọi sinh vật tồn tại và

phát triển được cũng nhờ vào quá trình hô hấp. Nhưng hiện nay bầu không khí

trên trái đất đang bị ô nhiễm nghiêm trọng và đang là vấn đề quan tâm chung

của nhân loại.

Ở Việt Nam, vấn đề ô nhiễm không khí nói chung đã đến mức báo động,

nhất là tại các khu dân cư, khu công nghiệp, đô thị lớn. Nguyên nhân gây ô

nhiễm không khí ở nước ta thì rất nhiều song tựu chung lại là do những tác động

hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp của quá trình phát triển kinh tế và các hoạt động

trong đời sống sinh hoạt của dân cư.

Kinh tế phát triển làm quá trình đô thị hoá ở Việt Nam diễn ra nhanh

nhưng còn mang tính tự phát và vượt quá sự phát triển của công nghiệp hoá nên

ở các khu đô thị không khí bị ô nhiễm nặng nề do sinh hoạt, chất thải của các

phương tiện giao thông, do rác thải… trong điều kiện thiếu tiện nghi và điều

kiện thiết bị xử lý. ở các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh

lượng bụi trong không khí vượt quá giới hạn cho phép từ 2 - 20 lần, hơi chì từ 6

-10 lần, khí CO2 từ 2 - 5 lần, khí SO2 là 30 lần. Cụ thể ở Hà Nội tình trạng ô

nhiễm không khí rất nghiêm trọng bắt đầu từ nguyên nhân đô thị hoá nhanh và

sự phát triển ồ ạt của nhiều cơ sở kinh tế, đặc biệt là kinh tế tư nhân. Tình trạng

máy móc sản xuất cũ kỹ, lạc hậu càng làm cho vấn đề ô nhiễm không khí trở nên

trầm trọng. Các cơ sở sản xuất vì lợi ích kinh tế không quan tâm đến đầu tư cải

tiến máy móc, công cụ thân thiện với môi trường nên bảo vệ môi trường nói

chung và môi trường không khí nói riêng không được quan tâm. ở nhiều khu dân

cư như khu vực Thượng Đình, tỷ lệ bụi lên tới 0,3 - 1,0 mg/m3 (vượt quá mức cho phép 2 - 6 lần); SO2: 0,15 - 0,3 mg/m3 (vượt quá mức cho phép 3 - 6 lần); CO2: 2 - 5 mg/m3 (vượt 2 - 5 lần).

Qua điều tra chọn mẫu ở Hà Nội cho thấy có 56% số hộ bị ảnh hưởng do

khói bụi gây nên. Thành phần bụi gây ô nhiễm môi trường chủ yếu do bụi đất,

cát chiếm 82%; bụi than xỉ chiếm 19,7%; bột hoá chất 5,6%, còn lại là bụi khác

61

3,7%. Các nguyên nhân gây bụi do hệ thống phương tiện giao thông chiếm lớn

nhất tới 75,2%, do sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp 15,7%, công

trường xây dựng 5,5%, còn các nguyên nhân khác 2,4%. Môi trường không khí

cũng rất xấu ở các vùng dân cư quanh các khu chợ hoặc ven các dòng sông nội

thị và ở quanh bãi rác thải mới khi các chất hữu cơ bị phân huỷ mạnh. Xét về

mặt cư trú, ở một số khu phố cổ mật độ dân số lớn gấp 2 lần so với mật độ cư trú

tối đa tiêu chuẩn được quy định cho một đô thị hiện đại. Hệ thống cây xanh ở Hà Nội cũng rất thiếu, bình quân chỉ có 1,1 m2/người nhưng chỉ tập trung ở một số

khu vực. Sự gia tăng nhanh chóng dân số đô thị đã ảnh hưởng tới tình hình kể

trên. [28, tr.163].

Kinh tế thị trường phát triển làm cho mức sống của nhân dân cũng được

nâng cao, dẫn đến việc bung ra của các phương tiện giao thông tư nhân. Cũng do

bị lợi nhuận chi phối, vì những tác động mặt trái của kinh tế thị trường cần phải

khấu hao triệt để mọi nguồn tài sản hiện có để đạt hiệu quả cao trong sản xuất

kinh doanh nên các phương tiện giao thông cũ kỹ lạc hậu vẫn được đưa vào sử

dụng ở trong nước làm ô nhiễm thêm môi trường không khí do khói xe. Trên các

trục giao thông chính của Hà Nội, ô nhiễm do bụi gấp từ 4 - 10 lần, khí CO2,

NO2 vượt từ 2 - 4 lần; SO2 vượt 3 - 15 lần so với tiêu chuẩn cho phép. Môi

trường không khí của Hà Nội đang bị ô nhiễm nghiêm trọng có ảnh hưởng xấu

tới sức khoẻ con người.

Tình trạng ô nhiễm không khí ở thành phố Hồ Chí Minh cũng tương tự. Ô

nhiễm không khí và tiếng ồn gây ra chủ yếu do hoạt động giao thông, sản xuất

công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp của mọi thành phần kinh tế. Theo thống kê

chưa đầy đủ, mỗi năm các loại xe trong thành phố thải ra khoảng 110.000 tấn

xăng, 100000 tấn dầu diezen và thải vào môi trường khoảng 577 tấn bụi, 13,5

tấn chì, 2200 tấn SO2, 2370 tấn NO2, 61110 tấn CO, 630.000 tấn khí CO2… Hầu

như 100% số cơ sở sản xuất đều không có hệ thống xử lý khí thải, tiếng ồn nên

đã gây ô nhiễm cho các khu dân cư lân cận. Các nguồn ô nhiễm đã làm cho chất

lượng không khí ngày càng xấu đi, nồng độ bụi cao hơn tiêu chuẩn cho phép rất

cao.

62

Tóm lại, không khí không phải là thành phần ô nhiễm nhất môi trường

Việt Nam nhưng ở các thành phố lớn, các khu công nghiệp không khí lại ô

nhiễm nghiêm trọng, mà nguyên nhân chủ yếu từ hoạt động sản xuất công

nghiệp, từ giao thông… đã xả ra một lượng khí độc hại vào môi trường, gây suy

giảm chất lượng không khí và dẫn đến ô nhiễm khí quyển. Phát triển kinh tế ở

Việt Nam do chưa có sự gắn kết chặt chẽ với việc bảo vệ môi trường nên sự ô

nhiễm ngày càng tăng bởi sự mất cân đối giữa một bên là quá trình công nghiệp

hoá, hiện đại hoá và một bên là công tác bảo vệ môi trường, máy móc, thiết bị

xử lý khói thải không được đầu tư phát triển và chú trọng đúng mức. Vai trò

quan trọng của không khí nói riêng và môi trường nói chung đòi hỏi Đảng và

Nhà nước ta trước tiên vừa phải quan tâm đến phát triển kinh tế - xã hội vừa

phải có chính sách và có sự đầu tư cho bảo vệ môi trường một cách hợp lý.

2.1..2.2. Sự suy giảm, cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên

* Tài nguyên biển.

Việt Nam là quốc gia ven biển có diện tích vùng biển độc quyền khoảng 1 triệu km2 tạo ra tính đa dạng về cảnh quan thiên nhiên và nguồn lợi thuỷ sinh

vật. Tuy nhiên, việc khai thác các nguồn lợi thuỷ sản và các hoạt động khác của

cư dân ven biển hiện nay đang đe doạ nghiêm trọng đến đa dạng sinh thái này.

Ngày càng nhiều chất thải không qua xử lý từ trên 100 con sông, các

thành phố, các khu công nghiệp, các khu du lịch ven biển, các khu nuôi trồng

hải sản, các tàu thuyền, các dàn khoan thăm dò dầu khí… làm cho môi trường

biển đặc biệt là khu vực bờ biển bị ô nhiễm, thiếu ô xy trên diện rộng, khiến cho

một số loài sinh vật biển bị đe doạ. Đã có hơn 85 loài hải sản có mức độ nguy

cấp khác nhau và trên 70 loài được đưa vào Sách đỏ Việt Nam. Hiệu quả khai

thác giảm, nguồn giống tự nhiên cũng bị giảm sút nghiêm trọng so với trước

đây.

Phát triển công nghiệp trên bờ và dọc các lưu vực sông lớn cũng đang làm

cho bờ biển nước ta ô nhiễm, có nơi ở mức nghiêm trọng. Nhiều rặng san hô bị

chết, hiện tượng thuỷ triều đỏ xuất hiện ở một số nơi.

63

Việc nuôi trồng thuỷ sản ven biển tràn lan đi liền với nạn phá rừng ngập

mặn đã làm suy thoái mạnh các hệ sinh thái ven biển. Chỉ trong vòng 20 năm

qua, diện tích rừng ngập mặn ở nước ta giảm hơn một nửa. Hậu quả là lũ quét,

triều cường, sóng biển dẫn tới sạt lở bờ biển làm cho các loài sinh vật bị mất nơi

cư trú và suy giảm mạnh về chủng loại và số lượng.

* Tài nguyên rừng.

Rừng của Việt Nam đã trải qua sự phá hoại nghiêm trọng trong vòng 50

năm lại đây. Theo số liệu thống kê, khoảng 60% tổng diện tích đất của nước ta

đã được rừng che phủ (năm 1943), đến 1987 con số này giảm xuống còn 30%.

Việc chặt phá rừng xảy ra trước tiên ở các vùng ven biển và vùng đồng bằng sau

đó mở rộng lên các vùng đồi và núi. Quá trình này càng được đẩy nhanh do hậu

quả chiến tranh phá hoại đối với cả các vùng nông nghiệp và rừng. Hiện tại chỉ

còn khoảng 9,4 triệu ha rừng, chiếm 28,4% tổng diện tích tự nhiên. Đây là một

tỷ lệ đáng báo động về mặt sinh thái đối với một nước nhiệt đới như nước ta.

Mức mất rừng hiện tại được đánh giá khoảng 200.000ha hàng năm, do

chặt phá rừng làm nông nghiệp, cháy rừng, khai thác gỗ và củi đốt. Trong khi đó

mức trồng rừng (theo nhiều chương trình khác nhau) chỉ mới chiếm 7,15% tổng

diện tích đất có rừng.

Xói mòn, sụt lở đất đá đã xuất hiện mạnh ở Lai Châu, Sơn La, Kon Tum,

Quảng Ngãi.

Khô hạn, hoang hoá, bạc màu, xâm nhập mặn, chua phèn hoá nhiều vùng

đất đai rộng lớn, tập trung ở ven biển Đồng bằng sông Cửu Long, Thừa Thiên -

Huế, Ninh Thuận, Bình Thuận (miền Trung)

Suy thoái rừng phòng hộ đầu nguồn xung yếu của các sông quan trọng,

xuất hiện nhiều lũ quét, nghiêm trọng ở lưu vực sông Đà, sông Mã, sông Đồng

Nai, sông Sêrêpok.

Suy thoái nhiều vùng sinh vật cảnh thích nghi của động vật hoang dã,

giảm nhanh mức độ đa dạng sinh học, mất đi nhiều hệ sinh thái tối ưu: rừng

ngập mặn ở Nam bộ và Bắc bộ.

64

* Tài nguyên khoáng sản.

Nước ta nằm trên bản lề vành đai kiến tạo và sinh khoáng cỡ lớn của hành

tinh, vành đai Thái Bình Dương và Địa Trung Hải. Bởi vậy khoáng sản nước ta

rất phong phú về chủng loại, đa dạng về nguồn gốc. Nước ta có khoảng 3500 mỏ

và điểm quặng của 80 loại khoáng sản trong đó có hơn 32 loại và trên 270 mỏ và

điểm quặng đã được đưa vào khai thác.

Về trữ lượng khoáng sản: than có khoảng 3,5 tỷ tấn, bôxit vài tỷ tấn, riêng

mỏ Thạch Khê đạt tới hàng trăm triệu tấn, ngoài ra có các loại kim loại quý như

vàng, bạc, các nguyên tố phóng xạ… Dầu mỏ và khí đốt có trữ lượng lớn: Vịnh

Bắc Bộ 500 triệu tấn, Nam Côn Sơn 4000 triệu tấn, Cửu Long 300 triệu tấn,

vịnh Thái Lan 300 triệu tấn và gần đây lại phát hiện ra các mỏ dầu Lan Tây, Lan

Đỏ có trữ lượng rất lớn…

Nguồn tài nguyên khoáng sản nước ta vô cùng phong phú và đa dạng như

vậy là điều kiện thuận lợi cho phát triển các ngành công nghiệp. Nhưng thực

trạng khai thác và chế biến khoáng sản ở Việt Nam lại vô cùng lãng phí, kém

hiệu quả và gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Kinh tế thị trường không đơn

thuần chỉ thúc đẩy mọi ngành nghề, mọi thành phần kinh tế phát triển mà còn

mở ra nhiều con đường hoạt động sản xuất và thu lợi nhuận. Tuy nhiên, trong đó

có rất nhiều con đường gây hại cho môi trường, sức khoẻ của người dân và an

ninh kinh tế nhưng lại thu lợi rất lớn, đặc biệt là những nguồn lợi trước mắt. Mặt

trái của kinh tế thị trường tác động sâu sắc đến mọi giai đoạn khai thác khoáng

sản làm cho lượng khoáng sản suy giảm nghiêm trọng và môi trường bị ô nhiễm

nặng nề hơn do quá trình khai thác bừa bãi gây ra. Khói bụi làm ô nhiễm không

khí, chất độc làm ô nhiễm nguồn nước, đất đai, trong khai thác đã phá huỷ mọi

cảnh quan và môi trường. Trong điều kiện kinh tế còn thấp kém, khoa học công

nghệ còn lạc hậu công nghiệp khai thác mỏ ở nước ta không chỉ gây lãng phí về

tài nguyên mà còn huỷ hoại môi trường. Ví dụ khu mỏ Quảng Ninh hơn 100

năm qua đã khai thác hơn 200 triệu tấn than, ngoài việc triệt hạ hết rừng tự nhiên

trên đó, các mỏ còn thải ra hơn 1600 tấn đất đá tạo nên nhưng núi chất thải cao

65

hàng trăm mét, những bãi thải hàng nghìn hecta. Mặt đất bị đào bới, sông suối bị

lồi lấp, bãi triều bị xâm lấn, rừng ngập mặn bị tàn lụi, nước bị ô nhiễm bởi cám

than… do sự sơ hở trong quản lý mà hiện tượng khai thác than thổ phỉ tăng

nhanh, với công nghệ, kỹ thuật thô sơ đã làm lãng phí than và gây ô nhiễm môi

trường nặng nề hơn.

Bên cạnh việc khai thác than còn phải kể đến việc khai thác vàng, bạc,

quặng bôxit, kẽm… ồ ạt, không có tổ chức làm suy giảm nhanh chóng những

nguồn tài nguyên khoáng sản này và gây ô nhiễm môi trường (như khai thác

vàng ở Thái Nguyên, thiếc ở Cao Bằng…). Tuy không trong tình trạng đáng báo

động như tài nguyên rừng nhưng cứ với cách khai thác khoáng sản như hiện nay

ở nước ta thì không lâu nữa nguồn khoáng sản sẽ bị cạn kiệt vì đó là nguồn tài

nguyên không thể phục hồi tái tạo nên phải có cách sử dụng, khai thác hợp lý,

tiết kiệm.

* Sự suy giảm đa dạng sinh học.

Đa dạng sinh học là mức độ phong phú của thiên nhiên sống, là toàn bộ

tài nguyên thiên nhiên tạo nên do tất cả các dạng sống trên trái đất. Đa dạng sinh

học không chỉ cung cấp trực tiếp phúc lợi cho con người như lương thực, thực

phẩm, thuốc men, năng lượng… mà nó đang bảo tồn và phát triển cuộc sống của

chúng ta, thế nhưng trong quá trình phát triển kinh tế, đa dạng sinh học đang bị

suy giảm nghiêm trọng.

