MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
7
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về việc giải quyết bất bình
đẳng thu nhập giữa nông thôn và thành thị
1.1. Các khái niệm và thước đo bất bình đẳng 7
1.1.1. Khái niệm về thu nhập và các hình thức của thu nhập 7
1.1.2. Khái niệm về công bằng và bất bình đẳng xã hội trong phân 9
phối thu nhập
1.1.2.1. Khái niệm về công bằng và bất bình đẳng thu nhập nói chung 9
1.1.2.2. Khái niệm và thước đo bất bình đẳng thu nhập giữa nông 12
thôn và thành thị
1.2. Tầm quan trọng của việc giải quyết bất bình đẳng thu nhập giữa 14
nông thôn và thành thị
1.3. Các yếu tố tác động đến bất bình đẳng thu nhập giữa nông thôn 17
và thành thị
1.3.1. Các lý do gây ra sự bất bình đẳng thu nhập nói chung trong 17
nền kinh tế thị trường
1.3.2. Nguyên nhân và các yếu tố chi phối bất bình đẳng thu nhập 20
4
giữa nông thôn và thành thị
1.4. Vai trò của Nhà nước trong việc giải quyết vấn đề bất bình đẳng 21
thu nhập giữa nông thôn và thành thị
1.5. Kinh nghiệm giải quyết vấn đề bất bình đẳng thu nhập giữa nông 23
thôn và thành thị ở trên thế giới
1.5.1. Kinh nghiệm của Hàn Quốc 23
1.5.2. Kinh nghiệm của Nhật Bản 32
Chương 2: Thực trạng về bất bình đẳng thu nhập giữa nông thôn 34
và thành thị của Việt Nam trong thời gian qua
2.1. Thực trạng về khoảng cách thu nhập giữa nông thôn và thành thị 34
trong quá trình đổi mới qua các chỉ số
2.1.1. Động thái thu nhập của người dân ở nông thôn và thành thị 34
2.1.2. Khoảng cách thu nhập giữa nông thôn và thành thị qua các số 37
liệu thống kê hiện hành
2.1.3. Khoảng cách thực tế về thu nhập giữa nông thôn và thành thị 46
2.2. Đánh giá chung bất bình đẳng thu nhập giữa nông thôn và thành 54
thị ở Việt Nam hiện nay
2.2.1. Mức độ bất bình đẳng và xu hướng của nó 54
2.2.2. Các hệ quả của bất bình đẳng thu nhập giữa nông thôn và 56
thành thị
2.2.3. Nguyên nhân của bất bình đẳng thu nhập giữa nông thôn và 61
5
thành thị
Chương 3: Các giải pháp cơ bản để thực hiện giải quyết bất bình 67
đẳng thu nhập giữa nông thôn và thành thị
3.1. Bối cảnh kinh tế chung và tác động của nó đến vấn đề bất bình 67
đẳng thu nhập giữa nông thôn và thành thị
3.1.1. Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế 67
3.1.2. Quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước 70
3.2. Các quan điểm xử lý vấn đề bất bình đẳng thu nhập giữa nông 74
thôn và thành thị
3.2.1. Từng bước bảo đảm sự bình đẳng về cơ hội phát triển giữa 74
nông thôn và thành thị
3.2.2. Tăng trưởng và phát triển bền vững làm cơ sở để giải quyết 75
vấn đề bất bình đẳng
3.2.3. Quan điểm hỗ trợ các nhóm xã hội yếu thế, đặc biệt ở nông 77
thôn cũng như dân nghèo thành thị
3.3. Các giải pháp cơ bản để giải quyết vấn đề bất bình đẳng về thu 79
nhập giữa nông thôn và thành thị ở nước ta hiện nay
KẾT LUẬN 92
6
TÀI LIỆU THAM KHẢO 93
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng Nội dung Trang
Bảng 2.1 Thu nhập, chi tiêu, tích lũy bình quân đầu người 35
một tháng theo giá thực tế của cả nước và phân theo
thành thị, nông thôn
Bảng 2.2 Thu nhập bình quân đầu người 1 tháng theo giá thực 39
tế phân theo 5 nhóm thu nhập
Bảng 2.3 Cơ cấu và tỷ lệ chi tiêu bình quân đầu người 1 tháng 43
theo giá thực tế
Bảng 2.4 Tỷ lệ hộ nghèo 45
7
Bảng 2.5 Dân số trung bình phân theo thành thị, nông thôn 57
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong quá trình phát triển kinh tế, công bằng xã hội vừa là mục tiêu,
vừa là động lực mà mọi nền kinh tế hướng tới. Nó đảm bảo cho sự phát triển
hài hòa, ổn định và bền vững của nền kinh tế, không gây ra các bức xúc do
bất bình đẳng đưa lại. Trong điều kiện của Việt Nam, công bằng xã hội còn là
định hướng xã hội chủ nghĩa, thể hiện sự ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa
của ta so với các chế độ khác.
Việc Việt Nam tiến hành đổi mới và lựa chọn con đường phát triển
kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là sự lựa chọn phù hợp
với xu hướng phát triển khách quan của thời đại. Thực tiễn đổi mới cho thấy
chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, trong đó nền kinh tế đạt
được tốc độ tăng trưởng khá cao, trong một thời gian dài. Kết quả là tổng sản
phẩm quốc dân, tích lũy nội bộ trong nền kinh tế tăng cao, đến nay đã đáp
ứng được nhu cầu cần thiết của nhân dân, đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân lao động được cải thiện rõ rệt. Tăng trưởng kinh tế khá toàn diện
trong suốt hai thập kỷ đã tạo điều kiện vật chất để đất nước giải quyết tốt hơn
các vấn đề xã hội, thực hiện phúc lợi đối với người có công với đất nước, thực
hiện tốt chiến lược xóa đói giảm nghèo. Tuy nhiên, quá trình tăng trưởng,
phát triển kinh tế ở nước ta cũng bộc lộ nhiều bất cập: ô nhiễm môi trường,
gia tăng các biểu hiện làm giàu bất chính như tham nhũng, buôn lậu, làm ăn
phi pháp có xu hướng tăng nghiêm trọng, ảnh hưởng xấu đến tăng trưởng
kinh tế - thực hiện công bằng xã hội. Tỷ lệ đói nghèo tập trung cao ở bộ phận
dân cư vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, miền núi, sự bất bình đẳng
xã hội, chênh lệch về mức sống, về y tế, văn hóa, giáo dục, sự phân hóa thu
8
nhập giữa các vùng miền, các ngành, các lĩnh vực ngày càng “doãng ra”.
Trong số đó, phải kể đến sự bất bình đẳng thu nhập giữa nông thôn và thành
thị.
Thật vậy, tuy quá trình đổi mới đã tạo nên những thay đổi không nhỏ
về các mặt kinh tế - xã hội, đời sống vật chất và tinh thần của đại bộ phận
người dân được cải thiện, song khu vực nông thôn vẫn là nơi chịu nhiều thiệt
thòi và vẫn là khu vực chậm phát triển so với khu vực thành thị. Thu nhập của
người dân nông thôn tuy đã được cải thiện nhưng vẫn còn có khoảng cách khá
xa so với khu vực thành thị, đặc biệt là ở các vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt
khó khăn. Nhiều hộ gia đình ở nông thôn tuy đã thoát khỏi diện đói nghèo,
nhưng thực tế thu nhập cũng chỉ cao hơn mức chuẩn nghèo đói không nhiều,
khả năng tái nghèo cao. Sự bất bình đẳng trong thu nhập giữa nông thôn và
thành thị kéo theo một loạt các vấn đề khó khăn về kinh tế - xã hội cần phải
giải quyết như gây bức xúc trong xã hội, sự di cư lao động từ nông thôn ra
thành thị để tìm kiếm cơ hội việc làm có thu nhập cao. Thu nhập thấp ở nông
thôn kéo theo tích lũy, đầu tư phát triển thấp, trong khi đầu tư ở khu vực
thành thị cao gây mất cân đối trong đầu tư càng tạo ra mất bình đẳng giữa khu
vực nông thôn và thành thị.
Vì vậy, việc phân tích rõ thực trạng bất bình đẳng trong phân phối thu
nhập giữa nông thôn và thành thị để từ đó đưa ra các giải pháp thích ứng là
một công việc có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn. Đó chính là lý do mà
vấn đề “Bất bình đẳng thu nhập giữa nông thôn và thành thị ở Việt Nam
hiện nay” được tác giả chọn làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Đã có nhiều công trình thể hiện dưới các sách, bài báo viết về vấn đề
công bằng và bất bình đẳng xã hội nói chung trong nền kinh tế thị trường như
9
đề tài “Quan điểm và giải pháp bảo đảm gắn kết giữa tăng trưởng kinh tế và
tiến bộ, công bằng xã hội ở nước ta” do GS.TS Hoàng Đức Thân viết, đề cập
đến hệ thống lý luận, thực trạng và giải pháp để thực hiện mối quan hệ giữa
tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở nước ta. Phân tích kinh nghiệm thế
giới về giải quyết công bằng xã hội gắn với tăng trưởng kinh tế, Trung tâm
Khoa học xã hội nhân văn, Viện Kinh tế thế giới có đề tài: Tăng trưởng kinh
tế và công bằng xã hội ở một số nước Châu Á và Việt Nam.
Đi vào vấn đề công bằng trong phân phối thu nhập, đặc biệt đi vào
nghiên cứu bất bình đẳng thu nhập giữa các vùng miền, giữa nông thôn và
thành thị nói riêng thì có thể kể đến một số bài viết, cuốn sách như: Cuốn sách
Kinh tế hộ gia đình ở nông thôn Việt Nam – Thực trạng và giải pháp phát
triển của TS Chu Tiến Quang (chủ biên) và ThS Lưu Đức Khải, nhà xuất bản
Chính trị quốc gia năm 2009. Cuốn sách Nông nghiệp, nông dân, nông thôn
Việt Nam – hôm nay và mai sau của Đặng Kim Sơn, nhà xuất bản Chính trị
quốc gia năm 2008. Hoặc một bài viết khác là: ”Về chênh lệch thu nhập vùng
và giữa thành thị - nông thôn trong kinh tế Việt Nam” của GS TS Nguyễn
Mạnh Hùng tại trang Web http://www.wright.edu/~tdung/Aix_NMHung.htm.
Bài “Tổng thu nhập một tháng của nông dân” của tác giả Đoàn Dũng trên
http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/doc-gia-phan-bien-tong-thu-
trang Web nhap- mot -thang-cua-nong-dan.
Tổng hợp các bài viết, quan điểm trên có thể thấy được sự bất bình
đẳng về thu nhập của người dân nông thôn và thành thị Việt Nam là rõ nét.
Thu nhập của người dân ở nông thôn dù ngày càng cao, đời sống vật chất và
tinh thần của người dân được cải thiện nhưng vẫn không theo kịp với thành
thị và khoảng cách giữa nông thôn và thành thị ngày càng lớn. Các bài viết
trước đây cũng đã nêu lên được một số thực trạng, bài học kinh nghiệm từ
10
thực tiễn xử lý sự bất bình đẳng về thu nhập ở nông thôn và thành thị ở một số
nước trên thế giới, phân tích và đưa ra được một số thành công, hạn chế và
nguyên nhân, giải pháp để thực hiện thu hẹp khoảng cách này, số liệu và thời
gian phân tích chủ yếu từ khoảng năm 1996 đến nay.
Tuy nhiên gần như chưa có một công trình “dài hơi”, nghiên cứu một
cách đầy đủ, khoa học và hệ thống về sự bình đẳng thu nhập giữa nông thôn và
thành thị ở Việt Nam.
Luận văn “Bất bình đẳng thu nhập giữa nông thôn và thành thị ở Việt
Nam” trân trọng kế thừa, tiếp thu các thành quả của các quan điểm, bài viết,
các báo cáo tổng kết về bất bình đẳng thu nhập giữa nông thôn và thành thị ở
Việt Nam cũng như trên một vùng miền cụ thể.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nhằm làm rõ thực trạng bất bình đẳng thu nhập giữa nông
thôn và thành thị để trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp nhằm thu hẹp khoảng
cách về thu nhập giữa khu vực nông thôn và thành thị ở Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa một số khía cạnh lý thuyết có liên quan đến vấn đề bất
bình đẳng trong phân phối thu nhập, đặc biệt là giữa các vùng miền, giữa
nông thôn và thành thị.
- Phân tích, đánh giá thực trạng bất bình đẳng thu nhập giữa nông thôn
và thành thị ở Việt Nam trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Tìm hiểu, lý giải các yếu tố, các nguyên nhân gây ra sự bất bình đẳng
về thu nhập này.
- Đề xuất các giải pháp để đảm bảo thu nhập giữa nông thôn và thành
11
thị được công bằng hơn.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là vấn đề bất bình đẳng thu nhập
giữa ở nông thôn và thành thị trong thời kỳ đổi mới, công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Luận văn nghiên cứu bất bình đẳng giữa nông thôn và
thành thị trong phạm vi cả nước. Các số liệu báo cáo thu nhập nông thôn và
thành thị được thu thập và sử dụng phù hợp với các quy định thống kê hiện
hành.
- Thời gian: Luận văn tập trung nghiên cứu tình hình về thu nhập của
dân cư chủ yếu trong thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa khoảng thời gian từ năm 1996 đến nay.
5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
5.1. Nguồn tư liệu chủ yếu
- Các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng cộng sản Việt
Nam; các Nghị quyết Trung ương; các chương trình, chính sách và các báo
cáo tổng kết của Đảng, Nhà nước về bất bình đẳng thu nhập giữa nông thôn
và thành thị.
- Các số liệu thống kê của Tổng cục thống kê đặc biệt là các báo cáo,
khảo sát về thu nhập của hộ gia đình Việt Nam.
Nguồn tư liệu chủ yếu được khai thác trên các sách, báo chí in và điện
12
tử trên mạng Internet và thư viện Đại học Quốc gia Hà Nội.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận khoa học là
chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Trong luận văn,
tác giải chú trọng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như phân tích, tổng
hợp, quy nạp, diễn dịch và áp dụng các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
như khảo sát, đánh giá, tổng kết thực tiễn.
6. Đóng góp của luận văn
- Góp phần làm rõ bức tranh về bất bình đẳng kinh tế, đặc biệt là về thu
nhập giữa nông thôn và thành thị và các hệ quả kinh tế - xã hội của sự bất
bình đẳng đó ở nước ta.
- Đề xuất các giải pháp để giải quyết vấn đề bất bình đẳng thu nhập ở
nông thôn và thành thị trong thời gian tới, từ đó thu hẹp khoảng cách giữa
nông thôn và thành thị.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có
kết cấu 3 chương là:
Chương 1: Cơ sở lý luận về việc giải quyết bất bình đẳng thu nhập giữa
nông thôn và thành thị
Chương 2: Thực trạng về bất bình đẳng thu nhập giữa nông thôn và
thành thị của Việt Nam trong thời gian qua
Chương 3: Các giải pháp cơ bản để thực hiện giải quyết bất bình đẳng
13
thu nhập giữa nông thôn và thành thị
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VIỆC GIẢI QUYẾT BẤT
BÌNH ĐẲNG THU NHẬP GIỮA NÔNG THÔN VÀ THÀNH THỊ
1.1. Các khái niệm và thước đo bất bình đẳng
1.1.1. Khái niệm về thu nhập và các hình thức của thu nhập
Định nghĩa thu nhập của Haigh (1912) và Simmons (1938) thường
được xem là định nghĩa bao hàm nhất của thu nhập: Thu nhập của một cá
nhân hay hộ gia đình quy ra tiền trong một khoảng thời gian nhất định là số
tiền chi cho tiêu dùng cộng với sự thay đổi giá trị của tài sản tính bằng tiền
trong khoảng thời gian đó:
Thu nhập = Tiêu dùng + Sự thay đổi giá trị của tài sản
Định nghĩa này quá tổng quát và trừu tượng, rất khó áp dụng trong các
điều tra thực tế. Vì mục đích ứng dụng, chúng ta cần khai triển định nghĩa này
thêm. Trên lý thuyết, các nhà kinh tế phân biệt các loại thu nhập sau đây:
Thu nhập bằng tiền (money income) là luồng tiền mà một cá nhân hay
gia đình nhận được từ mọi nguồn như lương, lợi nhuận doanh nghiệp, lợi tức
từ vốn tài chính như tiền lãi, lãi cổ phần, lãi vốn (capital gains), chuyển giao,
v.v.
Thu nhập tiền tệ hóa (monetized income) bao gồm thu nhập bằng tiền
cộng với giá trị tính bằng tiền của trữ lượng hàng hóa lâu bền của tư nhân
(như nhà cửa, xe hơi, quần áo, v.v) và của công (đường xá, cống rãnh, thư
viện, v.v) cộng với giá trị tính bằng tiền của vốn xã hội (như luật lệ cai trị,
14
cách hành xử xã hội, v.v);
Thu nhập toàn (full income) bằng thu nhập tiền tệ hóa cộng với giá trị
thời giờ ngoài thị trường của các thành viên trong gia đình.
Thu nhập thực toàn (full, real income) bằng thu nhập toàn điều chỉnh
cho trình độ kỹ thuật tương đối của gia đình (như tài nấu ăn của các bà nội
trợ, số người trong nhà, v.v).
Trên thực tế, tìm kiếm dữ kiện cho thu nhập tiền tệ hoá, thu nhập toàn,
v.v rất khó khăn. Vì thế các nhà kinh tế thường chỉ tập trung vào thu nhập
bằng tiền.
Trong các cuộc tổng điều tra của Việt Nam trong đó có điều tra về thu
nhập, thì thu nhập được xác định là số tiền kiếm được từ việc làm, bằng tiền
mặt hoặc bằng hiện vật.
Ngoài khái niệm về thu nhập ở trên, chúng ta cần hiểu thêm về GDP: là
giá trị thị trường của tất cả các hàng hóa và dịch vụ cuối cùng được sản xuất
ra trong một quốc gia trong một thời kỳ nhất định, thường tính bằng một năm.
Việc tính toán chỉ tiêu GDP ở Việt Nam hoàn toàn từ phía cung, tức là
cộng tất cả giá trị gia tăng của các đơn vị kinh tế là thường trú trong nước.
Chẳng hạn doanh nghiệp FDI khai thác tài nguyên trong nước và toàn bộ giá
trị gia tăng của doanh nghiệp này được tính vào GDP, mặc dù trong đó có cả
phần thặng dư của nước khác.
Đơn vị đo lường phân phối thu nhập
Đơn vị đo lường về phân phối thu nhập có thể là cá nhân, gia đình hay
hộ.
Dùng cá nhân làm đơn vị thu nhập rất tiện lợi vì nhiều lý do: định nghĩa
rõ ràng, số liệu sẵn sàng, cá nhân thường cũng là đơn vị tính thuế, v.v. Tuy
15
nhiên, dùng cá nhân làm đơn vị tính thu nhập cũng có nhiều bất lợi. Có rất
nhiều cá nhân trong xã hội không có hay có ít thu nhập, ví dụ như trẻ em,
người già, các bà nội trợ, những người bệnh tật, vv. Như vậy, nếu dùng cá
nhân làm đơn vị đo lường thì có rất nhiều thành viên của xã hội sẽ bị loại bỏ
trong phân phối thu nhập và do đó chúng ta sẽ không thấy một bức tranh toàn
cảnh cho xã hội. Hơn nữa, trong thực tế, con người sống thành gia đình hay
hộ, người lớn chia sẻ thu nhập với con cái, và đôi khi cả với các thành viên
khác trong hộ (không nhất thiết có liên hệ gia đình). Vì vậy, nếu dùng hộ làm
đơn vị để phân tích phân phối thu nhập sẽ khắc phục được một số nhược điểm
trên.
1.1.2. Khái niệm về công bằng và bất bình đẳng xã hội trong phân
phối thu nhập
1.1.2.1. Khái niệm về công bằng và bất bình đẳng thu nhập nói chung
- Các nhà kinh tế học phương Tây thường tiếp cận khái niệm công bằng
xã hội dưới hai góc độ:
+ Công bằng xã hội theo chiều ngang: nghĩa là đối xử như nhau đối với
những cá nhân có hoàn cảnh như nhau và đóng góp như nhau.
+ Công bằng xã hội theo chiều dọc: nghĩa là đối xử khác nhau đối với
những người có điều kiện khác nhau như khác biệt bẩm sinh hay có những
điều kiện, hoàn cảnh khác nhau.
- Từ điển bách khoa toàn thư Việt Nam đã nêu ra các khái niệm về bình
đẳng, công bằng và bất bình đẳng như sau:
+ Bình đẳng là được đối xử như nhau về các mặt chính trị, xã hội, kinh
tế, văn hóa… không phân biệt thành phần và địa vị xã hội, trong đó trước tiên
và cơ bản nhất là bình đẳng trước pháp luật. Bình đẳng đã được quan niệm và
16
thực hiện một cách khác nhau qua các thời kì lịch sử với các chế độ chính trị
xã hội khác nhau. Sự bình đẳng toàn diện và triệt để chỉ có thể thực hiện khi
nào xoá bỏ được tình trạng không bình đẳng trong quan hệ sở hữu đối với tư
liệu sản xuất, xoá bỏ được cơ sở của sự bóc lột giai cấp và áp bức dân tộc, xoá
bỏ mọi đặc quyền, đặc lợi trong xã hội.
+ Công bằng là khái niệm về ý thức đạo đức và ý thức pháp quyền, chỉ
điều chính đáng, tương ứng với bản chất và quyền con người. Công bằng đòi
hỏi sự tương xứng giữa vai trò của những cá nhân (những giai cấp) với địa vị
xã hội của họ, giữa hành vi với sự đền bù (lao động và thù lao, công và tội,
thưởng và phạt), giữa quyền với nghĩa vụ - không có sự tương xứng trong
những quan hệ ấy là bất công.
+ Bất bình đẳng xã hội là những khác biệt về địa vị xã hội, chủ yếu dựa
trên sự khác biệt về nguồn gốc xã hội, gia đình, giai cấp, lợi ích kinh tế, ảnh
hưởng chính trị, tài sản, giáo dục, tập quán và đạo đức trong một xã hội.
Những tầng lớp giai cấp xã hội khác nhau trong xã hội có được quyền lực, địa
vị chính trị và kinh tế khác nhau, do đó có khả năng chiếm giữ các tỷ lệ thu
nhập khác nhau trong tổng thu nhập xã hội. Điều này đưa tới sự bất bình đẳng
trong xã hội.
Theo giáo sư Trần Văn Thọ: Công bằng xã hội về phương diện kinh tế
không có nghĩa là thành quả phát triển của xã hội được chia đồng đều cho mọi
người. Công bằng trước hết phải được hiểu là sự bình đẳng trong cơ hội, cơ
hội việc làm, cơ hội đầu tư, nghĩa là bình đẳng trong việc tiếp cận với những
cơ hội mà với cố gắng năng lực con người có thể đạt đến một mức sống cao
hơn hiện nay.
Bất bình đẳng kinh tế là một ý niệm chuẩn tắc. Nó mô tả sự sai lệch của
phân phối thu nhập thực tế so với một phân phối thu nhập chuẩn nào đó. Nếu
17
sự sai lệch càng ít (nhiều) thì mức độ bất bình đẳng càng thấp (cao). Phân
phối thu nhập chuẩn thường được suy ra từ quan điểm công bình xã hội mà đa
số người trong xã hội chấp nhận. Ý niệm bất bình đẳng kinh tế hàm ý phán
đoán đạo đức, theo nghĩa bất bình đẳng kinh tế ít (nhiều) là điều tốt
(xấu). Dưới các tiền đề về công bình xã hội, một nhà kinh tế chuẩn tắc sẽ tìm
hiểu nguyên nhân và hậu quả của bất bình đẳng kinh tế, đưa ra một vài đề
xuất để làm giảm mức độ bất bình đẳng kinh tế với mục đích làm tăng phúc
lợi xã hội.