Theo UNICEP (1995) số loài được mô tả đến 1750000 loài, dao động

trong số lượng có thể từ 3.635.000 đến 11.655.000 loài. Trong tiến trình phát

triển của lịch sử, số lượng loài còn đông gấp bội song nhiều loài trong đó bị tiêu

diệt do con người từ khi con người xuất hiện và phát triển nền văn minh của

mình. Trong vài thập kỷ qua hàng ngàn loài động thực vật bị tiêu diệt hoặc bị đe

doạ tiêu diệt. Nhiều loài, khoa học chưa kịp được biết đến đã bị tiêu diệt hoặc

lâm vào cảnh suy thoái nghiêm trọng. Nếu như tốc độ huỷ hoại tài nguyên cứ

như hiện tại thì 5 - 10 % số loài trên thế giới sẽ bị tiêu diệt vào khoảng thời gian

từ 1990 - 2020 nghĩa là mỗi ngày mất đi khoảng 40 - 140 loài và số loài bị diệt

vong tăng lên 25% vào giữa thế XXI. Việt Nam được xem là một trong những

66

nước thuộc vùng Đông Nam Á giàu và đa dạng sinh học. Hệ thực vật phong phú

về chủng loại mặc dù đã có những tổn thất quan trọng về rừng. Có nhiều loài

cây mà cho đến nay chúng ta vẫn chưa biết đến công dụng của chúng. Hệ động

vật Việt Nam cũng hết sức phong phú. Hiện đã thống kê được 275 loài thú, 830

loài chim, 180 loài bò sát, 80 loài ếch nhái, 472 loài cá nước ngọt, hơn 2000 loài

cá biển và hàng chục nghìn loài động vật không xương trên cạn, ở biển, và ở

nước ngọt. Nguồn tài nguyên thiên nhiên này không những là cơ sở vững chắc

cho sự tồn tại của Việt Nam nhiều thế hệ qua mà còn là cơ sở vững chắc cho sự

phát triển của Việt Nam trong những năm tới. Tuy nhiên, thay vì bảo tồn tài

nguyên quý giá này và sử dụng một cách hợp lý, trong quá trình phát triển kinh

tế, đặc biệt là những năm gần đây nguồn tài nguyên đó đang bị khai thác quá

mức. Quá trình phát triển kinh tế đã tàn phá mạnh mẽ sự đa dạng sinh thái ở một

số vùng. Tài nguyên rừng bị suy giảm nghiêm trọng. Rừng là lá phổi xanh, là

phương tiện tự nhiên điều hoà không khí, dòng chảy, rừng bảo vệ đất, rừng cũng

là môi trường sinh sống của sinh vật. Do vậy, nạn voi dữ ở Tánh Linh, lũ lụt

hàng năm chỉ là một trong những sự nổi giận và trả thù của tự nhiên trước những

hành động của con người trong việc tàn phá tự nhiên.

Kinh tế thị trường cho phép người ta dễ dàng thoả mãn nhu cầu của mình.

Nhiều cá nhân và tổ chức khác nhau vào rừng sâu săn bắt thú rừng bằng nhiều

biện pháp khác nhau để bán ra thị trường thu lợi. Thịt thú rừng là món ăn ngon,

phương thuốc quý… nên số lượng gấu, hổ, khỉ… ít dần đi, thậm chí có loài đã bị

tiệt chủng. Nhưng rất ít người quan tâm đến điều đó, sự tự do buôn bán và kinh

tế thị trường càng kích thích hơn nữa sự phá hoại môi trường. Hiện nay, Sách

Đỏ Việt Nam thống kê phân loại các loài theo mức độ cần được bảo vệ đã quy

định 360 loài thực vật, 350 loài động vật quý hiếm cần được bảo vệ khỏi bị tuyệt

chủng. Nhiều loài động vật quý hiếm như voi, vẹt ngũ sắc, vượn đen, hổ bò

xám, bò tót, trâu rừng, tê giác một sừng (ở Bù Gia Mập hiện còn sót lại một số

con) đã được tổ chức bảo về tài nguyên thiên nhiên quốc tế hỗ trợ. Bên cạnh đó,

các hệ sinh thái vùng cửa sông, ven biển có nhiều nguồn lợi thuỷ sản đang có

chiều hướng giảm sút do việc tăng cường khai thác và do môi trường bị ô nhiễm

nặng nề. Bằng mọi cách, mọi phương tiện con người đang ra sức khai thác các

67

nguồn tài nguyên và môi trường nhằm mang lại nhiều lợi ích nhất cho mình. Sự

suy kiệt của rừng, của đất đai và nhiều loại tài nguyên khoáng sản khác cùng với

sự ô nhiễm nặng nề môi trường sinh thái (đặc biệt là ở các thành phố lớn) là

những bằng chứng rất rõ ràng về sự tàn phá thiên nhiên của con người vì những

mục đích thiển cận.

Tóm lại, thực trạng môi trường ở nước ta trong quá trình phát triển kinh

tế, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã đến lúc cần phải được quan tâm và cần phải

có những biện pháp tích cực để bảo vệ môi trường vì sự ô nhiễm và suy thoái

xảy ra đối với tất cả các yếu tố của môi trường tự nhiên như không khí, nước,

đất, rừng, biển… đã ảnh hưởng xấu đối với sức khoẻ con người và là lực cản đối

với sự phát triển kinh tế - xã hội, tổn hại đến sự đáp ứng nhu cầu của các thế hệ

2.1.2.3. Hậu quả của ô nhiễm môi trường và suy kiệt tài nguyên thiên nhiên

tương lai.

Về sức khoẻ: Môi trường có vai trò đặc biệt đối với sự sống của con

người. Con người tồn tại được là nhờ có bầu không khí, nguồn nước, môi trường

đất và cảnh quan trong sạch, đẹp đẽ, không bị ô nhiễm của môi trường. Những

yếu tố tự nhiên đó phải trong sạch, tươi đẹp, hài hoà thì mới đảm bảo chất lượng

không gian sống cho con người. Nếu do nguyên nhân nào đó, chất lượng của

không gian sống giảm đi (hay nói cách khác là bị ô nhiễm) thì sức khoẻ, sự sống

của con người trong môi trường đó bị huỷ hoại.

Theo số liệu báo cáo hiện trạng môi trường Việt Nam, do ô nhiễm bụi

trong môi trường lao động cao nên tỷ lệ công nhân bị bệnh phổi silic ở một số

ngành nghề rất cao, cụ thể: gần 39,9% ở ngành đúc kim loại, và theo kết quả khảo

sát 275 doanh nghiệp thuộc các ngành như: hoá chất, cơ khí, luyện kim và sản

xuất vật liệu xây dựng cho thấy có 23% số cơ sở này có nồng độ các khí độc hại

vượt tiêu chuẩn cho phép từ 1,5 đến 50 lần, gây ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ của

con người, gây ra các chứng bệnh về đường hô hấp, mắt, thần kinh.

Sự ô nhiễm trong môi trường nước cũng gây ra những nguy hại đáng kể

đối với sức khoẻ con người. Các bệnh tật nảy sinh từ việc sử dụng nước không

đảm bảo vệ sinh, bị ô nhiễm hiện nay vẫn là nguồn chính gây ra tỷ lệ mắc bệnh

68

và tử vong cao ở trẻ em Việt Nam… Bởi vậy, sự khan hiếm và ô nhiễm nước

ngọt đang là vấn đề sinh thái - xã hội rất đáng lo ngại.

Sự nghiệp phát triển kinh tế, công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta do

chưa được gắn kết chặt chẽ với việc bảo vệ môi trường nên ngoài gây ô nhiễm

do bụi, khí thải… còn gây ô nhiễm do tiếng ồn làm ảnh hưởng trực tiếp đến sức

khoẻ con người, gây tổn hại hệ thần kinh, trí tuệ, tình cảm và năng lực làm việc

của con người. Kết quả khảo sát ở 11 cơ sở công nghiệp có mức ồn lớn hơn tiêu

chuẩn cho phép cho thấy tỷ lệ người bị điếc nghề nghiệp lên tới 11%...

Mặt khác sự ô nhiễm môi trường ở các vùng nông thôn cũng đang là một

trong những vấn đề nhức nhối gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức khoẻ con

người. Vùng núi vẫn còn bệnh sốt rét, bướu cổ, suy dinh dưỡng, và nhiều dịch

bệnh… Môi trường thực phẩm vẫn còn nguy cơ bị ô nhiễm, còn nhiều vụ nhiễm

độc thực phẩm tươi sống… Việc ô nhiễm do dùng các hoá chất trừ sâu, diệt cỏ

đã không những làm thay đổi môi trường sinh thái và các sinh vật sống trong

nước mà đã gián tiếp hoặc trực tiếp gây ảnh hưởng tới sức khoẻ con người. Tóm

lại, ô nhiễm và suy giảm môi trường gây ra nhiều hậu quả xấu đối với đời sống

con người.

Như vậy, ô nhiễm và suy giảm môi trường làm cho sức khoẻ của con

người bị ảnh hưởng nghiêm trọng, hạnh phúc của con người giảm xuống do ốm

đau và chết yểu, do suy thoái của chất lượng không khí, nước và những nguy

hiểm khác về môi trường. Các chất gây ô nhiễm có thể làm nảy sinh các vấn đề

về y tế, trực tiếp hoặc gián tiếp do sự thay đổi môi trường vật lý tác động của nó

trải rộng từ bức xạ mặt trời tăng lên tới việc giảm dinh dưỡng. Mối liên quan

giữa các chất gây ô nhiễm và sức khoẻ bắt đầu được phát hiện thông qua những

nghiên cứu về bệnh dịch xảy ra ở những nước có thu nhập cao, hậu quả của nó

càng sâu rộng hơn ở những nước có thu nhập thấp, nơi dân chúng có mức sống

và trình độ dân trí thấp hơn.

Về sản xuất và hiệu quả kinh tế: Sức khoẻ con người bị suy yếu có thể

làm giảm năng suất lao động và sự suy thoái môi trường làm giảm hiệu năng của

nhiều nguồn tài nguyên mà con người sử dụng trực tiếp. Ô nhiễm nước gây tổn

69

thất cho nghề cá. Tình trạng úng ngập và đất đai bị nhiễm mặn làm giảm năng

suất thu hoạch trong nông nghiệp. Một số trường hợp giảm hiệu quả kinh tế do

tài nguyên môi trường mà người dân gián tiếp sử dụng bị hư hại. Chẳng hạn

những lưu vực sông có rừng bị chặt phá nhiều sẽ gây thiệt hại lớn về kinh tế do

lụt ở vùng hạ lưu.

Về tiện nghi sinh hoạt: Phong cảnh đẹp hoặc một không gian trong sạch,

yên tĩnh sẽ bổ sung cho chất lượng cuộc sống con người. Vì vậy, sự suy giảm

môi trường làm tổn hại đến tiện nghi của con người. Nếu môi trường trong sạch

sẽ tạo điều kiện sinh hoạt tốt cho con người, làm cho con người phát triển toàn

diện năng lực thể chất và tinh thần của mình.

Như vậy, hậu quả của ô nhiễm và suy giảm môi trường là rất lớn, nó tác

động tới sức khoẻ, tới mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội , vì vậy đẩy mạnh

công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta cần phải đi đôi với việc bảo vệ môi

trường. Có như vậy mới đảm bảo sự phát triển bền vững lâu dài trong tương lai.

2.2. Thực trạng hoạt động bảo vệ môi trường trong quá trình thực

hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam

2.2.1. Những hoạt động bảo vệ môi trường

Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 được đại hội đại biểu

toàn quốc lần thứ IX của Đảng thông qua đã khẳng định quan điểm phát triển

đất nước là “phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi

với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường”. Để giải quyết các

vấn đề về môi trường trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá

đất nước cần phải có sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và hành động, sự

đổi mới trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành và đặc biệt trong tổ chức, triển khai

thực hiện công tác bảo vệ môi trường trong toàn đảng, và toàn xã hội.

2.2.1.1. Thiết lập thể chế, chính sách bảo vệ môi trường

. Hệ thống luật pháp, chính sách liên quan đến bảo vệ môi trường được

xây dựng và ban hành ngày càng hoàn thiện.

70

- Trước hết, là những văn kiện quan trọng của Đảng chỉ đạo về công tác

bảo vệ môi trường của nước ta. Trong các Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VII,

lần thứ VIII, lần thứ IX, lần thứ X đều có những đoạn nêu rõ đường lối, quan

điểm và những nhiệm vụ lớn của nước ta trong thực hiện công nghiệp hoá, hiện

đại hoá phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường để phát triển bền vững đất

nước, gắn nhiệm vụ bảo vệ môi trường với phát triển kinh tế - xã hội.

Trực tiếp về công tác bảo vệ môi trường, ngày 20/6/1998 Bộ Chính trị

Ban chấp hành Trung ương Đảng (Khoá VIII) ra chỉ thị số 36 - CT/TW về tăng

cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hoá và hiện đại hoá

đất nước, đã đặt ra các mục tiêu, xác định các quan điểm và giải pháp cụ thể chỉ

đạo công tác bảo vệ môi trường của nước ta. Chỉ thị 36 - CT/TW đã được triển

khai đến mọi ngành, mọi cấp, đến tận mọi cơ sở để toàn Đảng, toàn dân và các

cấp chính quyền, đoàn thể xã hội cùng chung sức thực hiện nhiệm vụ bảo vệ môi

trường.

Ngày 15/11/2004, Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá

IX) đã ra Nghị quyết số 41 - NQ/TW về BVMT trong thời kỳ đẩy mạnh công

nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nhấn mạnh thêm tầm quan trọng đặc biệt của

công tác bảo vệ môi trường trong phát triển bền vững của Việt Nam. Nghị quyết

nêu rõ 5 quan điểm về bảo vệ môi trường, xác định các mục tiêu tổng quát và 5

nhiệm vụ chung định hướng cho các chính sách lớn về bảo vệ môi trường cần cụ

thể hoá, đưa ra 7 giải pháp chính cần thực hiện.

- Luật bảo vệ môi trường được Quốc hội (khoá IX) thông qua ngày

27/12/1993 là một dấu mốc quan trọng trong việc thể chế hoá các quan điểm về

bảo vệ môi trường trong phát triển bền vững ở nước ta. Luật bảo vệ môi trường

được Quốc hội (Khoá XI) kỳ họp thứ 8 ngày 29/5/2005 thông qua, thay thế cho

Luật Bảo vệ môi trường năm 1993.

Các luật khác có liên quan đến bảo vệ môi trường cũng lần lượt được ban

hành, như: Bộ luật hình sự (sửa đổi) có hiệu lực từ ngày 01/7/2000, trong đó

Chương XVII - các tội phạm về môi trường; Luật bảo vệ sức khoẻ nhân dân

(1981); pháp lệnh bảo vệ đê điều (1989); pháp lệnh thu thuế tài nguyên (1989);

71

pháp lệnh bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản (1989); luật bảo vệ và phát triển rừng

(1991); sửa đổi (2004); luật đất đai (1993; sửa đổi 2003); luật dầu khí (1993);

pháp lệnh thú y (1993); pháp lệnh bảo vệ và kiểm dịch thực vật (1993); pháp

lệnh an toàn và kiểm soát bức xạ (1996); luật khoáng sản (1996); luật tài nguyên

nước (1998); luật khuyến khích đầu tư trong nước (1999); v.v…

- Các kế hoạch, chương trình hành động quốc gia về bảo vệ môi trường

được xây dựng và các ngành, các địa phương đều có kế hoạch, chương trình cụ

thể thực hiện.

. Hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường được xây

dựng đồng bộ từ trung ương đến địa phương và cơ sở.

Thời kỳ những năm 80, công tác bảo vệ môi trường do một vụ thuộc uỷ

ban khoa học và kỹ thuật nhà nước phụ trách. Năm 1993 đã thành lập cục môi

trường thuộc Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường. Đến năm 2002, Bộ tài

nguyên và Môi trường được thành lập; đồng thời cũng có quyết định thành lập

Quỹ môi trường Việt Nam.

Ở các Bộ, ngành, các Vụ khoa học và Công nghệ đều có chức năng quản

lý về công tác bảo vệ môi trường trong ngành mình. Các tỉnh, thành phố trước

đây có Phòng Môi trường nằm trong Sở khoa học, Công nghệ và Môi trường; từ

đầu năm 2003 đã thành lập Sở tài nguyên và Môi trường theo hệ thống ngành từ

trung ương. Cấp quận, huyện, thị xã có cán bộ chuyên trách về môi trường trong

cơ quan quản lý về đất đai - tài nguyên và môi trường thuộc Uỷ ban Nhân dân.

. Công tác thanh tra môi trường đã được tiến hành đều đặn trong những

năm gần đây. Nhiều đợt thanh tra diện rộng, thanh tra định kỳ được tiến hành ở

các tỉnh, các khu công nghiệp, tại nhiều xí nghiệp và khu dân cư. Các cuộc thanh

tra này đã thúc đẩy công tác bảo vệ môi trường tại địa phương và cơ sở tiến

hành tốt hơn, đồng thời cũng phát hiện và xử lý nghiêm túc những hoạt động

gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, kiến nghị những giải pháp cần thiết kịp

thời để ngăn chặn tình trạng gia tăng ô nhiễm.

Riêng năm 1997 đã thanh tra hơn 8.000 xí nghiệp, khoảng 50% xí nghiệp

đã bị xử phạt do gây ô nhiễm vượt giới hạn cho phép, 54 xí nghiệp đã buộc phải

72

đóng cửa. Đã đánh giá và phân thành 3 nhóm xí nghiệp: các xí nghiệp được tiếp

tục hoạt động, các xí nghiệp có thể tiếp tục hoạt động nhưng phải có kế hoạch

cải thiện môi trường, các xí nghiệp phải ngừng hoạt động hoặc di dời địa điểm.

Báo cáo hiện trạng môi trường được thực hiện thường xuyên hàng năm và

có nền nếp thống nhất từ trung ương đến địa phương.

. Đầu tư cho lĩnh vực bảo vệ môi trường ngày càng được chú trọng. Ngoài

mức đầu tư từ ngân sách nhà nước (hiện nay mới chỉ đạt 0,1%, tiến tới nâng lên

theo Nghị quyết số 41 - NQ - TW là 1% tổng chi ngân sách), còn có các nguồn

đầu tư khác; thực hiện các hình thức thu phí bảo vệ môi trường đối với một số

nguồn gây ô nhiễm như: nước thải, khí thải,…; tiến hành thu phí tài nguyên theo

quy định của pháp luật.

2.2.1.2. Sử dụng các công cụ kinh tế trong quản lý tài nguyên và bảo vệ

môi trường

Dưới đây là một số công cụ cơ bản đã và đang được sử dụng tại Việt

Nam:

* Thuế tài nguyên: Ngoài mục đích kinh tế, mục đích môi trường của thuế

tài nguyên là nhằm hạn chế những nhu cầu không thực sự cần thiết và xác định

mức tối đa việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên, khuyến khích những hành vi bảo

đảm sự phát triển bền vững. Năm 1998, Nhà nước đã ban hành Pháp lệnh thuế

tài nguyên sửa đổi (theo Quyết định số 05/ 1998/PL - UBTVQH 10 ngày 16 - 4 -

1998 của uỷ ban Thường vụ Quốc hội ). Pháp lệnh gồm 8 chương, 21 điều quy

định khá chi tiết và cụ thể.

* Thuế, phí môi trường: Để phân biệt thuế môi trường với thuế tài

nguyên, cần hiểu thuế môi trường là loại thuế sử dụng để kiểm soát ô nhiễm,

mục tiêu của thuế môi trường đòi hỏi những người gây ô nhiễm môi trường, làm

thiệt hại cho xã hội phải trả tiền cho việc gây ra thiệt hại đó.

Phí môi trường là các loại phí chủ yếu được tính theo lượng phát thải ra

môi trường gây ô nhiễm và thiệt hại cho môi trường hoặc từ sản lượng quy ra

chất thải gây ô nhiễm. Pháp lệnh phí và lệ phí ban hành ngày 28-8-2001 và bắt

đầu thực hiện từ 01-01-2002 trên cơ sở hướng dẫn thi hành của Nghị định

73

57/2002/NĐ-CP ngày 03-03-2002 về quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh phí và

lệ phí. Hiện nay, phí môi trường của Việt Nam cơ bản có hai loại:

- Phí nước thải: Là công cụ kinh tế đang được triển khai trong cả nước

trên cơ sở nghị định 67/2003/NĐ-CP của Chính phủ ngày 13-6-2003 nhằm hạn

chế ô nhiễm môi trường từ nước thải, sử dụng tiết kiệm nước sạch và tạo nguồn

kinh phí cho Quỹ bảo vệ môi trường thực hiện việc bảo vệ, khắc phục ô nhiễm

môi trường.

- Phí rác thải đô thị: Là công cụ kinh tế được sử dụng khá sớm, chủ yếu sử

dụng ở khu vực đô thị, việc quy định thu phí do UBND thành phố hoặc các tỉnh

quy định, do vậy mức thu phí có thể khác nhau và phụ thuộc vào từng địa

phương.

* Ký quỹ môi trường: Loại công cụ này chúng ta đã có thông tư liên tịch

số 126/1999/TTLT- BTC- BCN- BKHCNMT ngày 22-10-1999 về hướng dẫn

việc ký quỹ để phục hồi môi trường trong khai thác khoáng sản. Trong đó, về cơ

bản có 5 nội dung gồm: đối tượng và mục đích của việc ký quỹ; căn cứ, phương

pháp xác định mức tiền ký quỹ; trình tự thủ tục ký quỹ; quản lý sử dụng tiền ký

quỹ và tổ chức thực hiện. Có thể thấy văn bản này quy định khá rõ ràng và rất cụ

thể cho các đối tượng thực hiện khai thác khoáng sản.

Thực tế vận hành cho thấy, từ khi Thông tư này có hiệu lực đến nay nhiều

tổ chức được cấp phép khoáng sản đẫ đi vao hoạt động khai thác nhưng không

thực hiện nghĩa vụ ký quỹ khôi phục môi trường. Những hành vi vi phạm về ký

quỹ khôi phục môi trường cũng không được xử lý theo quy định. Đối với một số

lĩnh vực khác, như khai thác rừng, khai thác hải sản tự nhiên... chúng ta vẫn

chưa có chế tài cho phục hồi môi trường thông qua ký quỹ môi trường.

* Quỹ môi trường: Là loại công cụ kinh tế được sử dụng khá phổ biến cho

mục đích bảo vệ môi trường, hai loại quỹ cơ bản là:

- Quỹ môi trường quốc gia: Được thành lập theo quyết định số

82/2002/QĐ-TTgngày 26-06-2002 để huy động vố từ các tốt chức, cá nhân

trong và ngoài nước, tiếp nhận vốn đầu tư của nhà nước nhằm hỗ trợ các chương

74

trình, dự án, hoạt động, nhiệm vụ bảo vệ môi trường trên phạm vi cả nước. Quỹ

môi trường Việt Nam bắt đầu đi vào hoạt động từ năm 2004, đã hình thành bộ

máy hoạt động cùng với những cơ chế chính sách để hình thành bộ máy đó.

Trong quá trình hoạt động, Quỹ cũng gặp phải những khó khăn, vướng mắc về

nhân lực, cơ chế cho vay cũng như nguồn vốn bổ sung ngoài vốn điều lệ, khó

khăn trong việc thẩm định, đánh giá công nghệ của các dự án vay vốn…

- Quỹ môi trường địa phương: ở nước ta có thể kể đến Quỹ môi trường Hà

Nội, Quỹ môi trường TP. Hồ Chí Minh. Quỹ môi trường Hà Nội được hình

thành trên cơ sở hỗ trợ của dự án VIE/97/007 với vốn điều lệ ban đầu là

100.000USD. Hiện tại, Quỹ này do Sở Tài nguyên và môi trường Hà Nội quản

lý, chủ yếu hỗ trợ cho vay các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn thành phố

với lãi suất ưu đãi nhằm giảm thiểu ô nhiễm. Quỹ môi trường TP. Hồ Chí Minh

có số vốn ban đầu lớn hơn, mục tiêu chủ yếu là cho vay ưu đãi đối với các doanh

nghiệp có hoạt động sản xuất sạch hơn.

Các cơ chế tài chính khác cũng là một dạng của công cụ kinh tế được sử

dụng cho bảo vệ môi trường như đầu tư cho bảo vệ môi trường, thưởng, phạt

cho ô nhiễm môi trường.

2.2.1.3. Gắn bảo vệ môi trường với phát triển kinh tế xã hội

Để đảm bảo quá trình phát triển bền vững, cần thiết phải xác lập sự cân

đối giữa các yếu tố kinh tế - xã hội- môi trường, kết hợp Chiến lược bảo vệ môi

trường và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội một cách hài hoà ở tất cả các

cấp.

Tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường cùng có mục đích thống nhất là

vì sự phát triển bền vững của xã hội. Nhưng lại có mâu thuẫn với nhau khi lựa

chọn các giải pháp để thực hiện mục đích đó. Thống nhất và mâu thuẫn đó là tất

yếu đòi hỏi con người luôn phải cân nhắc khi chọn lựa những giải pháp cho thực

hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.

Khi cân nhắc phương án phát triển kinh tế - xã hội cho tăng trưởng phải

đồng thời gắn với các công tác bảo vệ môi trường, nhất là những vấn đề môi

75

trường mới nảy sinh do phương án phát triển kinh tế - xã hội đó gây ra. Phương

án phát triển nào cũng có ảnh hưởng xấu đến môi trường. Phát triển để tăng

trưởng; bảo vệ môi trường cũng là để tăng trưởng. Bảo vệ môi trường phải là

một điều kiện trong cân nhắc của bất cứ phương án phát triển kinh tế - xã hội

nào; giải pháp bảo vệ môi trường phải là một bộ phận bắt buộc của phương án

phát triển kinh tế - xã hội.

Biết lựa chọn cái cần hy sinh khi có mâu thuẫn giữa giải pháp phát triển

kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường. Mâu thuẫn không bao giờ là không có, tuỳ

thuộc quan điểm khi cân nhắc, nếu biết chú ý cả yêu cầu tăng trưởng và yêu cầu

bảo vệ môi trường thì mức độ mâu thuẫn không đến mức không thể chấp nhận

được; còn nếu chỉ chú ý vào yêu cầu một phía sẽ làm tăng mức căng thẳng của

mâu thuẫn.

Tóm lại, trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và mở rộng hội nhập

với sức ép của toàn cầu hoá kinh tế quốc tế can thiệp mạnh vào nền kinh tế của

từng quốc gia, thì không thể mỗi địa phương, thậm chí mỗi quốc gia, có thể nghĩ

đến việc muốn phát triển cơ cấu kinh tế toàn diện để không lệ thuộc nhờ cậy vào

cơ sở kinh tế của địa phương khác, quốc gia khác. Mở rộng và tăng cường quan

hệ kinh tế giữa các địa phương, giữa các quốc gia để cùng phát triển và tạo nên

khả năng thoả mãn nhu cầu ngày càng phong phú của đời sống xã hội là một xu

thế tất yếu của xã hội phát triển hiện đại.

2.2.1.4. Tuyên truyền giáo dục bảo vệ môi trường

Đây là một trong những giải pháp quan trọng để thực hiện công tác bảo vệ

môi trường có hiệu quả thiết thực, được Việt Nam rất coi trọng. Các nội dung về

giáo dục môi trường cũng được sớm định hình và đưa vào giảng dạy trong các

trường học kể từ bậc mẫu giáo. Bậc đại học và đào tạo sau đại học đã mở thêm

các ngành đào tạo về môi trường ở nhiều trường đại học với quy mô tăng lên rất

nhanh chóng.

Nhiều hoạt động mang tính quần chúng rộng rãi đã liên tiếp được tiến

hành. Những cuộc mít tinh đông đảo lực lượng các thành phần dân chúng tham

76

gia nhân tổ chức các ngày về bảo vệ môi trường, các hoạt động triển lãm, nhiều

cuộc hội thảo khoa học trong nước và có các đại biểu quốc tế tham dự về các

chủ đề bảo vệ môi trường. Ngày môi trường Thế giới 5/6 được tổ chức hàng

năm với những hoạt động thiết thực thu hút hàng triệu người khắp nơi tham gia.

Những đợt tổ chức nhân Ngày nước sạch thế giới, Tuần lễ nước sạch và vệ sinh

môi trường, các phong trào "Vì thành phố Xanh- Sạch- Đẹp", "Sạch làng tốt

ruộng", xây dựng 3 công trình nông thôn hố xí- nhà tắm- giếng nước, các hoạt

động vận động dọn vệ sinh chung đường phố hàng tuần, vận động không đổ rác

ra đường và giữ gìn đường phố sạch sẽ...liên tiếp tác động và động viên lôi cuốn

đông đảo các tầng lớp nhân dân quan tâm và đóng góp thực sự vào hoạt động

bảo vệ môi trường. Với sự nỗ lực liên tục của mọi cấp, của đoàn thể cộng đồng

và các tổ chức xã hội quần chúng, hoạt động bảo vệ môi trường ở Việt Nam đã

sớm được xã hội hoá và có những kết quả tốt.

Những cuộc thi vẽ, thi ảnh chụp, thi làm phim, làm áp phích, sáng tác bài

hát, hoạt động văn nghệ, thi trên truyền hình,...với chủ đề bảo vệ môi trường gây

nên sự hứng thú và phong phú trong hoạt động, có tác dụng giáo dục rất hiệu

quả.

2.2.1.5. Liên kết quốc tế trong bảo vệ môi trường

Việt nam tuy là một nước chậm phát triển, nhưng lại là một nước rất sớm

hưởng ứng các hoạt động chung về môi trường của thế giới. Các hội nghị

Thượng đỉnh thế giới ở Rio de Janeiro 1992, ở Johannesburg 2002 đều có đoàn

cấp cao của chính phủ Việt Nam tham gia, và sau hội nghị không lâu, Việt Nam

đã hưởng ứng Tuyên bố chung của Hội nghị bằng những chương trình hành

động cụ thể của mình. Cho đến nay, Việt Nam đã ký kết, phê chuẩn và nghiêm

túc thực hiện 15 Công ước quốc tế liên quan đến bảo vệ môi trường và các vấn

đề có liên quan đến phát triển bền vững của nhân loại. Đối với sự hợp tác trong

khối ASEAN, Việt Nam luôn chủ động đề xuất hoặc hưởng ứng những đề xuất

của các nước thành viên trong phối hợp và hợp tác thực hiện phát triển bền vững

ở toàn khu vực Đông Nam Á.

77

Các hội nghị khoa học Quốc Tế, Hội nghị chuyên đề về các vấn đề môi

trường Thế giới, Việt Nam đều có đoàn cán bộ khoa học tham dự và có những

báo cáo tham luận đóng góp vào kết quả chung của các hội nghị. Trong đó có

nhiều lần Việt Nam đứng ra đăng cai tổ chức các Hội nghị khoa học Quốc tế và

được hưởng ứng rộng rãi của các nước tham dự. Những hoạt động này đã gắn

kết Việt Nam với thế giới trong sự nghiệp bảo vệ môi trường chung của Trái đất,

đã thể hiện rõ quan điểm và chủ trương của Việt Nam trong thực hiện phát triển

bền vững và bảo vệ môi trường.

Đồng thời, Việt Nam cũng đã tranh thủ được sự hỗ trợ giúp đỡ của nhiều

tổ chức Quốc tế, của các nước phát triển trong tài trợ thực hiện các dự án nghiên

cứu và giải quyết những vấn đề môi trường đang là vấn đề nan giải của Việt

Nam. Hợp tác song phương với nhiều Chính phủ, tiếp nhận và sử dụng có hiệu

quả sự giúp đỡ về bảo vệ môi trường của các tổ chức Quốc tế, các Chính phủ,

các tổ chức phi chính phủ và các cá nhân. Viện trợ chính thức ODA về môi

trường tại Việt Nam trong giai đoạn 1985 – 2000 đạt mức 2 tỷ USD. Đầu năm

2002 đã thành công trong việc vận động và thành lập Nhóm hỗ trợ Quốc tế trong

lĩnh vực môi trường.