Bất bình đẳng về thu nhập là để chỉ sự chênh lệch về thu nhập giữa các
cá nhân hay nhóm người trong xã hội.
Về sự tồn tại của bất bình đẳng, có quan niệm cho là hiện tượng không
thể nào tránh khỏi vì trong xã hội con người luôn luôn khác nhau về nhu cầu
và tài năng. Quan niệm nữa cho rằng bất bình đẳng là hiện tượng không tránh
khỏi nhưng nó do các nguyên nhân như xã hội có nhiệm vụ này cần thiết hơn
nhiệm vụ khác. Do đó cần những người giỏi nhất để thực hiện nhiệm vụ khó
nhất. Trong điều kiện như vậy, nếu thủ tiêu bất bình đẳng thì sẽ nguy hiểm
cho xã hội.
Khác với quan niệm trên, một số người cho rằng bất bình đẳng chủ yếu
là do cấu trúc của hệ thống xã hội gây nên. Chính sự khác biệt trong vị trí của
các cá nhân trong cơ cấu xã hội gây ra bất bình đẳng về kinh tế.
Bất bình đẳng là một hiện tượng tiêu cực tồn tại trong tất cả các xã hội.
Thách thức đối với việc hoạch định chính sách ở đây là làm thế nào tối thiểu
hoá hiện tượng này trong khi phải tối đa hoá sự phát triển của quốc gia để có
thể phát triển bền vững. Kinh nghiệm phát triển của một số nước ở khu vực
trong những thập niên gần đây khẳng định rằng, có thể hạn chế sự gia tăng bất
18
bình đẳng trong quá trình tăng trưởng kinh tế nhanh.
1.1.2.2. Khái niệm và thước đo bất bình đẳng thu nhập giữa nông thôn
và thành thị.
Chúng ta có thể hiểu bất bình đẳng về thu nhập giữa nông thôn và
thành thị là sự chênh lệch về thu nhập (của các cá nhân hay hộ gia đình) giữa
nông thôn và thành thị.
Đây có thể là chênh lệch tuyệt đối hay chênh lệch về tỷ lệ thu nhập giữa
thu nhập bình quân đầu người hay hộ gia đình của khu vực thành thị so với
nông thôn.
Các thước đo biểu thị bất bình đẳng trong phân phối thu nhập giữa
nông thôn và thành thị.
- Hệ số thu nhập bình quân đầu người ở thành thị so với nông thôn:
Thu nhập bình quân đầu người ở thành thị
Thu nhập bình quân đầu người ở nông thôn
Nếu hệ số = 1 : Phản ánh trạng thái bình đẳng cao trong phân phối thu
nhập giữa thành thị và nông thôn.
Trên thực tế hệ số này thường lớn hơn 1. Hệ số càng cao, có xu hướng
gia tăng theo thời gian phản ánh xu hướng bất bình đẳng thu nhập bình quân
đầu người giữa thành thị và nông thôn cao và gia tăng.
- Chênh lệch tuyệt đối về thu nhập bình quân đầu người ở thành thị so
với nông thôn:
Thu nhập bình quân đầu người ở thành thị - Thu nhập bình quân đầu
19
người ở nông thôn
Chênh lệch tuyệt đối phản ánh khoảng cách tuyệt đối về thu nhập bình
quân đầu người ở thành thị và nông thôn. Chênh lệch này càng lớn phản ánh
một sự bất bình đẳng thu nhập nào đó giữa thành thị và nông thôn.
Ngoài ra, để bổ sung và phản ánh, làm rõ thêm sự bất bình đẳng thu
nhập giữa thành thị và nông thôn chúng ta còn sử dụng các thước đo sau:
- So sánh thu nhập giữa thành thị và nông thôn theo các nhóm ngũ vị
phân.
Chia mỗi vùng nông thôn và thành thị theo 5 nhóm dân cư bằng nhau,
và sắp xếp các nhóm theo thứ tự thu nhập bình quân đầu người từ thấp đến
cao gọi là các nhóm ngũ vị phân. Việc so sánh thu nhập bình quân đầu người
của từng nhóm ở nông thôn với nhóm tương ứng ở thành thị phản ánh mức độ
bất bình đằng thu nhập giữa nông thôn và thành thị theo từng nhóm dân cư.
- So sánh chênh lệch thu nhập bình quân đầu người giữa nhóm 5 thành
thị và nhóm 1 nông thôn. Đây là so sánh thu nhập bình quân đầu người của
nhóm có thu nhập cao nhất ở thành thị so với nhóm có thu nhập thấp nhất ở
nông thôn, phản ánh phân hóa giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn ở các
“cực thu nhập”. Sự chênh lệch này càng tăng phản ảnh sự bất bình đẳng tăng.
- Tỷ lệ hộ nghèo của thành thị so với nông thôn: Tỷ lệ này cao phản
ánh thu nhập giữa nông thôn và thành thị có khoảng cách nhất định.
- So sánh chi tiêu bình quân chung đầu người ở thành thị và chi tiêu
bình quân chung đầu người ở nông thôn (do thu nhập là nguồn gốc của chi
tiêu, chi tiêu phải dựa trên thu nhập có được, nên việc so sánh chi tiêu cũng
phản ánh sự bất bình đẳng thu nhập giữa nông thôn và thành thị).
Hoặc đi sâu vào so sánh chi tiêu bình quân đầu người cho các mặt
20
hàng cụ thể ở thành thị và ở nông thôn: Chi tiêu cho hàng hóa thiết yếu, cho
hàng hóa sa sỉ, cho giáo dục, y tế, giải trí… Nếu khoảng cách về chi tiêu của
thành thị và nông thôn cho hàng hóa sa sỉ, giáo dục, y tế, giải trí… càng lớn
thì phản ảnh sự bất bình đẳng thu nhập giữa hai khu vực này càng lớn. Hoặc
tỷ lệ của mức chi cho hàng hóa thiết yếu so với tổng chi, tổng thu nhập càng
lớn cho thấy đời sống càng thấp kém.
- Ngoài ra, để phản ánh sự bất bình đẳng thu nhập giữa nông thôn và
thành thị, chúng ta còn có thể so sánh chênh lệch về tài sản giữa cư dân nông
thôn và thành thị. So sánh tỷ lệ đầu tư vào khu vực nông thôn và đầu tư vào
khu vực thành thị, so sánh tỷ lệ đầu tư của khu vực FDI, đầu tư của tư nhân,
đầu tư của Nhà nước vào từng khu vực nông thôn, thành thị.
1.2. Tầm quan trọng của việc giải quyết bất bình đẳng thu nhập
giữa nông thôn và thành thị
Phát triển bền vững cần hội đủ ba yếu tố:
- Tổng sản phẩm thực chia đầu người gia tăng đều đặn năm này qua
năm khác (nhất là khi nền kinh tế còn trong vòng phát triển).
- Thành quả tăng trưởng được san sẻ tương đối đồng đều và mọi tầng
lớp dân chúng đều có cơ hội bình đẳng như nhau.
- Môi trường thiên nhiên được duy trì thỏa đáng.
Như vậy xem xét đến yếu tố thứ 2, để phát triển bền vững thành quả
tăng trưởng phải được san sẻ tương đối đồng đều, trong đó thu nhập phải
được phân phối công bằng. Nếu không chênh lệch thu nhập sẽ làm giảm mức
tăng trưởng kinh tế, và ngược lại, tăng trưởng kinh tế không có tác động tiêu
cực lên sự thay đổi của mức phân hoá giàu nghèo.
Ngoài ra, một số nhà kinh tế liên kết phân hóa giàu nghèo và bất ổn xã
21
hội. Bất bình đẳng thu nhập và gia tăng phân hóa giàu nghèo là hiện tượng
đang gây nhiều chú ý toàn cầu. Mối liên hệ giữa bất bình đẳng và bất ổn ngày
càng được khẳng định một cách mạnh mẽ hơn.
Bất bình đẳng thu nhập không những góp phần gây ra những hệ lụy xã
hội mà còn ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình phát triển kinh tế. Đã có một số
nghiên cứu cho thấy điều này. Ví dụ, trong một nghiên cứu được đón nhận
khá rộng rãi, hai nhà nghiên cứu người Anh (Wilkinson và Pickett) đã đưa ra
những chứng cứ về mối tương quan tỷ lệ thuận giữa bất bình đẳng thu nhập
và nhiều vấn nạn xã hội.
Phân tích số liệu thống kê liên quan đến 23 nước phát triển (từ các
nguồn khả tín như Ngân hàng Thế giới và Liên Hiệp Quốc), Wilkinson và
Pickett đã cho thấy rằng một nước có tỷ lệ bất bình đẳng cao hơn thì thường
phải đối mặt với những vấn nạn xã hội với tỷ lệ cao hơn cho dù đó là một
nước có GDP bình quân đầu người rất cao (chẳng hạn như Mỹ và
Anh). Ngược lại, ở những nước bình đẳng hơn, như Nhật và Na Uy, thì xã hội
tương đối tốt hơn được thể hiện qua các tiêu chí như tỷ lệ tự tử và phạm tội
thấp trong khi tính di động xã hội và niềm tin giữa người dân trong xã hội cao
hơn.
Bên cạnh đó, các chuyên gia (Berg, Ostry, và Zettelmeyer) của Quỹ
Tiền tệ Quốc tế cũng chỉ ra hệ quả tiêu cực của bất bình đẳng thu nhập đối với
quá trình tăng trưởng của một nền kinh tế. Phân tích các đợt tăng trưởng
(được định nghĩa bằng khoảng thời gian từ khi nền kinh tế bắt đầu tăng tốc
tăng trưởng cho đến khi nó bắt đầu hạ tốc) của 140 quốc gia, các tác giả đã
kết luận rằng sự phân phối thu nhập là một trong những yếu tố quan trọng
quyết định chiều dài của các đợt tăng trưởng. Các nước ở châu Phi và châu
Mỹ Latinh, những nơi mà có tỷ lệ bất bình đẳng tương đối cao, thường có
22
những đợt tăng trưởng ngắn hơn so với những nơi khác. Theo đây thì cải thiện
tỷ lệ bất bình đẳng là một yếu tố cần thiết nếu một nước muốn có một khoảng
thời gian tăng truởng dài hơn.
Trong xu hướng thúc đẩy phát triển kinh tế theo hướng bền vững và
công bằng hiện nay, vấn đề bất bình đẳng thu nhập càng cần được phải được
giải quyết. Lý do là vì một xã hội với tỷ lệ bất bình đẳng cao không những tạo
ra sự bức xúc trong dân chúng mà còn cản trở sự tích lũy vốn con người, cản
trở quá trình xây dựng một tầng lớp trung lưu to lớn và vững mạnh có khả
năng dịch chuyển xã hội một cách tích cực.
Hơn nữa, bất bình đẳng thu nhập là một nguyên nhân quan trọng đưa
đến bất bình đẳng về cơ hội. Tình trạng này xảy ra khi một bộ phận người dân
trong xã hội không có khả năng để tiếp cận các dịch vụ và hàng hóa cốt yếu
nhằm nâng cao kiến thức và sức khỏe của mình để có thể có cơ hội thăng tiến
trong xã hội. Tình trạng bất bình đẳng cơ hội cao cũng sẽ góp phần duy trì bất
bình đẳng thu nhập, kéo theo những hệ lụy như đã đề cập.
Khoảng cách giàu nghèo quá lớn đem lại rất nhiều tác động tiêu cực
như đói nghèo, tệ nạn xã hội, và quan trọng hơn cả là về lâu dài một phần lớn
dân số sẽ bị thiệt thòi về mảng giáo dục và đào tạo.
Như vậy việc giải quyết sự bất bình đẳng thu nhập giữa nông thôn và
thành thị sẽ mang lại sự ổn định xã hội ở từng khu vực nông thôn và thành thị,
ảnh hưởng tích cực tới sự tăng trưởng kinh tế.
Từ quan niệm về sự tồn tại của bất bình đẳng tại mục 1.1.2.1, có thể
thấy sự tồn tại của bất bình đẳng thu nhập giữa nông thôn và thành thị là điều
khó tránh khỏi trong điều kiện của chúng ta hiện nay. Nhưng chúng ta có thể
hạn chế sự gia tăng bất bình đẳng trong quá trình tăng trưởng kinh tế. Tuy
nhiên một khía cạnh khác không thể phủ nhận nếu bất bình đẳng thu nhập
23
giữa nông thôn và thành thị ở mức độ nào đó sẽ lại tạo ra sự phát triển kinh tế,
là động lực cần thiết cho sự phát triển xã hội, nó tạo ra sự nỗ lực phấn đấu của
mỗi con người, tạo điều kiện cho sự tập chung nhân lực, tài nguyên khan
hiếm vào một số vùng để phát triển sản xuất lớn… Nhưng bất bình đẳng ở
mức độ nào là tốt thì cũng chưa có số liệu chính xác, và việc cần phải tạo ra
sự bất bình đẳng này chỉ được nêu trên lý thuyết do chúng ta không phải tạo
ra sự bất bình đẳng thì thực tế sự bất bình đẳng này ai cũng cảm nhận đang
tồn tại một cách rõ ràng, tác động lớn không tốt đến sự phát triển của xã hội.
Vì vậy nói chung chúng ta chỉ xét đến cách làm để giảm bớt sự bất bình đẳng
về thu nhập giữa nông thôn và thành thị.
1.3. Các yếu tố tác động đến bất bình đẳng thu nhập giữa nông
thôn và thành thị
1.3.1. Các lý do gây ra sự bất bình đẳng thu nhập nói chung trong
nền kinh tế thị trường
Dưới tác động của cơ chế thị trường, quan hệ phân phối cần được bảo
đảm tiền đề kinh tế - kỹ thuật để khuyến khích làm giàu theo pháp luật đối với
mọi chủ thể tham gia thị trường. Những cá nhân, cộng đồng, tập thể, doanh
nghiệp có đủ năng lực và nguồn lực hợp pháp được phép làm giàu hợp pháp
để tối ưu hóa lợi ích cá nhân. Đó chính là động lực thúc đẩy xã hội phát triển.
Như vậy bên cạnh sự phân phối thông qua các quỹ an sinh xã hội và
phúc lợi xã hội thì chủ yếu do sự đóng góp của mỗi thành viên khác nhau về
sức lao động, vốn, cùng với hiệu quả kinh tế khác nhau dẫn tới sự phân phối
thu nhập khác nhau; những người có cố gắng trong lao động, đóng góp nhiều
vốn, đạt được hiện quả kinh tế cao sẽ mang lại thu nhập cao.
- Nguyên nhân có nguồn gốc từ tài sản
+ Do vốn góp: người có nhiều vốn đầu tư khác nhau, khi chia lợi nhuận
24
được hưởng khác nhau theo phần vốn đóng góp.
+ Hành vi tiêu dùng: mức độ tiêu dùng và tiết kiệm của mỗi cá nhân sẽ
ảnh hưởng lớn đến của cải tích lũy được.
+ Do kết quả kinh doanh: đối với các cá nhân đầu tư kinh doanh chấp
nhận rủi ro có kết quả kinh doanh khác nhau tạo ra sự khác biệt về tài sản của
họ.
- Nguyên nhân có nguồn gốc từ lao động
+ Do khả năng lao động, xu hướng chung của những người có sức
khỏe, có khát vọng, có trí tuệ, có trình độ học vấn cao sẽ nhận được mức thu
nhập cao hơn.
+ Do cường độ làm việc: khi cố định các yếu tố khác nếu cường độ làm
việc, mức thu nhập sẽ tăng và ngược lại.
+ Khác nhau về nghề nghiệp, tính chất công việc: đây là yếu tố quan
trọng quyết định sự khác biệt về tiền lương. Thông thường công việc phổ
thông, ít kỹ năng được trả lương thấp hơn công chuyên môn có hàm lượng
chất xám cao.
- Hiệu quả kinh tế: bên cạnh việc có nhiều người đạt hiệu quả kinh tế
cao, thu được lợi nhuận lớn do tài giỏi, biết làm kinh tế, thì cũng có mội số
người khác do may mắn nên thu được lợi lớn hoặc gặp rủi ro, kém may mắn
mà không có hiệu quả kinh tế, làm ăn thua lỗ.
- Những cơ hội trong cuộc sống: bất bình đẳng về cơ hội cũng đo lường
những kết quả của đầu ra cho mọi thành viên trong xã hội, nhưng có phân biệt
những cá nhân đó thuộc nhóm xã hội nào. Sự chênh lệch về kết quả của đầu
ra giữa các nhóm gọi là bất bình đẳng về cơ hội. Nói cách khác, những hoàn
cảnh khác nhau của mỗi người (như giới tính, màu da, nơi sinh, vùng miền,
25
nguồn gốc gia đình, các nhóm giai tầng…) đã tạo nên sự thành đạt khác nhau
về kinh tế (và cả xã hội, chính trị) của họ, hoặc là chúng tạo nên sự hưởng thụ
và tiếp cận khác nhau đối với các nguồn lực kinh tế (và cả xã hội, văn hóa và
chính trị) ở mỗi người có mỗi hoàn cảnh khác nhau.
Trong xã hội hiện đại, cơ hội là rất quan trọng đối với mỗi người dân.
Cơ hội tiếp cận giáo dục sẽ giúp con người có điều kiện học tập, nâng cao
trình độ, hiểu biết, nhờ học tập đầy đủ, được trang bị kiến thức tốt nên việc
giải quyết các vấn đề trong cuộc sống tốt hơn, dễ dàng xin được một việc làm
có thu nhập cao. Trong khi những người không có điều kiện học tập phải làm
những công việc đơn giản, mang lại thu nhập thấp. Điều đó tạo ra sự chênh
lệch về thu nhập giữa người có cơ hội học tập với người không có cơ hội học.
Hay cơ hội tiếp cận dịch vụ y tế, việc khám chữa bệnh được kịp thời với chi
phí thấp hơn so với những vùng ở xa không có cơ hội tiếp cận hệ thống y tế.
Nhờ cơ hội tiếp cận dịch vụ y tế nên được chăm sóc sức khỏe tốt hơn, tiết
kiệm được nhiều thời gian, chi phí, vì vậy có điều kiện đầu tư và lao động tạo
thu nhập hơn so với những người ít có cơ hội tiếp cận dịch vụ y tế.
1.3.2. Nguyên nhân và các yếu tố chi phối bất bình đẳng thu nhập
giữa nông thôn và thành thị
Ngoài các các nguyên nhân chung như đã đề cập ở mục trên, bất bình
đẳng thu nhập giữa nông thôn và thành thị còn do các nguyên nhân sau:
- Việc tập trung đầu tư cao vào các khu vực thành thị và không đầu tư
nhiều vào khu vực nông thôn đã gây ra sự bất bình đẳng về thu nhập giữa 2
khu vực này. Do thành phố, khu vực thành thị là những nơi có nhiều cơ hội
phát triển, cùng với việc đạt hiệu quả kinh tế cao tại những nơi này nên đã
nhận được mức đầu tư lớn hơn vùng nông thôn, mang lại thu nhập cao cho
26
các khu vực thành thị này.
Mức đầu tư công vào nông nghiệp và phát triển nông thôn khá khiêm
tốn, nếu không muốn nói là một nghịch lý lớn khi so với mức đầu tư ồ ạt vào
một số ngành công nghiệp bị thua lỗ. Vì nguồn lực là hữu hạn cho nên khi nó
bị lãng phí ở một thành phần kinh tế thì những thành phần kinh tế khác bị
chèn ép.
- Những nguyên nhân khác như sự phân biệt đối xử trong xã hội do sự
khác biệt về vùng địa lý; ảnh hưởng của rủi ro thiên tai; sự tham nhũng; sự
quan tâm khác nhau của Nhà nước với các vùng miền, khu vực…
Vùng nông thôn đa phần là đồi núi, giao thông không thuận lợi, trong
khi khu vực thành thị phần lớn là đồng bằng, ở vị trí địa lý thuận lợi, thuận
tiện cho việc đi lại, thông thương, điều đó tạo cho khu vực thành thị năng
động hơn so với khu vực nông thôn, kinh tế phát triển, gây nên sự chênh lệch
về thu nhập.
Khu vực nông thôn nơi thành phần kinh tế chủ yếu là nông, lâm, ngư
nghiệp, lĩnh vực này chịu ảnh hưởng lớn của thời tiết. Ngoài ra, bản thân khu
vực thành thị thường là những nơi được lựa chọn có điều kiện thời tiết, khí
hậu ôn hòa, ít bị ảnh hưởng của thiên tai. Do vậy ảnh hưởng rủi ro của thiên
tai cũng tác động đến sự bất bình đẳng giữa nông thôn và thành thị.
Tài sản của Nhà nước, các doanh nghiệp nhà nước tập trung chủ yếu ở
các khu đô thị, quá trình tư nhân hóa các doanh nghiệp nhà nước cùng với tệ
nạn tham nhũng đã làm quyền lợi kinh tế thường rơi vào tay những thành
phần quyền chức hay những người thiếu trách nhiệm với xã hội. Họ là những
người nắm thông tin, lợi dụng quá trình chuyển hoá từ công hữu sang tư hữu
để nắm giữ nhiều cổ phần, cổ phiếu trong các doanh nghiệp, thu vén những
27
nguồn tài nguyên sẵn có và từ đó họ càng có điều kiện để tích luỹ, làm giàu.
Tình trạng mất đất canh tác của người nông dân đã đẩy không ít người
vào cuộc sống khó khăn, không có lối ra. Góp phần không nhỏ gây ra hiện
tượng này là việc thu hồi đất bừa bãi không những làm mất tính hiệu năng
kinh tế mà còn gây ra những bức xúc nghiêm trọng trong xã hội.
- Tình trạng lạm phát cao trong những năm gần đây đã gây đặc biệt khó
khăn cho tầng lớp người dân nghèo. Phần lớn thu nhập của người nghèo được
dùng cho nhu cầu tiêu thụ các mặt hàng và dịch vụ thiết yếu trong khi giá cả
những mặt hàng này tăng nhanh và thu nhập không đuổi kịp đã làm mức sống
thật của nhiều người dân bị sa sút. Vùng nông thôn đã khốn khó thì việc giải
quyết nghèo đói, tăng cao thu nhập càng khó khăn hơn.
- Ngoài ra phải kể đến tập quán sinh hoạt, sự trì trệ tại vùng nông thôn
góp phần kém phát triển tại các vùng này. Vùng nông thôn gắn với nông, lâm,
ngư nghiệp. Kinh tế chính trị Mác - Lê Nin đã chỉ ra sự trì trệ, “bảo thủ” với
tầng lớp nông dân - khu vực nông thôn do gắn với tập quán sinh hoạt của họ.
Kèm theo hoạt động nông, lâm, ngư nghiệp năng suất lao động thấp, thường
chịu ảnh hưởng nhiều của thiên tai nên hiệu quả kinh tế thấp, thu nhập thấp.
1.4. Vai trò của Nhà nước trong việc giải quyết vấn đề bất bình
đẳng thu nhập giữa nông thôn và thành thị
Trong nền kinh tế thị trường, vai trò của Nhà nước đối với nền kinh tế
là thúc đẩy hiệu quả và sự công bằng. Hầu hết các chính sách đều hoặc nhằm
vào mục tiêu làm cho nền kinh tế tăng trưởng, hoặc làm thay đổi cách thức
phân chia thu nhập tạo ra.