2.2.2. Đánh giá chung về thực trạng bảo vệ môi trường sinh thái và

những vấn đề đặt ra

2.2.2.1. Những thành tựu

Được sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước, sự nỗ lực của các cấp

các ngành, các đoàn thể, sự hưởng ứng của nhân dân và sự giúp đỡ thông qua

viện trợ, cam kết quốc tế, công tác bảo vệ môi trường ở nước ta trong thời gian

qua đã đạt được những kết quả bước đầu hết sức quan trọng trên các mặt sau:

- Điểm nổi bật cơ bản nhất, là chúng ta ngày càng nhận thức rõ hơn vai trò

của bảo vệ môi trường trong sự phát triển bền vững của đất nước. Điều đó được

thể hiện trước hết trong các văn kiện của Đảng. Nghị quyết Đại hội lần thứ IX

của Đảng đã nêu rõ: "phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng cường kinh tế

đi đôi với bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ trường". Theo tinh thần

78

đó, Nghị quyết 41- NQ/TW của Bộ Chính trị đã khẳng định quan điểm chỉ đạo

xuyên suốt về bảo vệ môi trường phải được gắn kết chặt chẽ, hài hoà với phát

triển kinh tế và bảo đảm công bằng xã hội.

Trong xã hội, nhận thức về môi trường cũng ngày càng được nâng cao,

nhất là trong bối cảnh môi trường đã trở thành vấn đề toàn cầu và thực tế trong

nước cho thấy không thể không bảo vệ môi trường, nếu muốn được sống trong

môi trường trong lành và có được sự phát triển bền vững.

- Từng bước xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về

bảo vệ môi trường. Các quan điểm của Đảng về bảo vệ môi trường trong phát

triển bền vững đã nhanh chóng được thể chế hoá bằng các công cụ chính sách,

pháp luật cụ thể. Bên cạnh hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ

môi trường, nhiều chiến lược, kế hoạch cũng đã được ban hành, trong đó phải kể

đến chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến

năm 2020, chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xoá đói, giảm nghèo và Định

hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam (Chương trình nghị sự 21 của

Việt Nam), kế hoạch xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm

trọng. Việc ban hành và áp dụng các công cụ kinh tế trong quản lý bảo vệ môi

trường đã bước đầu được triển khai có hiệu quả. Nhiều bộ, ngành đã ban hành

các quy định, kế hoạch hành động về bảo vệ môi trường trong khu vực mình

quản lý.

- Hệ thống tổ chức quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường đã bắt đầu

được hình thành từ năm 1992 với việc thành lập Bộ khoa học, Công nghệ và môi

trường và cơ sở khoa học, công nghệ và môi trường các tỉnh, thành. Sau khi

thành lập Bộ Tài nguyên và môi trường, bên cạnh việc tăng cường và hoàn thiện

bộ máy quản lý Nhà nước về môi trường cấp bộ, hệ thống quản lý Nhà nước về

môi trường đã được hình thành đến cấp huyện và một số nơi đã bố trí cán bộ

giúp uỷ ban nhân dân cấp xã quản lý môi trường. Hội bảo vệ Thiên nhiên và

Môi trường Việt Nam và các hội viên thành viên ở các tỉnh, thành được thành

lập và đi vào hoạt động ổn định. Nhiều hội nghề nghiệp liên quan đến môi

79

trường cũng được thành lập hoặc tổ chức nhiều hoạt động có hiệu quả về môi

trường.

- Nhiệm vụ tổ chức triển khai thực thi đường lối, chủ trương của Đảng,

chính sách, pháp luật của Nhà nước về môi trường đã được các cấp, các ngành

đặc biệt chú trọng. Nhiều đề án, dự án, mô hình nhằm ngăn ngừa, ứng phó và

khắc phục ô nhiễm, suy thái và sự cố môi trường đã được thực hiện có kết quả.

Công tác quan trắc và giám sát môi trường đã đặt trọng tâm vào các vùng kinh tế

trọng điểm, các khu công nghiệp, các đô thị, các lưu vực sông bị ô nhiễm nặng,

qua đó cung cấp các thông tin cần thiết cho công tác giáo dục truyền thông, xây

dựng các chương trình, dự án khắc phục ô nhiễm, nhất là ô nhiễm nguồn nước

các lưu vực sông Cầu, sông Đáy, sông Nhuệ, sông Sài Gòn và sông Đồng Nai.

Hệ thống quan trắc môi trường quốc gia đang được tiến hành xây dựng với quy

hoạch mạng lưới trạm quan trắc khí tượng thuỷ văn. Hiện nay số trạm, số điểm

quan trắc đã được phân bổ trên hầu khắc lãnh thổ nước ta và tần suất quan trắc

đã được tăng lên.

- Công tác đánh giá tác động môi trường thời gian qua đã được chú ý, vừa

tạo thuận lợi khuyến khích đầu tư phát triển vừa có tác dụng ngăn ngừa ô nhiễm.

Quy trình thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường đã không ngừng

được cải tiến, hoàn thiện. Công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát thực hiện pháp

luật về bảo vệ môi trường được tăng cường. Việc tổ chức nghiên cứu, áp dụng

tiến bộ khoa học, công nghệ, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực

bảo vệ môi trường không ngừng được đẩy mạnh. Nhiệm vụ tuyên truyền, nâng

cao nhận thức và ý thức về bảo vệ môi trường được đặc biệt coi trọng. Các lớp

đào tạo, tập huấn ngắn hạn trong nước và nước ngoài về môi trường đã được

nâng cao rõ rệt kiến thức về pháp luật môi trường cũng như kỹ năng quản lý cho

cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, các ngành, các doanh nghiệp và các tổ chức xã

hội, hoạt động hợp tác quốc tế về môi trường cũng như kỹ năng quản lý cho cán

bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, các ngành, các doanh nghiệp và các tổ chức xã hội.

Hoạt động hợp tác quốc tế về môi trường không ngừng được củng cố và phát

triển.

80

2.2.2.2. Những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân

* Tồn tại và hạn chế:

Bên cạnh những việc làm được, công tác bảo vệ môi trường vẫn còn nhiều

yếu kém và đang tồn tại nhiều vấn đề cần phải giải quyết một cách tích cực hơn

trong thời gian tới.

Thứ nhất, tư tưởng coi trọng lợi ích cục bộ, trước mắt về kinh tế mà

không chú ý đến lợi ích về môi trường còn khá phổ biến. Hiện tượng xem nhẹ

bảo vệ môi trường, không thực hiện hoặc chỉ thực hiện một cách đối phó còn

xảy ra ở các cấp, các ngành. Nhiều khu công nghiệp, cơ sở sản xuất, dịch vụ

chưa tuân thủ nghiêm túc các quy định về phòng ngừa ô nhiễm, giảm thiểu ô

nhiễm, xử lý chất thải. Tình trạng vứt rác, phong uế bừa bãi, làm mất vệ sinh nơi

công cộng, sử dụng các biện pháp huỷ diệt trong khai thác thuỷ sản, đánh bắt

động vật quý hiếm, thậm chí nhập khẩu chất thải ở nhiều nơi, nhưng chưa có

biện pháp khắc phục kịp thời.

Thứ hai, bộ máy tổ chức quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường tuy đã

được tăng cường một bước, nhưng còn thiếu về số lượng và yếu về năng lực; sự

phối hợp liên ngành, liên vùng còn kém hiệu quả dẫn đến chồng chéo chức năng

trong khi bỏ trống nhiệm vụ quản lý.

Thứ ba, đầu tư cho bảo vệ môi trường còn rất thấp. Các nguồn vốn đầu tư

xây dựng cơ bản chưa chú trọng khâu đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng về bảo vệ

môi trường, nguồn chi thường xuyên của ngân sách nhà nước cho hoạt động sự

nghiệp môi trường còn quá thấp, các doanh nghiệp chưa chú ý tới đầu tư thay

đổi công nghệ, thiết bị, công trình xử lý chất thải nhằm giảm thiểu ô nhiễm môi

trường. So với các nước trong khu vực và trên thế giới, đầu tư bảo vệ môi

trường ở Việt Nam còn rất thấp. Ở Trung Quốc và các nước ASEAN đầu tư cho

môi trường trung bình hàng năm chiếm khoảng 1% GDP, ở các nước phát triển

thường chiếm 3-4% GDP.

Thứ tư, chúng ta chưa có chế tài đủ mạnh nhằm ngăn ngừa các hành vi vi

phạm pháp luật về bảo vệ môi trường, nhất là chậm phát triển các biện pháp

81

kinh tế phù hợp với cơ chế thị trường. Đây là một trong những nguyên nhân cơ

bản dẫn đến việc hầu hết các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ không tuân thủ

quy định pháp luật. Thực tế cho thấy có đến 70% các khu công nghiệp không có

hệ thống xử lý nước thải mà đổ thẳng ra môi trường. Mặc dù, Bộ luật Hình sự đã

ban hành, có dành một chương về tội phạm môi trường, nhưng triển khai trên

thực tế gặp rất nhiều khó khăn do quy định dấu hiệu tội phạm chưa rõ ràng, khó

định lượng hậu quả gây ra cho môi trường.

Thứ năm, chúng ta đang đứng trước thực trạng và những thách thức gay

gắt đối với công tác bảo vệ môi trường. Nguồn tài nguyên nước đang bị ô

nhiễm, chủ yếu là ở các vùng hạ lưu sông do ảnh hưởng chất thải chưa qua xử

lý, xuất phát từ các hoạt động sinh hoạt của dân cư đô thị và các hoạt động sản

xuất công nghiệp. Các dạng thoái hoá đất chủ yếu là: xói mòn, rửa trôi, đất có độ

phì thấp và mất cân bằng dinh dưỡng, đất chua hoá, mặn hoá, phèn hoá, bạc

màu, khô hạn và sa mạc hoá, đất ngập úng, lũ quét, đất trượt và sạt lở, đất bị ô

nhiễm. Trên 50% diện tích đất (3,2 triệu ha) ở vùng đồng bằng và trên 60% diện

tích đất (13% triệu ha) ở vùng đồi núi có những vấn đề liên quan tơi suy thoái

đất. Các yếu tố gây ô nhiễm không khí hiện nay là bụi và khí thải từ sản xuất

công nghiệp và hoạt động giao thông - vận tải rất nghiêm trọng. Chất lượng rừng

và đa dạng sinh học đang là một trong những vấn đề môi trường bức xúc nhất

của nước ta hiện nay. Theo thống kê, diện tích đất có rừng của nước ta hiện nay

vào khoảng 11,5 triệu ha, trong đó 84% là rừng tự nhiên. trong vòng chưa đầy

50 năm, diện tích che phủ giảm từ 43% xuống còn 27% (năm 1990). Sau đó,

nhờ những giải pháp kịp thời, diện tích rừng đã được nâng lên 33% (năm 2001)

và 34,4% (năm 2003). Mặc dù vậy, rừng tự nhiên đầu nguồn và rừng nguyên

sinh chỉ còn chiếm khoảng 13% và rừng tái sinh chiếm 55% tổng diện tích rừng.

Việt Nam được coi là một trong những quốc gia có tính đa dạng sinh học

cao nhất trên thế giới. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, đa dạng sinh học ở

nước ta suy giảm mạnh. Nguyên nhân chính là do cháy rừng, tình trạng phá rừng

bừa bãi và chuyển đổi mục đích sử dụng đất đai (làm đầm nuôi thuỷ sản, xây

dựng đường sá, chuyển đất rừng thành đất nông nghiệp), dẫn đến thu hẹp nơi cư

82

trú và nguồn nuôi dưỡng các giống loài. tình trạng buôn bán trái phép động thực

vật quý hiếm, sử dụng các biện pháp khai thác có tính huỷ diệt và gia tăng ô

nhiễm môi trường cũng góp phần làm suy giảm đa dạng sinh học.

* Nguyên nhân:

- Nước ta tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện điểm

xuất phát rất thấp về kinh tế xã hội, hậu quả chiến tranh (trong đó có vấn đề môi

trường) để lại rất nặng nề. Cùng một lúc vừa đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện

đại hoá vừa hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, tích cực chủ động hội nhập

kinh tế quốc tế. Vì thế kinh nghiệm, nguồn lực cho bảo vệ môi trường trong nền

kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn nhiều hạn chế.

- Chưa xây dựng được những luận cứ khoa học cho việc gắn kết công tác

bảo vệ môi trường với quá trình phát triển kinh tế xã hội. Trong bối cảnh đẩy

mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, môi trường sinh thái nước ta đang

tiếp tục bị ô nhiễm và suy thoái nhanh chóng. Đây là một vấn đề báo động gay

gắt, đòi hỏi phải giải quyết hợp lý mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với phát

triển xã hội và môi trường theo quan điểm phát triển bền vững.

- Nhận thức chưa đầy đủ của các cấp, các ngành và của người dân đối với

công tác bảo vệ môi trường. Trong thời gian tới cần xoá bỏ tận gốc việc chỉ coi

trọng lợi ích cục bộ, lợi ích trước mắt về kinh tế mà thiếu chú ý lợi ích lâu dài.

Đây là tư tưởng chủ đạo, xuyên suốt, liên tục trong quá trình đẩy mạnh công

nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nhận thức đó được thể hiện trước tiên trong

việc chỉ đạo xây dựng các chiến lược, quy hoạch kế hoạch phát triển kinh tế xã

hội của các cấp, các ngành, các địa phương, trong đó bảo vệ môi trường phải là

mục tiêu, yếu tố quan trọng không thể thiếu.

2.2.2.3. Những vấn đề đặt ra

Trong những năm qua, với chính sách đổi mới, Việt Nam đã đạt được

nhiều thành tựu quan trọng trên các lĩnh vực kinh tế, văn hoá xã hội, đối ngoại

và an ninh quốc phòng. Đồng thời được Đảng và nhà nước quan tâm, công tác

bảo vệ môi trường đã đạt được những kết quả, bước đầu kiềm chế được tốc độ

83

gia tăng ô nhiễm, khắc phục một phần tình trạng suy thoái và cải thiện một bước

chất lương môi trường ở một số nơi, tạo tiền đề quan trọng để phát triển đất

nước trong thời gian tới. Tuy nhiên, trong giai đoạn từ nay đến năm 2020, môi

trường nước ta đứng trước nhiều vấn đề lớn cả về mặt khách quan và chủ quan.

Một số vấn đề chính là:

- Nhiều vấn đề môi trường bức xúc chưa được giải quyết trong khi dự báo

mức độ ô nhiễm tiếp tục gia tăng.

Những hậu quả do chiến tranh để lại, tác động xấu do một thời gian dài

phát triển kinh tế không chú trọng đầy đủ, đúng mức đền môi trường cùng với

việc các nguồn lực bảo vệ môi trường còn quá hạn hẹp, là nguyên nhân dẫn đến

việc tồn tại nhiều vấn đề môi trường bức xúc chưa được giải quyết.

Nhiều nguồn nước bị ô nhiễm nghiêm trọng, đặc biệt là các ao, hồ, các

dòng sông chảy qua các đô thị lớn, các khu công nghiệp; chất thải rắn đô thị và

công nghiệp có tỷ lệ chất thải nguy hại cao phát sinh hàng ngày rất lớn trong khi

năng lực thu gom và xử lý còn hạn chế; chất thải bệnh viện chưa được xử lý thải

ra môi trường làm lây lan dịch bệnh; khối lượng chất thải nguy hại tồn dư trong

khuôn viên các cơ sở sản xuất rất lớn song chưa có biện pháp giải quyết.

Nhiều cơ sở sản xuất cũ nằm xen kẽ trong các khu dân cư, các làng nghề đang

gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng; sự bùng nổ giao thông cơ giới thường gây

ách tắc, tai nạn giao thông và ô nhiễm không khí đô thị; việc nuôi trồng thuỷ sản tràn

lan, thiếu quy hoạch đang làm suy thoái môi trường và các hệ sinh thái ven biển; tệ

lạm dụng hoá chất, thuốc trừ sâu trong nông nghiệp đang gây ô nhiễm các nguồn

nước, suy thoái đất và đa dạng sinh học nông nghiệp.

Việc nhập máy móc, thiết bị cũ, nhập khẩu chất thải được che giấu dưới

nhiều hình thức trao đổi thương mại đang có nguy cơ biến nước ta thành bãi thải

của các nước công nghiệp phát triển nếu không có giải pháp ngăn chặn hữu hiệu,

kịp thời.

Nạn khai thác khoáng sản và chặt phá rừng bừa bãi lấy đất canh tác cũng

gây nhiều vấn đề bức xúc về môi trường, làm suy giảm đa dạng sinh học.

84

Theo tính toán của các chuyên gia quốc tế và thực tế diễn ra ở nhiều nước,

trung bình nếu GDP tăng gấp đôi thì mức độ ô nhiễm môi trường tăng 3 đến 4

lần. Điều này nói lên rằng, trong giai đoạn tới, nếu không có các biện pháp hữu

hiệu phòng ngừa và kiểm soát ô nhiễm thì hậu quả là môi trường nước ta sẽ bị ô

nhiễm và suy thoái nghiêm trọng.

- Thách thức trong việc lựa chọn các lợi ích trước mắt về kinh tế và lâu

dài về môi trường và phát triển bền vững.

Thời gian tới, yêu cầu đối với nước ta là tiếp tục đẩy mạnh tiến trình công

nghiệp hoá, hiện đại hoá để đến năm 2020 cơ bản trở thành nước công nghiệp

theo hướng hiện đại. Trong điều kiện cơ sở hạ tầng thấp kém, thiếu vốn, thiếu

nguồn nhân lực, tiềm lực khoa học và công nghệ còn hạn chế nếu không ngăn

chặn kịp thời dễ dẫn tới những hành vi chấp nhận, đánh đổi nhiều giá trị, lợi ích

về môi trường để thực hiện các mục tiêu trước mắt đơn thuần về kinh tế. Đây là

thách thức lớn nhất đối với môi trường nước ta, vì khi đã xảy ra theo chiều

hướng này thì việc khắc phục sẽ rất tốn kém, thậm chí trong nhiều trường hợp

không thể thực hiện được.

- Kết cấu hạ tầng kỹ thuật bảo vệ môi trường lạc hậu, nguồn lực bảo vệ

môi trường của Nhà nước và các doanh nghiệp đều bị hạn chế.

Hiện nay, tình trạng kết cấu hạ tầng kỹ thuật bảo vệ môi trường ở đô thị và

nông thôn, cũng như trang thiết bị xử lý ô nhiễm môi trường ở các cơ sở sản xuất,

đặc biệt là ở các xí nghiệp vừa và nhỏ còn rất lạc hậu và thấp kém. Để giải quyết

các vấn đề đang tồn tại về môi trường và hạn chế mức gia tăng ô nhiễm trong thời

gian tới đòi hỏi phải có nguồn lực đầu tư rất lớn cho môi trường, trong khi khả

năng tài chính của Nhà nước cũng như của các doanh nghiệp đều rất hạn hẹp cũng

đặt ra thách thức rất lớn đối với môi trường nước ta.

- Sự gia tăng dân số, di dân tự do và đói nghèo

Tỷ lệ tăng dân số nước ta vẫn đang ở mức cao (khoảng 1,7%/năm), dự

báo đến năm 2020 dân số sẽ xấp xỉ 100 triệu người. Nạn di dân tự do và chặt

phá rừng làm nương rẫy, trồng cây công nghiệp còn khá phổ biến. Vấn đề nghèo

85

đói ở vùng sâu, vùng xa chưa được giải quyết triệt để (hiện có 2.300 xã thuộc

diện đói nghèo). Đây là thách thức sẽ gây sức ép lớn đối với cả tài nguyên và

môi trường trên phạm vi toàn quốc và đòi hỏi phải có chiến lược tài nguyên, môi

trường phù hợp, đi đôi với chiến lược dân số và chiến lược tăng trưởng và xoá

đói, giảm nghèo.

- Ý thức bảo vệ môi trường trong xã hội còn thấp

Nhận thức về trách nhiệm bảo vệ môi trường của các cấp lãnh đạo, các

nhà quản lý, các doanh nhân và cộng đồng còn chưa đầy đủ. ý thức tự giác bảo

vệ môi trường trong cộng đồng còn thấp nên các hành vi gây ô nhiễm, suy thoái

môi trường, tác động xấu đến môi trường còn khá phổ biến. Hậu quả gây ra

trong nhiều trường hợp là rất lớn. Cháy rừng và nhiều sự cố môi trường lớn xảy ra,

ô nhiễm do rác thải nơi công cộng… trong những năm gần đây, đã báo động về các

hành vi vô ý thức và cả có ý thức đang gây hậu quả rất lớn cho môi trường.

Tình trạng này có thể còn kéo dài và sẽ làm phức tạp, chậm trễ trong việc

giải quyết các vấn đề môi trường ở tất cả các cấp, các ngành, các địa phương và

vì vậy sẽ dẫn tới việc môi trường bị huỷ hoại cả về quy mô và mức độ cũng đặt

ra thách thức lớn đối với môi trường nước ta thời gian tới.

- Tổ chức và năng lực quản lý môi trường chưa đáp ứng yêu cầu.

Hệ thống tổ chức quản lý môi trường chưa được hoàn thiện theo chiều dọc

từ trên xuống dưới, cũng như theo chiều ngang ở các bộ/ngành; năng lực quản lý

môi trường còn nhiều bất cập cả về nhận lực, vật lực, trang bị kỹ thuật và về cơ

chế quản lý.

Việc phân công, phân nhiệm trong quản lý môi trường và tài nguyên giữa

các cơ quan quản lý ở Trung ương cũng như ở địa phương còn có sự chồng

chéo, trùng lặp, trong khi có chỗ lại bỏ trống. Sự phối hợp công tác giữa các bộ,

ban, ngành ở Trung ương, giữa các sở, ban, ngành ở tỉnh/ thành cũng như giữa

các địa phương với nhau thiếu hiệu quả, trong khi các vấn đề môi trường thường

phức tạp, mức độ ảnh hưởng lớn, muốn giải quyết tốt cần có cơ chế phối hợp

86

liên ngành hiệu quả. Đây cũng là những tồn tại được coi là thách thức đối với

môi trường nước ta trong những năm tới.

- Hội nhập kinh tế quốc tế đặt ra các yêu cầu ngày càng nâng cao về môi

trường.

Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hoá, nhiều thị trường

tiềm năng trên thế giới, các bạn hàng quốc tế đã đưa ra các yêu cầu ngày càng

cao về môi trường trong giao dịch thương mại. Đây là thách thức lớn đối với các

doanh nghiệp trong nước khi muốn mở rộng thị trường và hội nhập kinh tế quốc

tế. Để vượt qua các thách thức này, Việt Nam cần chủ động nghiên cứu xây

dựng các chính sách đáp ứng theo hướng cải tiến liên tục để hỗ trợ các doanh

nghiệp bảo vệ môi trường và hội nhập kinh tế quốc tế.

- Tác động của các vấn đề môi trường toàn cầu, khu vực ngày càng lớn và

phức tạp hơn.

Những vấn đề môi trường toàn cầu và các vấn đề môi trường khu vực,

chung biên giới đang trực tiếp tác động xấu đến môi trường nước ta. Đó là hiệu

ứng nhà kính, rác thải vũ trụ, suy giảm tầng ôzôn, mưa axit, biến đổi khí hậu,

hiện tượng El-Nino, La-Nina, khói mù do cháy rừng, ô nhiễm biển và đại dương,

dịch chuyển ô nhiễm, mất rừng và suy thoái đa dạng sinh học… Các vấn đề môi

trường xuyên biên giới, các vấn đề môi trường lưu vực sông Mê kông và sông

Hồng cũng đang ảnh hưởng xấu đến môi trường trong nước và tạo nên những

thách thức trong thời gian tới. Mẫu hình tiêu thụ lãng phí, trào lưu văn hoá

không lành mạnh, tệ nạn ma tuý, mại dâm theo dòng toàn cầu hoá sẽ tác động

mạnh đến hành vi của con người cũng sẽ trực tiếp thách thức đối với môi trường

nước ta.

Chương 3

87

QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG SINH THÁI

TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ

Ở VIỆT NAM THỜI GIAN TỚI

3.1. Bối cảnh mới và tác động của nó đến bảo vệ môi trường sinh thái

của Việt Nam trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá

3.1.1. Bối cảnh Quốc tế

- Toàn cầu hoá kinh tế quốc tế.

Mối quan hệ giữa công nghiệp hóa, hiện đại hóa và bảo vệ môi trường

trong bối cảnh tốt hay xấu phụ thuộc vào chính sách phát triển kinh tế và bảo vệ

môi trường của từng quốc gia, khu vực và rộng hơn là trên phạm vi toàn cầu.

Kết quả của các hoạt động này thể hiện tính kết quả của chính sách phát triển.

Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa cùng với xu thế toàn cầu hoá đã tạo

điều kiện cho các quốc gia xích lại gần nhau liên kết và xâm nhập lẫn nhau. Bên

cạnh đó, yêu cầu đối với các liên kết mang tính khu vực và bảo vệ quốc gia ngày

càng cao. Một trong những cách để khẳng định chủ quyền và sức mạnh của từng

quốc gia là phải đề ra các chính sách trong luật lệ nhằm duy trì, củng cố và tăng

cường sức mạnh của tài nguyên. Thực tế cho thấy quốc gia nào có tiềm năng về

tài nguyên hay khả năng bảo vệ và duy trì tài nguyên lớn thì thường có tốc độ

phát triển cao và trở thành nước “lớn”.

Các quy định quốc tế về môi trường sẽ tạo ra cơ hội mới và đặt ra những

điều kiện bắt buộc cho các quốc gia, doanh nghiệp phải có chiến lược và chính

sách phát triển đúng đắn, có định hướng và biết cách sử dụng hợp lý các công cụ

kinh tế để quản lý môi trường.

- Những vấn đề môi trường mang tính khu vực và toàn cầu nhìn chung

cũng đang được các quốc gia liên quan tập trung quan tâm, khắc phục, phối hợp

hành động trong các văn bản thoả thuận song phương, đa phương và toàn cầu.

Các biện pháp quản lý thương mại có liên quan đến môi trường ngày càng được

các nước sử dụng như những biện pháp quan trọng của hệ thống hàng rào kỹ

88

thuật. Những biện pháp này thường được gọi là “Hàng rào xanh” cho các nước

phát triển sử dụng tương đối phổ biến, và hiệu quả trong việc kiểm soát nhập

khẩu các sản phẩm liên quan đến môi trường và bảo vệ các ngành sản xuất có

liên quan trong nước.

- Ngoài ra, trong nền kinh tế “không biên giới” hiện nay, sự cạnh tranh

giữa các quốc gia, các ngành hàng và các sản phẩm rất cao, nên các quốc gia và

các doanh nghiệp thường cố gắng chuyển sang sử dụng các công nghệ cao sản

xuất những sản phẩm ngày càng tiết kiệm được nguyên nhiên liệu, để tạo ra

những sản phẩm chất lượng tốt và sạch hơn. Chẳng hạn như phần lớn các nhà

máy sản xuất điện từ than đá ở các nước phát triển đều được lắp đặt các thiết bị

điện hay cơ khí nhằm loại bỏ hầu hết bụi và bồ hóng từ khí đi ra ống khói. Phần

lớn xe hơi được bán ở các nước ngày nay đều chạy bằng xăng không pha chì.

Tuy nhiên, tại các nước đang phát triển, thiết bị thu hồi cặn bụi ở ống khói và bộ

chuyển sử dụng xúc tác ở xe hơi còn chưa phổ biến, do đó ô nhiễm không khí có

nguyên nhân từ hoạt động giao thông vận tải vẫn còn là mối nguy hại nghiêm

trọng đối với sức khoẻ con người. Bên cạnh đó, các quốc gia có nền kinh tế đang

phát triển cũng mở rộng rất nhanh công nghệ sử dụng trong sản xuất mới, hiện

đại nâng cao khả năng bảo vệ môi trường. Xu thế ứng dụng công nghệ mới,

công nghệ “sạch hơn” này sẽ tạo điều kiện cho các quốc gia bảo vệ môi trường

tốt hơn và dần tiến tới sản xuất và tiêu dùng những sản phẩm và công nghệ thân

thiện với môi trường.

Hơn nữa, trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa để tận dụng được

công nghệ, vốn và thị trường nhằm phát triển kinh tế bền vững, các nước đang

phát triển vừa phải chủ động mở cửa, đồng thời phải đưa ra được những chính

sách vừa có lợi cho phát triển kinh tế nhưng vẫn bảo vệ được môi trường và tài

nguyên thiên nhiên. Đây cũng là yếu tố quan trọng để đảm bảo các quốc gia có

thể phát triển bền vững trong xu thế hội nhập.

- Suy thoái kinh tế toàn cầu và ảnh hưởng của nó đến Việt Nam cũng đã

ảnh hưởng không nhỏ đến hợp tác quốc tế trong giải quyết các vấn đề môi

89

trường ở Việt nam cũng như nguồn đầu tư của Việt Nam cho bảo vệ môi trường

trong vài năm tới.

3.1.2. Bối cảnh trong nước

- Hội nhập kinh tế quốc tế.

Từ năm 2007, Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của tổ chức

thương mại thế giới (WTO). Nhiều quy định của WTO đều có các điều khoản về

bảo vệ môi trường, bảo vệ sức khoẻ và sự an toàn của con người, của các loài

động thực vật… Hiệp định rào cản kỹ thuật (TBT) quy định nghĩa vụ thông báo

các yêu cầu kỹ thuật, các quy định đánh giá phù hợp thông qua các “điểm hỏi

đáp” quốc gia. Kể từ ngày có hiệu lực của hiệp định này, có khoảng 2300 thông

báo đã được gửi cho ban thư ký WTO, trong đó có khoảng 11% có liên quan đến

môi trường.

Nhìn chung, các nước đang phát triển trong WTO đều tỏ ra lo ngại về các

quy định liên quan đến môi trường của WTO có thể bị lạm dụng hoặc bóp méo

các cam kết mở cửa thị trường của các nước đang phát triển.

Đối với các nước đang phát triển như Việt Nam, một số “Hàng rào xanh”

do các nước phát triển đưa ra chính là thách thức về môi trường trong hoạt động

Thương mại quốc tế khi gia nhập WTO. Mặt khác, những quy định này cũng tạo

sức ép buộc Việt Nam phải có các biện pháp quyết liệt, tích cực và hiệu quả

trong bảo vệ môi trường sinh thái. Khi chính thức là thành viên của WTO, Việt

Nam được đối xử công bằng hơn trong thương mại quốc tế, nhất là khi các nước

lập hàng rào kỹ thuật đối với Việt Nam. Chẳng hạn, khi muốn muốn áp dụng các

tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật đối với hàng nông sản nhập khẩu từ Việt Nam thì

các nước phải có trách nhiệm thông báo với Việt Nam về quy định kỹ thuật này

ít nhất là trước 60 ngày theo nguyên tắc minh bạch hoá, và cũng phải bảo đảm

rằng những sản phẩm tương tự của họ cũng phải áp dụng những quy định này

theo nguyên tắc đãi ngộ quốc gia.

Gia nhập WTO, Việt Nam sẽ còn có cơ hội giảm thiểu ô nhiễm môi

trường, cải thiện chất lượng môi trường thông qua việc áp dụng các nguyên tắc

90

pháp lý của WTO để xây dựng và sử dụng hợp lý “Hàng rào xanh” nhằm mục

đích bảo vệ các ngành sản xuất trong nước, đồng thời bảo vệ tài nguyên và môi

trường.

Hội nhập kinh tế quốc tế Việt Nam cũng thuận lợi hơn trong việc thu hút

vốn, kinh nghiệm, công nghệ phục vụ cho công tác bảo vệ môi trường.

- Những thành tựu to lớn trong phát triển kinh tế - xã hội sau hơn 20 năm

đổi mới đã tạo điều kiện hết sức thuận lợi cho bảo vệ môi trường trong thời gian

tới.

- Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri

thức theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã bao hàm trong đó những nội dung,

biện pháp, điều kiện thúc đẩy và nâng cao hiệu quả bảo vệ môi trường.

- Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa với các nội dung cơ bản: Nâng cao vai trò và hiệu quả quản lý của nhà

nước, phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành các loại thị trường

cơ bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh, phát triển mạnh các thành phần kinh

tế, các loại hình tổ chức sản xuất, kinh doanh. Đây là nhân tố căn bản đảm bảo

hoạt động bảo vệ môi trường đạt được các mục tiêu đề ra.