Hiện nay trong khi kinh tế nhà nước vẫn chiếm vai trò chủ đạo thì các
nguồn vốn lớn tập chung do Nhà nước quản lý. Thêm vào đó là quyền lực của
các cơ quan Nhà nước, vì vậy việc Nhà nước quan tâm tạo điều kiện đầu tư
28
cho một vùng, một khu vực sẽ có ưu thế vượt trội hơn nếu để thành phần kinh
tế khác đầu tư. Với vai trò, sự quản lý của Nhà nước trên toàn bộ lãnh thổ,
việc ban hành các chính sách, chủ chương sẽ có khả năng tác động đến các
khu vực nông thôn, thành thị rộng lớn.
Ở Việt Nam, vai trò của Nhà nước đối với kinh tế không chỉ xuất phát
từ yêu cầu phổ biến của quá trình phát triển kinh tế thị trường, mà còn xuất
phát từ tính đặc thù của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nhà nước vừa thông qua hệ thống chính sách kinh tế do mình hoạch
định, vừa sử dụng các nguồn lực – trực tiếp là bộ phận kinh tế nhà nước – để
định hướng, can thiệp vào lĩnh vực phân phối và phân phối lại theo hướng ưu
tiên phân phối theo lao động và qua phúc lợi xã hội; kết hợp tăng trưởng kinh
tế với thực hiện công bằng xã hội; hoạch định các chính sách xóa đói, giảm
nghèo, đền ơn đáp nghĩa…
Nhà nước cũng có vai trò to lớn trong việc bảo đảm gia tăng phúc lợi
xã hội, bởi mục tiêu căn bản của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa là góp phần thực hiện “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh”. Có chính sách xã hội hợp lý; bảo đảm phúc lợi ngày một gia
tăng nhờ hiệu quả tác động của chính sách kinh tế tiến bộ do Nhà nước hoạch
định và tổ chức thực hiện bằng những nỗ lực của nhiều chủ thể kinh tế khác
nhau… là nhân tố có vai trò quyết định trong vấn đề này.
Vai trò của Nhà nước còn thể hiện bằng đầu tư cho xây dựng kết cấu hạ
tầng như: Giao thông, công trình thủy lợi đầu mối, thủy điện lớn, hệ thống
đường điện, thông tin, kho, cảng, trạm, trại… Nhà nước có thể đầu tư cho
phát triển nguồn nhân lực, hỗ trợ đào tạo bồi dưỡng, tập huấn người lao động
tiếp thu kiến thức và nâng cao trình độ ứng dụng khoa học – kỹ thuật và công
nghệ. Thông qua tổ chức khuyến nông, Nhà nước giữ vai trò chủ đạo và
29
thường xuyên giúp đỡ kinh tế hộ gia đình phát triển, nhất là đối với vùng sâu,
vùng xa, các nghề mới, sản phẩm mới. Trên thực tế, Nhà nước tùy theo khả
năng ngân sách và điều kiện cụ thể khác mà đầu tư trực tiếp toàn bộ hay một
phần theo phương châm: “Nhà nước và nhân dân cùng làm”. Nhà nước có thể
có chính sách khuyến khích đầu tư cho nông thôn từ nhiều nguồn vốn khác
nhau, tạo việc làm, tăng thu nhập của người dân nông thôn.
Như vậy chúng ta có thể thấy vai trò to lớn của Nhà nước trong việc
định hướng cũng như can thiệp trực tiếp vào cân đối thu nhập giữa nông thôn
và thành thị.
1.5. Kinh nghiệm giải quyết vấn đề bất bình đẳng thu nhập giữa
nông thôn và thành thị trên thế giới
1.5.1. Kinh nghiệm của Hàn Quốc
Hàn Quốc, nước được xem là xây dựng nông thôn mới thành công nhất
trên thế giới.
Hàn Quốc là một nước từng bị đô hộ từ cuối thế kỷ 19, xuất phát điểm
là một trong những quốc gia nghèo đói. Đầu thập kỷ 60, GDP bình quân đầu
người chỉ có 85 USD, phần lớn người dân không đủ ăn, nghèo đói cùng cực,
dân số tăng nhanh, thất nghiệp tràn lan, 80% người dân nông thôn vẫn không
có điện thắp sáng và phải dùng đèn dầu, ở trong những căn nhà lợp bằng lá.
Khắp đất nước, lũ lụt và hạn hạn lại xảy ra thường xuyên. Nóng lòng công
nghiệp hóa, trong 10 năm, Hàn Quốc dốc toàn lực đầu tư phát triển các ngành
công nghiệp. Tốc độ tăng trưởng của lĩnh vực công nghiệp là 10-10,5%, trong
khi nông nghiệp tăng trưởng giảm từ 5,3% xuống 2,5%. Thành thị phát triển
đối nghịch với nông thôn lạc hậu. Nông dân di cư ra làm quá tải thành thị. Xã
hội Hàn Quốc thời đó là một xã hội hỗn độn và bế tắc. Mối lo lớn nhất của
30
Chính phủ là làm sao thoát khỏi đói nghèo.
Sau trận lụt năm 1969, người dân phải tu sửa lại nhà cửa và đường sá
mà không có sự trợ giúp của Chính phủ. Điều này làm Tổng thống suy nghĩ
rất nhiều và nhận ra rằng “Viện trợ của Chính phủ cũng là vô nghĩa nếu người
dân không nghĩ cách tự giúp chính mình”. Hơn thế nữa, khuyến khích người
dân tự hợp tác và giúp đỡ nhau là điểm mấu chốt để phát triển nông thôn.
Những ý tưởng này chính là nền tảng của phong trào xây dựng nông thôn mới
của Hàn Quốc sau này (Saemaul Udong). Tới năm 1974, chỉ sau 4 năm phát
động “Saemaulundong”, sản lượng lúa tăng đến mức có thể tự túc lương thực,
phổ biến kiến thức nông nghiệp đã tạo nên một cuộc cách mạng trong phương
pháp canh tác, thu nhập một năm của hộ nông dân (674 nghìn won tương
đương 562 USD) cao hơn so với hộ ở thành thị (644 nghìn won tương đương
537 USD).
Sau 40 năm phát động phong trào Saemaul Udong đã thu được những
thành tựu rất to lớn, đưa đất nước Hàn Quốc từ nghèo đói sang một nước phát
triển, nằm trong tốp G20 của thế giới với thu nhập bình quân đầu người hơn
30.000 USD/năm.
Để xây dựng thành công nông thôn mới, Hàn Quốc đã áp dụng những
giải pháp chính sau đây:
Một là, đoàn kết nhân nhân, khơi dậy tinh thần tự lực, tự cường trong
nhân dân để xây dựng nông thôn mới:
Phong trào Saemaul Udong không đơn thuần là một kế hoạch hành
động mà còn là cả một cuộc cải tổ về ý thức dựa trên tinh thần. Ngay từ đầu,
Chính phủ đã truyền cho người dân ý thức “nhất định phải làm”, “đã làm là
được”, “tất cả đều có thể làm được”.
Nhờ tuyên truyền tốt, người dân nhận thức được phong trào Saemaul
31
Udong là một cuộc cải tổ vì một cuộc sống tốt đẹp hơn cho cả cộng đồng chứ
không chỉ đối với từng cá nhân đơn lẻ. Sự thịnh vượng ở đây không chỉ bó
hẹp ở ý nghĩa vật chất, nó còn bao hàm cả ý nghĩa tinh thần, không chỉ cho
thế hệ hôm nay mà còn cho cả con cháu mai sau. Mục tiêu của phong trào
Saemaul Udong là xây dựng nền tảng cho một cuộc sống tốt đẹp hơn cho mỗi
gia đình, làng xã góp phần vào sự tiến bộ chung của cả quốc gia.
Để đoàn kết, tập hợp nhân dân trong sự nghiệp chung, phong trào
Saemaul Udong đề cao ba phẩm chất chính, đó là “Sự cần cù, tự lực và hợp
tác”. Cần cù mang lại tính chân thật, không cho phép sự giả tạo và thói kiêu
căng ngạo mạn. Tính tự lực giúp cho con người tự quyết định vận mệnh của
chính mình, không phải nhờ cậy đến bất kỳ sự giúp đỡ nào từ bên ngoài. Hợp
tác dựa trên mong muốn phát triển chung cả cộng đồng để nỗ lực vì mục tiêu
chung.
Chính vì vậy, ba nguyên tắc chủ yếu của phong trào Saemaul cũng
chính là hạt nhân của công cuộc xây dựng một xã hội tiên tiến và một quốc
gia thịnh vượng.
Hai là, kích thích sự tham gia bằng những lợi ích thiết thực:
Giai đoạn đầu của sự nghiệp xây dựng nông thôn mới, Chính phủ Hàn
Quốc không có nhiều kinh phí, do đó, Chính phủ đã khéo léo sử dụng chính
sách kích cầu đầu tư, huy động sức mạnh của nhân dân.
Năm 1970, Chính phủ Hàn Quốc đưa ra thử nghiệm 10 dự án lớn trong
phát triển nông thôn, bao gồm mở rộng và nắn thẳng đường sá, làm lại mái
nhà bếp và hàng rào, xây dựng giếng nước công cộng và khu giặt giũ công
cộng… vv. Kinh phí để thực hiện các dự án này phần lớn dựa vào quỹ của xã
và lực lượng lao động sẵn có, Chính phủ chỉ cấp miễn phí cho mỗi xã trung
bình 355 bao xi măng. Kế hoạch triển khai trên quy mô toàn quốc và hơn
32
33.000 xã được nhận hỗ trợ. Kết quả 16.000 xã, chiếm tỷ lệ gần 50% số xã ở
nông thôn đã được cải thiện rõ rệt. Toàn bộ kế hoạch đều do chính ủy ban xã
đó quản lý.
Tới năm thứ hai, Chính phủ quyết định tiếp tục giúp đỡ những xã đã tự
biết đứng lên bằng cách cấp thêm cho mỗi xã 500 bao xi măng và một tấn
thép. Nhờ đó, nhà tranh vách đất dần được thay thế bằng nhà mái ngói và
tường xây. Khắp nơi trên các làng xã, đường sá được mở rộng, đê điều được
tu bổ và cầu cống được xây dựng. Làng xã phát triển nhanh chóng, người dân
nông thôn lấy lại được sự tự tin vốn có, những người trước đây rất bàng quan
giờ cũng bắt tay xây dựng lại ngôi làng của chính mình.
Năm thứ 3, Chính phủ Hàn Quốc đã đề ra chủ trương những làng tích
cực thì được hỗ trợ nhiều. Chính phủ đã chia tổng số xã của cả nước thành 3
nhóm, trong đó, nhóm làng tích cực chiếm 6,7%, nhóm làng trung bình chiếm
40,2%, nhóm làng cơ bản chiếm 53,1%. Chính phủ quy định, những làng
thăng hạng sẽ được thưởng 2000 USD. Chỉ sau 3 năm (từ 1974-1976), tỷ lệ
nhóm làng cơ bản chỉ còn 0,9%. Những làng làm tốt cảm thấy họ được Chính
phủ đền ơn. Nhờ đó mà nông thôn nước Hàn đã thay đổi mạnh mẽ.
Kết quả sau 8 năm (1971-1978), cả nước Hàn Quốc đã làm được:
43.631 km đường giao thông liên làng (nhựa và bê tông); 42.220 km đường
giao thông ngõ xóm (nhựa và vê tông); 68.797 cầu nông thôn (bê tông, cốt
thép); 7.839 km đê được cứng hóa; 24.140 hồ chứa nước được xây dựng; 98%
hộ được dùng điện.
Nhờ khơi dậy nội lực của nông dân mà nông thôn Hàn Quốc đã có
những biến đổi to lớn. Cuối những năm 80, nông thôn Hàn Quốc đã có những
dấu hiệu của sự phát triển và đô thị hóa.
Ba là, phát triển kinh tế hộ và các loại hình kinh tế có sức cạnh tranh
33
cao:
- Đẩy mạnh phát triển kinh tế hộ. Quan điểm của Hàn Quốc là không
kêu gọi đầu tư nước ngoài cho nông nghiệp, vì lo ngại lợi nhuận các công ty
nước ngoài hưởng, còn nông dân suốt đời làm thuê. Chính vì vậy, Chính phủ
Hàn Quốc chủ trương hỗ trợ để nông dân tự mình đứng lên trở thành người
chủ đích thực.
- Thành lập các khu liên hiệp nông nghiệp trồng các sản phẩm đem lại
lợi nhuận cao như nấm, thuốc lá để gia tăng tổng thu nhập. Các khu liên hiệp
này trồng cây trong nhà kính, sản phẩm rau sạch có thể thu hoạch ngay giữa
mùa đông. Khi làm việc tập thể, người nông dân cũng giảm được các chi phí
không cần thiết so với làm việc đơn lẻ nên làm tăng hiệu quả sản xuất.
- Chính phủ cho xây dựng các nhà máy ở nông thôn để gia tăng thu
nhập. Các nhà máy đã tạo việc làm và tăng thu nhập cho nhiều phụ nữ. Kết
quả là thu nhập ở nông thôn tăng đều đặn. Năm 1977, có 98% các xã đã có
thể độc lập về kinh tế.
Bốn là, đẩy mạnh nghiên cứu và chuyển giao khoa học kỹ thuật cho
nông dân:
Chính phủ luôn đóng vai trò cốt yếu trong việc gia tăng thu nhập cho
người dân nông thôn. Đi kèm với việc phát triển hạ tầng và tăng cường các cơ
sở đào tạo nghề nông, đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật, các loại giống mới như
nấm, cây thuốc lá… vào sản xuất. Các làng xã và xí nghiệp đều được trang bị
thư viện và các phương tiện vui chơi giải trí khác. Đặc biệt, thư viện ở nông
thôn đều có sách về các phương pháp canh tác mới. Đây là bước đột phá lớn ở
nông thôn và là nguyên nhân chính gia tăng thu nhập.
Khi đất nước đã giàu có, Chính phủ Hàn Quốc có thêm nhiều chính
sách hỗ trợ đầu tư phát triển khoa học công nghệ phục vụ nông nghiệp, thôn
34
thôn. Năm 1995, Trung tâm Nghiên cứu và Xúc tiến Phát triển nông nghiệp
(ARPC) được thành lập. Trung tâm này đảm nhận hỗ trợ nghiên cứu và triển
khai (R&D) trong nông nghiệp với kinh phí hoạt động lên tới 358 triệu USD
và hàng năm lại tăng thêm 6,4% (trong khi thu ngân sách chỉ tăng 4,1%/năm).
Ngoài ra, Chính phủ còn đầu tư vào chương trình hỗ trợ phát triển cụm
nông nghiệp với kinh phí rất lớn (năm 2005 là 12,6 triệu USD, năm 2006 là
20,9 triệu USD) nhằm mục đích phát triển hệ thống liên vùng kết nối giữa các
nhà nghiên cứu, các viện nghiên cứu, các ngành công nghiệp và chính quyền
địa phương nhằm giúp nông dân tiếp cận nhanh nhất với dịch vụ hỗ trợ kỹ
thuật và marketing.
Năm là, xây dựng trật tự, kỷ cương và nếp sống lành mạnh:
Thành công của phong trào Seamaul ở nông thôn lan tới các vùng
không làm nông nghiệp như trường học, công sở, thành phố, nhà máy với
nhiều lĩnh vực khác nhau. Các thành phố bắt đầu các dự án chống tham nhũng
và xây dựng một đô thị hoàn hảo. Ba chiến dịch Seamaul Udong đã được phát
động là chiến dịch tinh thần, cư xử và môi trường.
Chiến dịch tinh thần bao gồm mối quan hệ thân thiện hơn với láng
giềng, kế thừa và phát huy những truyền thống dân tộc dựa trên lòng hiếu
thảo và nâng cao ý thức cộng đồng. Chiến dịch cư xử nhấn mạnh tới trật tự
công cộng trên đường phố, những cách ứng xử tích cực, hành vi nơi công
cộng và cấm say rượu dẫn tới cư xử không đúng đắn. Chiến dịch môi trường
nhấn mạnh vấn đề vệ sinh khu vực đang sống và làm việc, gìn giữ môi trường
đường phố và phát triển màu xanh ở thành phố cũng như các con sông.
Tại nơi làm việc, các chiến dịch tập trung chủ yếu vào việc tạo ra các
giá trị và niềm tin lành mạnh cùng với cung cách ứng xử xã hội đúng mực
giữa những người đồng nghiệp. Mục tiêu chính là tạo ra sự thống nhất và kỷ
35
cương, giúp phát triển nông thôn và giúp những người vô gia cư.
Sáu là, phân cấp phân quyền và thực hiện dân chủ trong quản lý và
thực hiện dự án:
Trong thời kỳ đầu, phong trào Saemaul bắt đầu bằng việc Chính phủ
giao quyền tự quản rộng rãi cho chính quyền xã. Hội đồng xã và thị trấn thành
lập Ủy ban điều hành để đảm bảo kế hoạch được thực thi suôn sẻ. Các làng
đều có một người lãnh đạo (nam hoặc nữ) song hành cùng với ban phát triển
tự quản. Ban phát triển tự quản có hai phân ban chính của phụ nữ và thanh
niên cùng với một số tiểu ban khác. Họ có nhiệm vụ lập kế hoạch và điều
hành các tiểu ban để tăng được thu nhập xã và thúc đẩy những giá trị và tư
tưởng tiến bộ.
Các dự án Saemaul do hội đồng cấp huyện quyết định và phải có sự
nhất trí của Chánh án. Tiêu chí chọn dự án mới là sự cần thiết đối với người
dân, điều kiện sống được cải thiện cho tất cả người dân trong vùng và lợi ích
lâu dài của dự án.
Mỗi tháng ít nhất hai lần có viên chức nhà nước tới để kiểm tra và
hướng dẫn tiến độ của sáng kiến quốc gia theo chức trách. Lãnh đạo của các
phân ban có nhiệm vụ báo cáo tóm tắt hàng tháng và tổng kết tiến độ hàng
năm. Đánh giá từng giai đoạn là một bước rất quan trọng. Có ba báo cáo
chính: báo cáo tiền dự án, báo cáo lâm thời và báo cáo tổng kết dự án. Hiệu
quả của dự án trước được nghiên cứu rất kỹ lưỡng để phát triển tiếp những dự
án mới. Các bản báo cáo tổng kết dự án được sử dụng rộng rãi trong chế độ
bổ nhiệm cán bộ xã.
Bẩy là, tăng cường năng lực của lãnh đạo địa phương:
Sau một năm thực hiện kế hoạch, Chính phủ đã nhận ra tầm quan trọng
36
của người lãnh đạo. Những nơi có người lãnh đạo giỏi đã triển khai dự án rất
tốt, theo đúng đường lối của Nhà nước, còn những nơi khác thường tiêu phí
tài nguyên vô ích. Chính vì vậy, phải có người lãnh đạo tận tâm.
Nhận ra được tầm quan trọng của người cầm đầu dự án, năm 1972,
Chính phủ đã thành lập Học viện Bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo Saemaul. Mỗi xã
được phép cử một cán bộ (nam hoặc nữ) đi học. Khoá học bồi dưỡng lãnh đạo
nhấn mạnh vào sự cống hiến quên mình và nêu gương cho quần chúng. Công
tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ thực sự là tiền đề để phong trào Saemaul phát
triển trên khắp đất nước Hàn Quốc.
Tám là, thực hiện các chính sách hỗ trợ cho nông dân:
Để nông thôn có đủ nguồn lực và liên tục phát triển, Hàn Quốc đã tìm
mọi cách. Cụ thể là:
– Áp dụng chính sách miễn thuế xăng dầu, máy nông nghiệp, điện giá
rẻ cho chế biến nông sản;
– Cho nông dân thuê máy nông nghiệp;
– Giảm lãi suất tiền vay 2% so với các ngành nghề khác cho những dự
án đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn;
– Ban hành đạo Luật “Các ngành phải trợ giúp nông nghiệp, nâng cao
đời sống nông dân và ngư dân”.
Chính phù Hàn Quốc nhận thấy rằng mở cửa thị trường, nông dân bao
giờ cũng bị tổn thương nặng nhất. Năm 1993, Tổng thống Hàn Quốc đã phải
xin lỗi với nông dân khi mở cửa thị trường làm nông dân lao đao. Kể từ đó,
Chính phủ cam kết đầu tư mạnh mẽ cho nông nghiệp. Khi lao động làm việc ở
nông thôn ngày càng ít đi (năm 2007 dân số ở nông thôn chỉ còn 6,7%) và thu
nhập giữa nông thôn và thành phố chênh lệch lớn, Chính phủ đã cho triển
37
khai Dự án Khám phá làng nông thôn truyền thống. Cơ quan phát triển nông
thôn Hàn Quốc được giao triển khai dự án này. Có 141 làng nằm trong dự án,
mỗi làng được nhận khoản tiền đầu tư 200.000 USD. Mục đích của Dự án là
kéo người dân thành phố về với nông thôn.
Đồng thời, Nhà nước khuyến khích các doanh nghiệp tư nhân tham gia
mô hình du lịch làng với chiến dịch “Mỗi công ty – Một làng nông nghiệp”.
Thường thì mỗi doanh nghiệp đăng ký “đỡ đầu” cho một làng, mức tiền đầu
tư mà Nhà nước khuyến khích là tối thiểu 300.000 USD/làng. Tập đoàn
Hyundai hiện đang giúp đỡ 66 làng trên toàn quốc. Hàng năm Hyundai bố trí
một lực lượng nhân viên, công nhân của mình về các làng này giúp đỡ nông
dân gặt lúa, thu hoạch mùa màng, tham gia sửa nhà, sửa đường, chữa xe và
khuyến khích nhân viên tiêu thụ các loại nông sản cho nông dân.
Bên cạnh đó, Chính Phủ Hàn Quốc còn thực hiện:
- Hỗ trợ tài chính cho nông dân: Những nông dân có độ tuổi trên 65
được hỗ trợ nhượng bán hoặc cho thuê đất. Chương trình này bắt đầu từ năm
1997, theo đó, người trên 65 tuổi khi nhượng, bán hoặc cho thuê đất với thời
hạn trên 5 năm sẽ được hỗ trợ 3000 USD/ha.
- Thực hiện hỗ trợ cho lao động trẻ nhằm chống lại xu hướng già hóa
lực lượng lao động nông nghiệp và khuyến khích chuyên môn hóa. Theo đó,
hàng năm, Nhà nước chọn khoảng 1.000 lao động trẻ dưới 35 tuổi cho họ tiếp
nhận khoản vốn vay ưu đãi với mức tối đa tương đương 75.000 USD để họ
tham gia hoạt động nông nghiệp.
- Áp dụng chính sách chỉ bán đất sản xuất nông nghiệp cho những
người đăng ký là nông dân.
- Thực hiện chính sách người từ thành phố về sinh sống ở nông thôn
38
được trợ cấp lần đầu 50.000 USD và nhiều ưu đãi khác.
Kinh nghiệm xây dựng nông thôn mới của Hàn Quốc mang tầm vĩ mô
quốc gia nhưng có nhiều nội dung mà chúng ta có thể học hỏi được. Có
những việc trước đây họ đã làm tưởng là nhỏ nhưng bây giờ mới thấy là to
lớn. Chúng ta xây dựng được nông thôn của mình như Hàn Quốc đã làm nếu
chúng ta biết đoàn kết nhân dân, bồi dưỡng sức dân và khơi dậy sức mạnh
tiềm tàng trong dân.