3.2. Quan điểm, mục tiêu và nhiệm vụ bảo vệ môi trường trong quá

trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá

3.2.1. Quan điểm

- Bảo vệ môi trường đang là vấn đề sống còn của nhân loại; là nhân tố bảo

đảm sức khoẻ và chất lượng cuộc sống của nhân dân; góp phần quan trọng vào

việc phát triển kinh tế - xã hội, ổn định chính trị, an ninh quốc gia và thúc đẩy

hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta.

- Bảo vệ môi trường vừa là mục tiêu, vừa là một trong những nội dung cơ

bản của phát triển bền vững, phải được thể hiện trong các chiến lược, quy hoạch,

kế hoạch, dự án phát triển kinh tế - xã hội của từng ngành, từng địa phương.

Khắc phục tư tưởng chỉ chú trọng phát triển kinh tế mà coi nhẹ môi trường. Đẩu

tư cho bảo vệ môi trường là đầu tư cho phát triển bền vững.

91

- Bảo vệ môi trường là quyền lợi và nghĩa vụ của mọi tổ chức, mọi gia

đình và của mỗi người dân, là biểu hiện nếp sống văn hoá, đạo đức, là sự tiếp

nối truyền thống yêu thiên nhiên, sống hài hoà với thiên nhiên của cha ông ta.

- Bảo vệ môi trường phải theo phương châm lấy phòng ngừa và hạn chế

tác động xấu đối với môi trường là chính kết hợp với xử lý ô nhiễm, khắc phục

suy thoái, cải thiện môi trường và bảo tồn thiên nhiên; kết hợp sự đầu tư của nhà

nước với đẩy mạnh huy động nguồn lực trong xã hội và mở rộng hợp tác quốc

tế; kết hợp giữa công nghệ hiện đại với phương pháp truyền thống.

- Bảo vệ môi trường là nhiệm vụ vừa phức tạp, vừa cấp bách, có tính đa

ngành và liên tục rất cao, vì vậy cần có sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ của các cấp

uỷ Đảng, sự quản lý thống nhất của Nhà nước, sự tham gia tích cực của Mặt trận

tổ quốc và toàn thể nhân dân.

3.2.2. Mục tiêu và nhiệm vụ

Mục tiêu của Việt Nam về bảo vệ môi trường trong thời gian tới là ngăn

ngừa, hạn chế mức độ gia tăng ô nhiễm, suy thoái và sự cố môi trường do hoạt

động của con người và tác động của tự nhiên gây ra; Sử dụng bền vững tài

nguyên thiên nhiên, bảo vệ đa dạng sinh học; Khắc phục ô nhiễm môi trường,

trước hết ở những nơi đã bị ô nhiễm nghiêm trọng, phục hồi các hệ sinh thái đã

bị suy thoái, từng bước nâng cao chất lượng môi trường; Xây dựng nước ta trở

thành nước có môi trường tốt, có sự hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế với thực

hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường; mọi người đều có ý thức

bảo vệ môi trường, sống thân thiện với thiên nhiên.

Nhiệm vụ trọng điểm bảo vệ môi trường của Việt Nam trong những năm

đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là:

Thứ nhất, kiên quyết phòng ngừa và hạn chế các tác động xấu đối với môi

trường do đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội.

- Đối với tất cả các phương án phát triển kinh tế - xã hội ở mọi cấp:

+ Phải bảo đảm yêu cầu về môi trường ngay từ khâu xây dựng và phê

duyệt các quy hoạch, dự án đầu tư.

92

+ Khuyến khích việc sử dụng tiết kiệm tài nguyên, năng lượng; áp dụng

ngày càng rộng rãi các kỹ thuật công nghệ sản xuất và sử dụng năng lượng sạch,

năng lượng tái tạo, các sản phẩm và bao bì sản phẩm không gây hại hoặc ít gây

hại đến môi trường. Khuyến khích các cơ sở dùng nguyên liệu tái chế và việc

tiêu dùng các sản phẩm tái chế.

+ Nâng cao trách nhiệm của các cơ sở sản xuất, cơ sở nhập khẩu đối với

người tiêu dùng những sản phẩm do cơ sở đó đã sản xuất, nhập khẩu, bằng việc

quy định phải ghi rõ trên bao bì hướng dẫn cụ thể cách sử dụng và cách thải loại,

nếu dễ gây ra sự cố trong tiêu dùng thì cơ sở đó phải tổ chức việc thu hồi và xử

lý sản phẩm đã qua sử dụng do mình sản xuất, nhập khẩu để dùng vào tái chế

hoặc xử lý loại thải đúng quy trình kỹ thuật bảo vệ môi trường, nhất là những

sản phẩm dễ gây ra ô nhiễm khi tiêu huỷ loại thải.

- Đối với các đô thị và vùng ven đô:

+ Kiểm soát chặt chẽ việc gia tăng dân số cơ học ở các đô thị, ngay cả với

các đô thị loại nhỏ.

+ Quản lý tốt các nguồn ô nhiễm đô thị, công nghiệp. Phải xây dựng các

công trình xử lý nước thải, chất thải rắn tập trung cho các nguồn thải lớn. - Đặc

biệt chú trọng bảo vệ môi trường không khí của các khu dân cư đô thị, hạn chế

mức ô nhiễm bụi, khí thải, tiếng ồn.

+ Chấm dứt nạn đổ rác và xả nước thải chưa qua xử lý đạt tiêu chuẩn môi

trường vào các sông, kênh, rạch, ao, hồ; xử lý ô nhiễm và bảo vệ môi trường các

lưu vực sông, trước hết là đối với các sông ở các thành phố lớn như sông Nhuệ,

sông Đáy, sông Sài Gòn, sông Đồng Nai, sông Cầu, sông Hương, sông Hàn.

+ Khắc phục tình trạng mất vệ sinh nơi công cộng bằng cách bảo đảm các

điều kiện về nơi vệ sinh, phương tiện đựng rác ở những nơi đông người qua lại

và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm.

+ Tăng lượng cây xanh dọc cát tuyến phố và các công viên, hình thành

các thảm cây xanh trong đô thị và vành đai xanh xung quanh đô thị.

93

+ Trong công tác quy hoạch, xây dựng các khu đô thị mới hoặc chỉnh

trang đô thị với quy mô lớn, cần chú ý bố trí diện tích đất hợp lý cho các nhu cầu

về cảnh quan môi trường và xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ cho

công tác bảo vệ môi trường.

- Đối với khu vực nông thôn.

+ Kiểm soát chặt chẽ sử dụng phân hoá học, thuốc bảo vệ thực vật, hoá

chất bảo quản nông sản, thức ăn và thuốc phòng trừ dịch bệnh trong nuôi trồng

thuỷ sản.

+ Phát triển các hình thức cung cấp nước sạch nhằm giải quyết cơ bản

nước sinh hoạt cho nhân dân ở tất cả các vùng nông thôn trong cả nước. Đa dạng

hoá các dịch vụ cung cấp nước sạch và vệ sinh môi trường cho cư dân nông

thôn.

+ Khắc phục cơ bản nạn ô nhiễm môi trường ở các làng nghề, các cơ sở

công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp.

.+ Trong cải tạo và tổ chức lại hạ tầng ở nông thôn, quy hoạch xây dựng

các cụm, điểm dân cư nông thôn phải hết sức coi trọng ngay từ đầu yêu cầu bảo

vệ môi trường sinh thái nông thôn.

- Đối với môi trường sinh thái tự nhiên:

+ Tập trung bảo vệ môi trường các khu trọng điểm; hạn chế và khắc phục

có kết quả hiện tượng xói lở ven biển và dọc các sông phù hợp với quy luật của

tự nhiên; bảo vệ môi trường biển.

+ Bảo vệ nghiêm ngặt rừng tự nhiên, đặc biệt là đối với các khu rừng

nguyên sinh, rừng đầu nguồn, rừng ngập mặn.

+ Quy hoạch phát triển nuôi trồng thuỷ sản quy mô phù hợp với khả năng

chịu tải môi trường.

+ Nghiên cứu một cách toàn diện chế độ, đặc điểm thuỷ văn, dòng chảy,

bồi lắng xói lở, hiện tượng đổi dòng của mạng lưới sông trong khu vực. Xây

dựng mô hình để đánh giá định lượng việc quy hoạch và quản lý các lưu vực

sông.

94

+ Phòng tránh thiên tai, hạn chế thấp nhất mức thiệt hại đối với đời sống

và tài sản của người dân, các công trình văn hoá - lịch sử do ngập lũ, lốc nhiệt

đới, sóng thần.

Thứ hai, khắc phục các khu vực môi trường đã bị ô nhiễm, suy thoái.

- Ưu tiên phục hồi môi trường các khu vực đã bị ô nhiễm nghiêm trọng,

các hệ sinh thái đã bị suy thoái nặng. Trong đó rất đáng chú ý là những vùng

khai thác mỏ than, mỏ khoáng sản.

- Giải quyết cơ bản tình trạng ô nhiễm nguồn nước và ô nhiễm môi trường

nghiêm trọng trong các khu dân cư do chất thải trong sản xuất công nghiệp, tiểu

thủ công nghiệp. Nhanh chóng giải quyết cơ bản tình trạng úng ngập do mưa

lớn, do triều cường ở một số khu vực trong thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí

Minh.

- Từng bước khắc phục các khu vực bị nhiễm độc do hậu quả chất độc hoá

học của Mỹ sử dụng trong chiến tranh.

Thứ ba, điều tra nắm chắc các nguồn tài nguyên thiên nhiên và có kế

hoạch bảo vệ, khai thác hợp lý, bảo vệ đa dạng sinh học.

- Chủ động tổ chức điều tra cơ bản để sớm có đánh giá toàn diện và cụ thể

về các nguồn tài nguyên thiên nhiên và về tính đa dạng sinh học ở nước ta.

- Tăng cường công tác bảo vệ và phát triển rừng. Hạn chế đến mức thấp

nhất việc mở đường giao thông và các hoạt động gây tổn hại đến tài nguyên

rừng. Không để xảy ra tình trạng phá rừng do di dân tự do như đã có trước đây ở

Tây Nguyên. Đẩy mạnh trồng rừng, phủ xanh đất trống, đồi trọc và khôi phục

rừng ngập mặn. Phát triển kỹ thuật canh tác trên đất dốc có lợi cho bảo vệ độ

màu mỡ của đất, ngăn chặn tình trạng thoái hoá đất và sa mạc hoá đất đai.

- Bảo vệ các loài động vật hoang dã, các giống loài có nguy cơ bị tuyệt

chủng; ngăn chặn sự xâm hại của các sinh vật ngoại lai, sinh vật biến đổi gien

gây ảnh hưởng xấu đến con người và môi trường. Bảo vệ và chống thất thoát các

nguồn gien bản địa quý hiếm. Nghiêm cấm triệt để việc săn bắt chim, thú trong

danh mục cần bảo vệ; ngăn chặn nạn sử dụng các phương tiện đánh bắt có tính

95

huỷ diệt nguồn lợi thuỷ, hải sản; quy hoạch phát triển các khu bảo tồn biển và

bảo tồn đất ngập nước.

- Việc khai thác và sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên phải bảo

đảm tính hiệu quả, bền vững và phải gắn với bảo vệ môi trường trước mắt và lâu

dài.

Thứ tư, xây dựng được nếp sống thân thiện với môi trường.

- Giáo dục cho mọi tầng lớp nhân dân ở mọi lứa tuổi về nếp sống văn

minh vệ sinh và bảo vệ môi trường, ý thức giữ gìn vệ sinh chung, xoá bỏ các

phong tục tập quán lạc hậu, các thói quen, nếp sống không văn minh, không hợp

vệ sinh, các hủ tục trong mai táng.

- Xây dựng công sở, xí nghiệp, gia đình, làng bản, khu phố sạch, đẹp đáp

ứng các yêu cầu về vệ sinh môi trường. Mỗi nơi đều có phương án cải tạo môi

trường xanh - sạch - đẹp thích hợp.

- Nhanh chóng xây dựng hệ thống nhà vệ sinh công cộng theo mật độ hợp

lý ở các tuyến phố khu trung tâm các thành phố và những nơi vui chơi công

cộng, các nơi di tích thường có đông người thăm viếng.

- Quan tâm bảo vệ, giữ gìn và tôn tạo cảnh quan môi trường. Thực hiện

các biện pháp nghiêm ngặt để bảo vệ môi trường các khu di tích lịch sử, danh

lam thắng cảnh, nghỉ dưỡng và du lịch sinh thái.

Thứ năm, đáp ứng yêu cầu về môi trường trong hội nhập kinh tế quốc tế.

- Xây dựng và hoàn thiện chính sách và tiêu chuẩn môi trường của nước

ta phù hợp với yêu cầu chung của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. ngăn chặn

việc lợi dụng rào cản môi trường trong xuất khẩu hàng hoá làm ảnh hưởng xấu

đến sản xuất, kinh doanh. Hình thành các cơ chế công nhận, chứng nhận phù

hợp với điều kiện trong nước và tiêu chuẩn quốc tế về môi trường.

- Tăng cường năng lực kiểm soát, phát hiện, ngăn chặn và xử lý nghiêm

mọi hành vi chuyển chất thải, công nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường vào

nước ta.

96

3.3. Các giải pháp chủ yếu bảo vệ môi trường sinh thái trong quá

trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá thời gian tới

3.3.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về môi trường sinh thái và bảo vệ

môi trường sinh thái

Luật Bảo vệ môi trường có vai trò to lớn đối với việc điều khiển hành vi

của con người trong quan hệ với môi trường tự nhiên. Vì thế việc hoàn thiện hệ

thống pháp luật về bảo vệ môi trường, đặc biệt là việc quy định từng điều khoản

cụ thể đối với các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường, là vấn đề có

ý nghĩa lớn đối với công tác bảo vệ môi trường ở nước ta. Hệ thống pháp luật về

bảo vệ môi trường sinh thái ở nước ta phải phù hợp với tình hình thực tế Việt

Nam và thông lệ quốc tế, phải mang tính khả thi và hạn chế được sự tác động

tiêu cực tới môi trường, đồng thời phải mang tính giáo dục sâu sắc đối với mọi

người. Khi hệ thống pháp luật được ban hành cần phải có các giải pháp làm cho

luật đi vào cuộc sống, để mọi người hiểu rõ luật hơn. Chỉ có trên cơ sở hiểu biết

pháp luật người dân mới sống và làm việc theo pháp luật. Từ chỗ hiểu rõ như thế

nào là hành vi vi phạm pháp luật và việc vi phạm đó sẽ gây ra những tác hại gì

đối với sản xuất và cuộc sống, họ sẽ có ý thức hơn trong hành động của mình

đối với môi trường sống.

Kinh tế thị trường ở nước ta đang ở thời kỳ đầu phát triển nên nhiều người

cho rằng chưa cần thiết phải quan tâm đến môi trường sinh thái. Với cơ chế cạnh

tranh khốc liệt thương trường như chiến trường, đã ảnh hưởng rất lớn tới mối

quan hệ giữa con người với con người và thậm chí giữa con người với thiên

nhiên. Trong quá trình phát triển kinh tế vì mục đích lợi nhuận, con người khai

thác ồ ạt tài nguyên thiên nhiên, gây ô nhiễm môi trường, bất chấp những quy

định của pháp luật (như hành vi dùng mìn, thuốc nổ đánh bắt thuỷ sản). Các

chính sách, các quy định của Nhà nước chưa thực sự có hiệu quả vì nhiều

nguyên nhân, nhưng một trong số đó là hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện, còn

nhiều kẽ hở để người ta có thể lách luật. Ban hành các quy định mang tính

97

cưỡng chế, tạo ra hành lang pháp lý cho hoạt động của con người, đặc biệt là tác

động của con người đến tự nhiên nhằm ngăn chặn và trừng phạt những kẻ có

hành vi phá hoại nguồn tài nguyên thiên nhiên, môi trường sinh thái đồng thời

cũng nhằm hướng dẫn, phát huy, khuyến khích những hành động của những

người mang lại những lợi ích cho xã hội lẫn tự nhiên.

Cũng giống như nhiều đạo luật ở nước ta hiện nay, Luật Bảo vệ môi

trường còn mang tính chung chung, ít được phổ biến và hiệu lực thực hiện còn

thấp. Hoàn thiện và tăng cường hiệu lực của pháp luật cũng có nghĩa là phải cụ

thể hoá luật, bổ sung và sửa đổi những điểm cần thiết. Phải xác định rõ quyền sở

hữu và quyền sử dụng tài nguyên thiên nhiên. Trong các văn bản pháp luật phải

có những quy định rõ ràng, cụ thể và chặt chẽ hơn về khai thác tài nguyên. Nhà

nước đã ban hành nhiều văn bản quy định về vấn đề này nhưng hiệu lực của các

văn bản này còn thấp vì tính thực thi chưa cao. Cần hoàn thiện các thủ tục hành

chính và các quy định rõ ràng về các tiêu chuẩn môi trường, giám sát môi trường

và xử lý vi phạm về bảo vệ môi trường.

Hoàn thiện và tăng cường hiệu lực của pháp luật bảo vệ môi trường có

nghĩa là hoàn thiện phần khung trong quá trình bảo vệ môi trường của quốc gia.

Chỉ có pháp luật mới có sức cưỡng chế và khuyến khích nhân dân tự nguyện

tham gia bảo vệ môi trường. Tránh tình trạng bọn tội phạm môi trường lợi dụng

kẽ hở của pháp luật để luồn lách. Đây chính là giải pháp cơ bản đầu tiên cần đặt

ra để nâng cao hiệu quả bảo vệ môi trường trong phát triển kinh tế, đẩy mạnh

công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

3.3.2. Hoàn thiện cơ chế chính sách và tổ chức bộ máy quản lý môi

trường sinh thái

Tăng cường năng lực quản lý và các điều kiện đảm bảo cho hoạt động của

hệ thống quản lý môi trường ở trung ương, đặc biệt là phục vụ công tác thanh

tra, kiểm tra, giám sát về môi trường. Hình thành và phát triển hệ thống quản lý

môi trường ở địa phương theo hướng kết hợp quản lý tài nguyên với quản lý môi

trường đủ mạnh ở các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, hình thành bộ

98

phận quản lý môi trường kết hợp với quản lý tài nguyên ở cấp huyện, có cán bộ

chuyên trách về môi trường và tài nguyên ở cấp xã.

Xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý tài nguyên và môi trường, lực lượng

thanh tra, kiểm tra, triển khai thường xuyên, định kỳ, đột xuất các đợt thanh tra,

kiểm tra và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm nhằm bảo đảm Luật Bảo vệ

môi trường được thực hiện nghiêm chỉnh.

Sự thiếu đồng bộ về chính sách và pháp luật cũng như thiếu kinh nghiệm

quản lý trong lĩnh vực môi trường là kẽ hở để các doanh nghiệp tổ chức hoạt

động kinh doanh, sản xuất chỉ tập trung tìm kiếm lợi nhuận mà quên mất lợi ích

của toàn xã hội. Một vấn đề đặt ra là các nhà đầu tư nước ngoài đang tìm cách di

chuyển các thiết bị, công nghệ cũ, lạc hậu vốn không có chỗ đứng ở thị trường

mang tính cạnh tranh cao và việc quản lý môi trường rất nghiêm ngặt tại nước

họ sang Việt Nam. Nếu chỉ vì mục tiêu giải quyết công ăn việc làm, cải thiện đôi

chút nền kinh tế thì hậu quả ô nhiễm môi trường sau này sẽ khó lường hết được.

Do vậy ngay từ bây giờ chúng ta phải nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề

quản lý môi trường sinh thái để đề ra các quyết sách cần thiết:

- Xây dựng và đưa vào thực tiễn các chính sách ưu đãi về đầu tư cho các

hoạt động về bảo vệ môi trường, cải thiện môi trường khắc phục hậu quả suy

thoái môi trường. Đối với các dự án, công trình bảo vệ môi trường cần có những

ưu đãi như miễn thuế, miễn phí, cho vay tín dụng… khuyến khích đầu tư các dự

án ứng dụng công nghệ sạch, ít chất thải, triển khai xây dựng các nhà máy, xí

nghiệp xử lý chất thải.

- Sử dụng công nghệ sạch là một hướng quan trọng cần khuyến khích.

Tăng cường quản lý môi trường sẽ đòi hỏi cải tiến và đổi mới công nghệ. Nếu có

các chính sách mở rộng cấp giấy phép chuyển giao công nghệ chấp nhận việc

mua bán bằng sáng chế, bảo hộ sáng chế sẽ làm tăng tốc độ truyền bá công nghệ

sẽ là môi trường thuận lợi cho việc ứng dụng công nghệ sạch vào sản xuất.

99

- Nhanh chóng xây dựng quy hoạch mạng lưới hệ thống quan trắc về môi

trường. Đây là một thành phần quan trọng của hệ thống quản lý và kế hoạch hoá

về môi trường.

- Cần có chính sách và biện pháp thúc đẩy, áp dụng các công cụ kinh tế

trong bảo vệ môi trường [5].

+ Về thuế, trước hết cần xem xét lại tính phù hợp của hệ thống thuế tài

nguyên đối với việc bảo vệ môi trường để tiếp tục điều chỉnh. Đối với thuế ô

nhiễm, nên có lộ trình nghiên cứu và thử nghiệm, và việc xây dựng, thuế này

cần cân đối với các loại thuế khác để không làm ảnh hưởng đến đầu tư cũng như

hoạt động kinh doanh bình thường của các doanh nghiệp.

+ Về phí: Trên cơ sở những phí hiện nay, chúng ta đã có như phí nước

thải, phí rác thải, cơ quan hoạch định chính sách môi trường cần tiếp tục nghiên

cứu và hoàn thiện các loại phí này phù hợp với thực tiễn khách quan, đảm bảo

mục tiêu giảm thiểu ô nhiễm và có nguồn thu cho quỹ môi trường. Tiếp tục xây

dựng nghị định thu phí rác thải, khí thải, phí ô nhiễm do khai thác khoáng sản.

+ Nhãn môi trường, đây là công cụ kinh tế rất có ý nghĩa cho người tiêu

dùng vì hình ảnh của doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp tham gia sản

xuất hàng xuất khẩu. Tuy nhiên đây là một công cụ mang tính tự nguyện, nên

đòi hỏi phải có sự chuẩn bị, tuyên truyền sâu rộng và nâng cao nhận thức của

doanh nghiệp.

+ Hệ thống đặt cọc hoàn trả: Đặt cọc hoàn trả xuất hiện có tính tự phát

giữa các đối tác trong cơ chế thị trường liên quan đến thu gom chất thải phục vụ

cho tái chế, tái sử dụng và mang lại hiệu quả kinh tế cao dựa trên nguyên tắc

“Đôi bên cùng có lợi”. Hiện nay chúng ta chưa có chính sách hay quy định một

cách rõ ràng cho công cụ này phát huy tác dụng, chính vì vậy những năm tới cần

có những nghiên cứu và quy định cụ thể để tạo điều kiện cho công cụ này phát

huy tốt hơn. Cần sớm có quy định về đặt cọc hoàn trả đối với các loại ắc quy và

pin khi đã hết hạn sử dụng.

100

+ Ký quỹ môi trường: Trên cơ sở thông tư liên tịch số 126/1999/TTLT-

BTC- BCN- BKHCNMT, cần phải đánh giá, xem xét lại tính hiệu quả của nó và

lý do vì sao các doanh nghiệp không thực hiện, từ đó có những điều chỉnh để

Thông tư này thực sự phát huy tác dụng. Tiếp tục nghiên cứu và ban hành cho

một số lĩnh vực khác như khai thác rừng, xây dựng trong đô thị...

+ Quỹ môi trường: Đối với Quỹ môi trường quốc gia, vấn đề quan trọng

là tiếp tục hoàn thiện về tổ chức và cơ chế hoạt động để tạo mọi điều kiện cho

quỹ này phát huy vai trò của nó như mục tiêu hình thành quỹ đã đề ra. Trên cơ

sở tổ chức nhân sự ổn định, đáp ứng đủ nhu cầu công việc; cần tập trung vào hai

vấn đề quan trọng nhất trong hoạch định chính sách tiếp theo là: nguồn thu cho

quỹ và cơ chế giải ngân hiệu quả, tránh tình trạng tồn đọng vốn quá nhiều, khả

năng giải ngân rất hạn chế.

+ Giấy phép thải có thể chuyển nhượng: Mặc dù là công cụ được hình

thành trong bối cảnh cạnh tranh khá hoàn hảo, nhưng với việc tác động của nghị

định thư Kyoto. xét về bản chất, chúng ta được quyền bán phát thải cho các quốc

gia khác trên cơ sở đầu tư tài chính của họ vào Việt Nam, đặc biệt là việc thực

hiện cơ chế phát triển sạch (CDM). Chính vì vậy, cần hoàn thiện các chính sách

liên quan và nghiên cứu kỹ lưỡng nguyên tắc và nội dung Nghị định thư Kyoto

để CDM phát triển tốt ở Việt Nam. Sau năm 2020, có thể cần thực hiện cấp

quota phát thải trong nước là bước phát triển cao hơn sau phí thải, công cụ này

có thể được sử dụng cho khai thác hải sản tự nhiên, nước thải và đặc biệt là khí

thải, tạo ra một sân chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp trên thị trường cạnh

tranh về công nghệ phát thải.

3.3.3. Hoàn thiện hệ thống chính sách thúc đẩy quá trình công nghiệp

hoá, hiện đại hoá gắn với bảo vệ môi trường sinh thái.

Thực hiện các quan điểm chỉ đạo của đại hội Đảng IX, trong quá trình

thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá cần có sự quy hoạch chặt chẽ, phù hợp

với tình hình thực tiễn. Việc xây dựng các cơ sở sản xuất công nghiệp phải đảm

bảo sản xuất có hiệu quả đồng thời phải kết hợp với chống ô nhiễm môi trường,

101

hạn chế các chất thải, khói bụi, chất thải rắn từ các nhà máy, xí nghiệp, các cơ sớ

sản xuất công nghiệp, thủ công nghiệp, từ các làng nghề, và hạn chế các chất

thải độc hại do các phương tiện giao thông vận tải gây ra…

Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, khi tiến hành xây dựng

một nhà máy mới, một khu công nghiệp, một liên doanh khai thác du lịch hay

lập một khu đô thị mới, một khu chế xuất mới… thì ngoài các chỉ tiêu về kinh

tế, cần phải tính đến một cách đầy đủ, toàn diện các khía cạnh về bảo vệ môi

trường, đặc biệt là những tác động có hại đến sự sống, coi đó như những điều bắt

buộc, để có những biện pháp chủ động đề phòng, xử lý kịp thời, hợp lý. Chẳng hạn

như xây dựng riêng một khu công nghiệp ở xa trung tâm thành phố và xa nơi tập

trung dân cư. Đặc biệt, trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp,

nông thôn những năm tới cần phải quán triệt quan điểm của Đảng là kết hợp phát

triển ngành và vùng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, gắn chiến

lược phát triển, quy hoạch phát triển vùng để qua đó đánh giá tác động môi trường

nhằm hạn chế các hậu quả tiêu cực đối với môi trường.

Để khắc phục hậu quả ô nhiễm môi trường do các phương tiện giao thông

cơ giới gây ra, trong thời gian tới cần phải tiến hành đánh giá các tác động môi

trường một cách cẩn thận ngay từ bước xem xét phương án tiền khả thi, nhất là

đối với các dự án lớn về sản xuất và nhập khẩu các phương tiện giao thông, hạn

chế và đi đến cấm nhập khẩu các loại phương tiện giao thông đã qua sử dụng.

Cần duy trì và thực hiện tốt hơn nữa việc sử dụng nhiên liệu sạch như thay thế

xăng pha chì bằng xăng không pha chì… Kịp thời mở rộng mạng lưới giao

thông cho các đô thị lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí

Minh, đồng thời tổ chức tốt hơn hệ thống giao thông công cộng ở các thành phố

này.

Đối với vấn đề hạn chế các tác hại đối với môi trường do phát triển năng

lượng gây ra, cần có các chính sách nhằm khuyến khích phát triển năng lượng

sạch như năng lượng gió, thuỷ điện, điện địa nhiệt, sử dụng công nghệ tiêu thụ ít

102

năng lượng hoặc không gây ô nhiễm môi trường; triển khai mạnh mẽ chương

trình tiết kiệm năng lượng.

Trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá. hiện đại hoá phải hết sức

tranh thủ công nghệ tiên tiến hiện đại, ứng dụng công nghệ sạch vào quá trình

sản xuất để hạn chế tối đa các chất thải gây ô nhiễm môi trường.

Công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta trong thời gian qua đã

đạt được nhiều thành tựu quan trọng cả về kinh tế và xã hội. Nhưng đi đôi với sự

tăng trưởng ấy cũng có nghĩa là một khối lượng lớn tài nguyên nước ta được

khai thác từ tự nhiên để chế biến và bên cạnh nó là một khối lượng chất thải

càng ngày càng lớn đã thải ra môi trường từ sản xuất và tiêu dùng, gây ra ô

nhiễm nghiêm trọng, tạo nên sức ép đối với môi trường sinh thái, đòi hỏi phải có

sự can thiệp không chỉ ở bàn tay mà còn ở khối óc, trí tuệ của con người.

Chính vì lẽ đó để có thể nhanh chóng khắc phục và hạn chế tới mức tối

thiểu tác hại của chất thải gây ra đối với môi trường- trong khi sự nghiệp công

nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước về cơ bản là chưa phát triển, đất nước chưa

thể tự tạo ra được nhiều máy móc với công nghệ hiện đại để đáp ứng các yêu

cầu cấp bách mà môi trường đang đặt ra cho đất nước - ngay từ bây giờ chúng ta

phải sử dụng nó có chọn lọc các công nghệ hiện đại - công nghệ có hàm lượng

chất xám cao và công nghệ sạch của các nước phát triển. Bởi vì nước đi sau như

nước ta không thể dùng chiến lược đuổi kịp về công nghệ, vì khi ta đã đuổi kịp

và vượt lên thì công nghệ đó đã lỗi thời và bị loại trừ. Hơn nữa trên thế giới hiện

nay xu thế phát triển của loài người đang đi dần vào phát triển kinh tế tri thức

mà thực tế đã bắt đầu xuất hiện ở một số nước phát triển như Mỹ, Nhật bản,

Anh… Chính vì vậy chúng ta không thể thực hiện phát triển đất nước một cách

tuần tự hết giai đoạn này đến giai đoạn khác, lặp lại con đường của các nước đi

trước. Đảng ta đã xác định chiến lược đó phải là đi tắt đón đầu tận dụng được

các thành quả tiên tiến của các nước phát triển để ứng dụng vào phát triển thành

công sự nghiệp công nghiệp hoá của đất nước mình. Do vậy bên cạnh các biện

pháp kể trên, để giải quyết các nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường do chất

103

thải từ quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá thải ra, chúng ta không

thể không dùng đến biện pháp sử dụng khoa học - công nghệ tiên tiến và hiện

đại. Vì nó chính là phương pháp hữu hiệu nhất để kết hợp các mục tiêu kinh tế

và sinh thái.

Nhờ việc vận dụng các công nghệ hiện đại đó, chúng ta có thể thực hiện

đưa vào ứng dụng trong sản xuất ở các nhà máy, doanh nghiệp… các dây

chuyền thiết bị, máy móc hiện đại giúp tiết kiệm thời gian, tiết kiệm sức người,

sức của cũng như tiêu hao ít nhiên liệu, hạn chế sử dụng tài nguyên thiên nhiên,

xử lý chất thải tốt, tái sử dụng chất thải…giúp hạn chế tối đa nguyên nhân gây ô

nhiễm môi trường.