1.5.2. Kinh nghiệm của Nhật Bản
Kinh nghiệm của Nhật Bản là đi theo hướng tạo ra những sản phẩm
mang nét riêng độc đáo, với giá trị gia tăng cao thì đời sống người nông dân ở
các làng quê mới có thể cải thiện. Đây sẽ là cơ hội cho nông dân có thể “ly
nông bất ly hương”, có được công ăn việc làm ổn định trên chính mảnh đất
quê hương mình.
Quan trọng hơn việc phát triển nghề phi nông nghiệp cũng là một trong
những biện pháp sử dụng nguồn lực tự nhiên ở khu vực nông thôn một cách
hiệu quả. Điều này còn góp phần to lớn vào việc bảo tồn, giữ gìn và phát triển
bản sắc văn hoá dân tộc, tạo nên sự khác biệt giữa các quốc gia trong thời kỳ
hội nhập.
Nhật Bản từng phát động chương trình xây dựng “Mỗi làng một sản
phẩm”, theo đó sản phẩm là của địa phương, thương hiệu mang tính toàn cầu.
Mục tiêu của phong trào không phải là làm ra những sản phẩm lưu niệm bán
cho khách du lịch, mà phải tạo ra những sản phẩm đặc trưng có thương hiệu
riêng. Sản phẩm này không chỉ tiêu thụ tại thị trường nội địa mà còn phải
vươn ra thị trường thế giới. Khi ấy, thu nhập của người nông dân mới đảm
bảo cho họ cuộc sống và gắn bó với công việc mình đang làm.
Trên nguyên tắc này, nông dân phải tự xác định đâu là tiềm năng và thế
39
mạnh của địa phương mình để từ đó có hướng đi cho phù hợp và phải tự chịu
rủi ro với những quyết định đó. Chính quyền chỉ khuyến khích và giúp họ
bằng việc hướng dẫn kỹ thuật, hỗ trợ xúc tiến thương mại, quảng bá giới thiệu
bán sản phẩm như: Tổ chức hội chợ triển lãm; thành lập các công ty tư nhân
để giới thiệu sản phẩm...
Tại Oita, một tỉnh nghèo cách Tokyo khoảng 800km từ năm 1979, với
sự hỗ trợ của chính quyền cùng sự sáng tạo của người dân địa phương, nhiều
sản phẩm như nấm Đông Cô, chanh Kabosu, rượu Shochu... đến nay không
chỉ được người người dân trên đất nước Nhật Bản mà còn được người tiêu
dùng tại nhiều nước trên thế giới biết đến tên tuổi nhờ sự đặc biệt và mùi vị
thơm ngon hiếm có. Điều này đã giúp cho thu nhập của người dân ở các địa
phương của Oita đã tăng lên 2,3 lần so với mức bình quân 11.200USD/người
vào năm 1979.
Một số kinh nghiệm trong phát triển nông nghiệp, nông thôn nêu trên
cho thấy, những ý tưởng sáng tạo, khâu đột phá và sự trợ giúp hiệu quả của
Nhà nước trên cơ sở phát huy tính tự chủ, năng động, trách nhiệm của người
dân để phát triển khu vực này, có ý nghĩa và vai trò hết sức quan trọng đối với
việc tăng thu nhập, đời sống của người dân nông thôn, giải quyết vấn đề bất
40
bình đẳng thu nhập giữa nông thôn và thành thị.
Chương 2
THỰC TRẠNG VỀ BẤT BÌNH ĐẲNG THU NHẬP GIỮA NÔNG
THÔN VÀ THÀNH THỊ CỦA VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA
2.1. Thực trạng về khoảng cách thu nhập giữa nông thôn và thành
thị trong quá trình đổi mới qua các chỉ số
2.1.1. Động thái thu nhập của người dân ở nông thôn và thành thị
Năm 1994, thu nhập bình quân một người ở nông thôn Việt Nam là
172.000 đồng. Từ năm 2002, thu nhập bình quân của người dân nông thôn đã
tăng từ 275.000 đồng/người/tháng lên 378.000 đồng/người/tháng năm 2004,
năm 2006 là 506.000 đồng/người /tháng, năm 2008 là 762.000 đồng/người
/tháng và năm 2010 là 1.070.000 đồng/người/tháng.
Theo hộ gia đình, năm 2006, thu nhập bình quân một hộ nông thôn đạt
26,1 triệu đồng, tăng 11,3 triệu đồng (75,8%) so với năm 2002. Tại thời điểm
1/7/2011, tích lũy bình quân một hộ nông thôn bằng tiền mặt và các khoản
khác đạt 17,4 triệu đồng (trung bình tích lũy đạt 4.461.000 đồng/người/năm),
so với tại thời điểm 1/7/2006 là 6,7 triệu đồng (trung bình tích lũy đạt
1.592.000 đồng/người/năm), tăng gấp 2,6 lần (con số tương ứng của năm
2006 so với năm 2001 là 3,2 triệu đồng, tăng gấp 2,1 lần).
Tuy nhiên, mức độ chênh lệch về tích lũy giữa các vùng ngày càng
tăng. Năm 2011, vùng Đông Nam bộ có mức tích lũy cao nhất với mức tích
lũy bình quân 24,2 triệu đồng/hộ, trong khi vùng trung du miền núi phía Bắc
chỉ đạt mức tích lũy bình quân 9,1 triệu đồng/hộ.
Mức độ chênh lệch về thu nhập giữa các loại hộ nông thôn cũng rất rõ
41
nét. Năm 2011, nhóm các hộ kinh doanh dịch vụ có mức tích lũy bình quân
cao, trong đó hộ thương nghiệp có vốn tích lũy bình quân cao nhất là 34,9
triệu đồng /hộ, tiếp đến là hộ dịch vụ khác 25,5 triệu đồng/hộ. Hộ thủy sản
cũng đạt cao với mức 25,2 triệu đồng, tiếp theo là hộ vận tải và hộ công
nghiệp đạt 20,7 triệu đồng. Nhóm các hộ có mức vốn tích lũy bình quân thấp
dưới 15 triệu đồng gồm hộ xây dựng là 14,8 triệu đồng, hộ nông nghiệp 12,9
triệu đồng, hộ lâm nghiệp 7,8 triệu đồng, hộ diêm dân có vốn tích lũy bình
quân thấp nhất là 6 triệu đồng, chỉ bằng 35% mức bình quân chung. Mức tích
lũy của hộ thương nghiệp gấp 5,8 lần của hộ diêm nghiệp, gấp 4,5 lần thu
nhập của hộ lâm nghiệp và gấp gần 2,7 lần của hộ nông nghiệp.
Bảng 2.1: Thu nhập, chi tiêu, tích lũy bình quân đầu người một tháng
theo giá thực tế của cả nước và phân theo thành thị, nông thôn
Năm
Thu nhập
Chi tiêu
Tích lũy
Tỷ
lệ
Tỷ lệ
Tỷ
lệ
Cả
Thành
Nông
Cả
Thành
Nông
Cả
Thành
Nông
chênh
chênh
chênh
nước
thị
thôn
nước
thị
thôn
nước
thị
thôn
lệch
lệch
lệch
1999
295
517
225
2,3
247
418
194
2,15
99
31
3,19
48
2002
356
622
275
2,26
293
498
232
2,1
63
124
43
2,88
2004
484
815
378
2,15
397
652
314
2,08
87
163
64
2,55
2006
636
1058
506
511
812
401
2,02
125
246
105
2,34
2,1
2008
995
1605
762
792
1245
619
2,01
203
360
143
2,52
2,1
2010
1387 2130
1070
2
1211 1828
950
1,92
176
302
120
2,52
Đơn vị tính: Nghìn đồng
Nguồn: Niên giám thống kê 2010
Tại thời điểm năm 2006, tích lũy bằng tiền và các khoản khác của một
hộ nông thôn là 5,9 triệu đồng, chiếm 90,2% tổng vốn tích lũy bình quân. Ước
42
tính tổng vốn tích lũy của các hộ nông thôn khoảng 87,7 nghìn tỉ đồng. Vốn
tích lũy bình quân cao nhất là hộ vận tải 13,4 triệu đồng, tiếp đến là hộ thương
nghiệp 12 triệu đồng, hộ thủy sản 10,3 triệu đồng và thấp nhất là hộ nông
nghiệp 5 triệu đồng. Vốn tích lũy bình quân bằng tiền mặt và các khoản khác
một hộ cao nhất là vùng Đông Nam Bộ là 9,6 triệu đồng, thấp nhất là vùng
Tây Bắc Bộ 3,05 triệu đồng. Những địa phương có vốn tích lũy bình quân
một hộ nông thôn từ 10 triệu đồng trở lên bao gồm: Hà Nội, Hồ Chí Minh,
Bắc Ninh, Bình Định, Bình Dương, Bà Rịa – Vũng Tàu, Bạc Liêu. Đến năm
2011, vốn tích lũy bình quân bằng tiền mặt và các khoản khác một hộ cao
nhất là vùng Đông Nam Bộ là 22,6 triệu đồng, thấp nhất là vùng Tây Bắc Bộ
7,3 triệu đồng. Trong khi tích lũy bằng tiền và các khoản khác của một hộ
nông thôn của cả nước là 15,6 triệu đồng, chiếm 89,6% tổng vốn tích lũy bình
quân. Ước tính tổng vốn tích lũy bằng tiền mặt và các khoản khác của các hộ
nông thôn khoảng 238,7 nghìn tỉ đồng.
Với người dân thành thị tại Việt Nam, năm 1999, thu nhập bình quân
đầu người đạt 517.000 đồng. Đến năm 2002 là 622.000 đồng, năm 2006 là
1.058.000 đồng, năm 2008 là 1.605.000 đồng, tăng 51,7% so với năm 2006 và
năm 2010 tăng lên 2.130.000 đồng, tăng 32,7% so với năm 2008.
Dù tích lũy của người dân nông thôn có tăng nhanh trong những năm
gần đây nhưng vẫn còn thấp, khó có thể đầu tư sản xuất có hiệu quả, sức mua
yếu. Theo điều tra của Trung tâm nghiên cứu khoa học gia đình và phụ nữ ở
đồng bằng sông Hồng trong 3 năm 2001-2004, cho thấy: do mức sống khởi
điểm thấp, chưa có hệ thống an sinh xã hội, môi trường đầu tư ở nông thôn rủi
ro cao, lợi nhuận thấp và nông dân chủ yếu đầu tư xây dựng và nâng cấp nhà
ở, chi cho ăn uống, mua sắm tiêu dùng, hiếu hỷ, chi phí học tập nên rất ít gia
đình đầu tư tái sản xuất mở rộng. Đến năm 2010 tình trạng này diễn ra ở ngay
cả các vùng nông thôn có thu nhập cao như vùng trồng cà phê Tây Nguyên,
43
vùng nuôi tôm ven biển, ven đô thị khi nông dân được bồi hoàn đất đai.
Chỉ xét đến các hộ nông dân, trị giá đồ dùng lâu bền bình quân 1 hộ
nông dân từ 6.025.000 đồng năm 2002 tăng lên 10.026.000 đồng năm 2006.
Đến năm 2011, trong 9,8 triệu hộ nông dân (chiếm 62% số hộ ở nông thôn),
tỷ lệ hộ có tài sản sản xuất cố định thấp. Các chuồng trại chăn nuôi nhiều nhất
cũng chỉ chiếm 30%. Các tài sản cố định khác như vườn cây, trâu bò, ngựa
kéo/sinh sản, lợn nái, lợn đực giống, bình bơm thuốc trừ sâu… mới chiếm
15%. Các tài sản cố định khác như nhà xưởng, ô tô, máy kéo… chiếm tỷ lệ rất
nhỏ. Với nguồn tích lũy nhỏ nên khả năng mở rộng và hiện đại hóa kinh
doanh nông nghiệp rất hạn hẹp. Năm 2010, vốn tích lũy bình quân của một hộ
nông dân là 7 triệu đồng và sử dụng 0,6 ha đất sản xuất rất khó tiến hành sản
xuất lớn, hiện đại. Năm 2011, cả nước có 20.028 trang trại, nhưng chỉ chiếm
0,2% tổng số hộ nông dân. Bình quân một trang trại sử dụng 4,5 ha đất nông
nghiệp, tương đương với một hộ nông dân nhỏ ở Thái Lan.
2.1.2. Khoảng cách thu nhập giữa nông thôn và thành thị qua các số
liệu thống kê hiện hành
Theo tỷ lệ thu nhập, khoảng cách thu nhập giữa người dân nông thôn và
thành thị liên tục giảm qua các năm. Thu nhập bình quân một người một
tháng năm 1993 và 1999 ở khu vực thành thị tương ứng gấp khu vực nông
thôn là 2,34 và 2,30. Đến năm 2002, thu nhập bình quân của người dân thành
thị là 622.000 đồng/người/tháng, người dân nông thôn là 275.000 đồng/người
/tháng, thu nhập người dân thành thị gấp 2,26 lần thu nhập của người dân
nông thôn. Năm 2004 khoảng cách này là 2,15, năm 2006 là 2,1, năm 2008 là
2,1 và năm 2010 thu nhập bình quân của người dân thành thị là 2.130.000
đồng/người/tháng, người dân nông thôn là 1.070.000 đồng/người/tháng, gấp
sấp sỉ 2 lần. Thu nhập bình quân 1 người 1 tháng năm 2010 theo giá hiện
hành của các vùng đều tăng so với năm 2008. Tuy nhiên, thu nhập giữa các
44
vùng có sự chênh lệch. Vùng có thu nhập bình quân đầu người cao nhất là
Đông Nam Bộ, cao gấp 3 lần vùng có thu nhập bình quân đầu người thấp nhất
là vùng Tây Bắc Bộ.
Theo mức thu nhập tuyệt đối, khoảng cách thu nhập giữa người dân
nông thôn và thành thị liên tục tăng qua các năm. Năm 1999, chênh lệch thu
nhập giữa thành thị và nông thôn là 296.000 đồng, năm 2002 là 347.000 đồng,
năm 2004 là 437.000 đồng, năm 2006 là 552.000 đồng, năm 2008 là 843.000
đồng và năm 2010 là 1.060.000 đồng.
So sánh trong cả nước, mức chênh lệch giữa nhóm 20% thu nhập cao
nhất và nhóm 20% thu nhập thấp nhất trong năm năm 1990 là 4,1 lần, năm
1991 là 4,2 lần, năm 1993 là 6,2 lần, năm 1994 là 6,5 lần, năm 1995 là
khoảng 7 lần thì nó đã tăng lên đến 8,1 lần trong năm 2002, 8,4 lần trong năm
2006 và 9,2 lần trong năm 2010. Qua một thước đo khác, hệ số Gini cũng cho
thấy xu hướng gia tăng bất bình đẳng ở Việt Nam trong nhiều năm qua. Trong
năm 1995 hệ số này của Việt Nam là 0,357 nhưng nó đã tăng lên đến 0,42
trong năm 2002 và 0,43 trong năm 2010.
Trong năm 2010, thu nhập bình quân đầu người tính theo giá hiện hành
đạt 1.387 nghìn đồng, tăng 38,4% so với năm 2008 và tăng bình quân
19,2%/năm trong các năm 2008-2010. Thu nhập thực tế của thời kỳ 2008-
2010 tăng 9,3% mỗi năm, cao hơn mức tăng thu nhập thực tế 8,4% mỗi năm
của thời kỳ 2006-2008 và 6,2% mỗi năm của thời kỳ 2004-2006.
Tốc độ tăng thu nhập năm 2010 của hộ dân cư chủ yếu do tốc độ tăng
từ công việc hưởng tiền lương, tiền công và công việc tự làm xây dựng; ở khu
vực nông thôn có thêm công việc tự làm thương nghiệp. Báo cáo 6 tháng đầu
năm 2011 tiền lương bình quân ở thành thị cao hơn 62,3% so với ở khu vực
45
nông thôn.
Bảng 2.2: Thu nhập bình quân đầu người 1 tháng theo giá thực tế phân
theo 5 nhóm thu nhập Đơn vị tính: Nghìn đồng
Trong đó nhóm 1 là nhóm có thu thập thấp nhất, nhóm 5 là nhóm có thu nhập
Theo nhóm thu nhập
Năm
Chênh lệch nhóm 5 thành thị và nhóm 1 nông thôn
Khu vực, Chênh lệch thành thị với nông thôn Cả nước
Chung 356
cao nhất, mỗi nhóm chiếm 20%. Nguồn: Niên giám thống kê 2010
Chênh lệch nhóm 5 và 1 8,1
Thành thị
184
324
622
664
1479
8,0
460
Nông thôn
100
160
275
299
599
6,0
218
2002
Tương đối
2,26
1,84
2,03
2,11
2,22
2,47
84
164
347
Tuyệt đối
365
880
242
14,9
142
241
484
Cả nước
514
1182
8,3
347
237
437
815
Thành thị
877
1914
8,1
616
Nông thôn
131
215
378
416
835
6,4
298
2004
Tương đối
2,16
1,81
2,03
2,07
2,11
2,29
1079
106
222
437
Tuyệt đối
461
318
14,6
184
319
636
Cả nước
679
1542
8,4
459
304
575
1058
Thành thị
1116
2488
8,2
808
172
287
506
Nông thôn
552
1122
6,5
394
2006
2,0
Tương đối
2,09
1,77
2,02
2,22
2,05
132
288
552
Tuyệt đối
564
1366
414
14,5
275
477
995
Cả nước
1067
2458
8,9
700
453
868
1605
Thành thị
1722
3752
8,3
1230
251
415
762
Nông thôn
829
1734
6,9
583
2008
Tương đối
2,11
1,80
2,09
2,08
2,16
2,11
202
453
843
Tuyệt đối
893
2018
647
14,9
369
668
1387
Cả nước
1490
3411
9,2
1000
633
1153
2130
Thành thị
2268
4984
7,9
1611
330
568
1070
1174
2462
7,5
820
Nông thôn
2010
1,93
2,02
1,96
Tương đối
2,0
1,92
2,03
Tuyệt đối
1060
303
585
791
1094
2522
15,1
46
1 108 2 178 4 370 5 872 3 251
Nếu như giai đoạn 2001-2007 vẫn đánh dấu những tăng trưởng nhất
định của tỷ trọng nông nghiệp thì giai đoạn 2007-2010 lại là dẫn chứng cho sự
thay đổi và tăng trưởng chậm lại của nền nông nghiệp. Nguyên nhân của tình
trạng đó được chỉ ra trong kết luận của nhiều nghiên cứu về đô thị hóa, bên
cạnh những tác động tích cực, quá trình đô thị hóa cũng tạo ra rất nhiều yếu tố
bất lợi cho phát triển nông nghiệp: Thiếu lao động, giá cả lao động, giá cả vật
tư nông nghiệp, quy mô sản xuất manh mún nhỏ lẻ…
Nông, lâm, thủy sản chuyển dịch cơ cấu diễn ra rõ rệt nhưng không
đồng đều. Trong ba ngành, ngành thủy sản có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất,
tiếp theo đến sản xuất nông nghiệp, tuy được đánh giá tăng không đều, cuối
cùng là lâm nghiệp.
Cơ cấu phân ngành nông nghiệp (trồng trọt – chăn nuôi – dịch vụ):
Trồng trọt vẫn là ngành sản xuất chính trong nông nghiệp, chiếm 77,06%
năm 2009, tuy vậy, nó đã có xu hướng giảm tỷ trọng. Chăn nuôi đã phát triển
khá, đạt mức tăng trưởng bình quân 6,8%/năm thời kỳ 2001 – 2009.
Ngành chăn nuôi tăng trưởng chủ yếu nhờ vào tăng số đầu con, hiệu
suất và chất lượng chăn nuôi vẫn còn thấp, thêm vào đó là tình trạng dịch
bệnh kéo dài liên tiếp trong những năm qua, đa số cơ sở giết mổ, chế biến quy
mô nhỏ, công nghệ lạc hậu làm cho sản phẩm cạnh tranh yếu, giá thành cao.
Trong những năm qua, Việt Nam cũng đạt được những bước tiến khá
lớn với lâm nghiệp. Chương trình phủ xanh đất trống, đồi trọc (Chương trình
327), chương trình trồng mới 5 triệu ha rừng cùng các chính sách giao đất,
giao rừng, cùng nhiều chính sách hỗ trợ khác đã góp phần tăng tỷ lệ che phủ
rừng từ 33,2% năm 1999 lên 37,5% năm 2006.
Đô thị hóa đã mang lại những nhu cầu cấp thiết về sử dụng đất, sử dụng
47
gỗ cho các ngành công nghiệp như giấy, chế biến đồ gia dụng khiến cho diện
tích rừng suy giảm nghiêm trọng nhưng thông qua đó, ngành chế biến lâm
nghiệp phát triển rất mạnh để đáp ứng nhu cầu thị trường.
Ngành lâm nghiệp tuy đạt được những thành tựu đáng kể nhưng lại là
ngành có tốc độ thấp nhất trong khu vực nông nghiệp, những hạn chế này
được đem đến bởi nhiều yếu tố: người làm nghề rừng đa số là người nghèo có
mức sống thấp, trình độ sản xuất không cao, quá trình đổi mới thể chế và
chính sách trong ngành lâm nghiệp diễn ra chậm hơn so với thủy sản và nông
nghiệp…
Nếu như giai đoạn 1995 – 2000, tốc độ tăng trưởng GDP nông nghiệp
là 4%, thì giai đoạn 2000 – 2005 giảm xuống còn 3,7% và năm 2006 còn
2,8%, năm 2007 xuống còn 2,3%. Trong khi đó, khu vực dịch vụ trong nông
nghiệp tăng trưởng rất chậm, tốc độ bình quân giai đoạn 2001 – 2007 là 3,6%.
Năm 2001, dịch vụ nông nghiệp đạt 2800,0 tỷ đồng, năm 2005 tăng lên
3106,8 tỷ đồng và năm 2009 là 3502,0 tỷ đồng. Dịch vụ nông nghiệp phát
triển là một dấu hiệu cho thấy nền nông nghiệp có những bước chuyển về
chất. Tuy nhiên, hiện nay dịch vụ nông nghiệp của Việt Nam vẫn còn yếu,
chưa đáp ứng được sản xuất và đời sống dân cư nông thôn.
Số đông dân cư Việt Nam vẫn sinh sống trong các vùng nông thôn nên
GDP của nông nghiệp tăng trưởng như vậy sẽ khó rút ngắn khoảng cách về
thu nhập giữa nông thôn và thành thị.
Phân tích số liệu trên để thấy biện pháp và hướng tác động vào phân
ngành nào của nông nghiệp – nông thôn một cách có hiệu quả nhất để có thể
nâng cao thu nhập của người dân nông thôn.
Theo nhóm ngũ vị phân, so sánh tỷ lệ thu nhập của nhóm 1 thành thị và
nhóm 1 nông thôn, tức là các nhóm nghèo nhất tại các khu vực, từ năm 2002
48
đến năm 2006, tỷ lệ này giảm liên tục, từ 1,84 lần năm 2002 xuống còn 1,77
lần năm 2006. Nhưng sau đó lại tăng mạnh lên từ 2008 trở đi, cụ thể năm
2008 là 1,80 lần và năm 2010 là 1,92 lần, như vậy năm 2010 còn cao hơn cả
năm 2002 là 1,92 so với 1,84. Điều đó thể hiện bất bình đẳng của nhóm 1
nông thôn tăng mạnh một cách tương đối. Trong khi đó, so sánh theo tỷ lệ thu
nhập của nhóm 5 thành thị và nông thôn, tức là các nhóm giầu nhất tại các
khu vực, từ năm 2002 đến 2010, tỷ lệ này giảm liên tục, từ 2,47 lần giảm
xuống còn 2,02 lần, thể hiện khoảng cách thu nhập của các nhóm giầu nhất đã
được giảm đáng kể.
Qua bảng 2.2, ta thấy theo chênh lệch thu nhập tuyệt đối, tất cả các
nhóm từ nhóm 1 đến nhóm 5 của thành thị so với các nhóm tương ứng ở nông
thôn đều tăng theo thời gian. Cụ thể chỉ xem xét nhóm 1 và 5, chênh lệch
tuyệt đối giữa nhóm 1 của thành thị với nhóm 1 của nông thôn tăng từ 84.000
đồng năm 2002 lên 132.000 đồng năm 2006 và lên cao 303.000 đồng năm
2010. Còn chênh lệch tuyệt đối giữa nhóm 5 của thành thị với nhóm 5 của
nông thôn đã tăng từ 880.000 đồng năm 2002 lên 1.366.000 đồng năm 2006
và tăng cao lên 2.522.000 đồng năm 2010, thể hiện khoảng cách chênh lệch
tuyệt đối của các nhóm tương ứng giữa thành thị và nông thôn liên tục tăng.
Về chi tiêu, tính chung cả nước, chi tiêu theo giá hiện hành năm 2010
bình quân đạt 1.211 nghìn đồng/người/tháng, tăng 52,8% so với năm 2008.
Chi tiêu thực tế thời kỳ 2008-2010 tăng 14,1% mỗi năm, cao hơn mức tăng
7,9% mỗi năm của thời kỳ 2006-2008.
Năm 2010 tổng mức chi tiêu bình quân đầu người ở khu vực nông thôn
đạt 950 nghìn đồng/người/tháng, tăng 53,4% so với năm 2008; khu vực thành
thị đạt 1.828 nghìn đồng/người/tháng, tăng 46,8% so với năm 2008. Nhìn
49
chung, tổng mức chi tiêu ở khu vực thành thị gấp 1,92 lần ở khu vực nông
thôn và có xu hướng hẹp dần khoảng cách (hệ số này ở thời kỳ 2006-2008 là
2,02 lần và năm 2002 là 2,15 lần).
Bảng 2.3: Cơ cấu và tỷ lệ chi tiêu bình quân đầu người 1 tháng theo giá
Chi đời sống chia ra
Tổng chi tiêu
Chi đời sống
Chi ăn, uống, hút
Năm
Khu vực, chênh lệch thành thị với nông thôn
Chi ăn, uống, hút / thu nhập
Chi ăn, uống, hút /tổng chi
Cả nước
Thành thị
2002
0,52 0,48 0,55
0,42 0,38 0,46
Nông thôn
Tỷ lệ
Tuyệt đối
Cả nước
Thành thị
2004
0,40 0,36 0,42
0,49 0,45 0,51
Nông thôn
Tỷ lệ tăng
Tuyệt đối
Cả nước
2006
0,38 0,34 0,40
0,48 0,44 0,50
Thành thị Nông thôn
Tỷ lệ
Tuyệt đối
Cả nước
Thành thị
2008
0,37 0,34 0,41
0,47 0,43 0,50
Nông thôn
Tỷ lệ
Tuyệt đối
Cả nước
Thành thị
2010
0,43 0,40 0,47
0,50 0,46 0,53
Nông thôn
Tỷ lệ
Thu nhập 356 622 275 2,26 347 484 815 378 2,16 437 636 1058 506 2,09 552 995 1605 762 2,11 843 1387 2130 1070 2 1060
293 498 232 2,15 266 397 652 314 2,08 338 511 812 401 2,02 411 792 1245 619 2,01 626 1211 1828 950 1,92 878
268 461 211 2,18 250 360 595 283 2,10 312 460 738 358 2,06 380 705 1114 548 2,03 566 1139 1726 890 1,94 836
Chi không phải ăn, uống, hút 117 223 84 2,65 139 167 304 123 2,47 181 217 382 157 2.43 225 332 573 239 2,40 334 537 883 390 2,26 493
151 238 127 1,87 111 193 291 160 1,82 131 243 356 201 1,77 155 373 541 309 1,75 232 602 843 500 1,69 343
Chi khác tính vào chi tiêu 25 37 21 1,76 16 37 57 31 1,84 26 51 74 43 1,72 31 87 131 71 1,85 60 72 102 60 1,70 42
Tuyệt đối
thực tế Đơn vị tính: Nghìn đồng
50
Nguồn: Niên giám thống kê 2010
Tỷ trọng chi cho ăn uống trong tổng chi tiêu và tổng thu nhập là một
chỉ tiêu đánh giá mức sống cao hay thấp. Tỷ trọng này càng cao thì mức sống
càng thấp và ngược lại. Việt Nam là một nước còn nghèo, nên tỷ trọng này
còn cao.
Xét tỷ trọng chi cho ăn uống trong tổng thu nhập. Từ năm 2002 đến
năm 2008, trong cả nước, tỷ trọng này đã giảm từ 42% xuống còn 37% nhưng
năm 2010 đã tăng vọt lên 43%. (do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế).
Tương ứng ở khu vực thành thị và nông thôn tỷ trọng này cũng giảm từ năm
2002 đến năm 2008 và năm 2010 đã tăng vọt lên: Ở khu vực thảnh thị năm
2010 tỷ trọng chi cho ăn uống trong tổng thu nhập là 40%, ở khu vực nông
thôn là 47%.
Nếu so sánh tỷ trọng này với các khu đô thị lớn thì sự khác biệt ở nông
thôn còn cao hơn nữa. Trung bình một nhân khẩu một tháng tại khu vực thành
thị năm 2008 ở Hà Nội chi hết 779,8 nghìn đồng cho ăn uống (chiếm 43,2%
thu nhập). Còn người dân TP.HCM chi hết 612,1 nghìn đồng/tháng (chiếm
42,2% thu nhập cá nhân). Đến năm 2010 chi tiêu cho ăn uống của người dân
Hà Nội chiếm 35,5% tổng thu nhập của người dân, trong khi chi tiêu cho ăn
uống của người dân Thành phố Hồ Chí Minh là 34,3% tổng thu nhập của
người dân.
Năm 2010 chi tiêu cho ăn uống bình quân đầu người ở khu vực nông
thôn đạt 500 nghìn đồng/người/tháng, chiếm 52,5% tổng chi tiêu và tăng
61,3% so với năm 2008; khu vực thành thị đạt 843 nghìn đồng/người/tháng,
chiếm 46,1% tổng chi tiêu và tăng 55,8% so với năm 2008. Có thể thấy chi
tiêu cho ăn uống của người dân nông thôn tăng nhanh hơn người dân thành thị
51
(61,3% so với 55,8%) và chiếm tỷ lệ cao hơn trong tổng chi (ở nông thôn là
52,5% và thành thị là 46,1%). Điều này phần nào phản ánh sự khác biệt thu
nhập ở nông thôn là cao hơn so với thành thị.
Một khía cạnh khác cần quan tâm là tỷ lệ hộ nghèo.
Bảng 2.4: Tỷ lệ hộ nghèo
Trong đó: * Chuẩn nghèo mới
Tỷ lệ hộ nghèo nông thôn /thành thị
Năm Cả nước Thành thị Nông thôn
1996 41,31 22,27 53,86 2,4
1998 37,4 19 44,9 2,36
1999 28,21 16,83 35,6 2,11
2002 23 10,6 29,0 2,73
2004 18,1 8,6 21,2 2,46
2006 15,5 7,7 18 2,33
2008 13,5 6,7 16,1 2,4
2009 13 6,2 15 2,42
2010 10,7 5,1 13,2 2,59
(14,2)* (6,9)* (17,4)* 2,5*
2011 12,6* 5,1* 15,9* 3,11*
Tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh của Việt Nam trong suốt thập kỷ
1990 đã có tác động quan trọng đến việc xoá đói giảm nghèo và phát triển xã
hội. Việt Nam đã thoát khỏi nhóm các nước nghèo với thu nhập bình
quân/người năm 2008 trên 1051,4 USD/người/tháng, tỷ lệ nghèo sống dưới
1,25 USD/ngày theo chuẩn quốc tế giảm từ 15,05% (năm 1998) xuống còn
52
3,8% (năm 2008).
Nếu căn cứ theo chuẩn nghèo của Chính phủ cho từng giai đoạn và điều
chỉnh theo trượt giá thì kết quả điều tra mức sống hộ gia đình chỉ ra rằng tỷ lệ
nghèo của Việt Nam đã giảm từ 58% năm 1993 xuống còn 10,7% (theo chuẩn
nghèo mới là 14,2%) năm 2010. Trong khi thu nhập giữa thành thị và nông
thôn khoảng 2 lần thì tỷ lệ hộ nghèo của nông thôn và thành thị là 3,1 lần.
(năm 2011 tỷ lệ hộ nghèo nông thôn là 15,9% và thành thị là 5,1%.).
Nhìn chung, tuy kinh tế - xã hội nước ta đang diễn ra trong bối cảnh
không ít khó khăn, thách thức, nhưng cùng với đà phục hồi kinh tế, thu nhập
năm 2010 của cư dân tiếp tục tăng, tỷ lệ hộ nghèo giảm, đời sống của các tầng
lớp dân cư tiếp tục ổn định. Tuy nhiên, mức sống vẫn có sự cách biệt giữa
thành thị và nông thôn, giữa một số vùng, đặc biệt vùng Tây Bắc, Đông Bắc,
Tây Nguyên còn khó khăn nhất so với các vùng khác. Nếu năm 2002, chênh
lệch giữa nhóm có thu nhập cao nhất và thấp nhất khu vực nông thôn và vùng
Tây Bắc chỉ là 6 lần; vùng Đông Bắc là 6,2 lần; vùng Tây Nguyên là 6,4 lần
thì đến năm 2010, mức chênh lệch này ở vùng nông thôn là 7,5 lần, còn đối
với các vùng Tây Bắc, Đông Bắc, Tây Nguyên tương ứng là 8,2, 7,2, và 8,3.
Đây là vấn đề đòi hỏi các nhà hoạch định chính sách phải tiếp tục quan tâm
giải quyết.
2.1.3. Khoảng cách thực tế về thu nhập giữa nông thôn và thành thị
Theo số liệu công bố hiện hành thì khoảng cách thu nhập giữa nông
thôn và thành thị không phải là cao, chỉ khoảng 2 lần. Tuy nhiên, xét đến thu
nhập của người dân vẫn còn rất thấp, đặc biệt là người dân nông thôn, nhiều
cuộc phỏng vấn cá biệt cho thấy, những người dân nông thôn được hỏi trả lời
không thể kiếm được dù chỉ 500 – 1000 đồng/ngày. Số liệu của Ban chỉ đạo
Tây Nam bộ công bố cho biết đồng bằng sông Cửu Long thu nhập của nhóm
53
hộ nghèo nhất phổ biến chỉ từ 4.000-6.000 đồng/người/ngày và vì vậy họ phải
ra thành thị để tìm việc làm tạo thu nhập. Thêm vào đó việc tìm kiếm một
việc làm tạo thu nhập ở nông thôn rất khó khăn, dù số liệu thống kê chính
thức công bố tỷ lệ thất nghiệp 6 tháng đầu năm trong năm 2012 của lao động
trong độ tuổi là 2,29%; trong đó khu vực thành thị là 3,62% và khu vực nông
thôn là 1,65%.
So sánh với cùng kỳ năm 2011 có tỷ lệ thất nghiệp chung là 2,58%, thất
nghiệp thành thị là 3,96% và nông thôn là 2,02% thì tỷ lệ thất nghiệp sáu
tháng đầu năm 2012 tương đối thấp, nhất là trong bối cảnh khủng hoảng kinh
tế vẫn tiếp tục tác động mạnh đến nền kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên sáu tháng
đầu năm 2012, tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi là 3,06%; trong
đó khu vực thành thị là 1,92%, khu vực nông thôn là 3,6%. Tỷ lệ thất nghiệp
ở nông thôn thấp trong khi ở thành thị cao một phần do lao động không có
việc làm ở nông thôn đã ra thành thị tìm việc. Con số thiếu việc làm của lao
động ở nông thôn cao hơn thành thị cũng phản ánh công việc ở nông thôn
không đầy đủ như ở thành thị.
Khi nhìn nhận về việc làm tại khu vực nông thôn, người lao động
thường có cách nhìn nhận đơn giản là không thiếu việc làm. Nhưng công việc
nghề nông thường chiếm tương đối lớn thời gian trong khi thu nhập thấp, chỉ
giúp duy trì nhu cầu cơ bản của cuộc sống. Nếu nhìn nhận về khía cạnh tìm
kiếm công việc những lúc nông nhàn hay khi mất đất cần chuyển đổi công
việc thì vô cùng khó khăn, hoặc nếu có thì không mang lại hiệu quả cao và ổn
định. Tự tạo việc tự làm là tương đối quan trọng hơn ở khu vực nông thôn
(chiếm hơn 70% tổng số việc làm) so với khu vực thành thị (chiếm dưới 10%
tổng số việc làm). Điều này phản ánh cơ cấu việc làm và tầm quan trọng của
các doanh nghiệp quy mô nhỏ ở nông thôn hơn ở thành thị. Nói chung, tự tạo
việc làm giản đơn có thu nhập tương đối thấp không mang lại hiệu quả cao
54
trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước.
Làm việc bán thời gian cũng phổ biến ở nông thôn hơn ở thành thị. Do
đặc thù làm nông nghiệp theo mùa vụ nên lao động nông thôn có xu hướng
tìm các công việc bán thời gian, điều này ảnh hưởng tới tập quán và tác phong
công việc. Tại nhiều địa phương các công việc bán thời gian phục vụ mục
đích duy trì cuộc sống hàng ngày ở mức thấp chứ chưa theo thói quen làm
việc lâu dài, ổn định để tích lũy. Do làm việc bán thời gian không duy trì
thường xuyên nên khó tạo thu nhập ổn định.
Việc làm và thu nhập là những chỉ tiêu cơ bản mà các cuộc điều tra
lao động và việc làm đều cố gắng thu thập. Tuy nhiên, thu nhập là chỉ tiêu
khó thu thập chính xác, nhất là đối với những lao động không phải là người
làm công ăn lương như những người lao động tự do, người làm nông
nghiệp.
Nhưng cần nói thêm là các số liệu thống kê chỉ cho thấy những con số
có thể thu thập được. Chúng không phản ánh những nguồn thu nhập bất chính
không được khai báo. Do đó, thực tế bất bình đẳng ở Việt Nam có thể cao hơn
những con số được công bố. Ngoài ra, vấn đề càng trầm trọng hơn một khi
người dân cảm thấy rằng một phần nào đó của bất bình đẳng không phải là do
khả năng thực thụ đem lại.
Nhóm người có thu nhập thấp nhất ở nông thôn thu nhập theo giá thực
tế tăng 3,3 lần từ năm 2002 đến 2010 thì nhóm thu nhập cao nhất ở nông thôn
tăng 4,1 lần. Trong khi ở thành thị thu nhập của nhóm người có thu nhập thấp
nhất theo giá thực tế tăng 3,44 lần từ năm 2002 đến 2010 và nhóm thu nhập
cao nhất tăng 3,36 lần. Ta thấy các nhóm dân cư ở nông thôn và thành thị thu
nhập đều tăng, cuộc sống đều cải thiện nhưng nhóm thu nhập thấp nhất ở
55
nông thôn tăng chậm nhất và nhóm thu nhập cao nhất ở nông thôn tăng nhanh
nhất. Điều đó cũng giải thích con số chỉ khoảng cách giàu nghèo ở nông thôn
nói riêng và cả nước nói chung đều tăng.
So sánh giữa nhóm có thu nhập cao nhất ở thành thị và nhóm có thu
nhập thấp nhất ở nông thôn ta thấy mặc dù tỷ lệ không thay đổi nhiều qua các
năm nhưng lại ở mức rất cao: năm 2002 là 14,9 lần, năm 2006 là 14,5 lần và
năm 2010 là 15,1 lần. Điều này cho thấy khoảng cách lớn của các “cực thu
nhập” giữa hai khu vực này.
Trong những năm qua nông nghiệp, nông dân và nông thôn nước ta đã
có bước phát triển khá toàn diện và to lớn. Nhưng hiện nay, sản xuất nông
nghiệp vẫn còn nhiều khó khăn, thu nhập của nông dân từ sản xuất nông
nghiệp còn thấp, đời sống của nông dân nhìn chung vẫn còn khó khăn. Hơn
85% số hộ nghèo của cả nước hiện đang sống ở các vùng nông thôn.
Gần đây, nhờ vào các nguồn dữ kiện mới (thí dụ như Vietnam
Household Living Standards Surveys 2002-2003 và 2007-2008 hay Multi-
Purpose Household Survey của Tổng cục Thống kê Việt Nam), các nhà kinh
tế Việt Nam và nước ngoài đã làm một số nghiên cứu ứng dụng về phân phối
và chênh lệch thu nhập/tiêu thụ tại Việt Nam (Pham, L.H. & Pham. T.V. 2010
tóm tắt phần lớn các nghiên cứu này). Rất nhiều nghiên cứu về phân phối (ví
dụ như Dollar & Glewwe 2008, Glewwe, Gragnolati & Zaman 2010, Liu
2011, v.v) tập trung vào tiêu thụ thay vì thu nhập. Tuy số liệu thu nhập của
Việt Nam chưa khả tín và phương pháp nghiên cứu chưa hoàn hảo, các phát
hiện của những công trình nghiên cứu này khá đồng nhất với nhau. Các kết
luận chính là: Tuy chênh lệch mức sống tại Việt nam có xu hướng tăng lên
sau đổi mới, mức độ chênh lệch thu nhập tại Việt Nam tương đối thấp so với
56
các nước láng giềng; phân hóa giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn tại Việt
Nam tăng lên và khoảng cách kinh tế giữa các vùng tại Việt Nam cũng tăng
lên.
Một điểm nữa cũng cần lưu tâm là nếu xét từ năm 2005-2009, tốc độ
tăng giá của GDP hơn 50% nhưng sự thay đổi giá USD chỉ vào khoảng 14%.
Như vậy, việc tính GDP bình quân đầu người theo USD như hiện nay (lấy
GDP theo giá hiện hành chia cho tỷ giá liên ngân hàng) về thực chất không
thể hiện đúng mức thu nhập vì nếu đồng tiền Việt Nam mất giá nhanh hơn
đồng USD thì cũng đẩy thu nhập bình quân đầu người tính theo USD cao hơn.
Số liệu thống kê cho thấy trong khi GDP bình quân đầu người năm 2009 tăng
1,14% so với năm 2008, thì tổng thu nhập quốc gia bình quân đầu người lại
giảm 1,2%. Ở khu vực nông thôn thu nhập đã thấp hơn thành thị thì lại càng
nghèo khó hơn.
Về chi tiêu, chi tiêu cho đời sống ở nông thôn năm 2010 là 890.000
đồng, chiếm 93,7% tổng chi và tăng 62,4% so với năm 2008. Ở khu vực thành
thị chi tiêu cho đời sống là 1.726.000 đồng, chiếm 94,4% tổng chi và tăng
54,8% so với năm 2008. Trên cả nước, nhóm hộ giàu nhất có mức chi tiêu
những hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng ngoài ăn uống lớn gấp 7,5 lần so với nhóm
hộ nghèo nhất, trong đó chi về nhà ở, điện nước, vệ sinh gấp 11,7 lần, chi
thiết bị vệ sinh và đồ dùng gia đình gấp 5,8 lần, chi văn hóa thể thao giải trí
gấp 131. Khi phân tích số liệu của cả nước thì lưu ý là năm 2010, có 85% số
dân thành thị thuộc 2 nhóm ngũ vị phân cao, trong khi gần 50% số dân nông
thôn thuộc 2 nhóm ngũ vị phân thấp.
Tỉ lệ nghèo đói ở cả hai khu vực nông thôn và đô thị đều giảm dần
trong những năm gần đây, nhưng ở nông thôn không giảm nhanh bằng đô thị.
Điều này đã làm cho sự chênh lệch về tỉ lệ nghèo giữa nông thôn và thành thị
57
ngày càng doãng ra từ 2,4 lần (năm 1996) lên 2,46 lần (năm 2004), 2,52 lần
(năm 2010) và 3,11 lần (năm 2011). Từ 1996 đến 2011, tỷ lệ hộ nghèo của
thành thị giảm 4,36 lần trong khi ở nông thôn chỉ giảm 3,39. Điều đó cũng có
nghĩa rằng sự bất bình đẳng về tỉ lệ nghèo giữa nông thôn và thành thị ngày
càng lớn, tức là nông thôn ngày càng nghèo đi “tương đối” nhiều hơn so với
thành thị.
Sau khi mức chuẩn nghèo được điều chỉnh từ thu nhập 350.000 đồng
/người/tháng lên 400.000 đồng/người/tháng tại nông thôn; từ 440.000 đồng
/người/tháng lên 500.000 đồng/người/tháng tại khu vực thành thị thì năm
2010 tỷ lệ hộ nghèo của cả nước tăng lên thành 14,2%, trong đó nông thôn là
17,4% và thành thị là 6,9%. Năm 2011, tỷ lệ hộ nghèo của cả nước giảm
xuống 12,6%, trong đó nông thôn là 15,9% và thành thị là 5,1%.
Khoảng cách giầu nghèo của cả nước năm 2002 và 2006 là 8,1 và 8,4;
tăng mạnh lên 9,2 năm 2010. Trong khi tương ứng khoản cách này ở thành thị
là 8,0; 8,2 và 7,9. Còn khu vực nông thôn là 6,6; 6,5 và tăng cao lên 7,5 vào
năm 2010. Như vậy, khoảng cách giàu nghèo ở thành thị tương đối ổn định
thì ở nông thôn lại có xu hướng tăng mạnh.
Vấn đề khác cũng rất cần lưu ý là thu nhập liên quan đến tài sản.
Chênh lệch tài sản ở Việt Nam trong những năm gần đây còn tăng nhanh hơn
chênh lệch thu nhập, với sự tích tụ của cải hay nguồn lực của xã hội (đặc biệt
là đất đai, vốn, quyền khai thác tài nguyên, quyền kinh doanh một số lĩnh vực
có lợi nhuận cao…) ở quy mô lớn vào tay một số ít người, đồng thời làm cho
một số lớn hơn nhiều bị mất hoặc giảm mạnh tài sản của mình (như nông dân
mất đất canh tác). Tham nhũng, lãng phí lan rộng với mức độ ngày càng nặng
nề cũng góp phần quan trọng tạo nên chênh lệch tài sản lớn hơn.
Có chuyên gia cho rằng chênh lệch tài sản lại làm tăng chênh lệch thu
58
nhập. Thu nhập từ tài sản có thể lớn hơn nhiều so với các thu nhập khác của
những người thu nhập cao, trong khi mất tài sản có thể làm triệt tiêu nguồn
thu nhập lâu dài, thậm chí kéo dài nhiều thế hệ, của nhiều gia đình.
Không có số liệu thống kê chính thức nhưng khoảng cách chênh lệch về tài
sản giữa nông thôn và thành thị chắc chắn lớn hơn khoảng cách chênh lệch về
thu nhập.