Tuy nhiên, để có thể thực hiện tốt biện pháp này chúng ta cần phải chú

trọng đầu tư phát triển nguồn nhân lực, giáo dục - đào tạo để nâng cao trình độ

tri thức cho người lao động cũng như cho cả cán bộ quản lý để trong quá trình

nhập công nghệ mới từ nước ngoài chúng ta phải biết và đủ sức lựa chọn, nghiên

cứu, làm chủ, thích nghi với các công nghệ nhập, ứng dụng có hiệu quả vào sản

xuất, tiếp theo là cải biến công nghệ nhập trở thành của mình, tận dụng tối đa

những thành tựu khoa học và công nghệ thế giới. Đồng thời nhờ đó ta sẽ có đủ

trình độ và khả năng thẩm định để nhập các công nghệ tiên tiến hơn công nghệ

đã có trong nước, kiên quyết không nhập công nghệ gây ô nhiễm môi trường với

bất kỳ điều kiện nào…

3.3.4. Tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền và giáo dục, đào

tạo về bảo vệ môi trường sinh thái

Thực trạng thiếu hiểu biết về môi trường, về vai trò và ý nghĩa của môi

trường đối với đời sống con người và các biện pháp phòng chống ô nhiễm môi

trường là một nguyên nhân quan trọng tác động xấu đến môi trường cũng là một

trở ngại lớn trong việc tìm kiếm các giải pháp bảo vệ môi trường. Mọi công dân

cần phải có nhận thức và hành động bảo vệ môi trường, coi việc phòng ngừa sự ô

nhiễm tốt hơn là để bị ô nhiễm rồi mới chống. Truyền thông môi trường là một quá

trình tương tác hai chiều, giúp cho mọi đối tượng tham gia vào quá trình cùng tạo

104

ra và cùng chia sẻ với nhau các thông tin môi trường với mục đích đạt được sự hiểu

biết chung về các chủ đề môi trường có liên quan và từ đó cùng chia sẻ trách nhiệm

bảo vệ môi trường. Hiểu biết chung sẽ tạo ra được nền móng của sự nhất trí chung

và từ đó có thể đưa ra những hành động tập thể bảo vệ môi trường. Hiểu biết về

môi trường có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp làm thay đổi thái độ, hành vi của

con người trong cộng đồng. Từ đó thúc đẩy họ tự nguyện tham gia vào các hoạt

động bảo vệ môi trường, từ đơn giản nhất đến phức tạp nhất. Không chỉ tự mình

tham gia mà còn lôi cuốn những người khác cùng tham gia, tạo nên kết quả chung

của toàn xã hội. Chính vì vậy, tuyên truyền về bảo vệ môi trường là một trong

những biện pháp hữu hiệu nhất.

Tuyên truyền, giáo dục về bảo vệ môi trường là việc phổ biến kiến thức

về môi trường, nhằm nâng cao nhận thức, hình thành ý thức, hành vi tích cực

bảo vệ môi trường. Có nhiều hình thức, nội dung trong tuyên truyền và giáo dục

về bảo vệ môi trường như tuyên truyền dưới dạng tờ rơi hay mở các lớp huấn

luyện, tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về môi trường và bảo vệ môi trường… Để

đạt hiệu quả cao, trong thời gian tới cần đưa nội dung bảo vệ môi trường vào

chương trình giáo dục của tất cả các bậc học trong hệ thống giáo dục quốc dân.

Cần bố trí chương trình dạy và học sao cho liên tục trong suốt quá trình học phổ

thông của học sinh để có ý thức thường xuyên và dần trở thành tiềm thức bảo vệ

môi trường… Tạo điều kiện và khuyến khích để người dân thường xuyên nhận

được các thông tin về môi trường như một biện pháp cơ bản bảo vệ môi trường.

Động viên và hướng dẫn nhân dân thực hiện nếp sống sạch, hợp vệ sinh, giữ gìn

vệ sinh công cộng. Và cần tiếp tục đẩy mạnh các phong trào quần chúng bảo vệ

môi trường như phong trào xanh - sạch - đẹp, vườn - ao - chuồng, vườn - ao-

chuồng - rừng, tuần lễ nước sạch và vệ sinh môi trường… Ngoài ra cũng nên có

những hoạt động tuyên truyền về tác hại của ô nhiễm môi trường ở các cấp, các

nơi, và bằng nhiều hình thức khác nhau cho các tầng lớp xã hội khác nhau. Như

vậy giáo dục và tuyên truyền cho bảo vệ môi trường là phương pháp chi phí thấp

nhất nhưng hiệu quả lại cao nhất. Nếu làm tốt thì có thể biến ý thức bảo vệ môi

trường thành một chuẩn mực đạo đức và trách nhiệm xã hội cho công dân.

105

Cán bộ, chuyên gia về lĩnh vực môi trường là hạt nhân trong hệ thống

chuyên trách tác nghiệp về môi trường. Do vậy, muốn bảo vệ môi trường hiệu

quả cần tổ chức hệ thống đào tạo cán bộ, chuyên gia thuộc lĩnh vực môi trường

với đủ các cấp độ, các loại ngành nghề đồng bộ, đáp ứng được công tác bảo vệ

môi trường. Nên thành lập những khoa, chuyên ngành về bảo vệ môi trường,

hoá nghiệm môi trường trong các trường đại học chuyên ngành. Ngoài ra cũng

cần chú trọng và phát triển ngành công nghệ môi trường phù hợp với điều kiện

nước ta.

Như vậy, tuyên truyền, giáo dục là một trong những biện pháp nhằm nâng

cao hiệu quả bảo vệ môi trường trong thời kỳ hiện nay. Bởi bảo vệ môi trường là

một vấn đề xã hội mà cần có ý thức tự giác thực hiện hơn là các biện pháp

cưỡng chế. Không có một văn bản pháp luật nào có thể bắt nhân dân không

dùng thuốc trừ sâu bừa bãi trong nông nghiệp, dùng mìn hoặc thuốc nổ trong

khai thác thuỷ sản nếu người dân không hiểu được những tác hại của những

hành động trên và sự nghiêm cấm của pháp luật đối với những hành động đó.

Một trong những giải pháp quan trọng trong giáo dục về bảo vệ môi trường

là giáo dục cho mọi người thấy được các vấn đề văn hoá trong bảo vệ môi trường.

Văn hoá môi trường là sự tổng hợp những tri thức, giá trị, chuẩn mực, biểu trưng về

khai thác tài nguyên và ứng xử với môi trường của con người được đúc kết từ kinh

nghiệm thực tiễn trong quá trình tương tác với tự nhiên.

3.3.5. Mở rộng hợp tác quốc tế trong bảo vệ môi trường.

Môi trường quốc gia liên quan đến môi trường khu vực và toàn cầu, vì

vậy sự nghiệp bảo vệ môi trường của nước ta gắn với sự nghiệp bảo vệ môi

trường trong khu vực và trên toàn thế giới. Mở rộng hợp tác quốc tế bảo vệ môi

trường, đáp ứng yêu cầu về môi trường trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.

Thực hiện đầy đủ các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia, các hoạt động

hợp tác quốc tế song phương và đa phương về môi trường, chú trọng nâng cao

năng lực đội ngũ cán bộ để đảm bảo hiệu quả các hoạt động trên. Tăng cường

hợp tác với các quốc gia có chung đường biên giới, nhất là có chung các con

106

sông để bảo vệ môi trường khu vực biên giới và kiểm soát ô nhiễm xuyên biên

giới.

Mở rộng hợp tác quốc tế về môi trường trên tinh thần tôn trọng và thực

hiện nghiêm túc các công ước quốc tế mà nước ta đã ký kết tham gia. Tận dụng

triệt để sự hỗ trợ từ bên ngoài cho các hoạt động bảo vệ môi trường. Ưu tiên mở

rộng quan hệ quốc tế về bảo vệ môi trường trong phạm vi khu vực dưới hình

thức thiết lập các chương trình, dự án đa phương và song phương. Đặc biệt, chú

ý mở rộng mối quan hệ hợp tác đôi bên cùng có lợi trong lĩnh vực bảo vệ môi

trường với các nước láng giềng.

Đẩy mạnh hợp tác với các tổ chức quốc tế như: Chương trình phát triển

của Liên Hợp Quốc (UNDP); Chương trình Môi trường Liên hợp quốc (UNEP);

Ngân hàng thế giới (WB); Quỹ môi trường toàn cầu (GEF); Các tổ chức chính

phủ, Các tổ chức phi chính phủ... nhằm tranh thủ sự hỗ trợ của họ, sử dụng hiệu

quả cho công tác bảo vệ môi trường.

Hàng năm tổ chức diễn đàn các nhà tài trợ, tiến hành các hoạt động trao

đổi thông tin, nhằm phối hợp các nguồn viện trợ cho các chương trình, dự án

hợp tác về môi trường và tăng cường hiệu quả của việc sử dụng các nguồn vốn

tài trợ từ nước ngoài cho lĩnh vực bảo vệ môi trường.

107

KẾT LUẬN

Toàn bộ những nghiên cứu trong luận văn cho phép đi tới những kết luận

sau đây:

- Môi trường sinh thái có vai trò đặc biệt quan trọng đối với phát triển bền

vững của các quốc gia và đối với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở các

nước đang phát triển. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá có mối quan hệ, tác động

qua lại biện chứng, mang tính hai mặt với môi trường sinh thái. Bảo vệ môi

trường sinh thái là vấn đề hết sức bức thiết, mang tính toàn cầu đặc biệt là đối

với các nước đang tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

- Trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, do

nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, môi trường sinh thái của Việt Nam

đã và đang bị suy thoái, ô nhiễm nặng nề, tài nguyên thiên nhiên đang dần bị suy

kiệt.

- Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Việt Nam đã tiến hành

nhiều hoạt động nhằm bảo vệ môi trường và đã đạt được những thành tựu đáng

kể, song còn nhiều hạn chế, bất cập và khó khăn.

- Bối cảnh mới trong nước và quốc tế, đặc biệt là toàn cầu hoá kinh tế, hội

nhập kinh tế quốc tế đang đặt ra nhiều cơ hội và thách thức mới đối với bảo vệ

môi trường sinh thái ở Việt Nam.

- Để bảo vệ môi trường đạt mục tiêu mong đợi trong quá trình công

nghiệp hoá, hiện đại hoá thời gian tới, Việt Nam cần thực hiện hiệu quả tổng thể

các giải pháp về bảo vệ môi trường. Đó là các giải pháp: Hoàn thiện hệ thống

pháp luật về môi trường sinh thái và bảo vệ môi trường sinh thái; Hoàn thiện cơ

chế chính sách và tổ chức bộ máy quản lý môi trường sinh thái; Hoàn thiện hệ

thống chính sách thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với bảo

vệ môi trường sinh thái; Tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền và giáo

dục, đào tạo về bảo vệ môi trường sinh thái; Mở rộng hợp tác quốc tế trong bảo

vệ môi trường…

108

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban Khoa giáo Trung ương - Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường

(2001), Tiến tới kiện toàn hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ

môi trường ở Việt Nam, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

2. Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường (2001), Báo cáo hiện trạng môi

trường Việt Nam năm 2001.

3. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (11/2005), Chính sách công nghiệp định hướng

phát triển bền vững ở Việt Nam.

4. TS. Đỗ Minh Cao (2007), “Chiến lược bảo vệ môi trường ở Trung Quốc”,

Nghiên cứu Trung Quốc, (6-76).

5. Nguyễn Thế Chinh (12/2006), “Sử dụng các công cụ kinh tế trong quản lý

tài nguyên và bảo vệ môi trường ở Việt Nam”, Nghiên cứu phát triển bền

vững, (4-13).

6. Vũ Hy Chương (2007), Vấn đề môi trường trong quá trình công nghiệp

hoá, hiện đại hoá, NXB. Khoa học Xã hội, Hà Nội.

7. Trần Văn Chử (2004), Tài nguyên thiên nhiên môi trường với tăng trưởng

và phát triển bền vững ở Việt Nam, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

8. Cục bảo vệ Môi trường (2000), Chiến lược bảo vệ môi trường 2001- 2010.

9. Cục bảo vệ Môi trường (2005), Báo cáo diễn biến môi trường Việt Nam

2004: Chất thải rắn.

10. Cục Môi trường (2000) - Dự án “Tăng cường năng lực cho cơ quan quản

lý môi trường Việt Nam”, Báo cáo tóm tắt Hội nghị thương mại quốc tế và

môi trường.

11. Nguyễn Hữu Dực, Nguyễn Văn Hảo (2001), Khảo quả bước đầu khảo sát

khu hệ cá sông Đà thuộc địa phận các tỉnh Lai Châu, Sơn La. Báo cáo Hội

thảo quốc tế về sinh học Hà Nội, Tập 1.

12. Nghiêm Xuân Đạt, Nguyễn Minh Phong (2002), Hà Nội trong quá trình

hội nhập kinh tế quốc tế, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

109

13. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ IX, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

14. Trần Hồng Hà (2004), Nghiên cứu các quy định pháp luật về môi trường

trong tiến trình hội nhập với các tổ chức quốc tế, NXB. Lao Động, Hà

Nội.

15. Lưu Đức Hải, TS. Nguyễn Ngọc Sinh (2000), Quản lý môi trường cho sự

phát triển bền vững, NXB. Đại học Quốc gia Hà Nội.

16. Nguyễn Đắc Hy, Nguyễn Văn Công, Nguyễn Văn Tài (1999), Công cụ

kinh tế trong quản lý môi trường, Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường.

17. Đoàn Văn Khát (2007), “Giải quyết tốt vấn đề môi trường trong bối cảnh

hội nhập kinh tế quốc tế”, Tạp chí Lý luận chính trị, (10).

18. Nguyễn Đức Khiển (2001), Môi trường và phát triển, NXB. Khoa học và

Kỹ thuật, Hà Nội.

19. Trần Thanh Lâm (2006), Quản lý môi trường bằng công cụ kinh tế, NXB.

Lao Động, Hà Nội.

20. Luật bảo vệ môi trường và nghị định hướng dẫn thi hành (2005), NXB

chính trị quốc gia, Hà Nội.

21. Một số vấn đề xã hội nhân văn trong việc sử dụng hợp lý tài nguyên và bảo

vệ môi trường ở Việt Nam (2001), NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

22. Trần Ngọc Ngoạn (Chủ biên - 2008), Phát triển nông thôn bền vững:

những vấn đề lý luận và kinh nghiệm Thế giới, NXB. Khoa học xã hội, Hà

Nội.

23. Phạm Hữu Nghị (2007), “Tổ chức Thương mại Thế giới với vấn đề thương

mại- môi trường và những thách thức, cơ hội đối với Việt Nam về thương

mại - Môi trường”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật (2).

24. “Phát triển kinh tế trong xu thế tự do hoá và vấn đề ô nhiễm môi trường ở

Bắc Ninh” (2006), Tạp chí Những vấn đề Kinh tế thế giới, (8), tr.124.

2006.

110

25. Nguyễn Danh Sơn (3/2007), “Tiêu dùng bền vững ở Việt Nam - một cái

nhìn từ giác độ quản lý tổng hợp chất thải bền vững”, Tạp chí Nghiên cứu

Phát triển bền vững, (1-14).

26. Võ Quý, “Phát triển bền vững một chiến lược toàn cầu”, Tài liệu giảng

dạy của Đại học Quốc gia Hà Nội.

27. Từ Thanh Thuỷ (2004), “Một số quan điểm hoàn thiện chính sách thương

mại quốc tế trong quá trình hội nhập kinh tế”, Tạp chí những vấn đề kinh tế

thế giới, (4).

28. Nguyễn Đức Tiến (2002), Thương mại và môi trường, NXB. Thế giới.

29. Trương Đình Tuyển (2005), “Toàn cầu hoá kinh tế - cách tiếp cận, cơ hội

và thách thức”, Báo nhân dân điện tử.

30. Lương Văn Tự (2004), “Đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế:

Vấn đề và giải pháp”, Tạp chí thương mại (3).

31. Viện Chiến lược và Chính sách công nghiệp - Bộ Công nghiệp (7/2004),

Tăng trưởng và bảo vệ môi trường ở Trung Quốc.

32. Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2004), “Thực trạng pháp luật môi

trường và giải pháp”, Tạp chí Thương mại, (3).

33. Viện nghiên cứu và quản lý Trung ương (2004), Kinh tế Việt Nam 2003,

NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

34. VIE/01/021 (2006), “Phát triển bền vững ở Việt Nam”, Hà Nội.

35. Đặng Hùng Võ (2007), “Tác động của môi trường đất và nước tới nông

nghiệp, nông thôn và nông dân Việt Nam trong quá trình công nghiệp hoá

và hội nhập”, Tạp chí Phát triển và hội nhập, (4 & 5).

111