Xét về mức độ đầu tư: Vốn đầu tư nước ngoài vào nông nghiệp trong năm 2008 chỉ chiếm 0,32% trong tổng đầu tư FDI của cả nước. Năm 2009, tỷ lệ này chỉ ở mức 0,58%. Giai đoạn từ năm 1988-2009, trong 21 năm, vốn FDI đầu tư cho ngành nông nghiệp cũng chỉ chiếm tỷ lệ 2,3%, dù giai đoạn này nông nghiệp chiếm đến 27,7% GDP. Tính đến ngày 14/7/2010, số dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài trong nông nghiệp còn hiệu lực là 485 dự án với tổng số vốn đầu tư là 3,076 tỷ USD, chiếm 4,1% tổng số dự án và 1,63% tổng số vốn của dự án có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài còn hiệu lực của cả nước. Theo thống kê gần đây FDI đầu tư cho ngành nông nghiệp xuống còn dưới 1% tổng nguồn vốn mà Việt Nam thu hút được, còn đầu tư của tư nhân trong nước thì chỉ chiếm từ 13% đến 15% tổng số đầu tư mới của mỗi năm.
Đầu tư cho nông nghiệp năm 2009 chỉ bằng 6,26% tổng đầu tư toàn xã
hội (trong khi GDP của ngành này là 20,91%) và hiện đầu tư vào nông nghiệp
chỉ chiếm chưa đến 3% tổng GDP.
Theo báo cáo giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, giai đoạn
2006-2011, tổng đầu tư cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn từ nguồn ngân
sách nhà nước và trái phiếu chính phủ là 432.788 tỷ đồng, bằng 49,67% tổng
vốn đầu tư phát triển nguồn ngân sách nhà nước và trái phiếu chính phủ.
Trong đó, đầu tư cho phát triển sản xuất các ngành nông – lâm - ngư nghiệp là
153.548 tỷ đồng, chiếm 35,48%. Đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã
hội, giảm nghèo ở nông thôn là 279.240 tỷ đồng, chiếm 64,52%.
Như vậy, khu vực nông thôn chiếm 70% dân số nhưng chỉ được đầu tư
59
50% từ vốn ngân sách nhà nước. Vốn đầu tư FDI cho nông nghiệp hiện chỉ
đạt 1% và đầu tư của tư nhân chỉ đạt 13% – 15%. Người dân nông thôn sẽ
nhận thấy được đầu tư ít hơn thành thị rất nhiều, tài sản ở thành thị nhiều hơn
ở nông thôn.
Tổng đầu tư xã hội ở nước ta khoảng 35 - 40% GDP. Trong đó, chi tiêu
Nhà nước chiếm hơn 50%. Chi của Nhà nước có nhiều khoản, chi phí văn
phòng, mua xe cũng thất thoát nhưng thất thoát trong nguồn vốn đầu tư phát
triển (khoảng 30% tổng đầu tư xã hội) được biết đến nhiều nhất. Mà nếu để
thất thoát khoảng 25% lượng vốn này thì nó tương đương 4-5% GDP, cũng có
thể hiểu thất thoát ấy sẽ kéo tụt tốc độ tăng GDP xuống từ 4- 5%. Những
nguồn thất thoát, thu nhập bất chính này ở lại thành thị nhiều hơn. Người dân
cảm nhận rõ ràng thấy người dân thành thị giầu hơn nông thôn. Những khoản
thu nhập này không được thể hiện trong số liệu thống kê chính thức của Nhà
nước ở mục trên. Hệ số Gini của Việt Nam hiện là 0,43, hệ số này chưa tính
tới bất bình đẳng bắt nguồn từ chênh lệch về tài sản và thu nhập, từ thừa kế,
đầu cơ đất đai, chứng khoán, tham nhũng… Do vậy trên thực tế tình trạng bất
bình đẳng thu nhập thực tế ở thành thị so với nông thôn của Việt Nam có thể
cao hơn mức phản ánh của hệ số Gini và số liệu đã công bố.
Trong lúc tổng thu nhập quốc gia ngày càng nhỏ so với GDP (năm
2000 tỷ lệ này là 98,6% GDP đến năm 2009 giảm còn 94% GDP) thì tỷ lệ tiết
kiệm từ nền kinh tế cũng giảm nhanh chóng, đặc biệt từ 2006 đến nay (từ
36% xuống còn 29% GDP). Tiết kiệm của nội bộ nền kinh tế là nguồn cơ bản
để đầu tư, thế nhưng tỷ lệ tiết kiệm trên tổng vốn đầu tư hàng năm lại giảm
nhanh, từ 87% của năm 2006 xuống chỉ còn 67% trong năm 2009. Như vậy là
trong 4 năm, tỷ lệ này giảm gần 20%.
Hiện tại các con số thực tế về chênh lệch thu nhập của các nhóm dân
60
cư, nhóm ngành nghề, thậm chí nhóm các vùng miền đang gia tăng khoảng
cách và gia tăng số người có thu nhập thấp do khủng hoảng kinh tế, doanh
nghiệp phá sản, thất nghiệp triền miền đặc biệt là những ngành nghề sản xuất
kinh doanh vừa và nhỏ, thủ công, nông nghiệp, chế biến, sản phẩm công
nghiệp, lắp giáp... vì khả năng tiêu thụ sản phẩm giảm mạnh trên cả thị trường
trong nước và quốc tế.
Do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới, nền kỉnh tế của Việt
Nam cũng bị ảnh hưởng, mặc dù thu nhập của người dân thành thị và nông
thôn đều tăng nhưng chi tiêu cũng tăng cao. Từ năm 2008 đến năm 2010, chi
tiêu của người dân thành thị tăng 1,46 lần thì người dân nông thôn tăng 1,53
lần, trong khi tích lũy bằng tiền mặt của người dân thành thị nông thôn đều
giảm 1,19 lần và người dân nông thôn giảm 1,19. Mức tích lũy của người dân
thành thị gấp 2,52 lần người dân nông thôn. Như vậy về tích lũy bằng tiền mặt
là khoản tiền còn lại sau khi trừ thu nhập cho mức chi tiêu thì người dân thành
thị hơn 2,52 lần người dân nông thôn, trong khi thu nhập tương ứng chỉ là 2
lần. Cả thành thị và nông thôn tích lũy đều giảm hơn trước và xu thế ở nông
thôn giảm nhanh hơn do phải chi tiêu nhiều hơn.
2.2. Đánh giá chung bất bình đẳng thu nhập giữa nông thôn và
thành thị ở Việt Nam hiện nay
2.2.1. Mức độ bất bình đẳng và xu hướng của nó
Theo tỷ lệ thu nhập bình quân đầu người, mức độ bất bình đẳng thu
nhập giữa khu vực thành thị và nông thôn có xu hướng giảm dần. Trong giai
đoạn trước năm 2002 thì tỷ lệ này giảm nhanh. Năm 1996 là 2,7 lần, năm
1999 là 2,3 lần, năm 2002 là 2,26 lần. Sau 2002 thì tỷ lệ này giảm chậm hơn,
cụ thể năm 2004 là 2,15, 2006 và 2008 đều là 2,1 lần và năm 2010 là 2 lần.
Trong thời gian tới dự đoán theo tỷ lệ, khoảng cách thu nhập giữa khu vực
61
thành thị và nông thôn tiếp tục được cải thiện nhưng sẽ không giảm nhanh.
Ngược lại, theo mức thu nhập tuyệt đối, chênh lệch về thu nhập giữa
nông thôn và thành thị có xu hướng tăng liên tục qua các năm. Năm 1999,
chênh lệch thu nhập bình quân đầu người giữa thành thị và nông thôn là
296.000 đồng, năm 2002 là 347.000 đồng, năm 2004 là 437.000 đồng, năm
2006 là 552.000 đồng, năm 2008 là 843.000 đồng và năm 2010 là 1.060.000
đồng. Sau mỗi 2 năm thì chênh lệch tuyệt đối tăng khoảng 30% - 50%, tức là
trung bình khoảng 15 – 25% mỗi năm. Dự đoán chênh lệch tuyệt đối về thu
nhập giữa thành thị và nông tiếp tục tăng trong thời gian tới.
Khoảng cách giàu nghèo chung của cả nước tăng liên tục từ 8,1 lần
năm 2002 lên 9,2 lần năm 2010, dự đoán sẽ tiếp tục tăng. Trong tương lai gần
dự đoán khoảng cách giàu nghèo thành thị sẽ giảm do lĩnh vực bất động sản,
nơi tập trung nhiều tiền đầu tư của những người có thu nhập cao, có biểu hiện
tăng chậm lại thậm chí đi xuống và khủng hoảng kinh tế tác động mạnh hơn
đến nhóm có thu nhập cao, giầu có ở thành thị làm thu nhập của nhóm này
không duy trì được mức độ tăng cao. Từ năm 2002 đến 2008, khoảng cách
giàu nghèo tại thành thị tăng liên tục từ 8,1 lần lên 8,3 lần. Nhưng năm 2009,
nền kinh tế bắt đầu chịu sự ảnh hưởng của khủng hoảng nên khoảng cách này
giảm mạnh xuống 7,9 lần năm 2010. Ngược lại, khoảng cách giàu nghèo ở
nông thôn lại liên tục tăng, từ 6,0 lần năm 2002 lên 7,5 lần năm 2010 và dự
đoán tiếp tục tăng do tình hình tăng trưởng kinh tế ở nông thôn vẫn ổn định,
nhóm thu nhập cao ở nông thôn đầu tư vào khu vực nông thôn thu được lợi
nhuận cao, do so sánh một cách tương đối với thành thị thì ở nông thôn vẫn
đang trong giai đoạn đầu phát triển kinh tế, hệ số vốn đầu tư/thu nhập thấp.
Khoảng cách giữa nhóm có thu nhập cao nhất ở thành thị và thấp nhất ở
nông thôn vẫn duy trì ở mức cao, khoảng 15 lần và vẫn có xu hướng tăng
62
chậm. Ngoài ra, dự đoán chệnh lệch nói chung giữa thành thị và nông thôn xét
trên tổng thể nhiều lĩnh vực như tài sản, giáo dục, y tế, đầu tư, cơ hội… vẫn
rất lớn và tương lai chưa thể thu hẹp ngay khoảng cách này được.
2.2.2. Các hệ quả của bất bình đẳng thu nhập giữa nông thôn và
thành thị
Bất bình đẳng thu nhập giữa nông thôn và thành thị đã tác động đến sự
phân bố dân cư giữa nông thôn và thành thị. Do mong muốn có một công việc
ổn định, lương cao, nhiều người ở nông thôn đã di cư đến thành thị, dẫn đến
khu vực thành thị dân số tăng nhanh cả về tuyệt đối và tỷ lệ tương đối.
Từ bảng 2.5, ta thấy tính đến năm 2011, nước ta có 27.888.200 người
sống ở khu vực thành thị, chiếm 31,74% tổng dân số cả nước. Trong khi đó,
với tỷ lệ tăng chậm, dân số nông thôn là 59.951.800 người, chiếm 68,26%
trong tổng dân số.
Trong mười năm qua (1999 - 2009), dân số thành thị nước ta đã tăng
với tốc độ trung bình là 3,4% mỗi năm trong khi tốc độ này ở khu vực nông
thôn chỉ 0,4% mỗi năm. Tỷ suất sinh theo độ tuổi từ 15-50 của nữ giới ở thành thị là 17,3o/oo và ở nông thôn là 22,3o/oo. Thậm chí vào năm 1997, trong
khi tốc độ tăng dân số thành thị đạt đỉnh cao 9,18% thì dân số nông thôn lại
tăng trưởng âm 0,46%. Từ 2009 - 2011, dân dân số thành thị nước ta đã tăng
liên tục với tốc độ trung bình là 4,3% mỗi năm trong khi ở khu vực nông thôn
giảm liên tục với tốc độ giảm 0,27% mỗi năm.
Nguyên nhân chính khiến dân số thành thị tăng nhanh là do sự mở rộng
của thị trường lao động đã tác động tới lượng dân di cư. Thời kỳ di cư mạnh
nhất là giai đoạn 2004 - 2009 do lượng khu chế xuất, khu công nghiệp được
63
mở ra ở nhiều nơi đã góp phần phân bố lại dân số.
Bảng 2.5: Dân số trung bình phân theo thành thị, nông thôn
Đơn vị tính: Nghìn người
Cả nước
Thành thị
Nông thôn
Cả nước
Thành thị
Nông thôn
Cả nước
Thành thị
Nông thôn
1990
66016,7 12880,3 53136,4
1,92
2,41
1,80
100 19,51 80,49
1991
67242,4 13227,5 54014,9
1,86
2,70
1,65
100 19,67 80,33
1992
68450,1 13587,6 54862,5
1,80
2,72
1,57
100 19,85 80,15
1993
69644,5 13961,2 55683,3
1,74
2,75
1,50
100 20,05 79,95
1994
70824,5 14425,6 56398,9
1,69
3,33
1,29
100 20,37 79,63
1995
71995,5 14938,1 57057,4
1,65
3,55
1,17
100 20,75 79,25
1996
73156,7 15419,9 57736,8
1,61
3,23
1,19
100 21,08 78,92
1997
74306,9 16835,4 57471,5
1,57
9,18
-0,46
100 22,66 77,34
1998
75456,3 17464,6 57991,7
1,55
3,74
0,91
100 23,15 76,85
1999
76596,7 18081,6 58515,1
1,51
3,53
0,90
100 23,61 76,39
2000
77630,9 18725,4 58905,5
1,35
3,32
0,74
100 24,12 75,88
2001
78621,0 19299,2 59321,8
1,28
3,06
0,71
100 24,55 75,45
2002
79538,7 19873,3 59665,4
1,17
2,97
0,58
100 24,99 75,01
2003
80468,4 20725,1 59743,3
1,17
4,29
0,13
100 25,76 74,24
2004
81437,7 21601,4 59836,3
1,20
4,23
0,16
100 26,53 73,47
2005
82393,5 22332,2 60061,3
1,17
3,38
0,38
100 27,10 72,90
2006
83313,0 23046,1 60266,9
1,12
3,2
0,34
100 27,66 72,34
2007
84221,1 23746,7 60474,4
1,09
3,04
0,34
100 28,20 71,80
2008
85122,3 24673,7 60448,6
1,07
3,90
-0,04
100 28,99 71,01
2009
86025,0 25584,7
60440,3
1,06
3,69 -0,01
100 29,74
70,26
-0,04
30,50
69,50
2010
86932,5 26515,9 60416,6
1,05
3,64
100
2011
87840,0 27888,2 59951,8
1,04
5,18 -0,77
100 31,74
68,26
64
Năm Số người Tốc độ tăng % Cơ cấu %
Trong 5 năm này, lượng di cư tới địa bàn hành chính cùng cấp huyện
tăng 275.000 người, di cư cùng tỉnh tăng 571.000 người, di cư khác tỉnh tăng
1,4 triệu người và di cư khác vùng tăng hơn 1 triệu người. Trong 5 năm 2004
- 2009 số dân nhập cư thuần từ nông thôn vào thành thị là xấp xỉ 1,4 triệu
người. Tốc độ di cư nhanh này đang góp phần phân bố lại dân số nước ta theo
vùng kinh tế xã hội. Hai vùng nhận dân nhiều nhất là Tây nguyên và Đông
Nam bộ và bốn vùng còn lại bao gồm Trung du và miền núi phía Bắc, đồng
bằng sông Hồng, Bắc trung bộ và duyên hải miền Trung, đồng bằng sông Cửu
Long là các vùng xuất cư.
So sánh với 5 năm từ 1999 đến 2004, tổng số dân di cư là 486.500 thì
số người đến khu vực thành thị chiếm 57%, tiếp đến là luồng di cư từ nông
thôn đến nông thôn là 30%, trong đó chủ yếu là di cư đến Tây Nguyên. Di cư
từ thành thị về nông thôn chiếm 13% còn lại.
Chỉ riêng TP Hồ Chí Minh, tỷ lệ tăng dân số bình quân năm của thành
phố trong giai đoạn 1999 - 2009 tiếp tục tăng cao, bình quân 1 năm dân số
thành phố tăng 3,53% tương đương 0,2 triệu người, chủ yếu là tăng cơ học.
Trong 10 năm trở lại đây, dân số TP.HCM tăng thêm hơn hai triệu người. Tại
TP Hà Nội, mỗi năm quy mô dân số tăng thêm tương đương dân số một
huyện lớn (khoảng 200.000 người), trong đó 1/2 là dân nhập cư về Hà Nội.
Năm 2006, số lao động ở nông thôn chiếm 74,6% tổng số lao động của
cả nước nhưng thực tế một lượng lớn lao động trên đã di cư ra khỏi nông thôn
theo mùa vụ và cả năm. Khảo sát của IPSARD năm 2006 ở tám xã Đồng bằng
sông Hồng, Đông Năm Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long cho thấy nhiều
vùng nông thôn gần như không còn lao động dưới 40 tuổi.
Những người di cư ra các đô thị sống và làm việc phần lớn là thanh
65
niên và những người có học vấn, của cải xã hội, vốn đầu tư nước ngoài và cả
tiền tích lũy ở nông thôn cũng được đưa về đô thị. Vì vậy, tốc độ giảm nghèo
của thành thị nhanh hơn nông thôn (riêng năm 2006, có số liệu thống kê cho
rằng tỷ lệ nghèo ở thành thị tăng vì chuẩn nghèo được nâng cao và đẩy nhanh
di cư – có thể do số người nghèo ở nông thôn chuyển ra đô thị), còn phần lớn
số người người nghèo vẫn sống ở nông thôn. Khi đóng góp của nông nghiệp
trong thu nhập của hộ nông thôn giảm mạnh từ 58% năm 1993 xuống 43%
năm 2004, có nơi như tỉnh Thái Bình, một hộ nông dân trồng hai vụ lúa chỉ
thu được hơn 2 triệu đồng/năm trong khi một lao động đi làm ăn xa một năm
cho thu nhập trung bình từ 18-20 triệu đồng, lao động xuất khẩu cho thu nhập
từ 30-35 triệu đồng/năm, với mong muốn một việc làm có thu nhập cao hơn
và điều kiện sống tốt hơn thì lối thoát chính cho lao động là rời bỏ quê hương
ra đô thị hoặc xuất khẩu lao động, phần lớn sung vào lực lượng lao động làm
việc trong các lĩnh vực không chính thức như khuân vác, khai thác khoáng
sản, thợ xây dựng, vận chuyển bằng xe máy, xe thô sơ, giúp việc nhà, bán
hàng... Những người này trở thành đối tượng ngăn chặn của nhiều chính sách
như hộ khẩu, cấm xe xích lô, xe gắn máy tự chế lưu hành; cấm bán hàng
rong… và vô tình trở thành đối tượng của những chính sách quản lý khác như
chống buôn lậu qua biên giới, chống phá rừng, chống khai thác khoáng sản,
phòng chống tệ nạn xã hội… Một số lớn lao động khác cũng tham gia được
vào thị trường lao động chính thức.
Phần lớn lao động di cư tương đối trẻ, từ 15-25 tuổi. Đa số người di cư
chỉ tốt nghiệp trung học cơ sở hoặc trung học phổ thông vì thế thường chỉ
nhận được những công việc giản đơn với mức lương thấp.
Theo điều tra di cư nảm 2004, thu nhập của người lao động di cư trung
bình khoảng 957.000 đồng/tháng, lao động nam kiếm được nhiều hơn lao
động nữ (1,1 triệu đồng so với 0,8 triệu đồng). Người di cư dân tộc Kinh có
66
mức thu nhập cao gấp 2 lần người di cư là người dân tộc thiểu số. Thu nhập
trung bình của người di cư thấp hơn của người không di cư. Sự khác biệt ở
thành phố Hồ Chí Minh và các khu công nghiệp là lớn nhất, ở đây người di cư
nhận mức lương chỉ bằng khoảng 2/3 thu nhập của người không di cư. Nhìn
chung, đối với người lao động, thu nhập được tăng lên khi di cư đi tìm việc
làm. 71% người lao động nói rằng thu nhập của họ cao hơn sau khi di cư,
12% nói rằng cao hơn rất nhiều, 13% nói rằng không đổi. Chỉ có 4% nói rằng
có thu nhập thấp hơn. Lao động làm trong ngành nông – lâm – ngư nghiệp
đều có tiến bộ rõ rệt về thu nhập sau di cư: 75% có thu nhập cao hơn và 14%
cho biết có thu nhập cao hơn rất nhiều.
Dân số tăng cơ học nhanh đẩy các đô thị lớn, đặc biệt là hai thành phố
Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh vào tình trạng tắc nghẽn giao thông, thiếu
điện, thiếu nước, thiếu nhà ở, gây sức ép nặng nề đối với công tác quản lý an
ninh, trật tự xã hội, vệ sinh an toàn thực phẩm, môi trường đô thị, cung cấp
dịch vụ. Để đối phó với tình trạng này, một mặt các thành phố sẽ tiếp tục mở
rộng về mặt địa lý, tăng thêm biên chế bộ máy và tăng chi ngân sách Nhà
nước. Đây là hội chứng “béo phì” mà rất nhiều thành phố lớn trên thế giới đã
mắc phải trong suốt quá trình công nghiệp hóa. Nếu như các thành phố lớn ở
châu Âu trước đây tăng lên đến 6 triệu dân thì nhiều thành phố ở châu Á hiện
nay đã tăng lên đến mức trên 10 triệu dân và các siêu đô thị ở Đông Á đạt
mức kỷ lục như Xơun – Hàn Quốc 23 triệu dân, Tôkyô – Nhật Bản 34 triệu
dân.
Nhưng điều đáng ngại nhất là kéo theo mâu thuẫn xã hội giữa nông
thôn và thành thị, giữa tầng lớp giàu có và lớp dân nghèo hình thành từ dân di
cư.
Như vậy, dù bất bình đẳng giàu nghèo - thu nhập trong nông thôn tăng
67
nhanh và cao hơn thành thị nhưng di cư đến thành thị lại tăng cao hơn, thể
hiện rõ sự bất bình đẳng giàu nghèo - thu nhập giữa nông thôn và thành thị
đáng quan tâm hơn là bất bình đẳng trong nông thôn – nông thôn.
2.2.3. Nguyên nhân của bất bình đẳng thu nhập giữa nông thôn và
thành thị
Có nhiều nguyên nhân tác động đến sự bất bình đẳng thu nhập giữa
nông thôn và thành thị ở Việt Nam. Ở đây chúng ta đề cập đến một số nguyên
nhân chính như sau:
Sự chênh lệch về cơ hội. Người dân nông thôn luôn phải chịu thiệt thòi
vì không có điều kiện tiếp cận thông tin, nắm bắt tình hình và tham gia thị
trường, để có việc làm đúng năng lực và thu nhập cao, được tiếp tục học lên
cao.
Chính sách đất đai cho nông nghiệp còn quá nhiều bất cập, chậm
được sửa đổi. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc tổng vốn
đầu tư vào nông nghiệp nhiều năm qua vẫn ở mức thấp. Ngoài ra, sự bất cập
trong bồi thường của Nhà nước khi thu hồi đất nông nghiệp, đất ở vùng nông
thôn để chuyển sang mục đích sử dụng khác. Nếu đất bị thu hồi là đất nông
nghiệp, đất ở vùng nông thôn thì được đền bù ít hơn rất nhiều so với đất ở khu
đô thị. Dù diện tích đất bị thu hồi ở nông thôn lớn nhưng không được đến bù
bằng một mảnh đất nhỏ ở đô thị.
Quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa đã dẫn đến tình trạng mất đất
của nông dân. Ở Đồng bằng sông Mêkông, 1/3 người nghèo nông thôn không
có đất, và tỷ lệ người dân mất đất đã tăng gấp đôi. Hệ quả là nguồn thu nhập
chính của họ bị giảm sút mạnh, khiến khoảng cách nông thôn và thành thị
ngày càng gia tăng. Thêm vào đó là quá trình chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch
hóa tập trung sang cơ chế thị trường cũng tạo ra những cú sốc và tổn thương
68
đối với tầng lớp lao động và người nghèo ở nước ta. Do vậy, hạn chế trong
khả năng tiếp cận với hệ thống an sinh xã hội cũng làm gia tăng bất bình
đẳng.
Đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn giảm dần.
Đầu tư cho nông nghiệp năm 2009 chỉ bằng 6,26% tổng đầu tư toàn xã
hội (trong khi GDP của ngành này là 20,91%) và hiện đầu tư vào nông nghiệp
chỉ chiếm chưa đến 3% tổng GDP. Trước đó, vào các năm 2008, 2005, và
2000 thì tỷ trọng đầu tư của ngành này tương ứng từng năm là 6,45%, 7,50%,
và 13,85%,
Việc giảm đầu tư như vậy sẽ tác động không tốt đối với ngành nông
nghiệp. Lĩnh vực nông nghiệp không hấp dẫn nhà đầu tư nước ngoài, cũng
không hấp dẫn nhà đầu tư trong nước. Quan trọng hơn, lĩnh vực này cũng
không hấp dẫn các nhà hoạch định chính sách.
Những chính sách ban hành vẫn chưa ưu tiên cho nông dân, một số
chính sách thường thiên về tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp. Chính phủ cần
triển khai đồng bộ các chính sách để điều tiết tốt hơn, tạo sự cân bằng ổn định
cho nông nghiệp, nông thôn. Một vấn đề khác là, khu vực nông thôn còn chịu
quá nhiều thiệt thòi, nhiều rủi ro và bị ảnh hưởng thiên tai hàng năm. Lao
động qua đào tạo ở nông thôn chỉ chiếm trên dưới 10% so với 25% ở khu vực
thành thị. Trình độ học vấn thấp hơn hai lần, nhân lực thấp hơn 10 lần, năng
suất lao động nông nghiệp thấp, trên 85% hộ nghèo sống ở nông thôn... là
những khó khăn cho phát triển.
Hiện cả nước có khoảng 39.414 doanh nghiệp hoạt động ở nông thôn,
chiếm 10% tổng số doanh nghiệp của cả nước; Tuy nhiên, số doanh nghiệp
hoạt động trong lĩnh vực nông, lâm, thuỷ sản chỉ là 2.536 doanh nghiệp, với
tổng nguồn vốn đầu tư khoảng 32,1 nghìn tỷ đồng, chiếm 6% tổng số vốn đầu
69
tư của khu vực doanh nghiệp nông thôn và 0,9% tổng số vốn đầu tư của
doanh nghiệp cả nước. Trong số đó, phần lớn là các doanh nghiệp nhỏ và vừa,
doanh nghiệp có vốn dưới 10 tỷ đồng chiếm 60%, doanh nghiệp có số vốn
trên 200 tỷ đồng chỉ chiếm 3%.
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đăng ký chủ yếu tập trung vào các lĩnh
vực công nghiệp, dịch vụ, xây dựng; lĩnh vực nông nghiệp chỉ chiếm tỷ trọng
nhỏ. Tính đến ngày 14/7/2010, số dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài trong
nông nghiệp còn hiệu lực là 485 dự án với tổng số vốn đầu tư là 3,076 tỷ
USD, chiếm 4,1% tổng số dự án và 1,63% tổng số vốn của dự án có vốn đầu
tư trực tiếp nước ngoài còn hiệu lực của cả nước.
Chính sách công nghiệp cho nông thôn không được quan tâm đúng
mức.
Trong những năm đổi mới, nông nghiệp, nông thôn đã chấp nhận mức
độ lợi nhuận thấp dù lao động dồi dào, chấp nhận giá lương thực thấp và ổn
định cho công nghiệp phát triển. Ngược lại, công nghiệp Việt Nam liên tục
tăng trưởng trên 2 con số nhưng chủ yếu phục vụ cho xuất khẩu và đáp ứng
nhu cầu của đô thị. Đầu tư sản xuất tập trung vào những ngành thu hút đầu tư
nước ngoài mạnh và được bảo hộ cao như ô tô, xe máy, hàng điện tử, tiêu
dùng… trong khi thị trường máy móc, vật tư nông nghiệp phục vụ nông thôn
gần như bỏ ngỏ. Thậm chí có máy móc phương tiện như xe công nông, đa tác
dụng, hữu ích, rất phù hợp với địa hình Việt Nam và thích hợp cho nông
nghiệp, trên đồng ruộng lại bị cấm sử dụng vì lý do an toàn giao thông.
Máy móc nông nghiệp là các thiết bị cơ khí không đòi hỏi công nghệ
cao mà Việt Nam có thể sản xuất được nhưng 45% thị trường máy kéo của
Việt Nam do Trung Quốc cung cấp, còn lại 28% là máy cũ nhập khẩu. Máy
giặt tại Đồng bằng sông Cửu Long, máy bơm tưới nước ở Tây Nguyên, bình
70
phun thuốc trừ sâu chạy động cơ… và các loại máy nông nghiệp khác cũng
được nhập khẩu. Nhà sản xuất máy nông nghiệp chính của Việt Nam là Tổng
công ty Máy động lực và Máy nông nghiệp chỉ đáp ứng tối đa 25 – 30% nhu
cầu trong nước. Năm 2011, các đơn vị kinh tế ở nông thôn sở hữu gần 2,2
triệu máy bơm nước nông nghiệp, tăng gần 900.000 máy so với năm 2001.
Nhưng từ năm 2001 đến 2011, công nghiệp trong nước chỉ sản xuất ra 94.000
máy bơm nước (khu vực nhà nước sản xuất được 32.000 máy bơm nước, còn
lại là khu vực ngoài nhà nước), chiếm chưa đầy 10,4% số lượng máy bơm
nước tăng trong cùng kỳ ở khu vực nông thôn, chưa tính tới số hỏng hóc. Tỷ
lệ đáp ứng nhu cầu về máy kéo và xe vận tải có cao hơn nhưng cũng chỉ bằng
33% lượng tăng thêm ở khu vực nông thôn, chưa nói đến thành thị. Phần lớn
phân hóa học, một phần đáng kể thuốc trừ sâu, thuốc thú ý và giống cây trồng
cũng phải nhập khẩu.
Các loại hàng công nghiệp phục vụ thị trường nông thôn cũng không
đòi hỏi công nghệ cao, rất vừa sức với năng lực của công nghiệp Việt Nam
nhưng vẫn do nước ngoài chiếm giữ phần lớn thị phần. Hàng Trung Quốc như
quạt bàn, vải vóc, hàng tiêu dùng, đồ gốm sứ, phích nước, bóng đèn, ăng ten,
chảo ti vi, máy bơm nước, xe máy, máy phát thủy điện nhỏ ở niềm núi… tràn
nghập thị trường. Mô tô vận chuyển ở miền núi phần lớn là xe Minskơ nhập
khẩu từ Bêlarút, xuồng máy đuôi tôm sử dụng phổ biến ở Đồng bằng sông
Cửu Long cũng nhập khẩu từ Nhật Bản, Mỹ. Khi chính sách cấm xe lôi, xe ba
bánh tự chế, xe đầu ngang, xe công nông lưu hành ở các địa phương thì ô tô
nhỏ của Trung Quốc đang ào ạt tràn vào, lắp ráp ngay trong nước, chiếm nốt
thị trường nhỏ nhoi của tiểu công nghiệp địa phương.
Cho đến cuối thập kỷ 1990, các nhà máy chính vẫn tập trung ở đô thị,
chỉ có 28,3% nằm ở nông thôn (hóa chất 2,1%, điện 6,8%, cơ khí 12,8%, công
nghiệp nhẹ 14,9%, vật liệu xây dựng 30,9%, chế biến nông sản 32,5 % và chế
71
biến giấy 45% số nhà máy nằm ở nông thôn). Trong các năm gần đây, các
khu công nghiệp phát triển lan nhanh tại nhiều tỉnh ven thành phố Hồ Chí
Minh và Hà Nội, lấy đi khá nhiều đất nông nghiệp màu mỡ và đã có hệ thống
tưới tiêu hoàn chỉnh nhưng chưa địa phương nào trong số đó mà công nghiệp
tạo đủ việc làm cho lao động nông thôn tại chỗ, tiêu thụ và chế biến nhiều
nguyên liệu nông nghiệp, cung cấp đáng kể vật tư và thiết bị cho sản xuất
nông nghiệp và phục vụ đời sống nông thôn. Tới năm 2011, nước ta sản xuất
được 5,64 tấn phân đạm, vẫn phải nhập khẩu 3,63 tấn, lượng nhập khẩu
khoảng 40% nhu cầu phân đạm, riêng phân urê nhập 140 nghìn tấn; phân kali
cần nhập khẩu là 900 nghìn tấn. Chi phí giao dịch và tiếp cận thì trường trong
các khâu vận tải, kho bãi, bốc dỡ, thông tin liên lạc, thông quan… của Việt
Nam rất cao so với các nước trong vùng.
Ngoài ra cũng phải kể đến là mâu thuẫn kéo dài giữa nhà máy chế biến
và vùng nguyên liệu. Một bên là nông dân sản xuất nguyên liệu không có
người mua, bên kia là các nhà máy hoạt động cầm chừng hoặc không hoạt
động vì không có nguyên liệu, vùng nguyên liệu thường quá nhỏ, giá nguyên
liệu quá đắt với người mua, quá rẻ với người bán, chất lượng nguyên liệu
không đạt yêu cầu chế biến… Năm 2011, tỷ trọng hàng nông sản được chế
biến mới có 12% quả, 8% rau, 13% thịt hơi, 6% gỗ lâm sản.
Rõ ràng đây là những vấn đề yếu kém trong chiến lược phát triển công
nghiệp, trong quản lý nhà nước của địa phương và ngành đã hạn chế rất nhiều
đến sự phát triển của nông thôn nói chung và thu nhập của người dân nông
thôn nói riêng.
Chính sách, pháp luật về thuế thu nhập chưa được hoàn thiện.
Việc ban hành các quy định về đánh thuế thu nhập với người có thu
nhập cao mới được Nhà nước ban hành từ năm 2008, chúng ta mới trong giai
72
đoạn đầu thực hiện và còn nhiều bất cập trong các quy định cũng như tính
thực tiễn không cao. Cơ sở vật chất không đồng bộ như thói quen chi tiêu
dùng tiền mặt không qua tài khoản… Vì vậy những người có thu nhập cao
chưa được thu đủ, thu đúng.
Cơ chế xin cho, bao cấp, môi trường kinh doanh không bình đẳng,
thông tin thiếu minh bạch đã tạo kẽ hở cho một số người giầu lên nhờ đầu cơ
(đất đai, chứng khoán…), buôn lậu, tham nhũng, trốn thuế…. Trong khi một
bộ phận dân cư không có cơ hội làm giầu hoặc bị chèn ép vì không có “quan
73
hệ” tốt.
Chương 3
CÁC GIẢI PHÁP CƠ BẢN ĐỂ THỰC HIỆN GIẢI QUYẾT BẤT
BÌNH ĐẲNG THU NHẬP GIỮA NÔNG THÔN VÀ THÀNH THỊ
3.1.Bối cảnh kinh tế chung và tác động của nó đến vấn đề bất bình
đẳng thu nhập giữa nông thôn và thành thị
3.1.1.Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế
Những thách thức:
- Khi kinh tế đã phát triển, cam kết hội nhập kinh tế quốc tế về mở cửa
thị trường không cho phép các quốc gia, trong đó có Việt Nam trợ cấp ồ ạt
hoặc bảo vệ quá mức cho nông nghiệp.
- Môi trường đã bị phá đến mức giới hạn, diễn biến khí hậu và cân bằng
sinh thái không cho phép khai thác bừa bãi tài nguyên, làm ô nhiễm môi
trường ngay từ giai đoạn phát triển đầu.
- Tự do hóa thương mại tạo môi trường cạnh tranh quyết liệt, không thể
bán nông sản giá rẻ, chất lượng thấp của kinh tế nông thôn ngay cả ở thị
trường trong nước. Chẳng hạn, sự kiện cá basa của Việt Nam xuất khẩu sang
Mỹ bị kiện chống bán phá giá, làm cho lợi thế của Việt Nam về giá rẻ sẽ hạn
chế rất nhiều và có những lúc người nuôi cá lâm vào cảnh rất khó khăn do
không xuất khẩu được hàng, gây thất thu lớn.
- Cạnh tranh công nghệ đang tiến theo xu hướng thu hút nhiều vốn,
giảm lao động, ảnh hưởng đến chủ trương phát triển một nền công nghiệp thu
hút nhiều lao động dù là trong một giai đoạn nhất định. Điều này không tạo
74
được nhiều thu nhập cho người lao động.
- Quá trình hội nhập cũng đặt người sản xuất, kinh doanh Việt Nam
trước sự cạnh tranh gay gắt với hàng hóa và dịch vụ quốc tế có chất cao hơn
và khả năng cạnh tranh mạnh hơn. Đồng thời cũng mở ra những thách thức
lớn về rào cản kỹ thuật, về biến động giá cả, về đe dọa dịch bệnh và các tranh
chấp thương mại đối với người sản xuất, kinh doanh Việt Nam.
Những cơ hội mới:
- Nếu bần cùng hóa nông dân, vắt kiệt tài nguyên nông thôn để tích lũy
tư bản cho công nghiệp và đô thị thì mâu thuẫn quyền lợi sẽ gây bất ổn xã hội
và đảo lộn chính trị.
- Vốn đầu tư linh động và dồi dào trên toàn cầu sẵn sàng đổ đến các
địa phương, ngành hàng, tổ chức đầu tư có lợi nhuận cao, rủi ro thấp và thủ
tục thuận lợi.
- Thị trường mở rộng và giá cao đối với nông sản, dịch vụ đảm bảo
chất lượng, tiêu chuẩn vệ sinh, có giá trị văn hóa, không ô nhiễm môi trường.
- Xã hội dân sự phát triển, trình độ dân trí tăng cao, thông tin liên lạc
phát triển, thuận lợi trong phát huy dân chủ ở cơ sở, trao quyền cho cộng
đồng, xây dựng các tổ chức của nông dân.
- Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế sẽ diễn ra với tốc độ nhanh hơn,
tạo ra những thị trường to lớn cho nông sản và dịch vụ nông nghiệp, sản phẩm
truyền thống ở nông thôn, mở ra cơ hội thu hút đầu tư, tiếp thu công nghệ và
kỹ năng quản lý.
Khoa học công nghệ trong tương lai sẽ là động lực quan trọng tạo nên
năng suất, chất lượng và giá thành nông sản mới, trực tiếp làm thay đổi cơ cấu
và tổ chức sản xuất nông nghiệp. Đây là cơ hội mới mà nông dân Việt Nam
75
nắm bắt.
Nhờ hội nhập kinh tế, chúng ta đã thu hút được nhiều dự án từ nước
ngoài tài trợ cho khu vực nông thôn, cải thiện chất lượng cuộc sống và nâng
cao thu nhập cho người dân nông thôn. Trong những năm qua người dân cũng
phải rất vất vả phát huy nội lực của mình để đầu tư các công trình cơ sở hạ
tầng nông thôn. Tuy nhiên đầu tư của người dân cũng ở mức hạn chế và
nguồn vốn không lớn nên cơ sở hạ tầng chất lượng không đảm bảo, thiếu tính
bền vững.
Thời gian qua, các nguồn vốn nước ngoài đầu tư vào khu vực nông
thôn liên tục tăng qua các năm. Số vốn này được tập trung chủ yếu xây dựng
cơ sở hạ tầng giao thông, thủy lợi, các dự án xóa đói giảm nghèo. Các nguồn
tài trợ nước ngoài để đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn
gồm nguồn vốn của JICA, WB, ADB. Các chương trình dự án được tài trợ đã
góp phần vào phát triển kinh tế trong khu vực nông nghiệp và nông thôn, tăng
thu nhập cho người dân, xóa đói giảm nghèo.
Có thể kể đến một số dự án như những dự án do ADB tài trợ đã hoàn
thành và mang lại nhiều kết quả tốt đẹp là: Dự án đầu tư vào cơ sở hạ tầng
nông thôn vay vốn ADB và AFD, tổng số vốn 150 triệu USD, được thực hiện
từ năm 1998 đến năm 2004 tại 23 tỉnh trên phạm vi cả nước. Dự án đã nâng
diện tích tưới lên 60.133 ha; đầu tư 128 trạm cấp nước, phục vụ cho
1.500.000 dân; 15 công trình chợ nông thôn…
Dự án khắc phục hậu quả thiên tai năm 2005: Dự án này chủ yếu là
khôi phục lại những công trình hạ tầng bị ảnh hưởng bởi thiên tai năm 2005
được thực hiện tại 10 tỉnh miền Bắc và miền Trung. Tổng số vốn cho Dự án là
97 triệu USD, thời gian thực hiện dự án từ năm 2007-2011.
Bên cạnh những dự án đã hoàn thành, hiện Ban Quản lý các dự án
76
Nông nghiệp cũng đang tiếp tục triển khai Dự án phát triển cơ sở hạ tầng
nông thôn cho các tỉnh miền Trung từ Thanh Hóa đến Bình Thuận do ADB và
AFD (Cơ quan Phát triển Pháp) tài trợ với tổng số vốn là 168 triệu USD. Thời
gian thực hiện từ năm 2008-2013.
Ban Quản lý các dự án Nông nghiệp đang thực hiện Dự án cải thiện cơ
sở hạ tầng nông thôn các tỉnh miền núi phía Bắc do ADB tài trợ 108 triệu
USD, thời gian thực hiện từ 2011-2016. Dự án sẽ triển khai xây dựng và nâng
cấp hàng loạt các công trình đường giao thông nông thôn, thủy lợi, cấp nước,
chống lũ, trường học, trạm y tế, chợ.
Những dự án đã hoàn thành mang lại những kết quả rất thiết thực,
người dân ở trong vùng dự án thu nhập tăng 2,3 lần so với trước khi có dự án;
đời sống xã hội về kinh tế được phát triển rất tốt, đặc biệt khu vực nào mà
đường giao thông nông thôn đi qua, những vùng nào được tưới tiêu đầy đủ thì
người dân được tăng sản lượng về lương thực và được đảm bảo về lương
thực; những vùng nào có nước sạch thì người dân cũng ít bị bệnh tật, đời sống
của họ cũng văn minh hơn rất nhiều. Các dự án đã hoàn thành được ADB
đánh giá cao vì đã mang lại các lợi ích cụ thể là giảm 60% chi phí vận chuyển
nông sản; rút ngắn 53% thời gian di chuyển tới những cơ sở hạ tầng xã hội
quan trọng. Các hoạt động thương mại phát triển dọc theo các tuyến đường
trong và sau khi hoàn thành dự án, tạo việc làm cho người dân địa phương,
giúp tăng cao thu nhập cho người dân, góp phần xóa đói giảm nghèo, tăng
cường năng lực nghiên cứu, đào tạo, quản lý trong ngành nông nghiệp.
3.1.2. Quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Công nghiệp hóa là một giai đoạn tất yếu của mỗi quốc gia. Đối với
nước ta, từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, muốn tiến lên chủ nghĩa xã
hội, nhất thiết phải trải qua công nghiệp hóa. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
77
giúp phát triển lực lượng sản xuất, làm thay đổi căn bản công nghệ sản xuất,
tăng năng suất lao động. Đây là thời kỳ tạo tiền đề vật chất để không ngừng
củng cố và tăng cường vai trò của kinh tế nhà nước trong điều tiết sản xuất và
dẫn dắt thị trường. Đồng thời, công nghiệp hóa, hiện đại hóa là động lực phát
triển kinh tế - xã hội, tạo điều kiện tăng cường củng cố an ninh quốc phòng và
là tiền đề cho việc xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ, đủ sức tham gia
một cách có hiệu quả vào sự phân công và hợp tác quốc tế.
Thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn cũng được tiến hành với một
số nội dung chủ yếu cần tập trung sức chỉ đạo, thực hiện có hiệu quả là:
- Thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và kinh tế
nông thôn, chuyển mạnh sang sản xuất các loại sản phẩm có thị trường và
hiệu quả kinh tế cao; phát triển mạnh chăn nuôi với tốc độ và chất lượng cao
hơn; xây dựng các vùng sản xuất hàng hóa tập trung gắn với việc chuyển giao
công nghệ sản xuất, bảo quản và chế biến; khắc phục tình trạng sản xuất manh
mún, tự phát. Tiếp tục rà soát, bổ sung, điều chỉnh lại quy hoạch sản xuất
nông nghiệp theo hướng: phát huy lợi thế tự nhiên của từng vùng, lợi thế kinh
tế của từng loại cây trồng, con gia súc, tăng tỷ trọng chăn nuôi và dịch vụ;
hình thành vùng sản xuất hàng hóa gắn với thị trường và công nghiệp chế
biến, bảo đảm hiệu quả bền vững và an ninh lương thực quốc gia…
- Tiếp tục phát triển và mở rộng thị trường, coi trọng và phát triển thị
trường trong nước, tổ chức tốt việc tiêu thụ nông, lâm sản, thủy sản cho nông
dân.
- Ðưa nhanh khoa học công nghệ vào sản xuất, nhất là việc nghiên cứu
và chuyển giao khoa học công nghệ, nâng cao chất lượng giống cây trồng,
giống vật nuôi, kỹ thuật canh tác và môi trường, công nghệ sau thu hoạch;
78
ứng dụng mạnh công nghệ sinh học và xây dựng các khu nông nghiệp công
nghệ cao; nâng cao khả năng phòng ngừa và khắc phục dịch bệnh đối với cây
trồng, vật nuôi… Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để các doanh
nghiệp và hợp tác xã đầu tư phát triển công nghiệp bảo quản, chế biến nông,
lâm, thủy sản…
- Tăng đầu tư từ ngân sách Nhà nước, và đa dạng hóa các nguồn vốn để
tiếp tục đầu tư phát triển mạnh hơn cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội nông thôn.
Ưu tiên nâng cấp và xây dựng mới các hệ thống thủy lợi đồng bộ, đi đôi với
đổi mới và nâng cao hiệu quả quản lý để bảo đảm an toàn về nước. Củng cố
hệ thống hồ đập, kè ven sông, ven biển; nâng cấp các hệ thống cảnh báo, chủ
động phòng chống lụt bão và giảm nhẹ thiên tai, bảo vệ môi trường nước.
Tiếp tục đầu tư phát triển giao thông nông thôn, bảo đảm các xã đều có đường
ô-tô tới khu trung tâm, từng bước phát triển đường ô tô tới thôn bản; bảo đảm
hơn dân cư nông thôn có điện sinh hoạt và được sử dụng nước sạch.
- Rà soát bổ sung, điều chỉnh chính sách về đất đai, thuế, tín dụng, đầu
tư... nhằm hỗ trợ và tạo điều kiện việc hình thành các khu và cụm công
nghiệp, cụm làng nghề ở nông thôn để thu hút các cơ sở sản xuất công nghiệp
và kinh doanh dịch vụ sử dụng nhiều lao động và nguồn nguyên liệu từ nông,
lâm, thủy sản…
- Tập trung giải quyết việc làm, đào tạo nghề cho nông dân và cho lao
động nông thôn, đặc biệt quan tâm giải quyết việc làm và thu nhập cho nông
dân có đất bị thu hồi để sử dụng vào mục đích phát triển khu công nghiệp,
khu đô thị, cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội. Tạo điều kiện cho lao động nông
thôn có việc làm tại chỗ và ngoài khu vực nông thôn. Có chính sách trợ giúp
thiết thực để đẩy mạnh đào tạo nghề cho nông dân và lao động nông thôn, đáp
ứng cho yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn và tìm
79
việc làm ngoài khu vực nông thôn, kể cả đi lao động ở nước ngoài.
- Tiếp tục đầu tư nhiều hơn cho chương trình xóa đói giảm nghèo, trợ
giúp thiết thực cho các vùng và cộng đồng dân cư còn nhiều khó khăn, xây
dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, phát triển hệ thống khuyến nông, nâng
cao dân trí và có chính sách tín dụng cho người nghèo từng bước vượt qua
khó khăn, thoát nghèo và nâng cao mức sống một cách bền vững…
- Tập trung đầu tư để hoàn thành cơ bản chương trình kiên cố hóa
trường học, thực hiện tốt hơn chương trình chăm sóc sức khỏe cộng đồng;
thực hiện ngày càng có nề nếp và chất lượng về quy chế dân chủ ở nông thôn;
đẩy mạnh phong trào xây dựng làng xã văn hóa, nâng cao chất lượng hoạt
động các thiết chế văn hóa ở cơ sở, giữ gìn và phát triển truyền thống văn hóa
tốt đẹp của dân tộc ta…
Chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà nước về công nghiệp hóa,
hiện đại hóa công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nói chung, quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn nói riêng đã góp phần quan
trọng thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội đất nước. Cụ thể là tăng trưởng kinh
tế nông nghiệp cao và liên tục trong nhiều năm, bảo đảm phát triển ổn định
kinh tế đất nước; chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo
hướng hiện đại hóa, tạo ra giá trị gia tăng ngày càng cao; đời sống kinh tế, xã
hội nông thôn có nhiều cải thiện, tăng thu nhập cho người dân nông thôn, tỷ lệ
hộ nghèo giảm; văn hóa xã hội nông thôn Việt Nam biến đổi theo hướng tích
cực.
Bên cạnh đó một số vấn đề xã hội bức xúc nảy sinh trong thực hiện
công nghiệp hóa ở nông thôn Việt Nam. Đó là tình trạng mất đất, thiếu việc
làm ở nông thôn ngày càng nghiêm trọng, hiện tượng ly nông ra các đô thị
80
kiếm sống rất lớn; phân hóa giàu - nghèo bất bình đẳng xã hội gia tăng; môi
trường nông thôn bị ô nhiễm và suy thoái nghiêm trọng; đời sống văn hóa xã
hội có nhiều biểu hiện xuống cấp.
3.2. Các quan điểm xử lý vấn đề bất bình đẳng thu nhập giữa nông
thôn và thành thị
3.2.1. Từng bước bảo đảm sự bình đẳng về cơ hội phát triển giữa
nông thôn và thành thị
Chuyển dịch từ nền kinh kế hoạch hóa sang nền kinh tế thị trường thường
khiến cho bất bình đẳng tăng cao, chúng ta có thể nói rằng chuyển dịch từ quá
trình bình đẳng sang quá trình không bình đẳng, nếu để cho thị trường hoàn toàn
điều phối xã hội. Ở nhiều nước xã hội chủ nghĩa trước đây, chính phủ luôn theo
đuổi bình đẳng và đó là vấn đề về nguyên tắc, đánh đổi với hiệu quả kinh tế. Thu
nhập trước đây tuy thấp nhưng xã hội lại công bằng, các sản phẩm thiết yếu như
lương thực, quần áo, nhà cửa ít nhiều đều được phân phối công bằng, không có
địa chủ, bình đẳng giới được đảm bảo, giáo dục cơ bản và y tế được đảm bảo cho
tất cả mọi người – mặc dù chất lượng dịch vụ có thể không cao.
Bên cạnh nguyên nhân về sắc tộc, về tôn giáo, thì sự chênh lệch về
cuộc sống, khoảng cách giàu nghèo về cơ hội phát triển của cư dân nông thôn
và cư dân đô thị là một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến sự bất
ổn xã hội, dẫn đến bất ổn về môi trường. Ở Việt Nam đối với nông dân nông
thôn vấn đề cơ hội, vấn đề công bằng của họ trong quá trình phát triển công
nghiệp hóa và đô thị hóa không chỉ là vấn đề kinh tế mà còn là vấn đề ổn định
chính trị xã hội và môi trường. Trong sự ổn định chính trị xã hội này, vấn đề
công bằng xã hội ở nông thôn phải luôn luôn chú ý, nếu chủ quan, làm không
đúng thì nó sẽ là nguy cơ gây bất ổn.
Có thể Nhà nước Việt Nam đã nhìn thấy mối nguy tiềm ẩn về sự bất ổn
81
ở nông thôn, nên chính vì vậy vào năm 2008 Trung ương Đảng Cộng sản Việt
Nam đề ra nghị quyết về nông nghiệp, nông thôn, nông dân, trong đó gắn kết
ba chủ thể này với nhau. Nghị quyết này được các chuyên gia nghiên cứu
chính sách dẫn giải rằng, đã đặt ưu tiên về yếu tố con người ở nông thôn, yếu
tố thu nhập, yếu tố cải thiện đời sống kinh tế xã hội và tinh thần của nông dân
và cư dân nông thôn.
Chính phủ cần cải thiện sự bình đẳng về cơ hội phát triển giữa nông
thôn và thành thị. Tạo điều kiện cho người dân ở nông thôn và thành thị có
xuất phát điểm như nhau, có điều kiện tiếp cận các dịch cụ xã hội như nhau
thì sau này, tùy thuộc sự cố gắng, nỗ lực của mỗi người mà thu nhập mang lại
có thể khác nhau nhưng người thu nhập thấp hơn nhận thấy rằng đó là do yếu
tố của bản thân, không phải do xã hội mang lại. Chính phủ cần mở các trường
học, cơ sở y tế, phát triển giao thông… rộng rãi để mọi người đều có thể tham
gia học tập, chữa bệnh, đi lại thuận tiện… như nhau dù ở các vùng miền khác
nhau, tạo tiền đề cho việc tham gia vào các hoạt động xã hội, hoạt động tạo
thu nhập sau này được như nhau.
3.2.2. Tăng trưởng và phát triển bền vững làm cơ sở để giải quyết vấn
đề bất bình đẳng
Tăng trưởng kinh tế là vấn đề rất quan trọng, liên quan đến sự thịnh suy
của một quốc gia. Bởi thế, chính phủ nước nào cũng ưu tiên các nguồn lực
của mình cho sự tăng trưởng kinh tế, coi đó là cái gốc, là nền tảng để giải
quyết mọi vấn đề khác. Trên cơ sở giải quyết vấn đề tăng trưởng kinh tế tạo ra
nhiều của cải mới, người ta mới có thể giải quyết hàng loạt vấn đề khác như
cân bằng ngân sách, đầu tư chiều sâu, phúc lợi xã hội, giải quyết vấn đề bất
bình đẳng, tạo việc làm, chống lại các loại tội phạm, đảm bảo ngân sách cho
quốc phòng an ninh... Ngược lại nếu không đạt được sự tăng trưởng kinh tế ở
82
mức độ cần thiết thì trong xã hội sẽ có khả năng nảy sinh hàng loạt vấn đề rất
nan giải. Bài học của Việt Nam trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế trầm trọng
(khoảng những năm 1976 - 1986) đã cho ta thấy rõ vai trò của sự tăng trưởng
kinh tế quan trọng như thế nào.
Nội dung chủ yếu của phát triển bền vững là bảo vệ thiên nhiên, môi
trường và phát triển con người và nguồn lực con người. Chính con người chứ
không phải là một lực lượng nào khác quyết định sự phát triển bền vững. Cho
nên hầu như nước nào cũng đề cao nguồn lực con người, tìm mọi cách để
nâng cao chất lượng con người. Việc phát triển nông thôn bền vững là sự phát
triển nông thôn bảo đảm bền vững về kinh tế, xã hội, văn hóa và môi trường
nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân nông thôn.
Việc tăng trưởng kinh tế sẽ tạo điều kiện về cơ sở vật chất để giải quyết
vấn đề phúc lợi xã hội, phân phối lại thu nhập và gốc rễ là tạo sinh kế cho
người dân. Kết hợp với phát triển nông thôn bền vững mang tính toàn diện và
đa phương, bao gồm phát triển các hoạt động nông nghiệp và các hoạt động
có tính chất phục vụ nông nghiệp, công nghiệp quy mô vừa và nhỏ, các ngành
nghề truyền thống, cở sở hạ tầng kinh tế - xã hội, nguồn gốc nhân lực nông
thôn và xây dựng, tăng cường các dịch vụ và phương tiện phục vụ cộng đồng
nông thôn. Phát triển nông thôn bền vững cũng là quá trình thu hút mọi người
dân tham gia vào các chương trình phát triển, nhằm mục tiêu cải thiện chất
lượng cuộc sống, nâng cao thu nhập của cư dân nông thôn.
Việt Nam đã từ bỏ chế độ kinh tế bao cấp, thực hiện đổi mới theo kinh
tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước từ những năm 1986. Trong ba thập
niên qua, đời sống ở khu vực thành thị có những tiến bộ đáng kể, trong khi
nông thôn và nông dân vẫn nghèo, dù xuất khẩu gạo đứng thứ nhì thế giới,
xuất khẩu thủy sản mang về nhiều tỷ USD. Những thứ mà nông dân được
83
hưởng, nông nghiệp được đầu tư chưa tương xứng với mức độ đóng góp của
người nông dân, mức độ phấn đấu hy sinh của người nông dân cũng như
thành tích mà nông nghiệp đem lại. Đầu tư công nói riêng và của toàn xã hội
nói chung cho nông nghiệp là thấp. Mức tăng trưởng đời sống của nông dân
rất cao, nhưng so với mức tăng trưởng của đời sống người dân ở đô thị thì
hiện nay khoảng cách thu nhập trung bình của cư dân nông thôn chỉ bằng một
nửa của đô thị.
Sau nhiều thập niên đề cao nông nghiệp và nông dân như khẩu hiệu
tuyên truyền, nhưng thực tế đầu tư cho nông nghiệp nông thôn chỉ chiếm tỷ lệ
1/10 tổng đầu tư từ nguồn ngân sách Nhà nước. Tình trạng này khiến nông
nghiệp nông thôn khá trì chậm trong tốc độ phát triển chung. Nông nghiệp
đóng góp 1/5 tổng sản phẩm nội địa GDP của Việt Nam, xuất khẩu nông thủy
sản đạt nhiều thành tựu, đặc biệt là gạo và tôm cá. Sản xuất nông nghiệp ở
Việt Nam có nhiều mặt, tuy nhiên lúa gạo là lĩnh vực điển hình. Năm 2011
Việt Nam xuất khẩu 7,1 triệu tấn gạo đạt kim ngạch 3 tỷ 651 triệu USD, dự
kiến năm 2012 xuất khẩu gạo vẫn đạt 7 triệu tấn. Người nông dân ở tầng cuối
cùng của hệ thống sản xuất tiêu thụ lúa gạo và không có vai trò quyết định về
sản phẩm do mình làm ra. Tăng trưởng về kinh tế mang lại một cơ sở vật chất
nhất định, Nhà nước có điều kiện hơn để đầu tư vào khu vực nông thôn nhằm
đảm bảo sự bình đẳng của nông thôn so với thành thị, trong đó có vấn đề bình
đẳng về thu nhập.
3.2.3. Quan điểm hỗ trợ các nhóm xã hội yếu thế, đặc biệt ở nông
thôn cũng như dân nghèo thành thị
Trong xã hội, chúng ta phải đối mặt với nhiều rủi ro không mong muốn
như làm ăn kém may mắn thua lỗ, gặp thiên tai, những người sinh ra hoặc bị
tai nạn nên không hoàn thiện về thể chất, suy giảm về sức lao động ở cả nông
84
thôn và thành thị; nhóm xã hội yếu thế như vùng nông thôn, vùng sâu, vùng
xa, vùng dân tộc thiểu số ít có điều kiện tiếp cận các cơ hội phát triển. Ngoài
ra trong xã hội cũng tồn tại những nhóm người nghèo, thu nhập thấp so với
các nhóm khác… Để hỗ trợ, giúp đỡ những người, nhóm xã hội này tồn tại và
phát triển, hòa nhập cộng đồng, đồng thời đảm bảo sự phát triển ổn định xã
hội, với chính sách nhân đạo thì chính phủ phải luôn có chế độ, chính sách hỗ
trợ họ về mặt tinh thần, vật chất. Vai trò của Nhà nước trong việc hỗ trợ này
là chủ động bố trí ngân sách lập các quỹ phúc lợi, bảo trợ xã hội, yêu cầu sự
đóng góp bắt buộc hay tự nguyện của nhân dân, của cộng đồng và đưa ra mô
hình quản lý quỹ, việc sử dụng, quản lý các quỹ. Việc hỗ trợ này phần lớn sẽ
tạo thu nhập trực tiếp cho họ, thu hẹp khoảng cách về thu nhập với các nhóm
người, xã hội khác. Xây dựng một xã hội có nhiều người giàu, không có
người nghèo đói hoặc có người nghèo đói nhưng được xã hội trợ giúp, quan
tâm, đó là một định hướng mà Việt Nam lựa chọn.
Ngoài ra, cần chú ý hoàn thiện các thể chế, các quy định đầy đủ, chặt
chẽ, có sự kiểm tra, giám sát để chống tham nhũng tiêu cực và đảm bảo thực
hiện phân phối bình đẳng hơn, đồng thời phát huy đúng đắn vai trò của Nhà
nước trong việc phân phối thu nhập.
Phải nhận thấy là chủ thể của quá trình giải quyết thu hẹp khoảng cách
về thu nhập này phải chính là cư dân nông thôn, họ phải là người đứng ra chủ
động tổ chức quản lý và thực hiện quá trình phát triển, chủ động giải quyết
vấn đề của mình, nâng cao đời sống, thu nhập của chính mình. Nhà nước có
vai trò định hướng và hỗ trợ khi cần thiết. Vấn đề nông nghiệp, nông dân,
nông thôn phải được giải quyết đồng bộ trong tổng thể phát triển của đất
nước. Mọi thành phần kinh tế, lĩnh vực công nghiệp và đô thị phải cùng hỗ trợ
nông thôn, gắn với nông nghiệp và nông dân. Sức mạnh của khoa học công
nghệ, của cơ chế thị trường phải được huy động để mở đường giải phóng mọi
85
nguồn tài nguyên tiềm năng, trước hết là đất đai, lao động, rừng, biển…
3.3. Các giải pháp cơ bản để giải quyết vấn đề bất bình đẳng về thu
nhập giữa nông thôn và thành thị ở nước ta hiện nay
Có một số biện pháp nhằm tạo thêm công ăn việc làm và thu nhập cho
những người có thu nhập thấp, có một số biện pháp nhằm phân phối lại thu
nhập và của cải. Cả 2 cách tiếp cận đều rất cần thiết tuy nhiên mỗi cách tiếp
cận đều có những tác động tiêu cực vì thế nên Việt Nam cần xem xét kỹ để
xây dựng và điều chỉnh chính sách cho phù hợp nhằm đạt được mục tiêu với
hiệu quả cao nhất. Nói chung có các giải pháp cơ bản sau:
Nâng cao năng suất nông nghiệp
Đây là cách trực tiếp nhất nhằm nâng cao đời sống của người nông dân.
Cải tổ đất đai và tự do hóa nông nghiệp thường có những tác động lớn, mặc
dù chỉ một lần và tạo ra những khuyến khích đối với quy mô sản xuất. Cải
tiến nông nghiệp dựa trên những giống cây trồng mới và hệ thống tưới tiêu -
Cuộc cách mạng xanh - đã tạo ra nhiều thành công rực rỡ ở nhiều nước. Sự đa
dạng hóa đối với các loại cây công nghiệp và việc chăn nuôi gia súc cũng là
một hướng giải quyết khác. Tuy nhiên, Việt Nam ít nhiều đều đã thử áp dụng
các phương pháp này và liệu có phương pháp khác có thể thúc đẩy nâng cao
năng suất nông nghiệp hay không vẫn còn chưa có câu trả lời chắc chắn. Hiệu
quả sử dụng đất ở Việt Nam hiện nay là khá cao, và đất được chia thành
những mảnh nhỏ, đặc biệt là ở phía Bắc. Những cải tiến về kỹ thuật nông
nghiệp và tổ chức, đưa thành tựu khoa học kĩ thuật vào sản xuất nông nghiệp
cũng nên được xem xét. Nhưng nếu chỉ cải thiện được năng suất một phần
nào và không thể làm người nông dân giàu lên được thì cần phải xem xét đến
các biện pháp khác.
86
Đầu tư vào con người
Về vấn đề lao động, đây là nhu cầu cấp thiết để phát triển nông nghiệp
và nông thôn. Nhà nước nên tiếp tục thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia
về việc làm nhằm thực hiện mục tiêu nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo
nghề, tạo việc làm, tăng thu nhập của lao động nông thôn. Hỗ trợ tạo việc làm
và phát triển thị trường lao động giai đoạn 2011-2015, đặc biệt ở khu vực
nông thôn nhằm giảm tỷ lệ lao động nông nghiệp xuống 40% lao động xã hội
vào năm 2015, và giảm tỷ lệ thiếu việc làm ở khu vực nông thôn.
Năm 2011 là năm thứ 2 cả nước thực hiện Quyết định 1956/QĐ-TTg
của Thủ tướng Chính phủ về việc đào tạo nghề cho lao động nông thôn (đề án
1956). Sau 6 tháng thực hiện, cả nước đã tổ chức dạy nghề cho 267.032 lao
động nông thôn, đạt 53% kế hoạch cả năm. Trong đó, xu hướng thiên về các
ngành nghề phi nông nghiệp của lao động học nghề được thể hiện rõ nhất qua
con số 51% và chỉ 48% số lao động lựa chọn học các nghề nông nghiệp. Đặc
biệt, tỷ lệ lao động học nghề được tạo việc làm sau đào tạo ở các địa phương
trên cả nước đạt mức cao, trung bình khoảng 70%.
Ngoài việc được đào tạo những kỹ năng nghề, lao động học nghề còn
được trang bị thêm kỹ năng về khởi sự doanh nghiệp và những kỹ năng
“mềm” khác rất hữu ích trong cuộc sống như: bình đẳng giới, kỹ năng tạo mối
quan hệ trong cộng đồng...
Ngân sách Nhà nước năm 2011 đã bố trí 1.000 tỉ đồng cho dạy nghề lao
động ở nông thôn. Báo cáo của Chính phủ có đề nghị cân đối tối thiểu 3%
tổng chi ngân sách Nhà nước giai đoạn 2011-2015 cho thực hiện các chương
trình mục tiêu quốc gia trong đó có chương trình mục tiêu quốc gia về việc
làm. Chính phủ cần xem xét nâng tỷ lệ này lên tối thiểu là 4% cho việc thực
hiện các chương trình mục tiêu quốc gia, trong đó có chương trình quốc gia
87
về việc làm.
- Trí thức hóa nông thôn là một biện pháp cơ bản để giải quyết các vấn
đề phát triển ở khu vực này. Nhưng khoảng cách giữa thành thị và nông thôn
đã cản trở việc thu hút trí thức về nông thôn. Các trường đại học phải có các
khoa đào tạo những nghề có thể làm việc và sống tốt với mức thu nhập ở nông
thôn. Ở nhiều nước đã tổ chức các đại học nông dân để đào tạo cán bộ cho
nông thôn. Vì vậy, Nhà nước nên có chính sách ưu đãi để tuyển các cán bộ
chuyên môn cho các tổ chức ở nông thôn với mức tiền lương thu hút.
Đa dạng hóa sinh kế cho nông dân, tạo các việc làm để tăng thu nhập
cho người dân nông thôn. Đa dạng hóa sinh kế là một phong trào của nông
dân thế giới được nhiều nước hỗ trợ. Mục tiêu của thương mại nông nghiệp là
tăng giá trị gia tăng của nông sản, còn mục tiêu của phát triển nông thôn là
tăng sinh kế của nông dân. Đa dạng hóa sinh kế là tạo việc làm cho nông dân
ở những lúc nông nhàn, bằng cách đa dạng hóa sản xuất, phát triển công
nghiệp, dịch vụ, thị trường, du lịch, di cư tạm thời, học tập...
+ Gắn chương trình giải quyết việc làm với quá trình đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Giải quyết việc làm cho lao
động nông nghiệp trong quá trình hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn chỉ có
thể được giải quyết căn bản khi gắn với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
đẩy mạnh hiện đại hóa nông nhiệp, nông thôn trong nền kinh tế thị trường
nhiều thành phần. Một mặt đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
trong nông nghiệp theo hướng hiện đại. Đồng thời phát triển các cụm công
nghiệp, các doanh nghiệp vừa và nhỏ trên cơ sở tiểu thủ công nghiệp và làng
nghề, xây dựng, thương mại dịch vụ, du lịch.
+ Xác định giá trị quyền sử dụng đất và hỗ trợ giải quyết việc làm cho
lao động nông nghiệp bị thu hồi đất theo nguyên tắc thị trường định hướng xã
88
hội chủ nghĩa.
+ Mở rộng cầu lao động bằng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
theo hướng tập trung, phát triển thị trường ở nông thôn.
+ Khuyến khích các ngành dịch vụ ở nông thôn
Khu vực nông thôn là khu vực chiếm dân số đông nhưng thu nhập bình
quân trên đầu người còn thấp. Để khắc phục tình trạng này cần có những biện
pháp để đẩy mạnh sản xuất ở nông thôn, nâng cao sản lượng sản xuất ở khu
vực này ví dụ như công nghiệp hóa nông thôn, xây dựng các làng nghề thủ
công mỹ nghệ…
Có thể xem xét, quy hoạch các vùng để phát triển du lịch nông thôn ở
Việt Nam. Bao gồm du lịch sinh thái, du lịch văn hóa (lịch sử, nông nghiệp,
làng nghề, ẩm thực, Phật giáo, giải trí, nghỉ ngơi). Du lịch nông thôn cần do
cộng đồng nông thôn quản lý để bảo đảm thu nhập cho nông dân. Một hệ
thống nhà nghỉ nông thôn giá rẻ để phục vụ nhu cầu du lịch của người thu
nhập trung bình.
+ Tăng đầu tư, lập vùng chuyên canh nông nghiệp
Cần đẩy mạnh đầu tư cho nông nghiệp để thúc đẩy sự phát triển ổn
định lâu dài cho khu vực nông thôn là vấn đề ưu tiên hàng đầu hiện nay. Ở
Hàn Quốc, chi phí khuyến nông đầu tư cho 1 héc ta làm nông nghiệp là 850
đô la Mỹ. Hiện ở Việt Nam, mức đầu tư này chỉ 1 đô la Mỹ/héc ta, bằng
1/850 lần so với Hàn Quốc. Giải quyết tình trạng này, Chính phủ nên quan
tâm tăng tỷ lệ đầu tư vào nông nghiệp.
Để thiết lập được vùng chuyên canh trong nông nghiệp với số lượng
hàng hóa lớn, chất lượng ổn định, nông dân phải tích tụ được đất đai canh tác.
Nhưng thực tế, việc tích tụ đất đai cũng đang gặp nhiều bất cập. Với hạn mức
giao đất nông nghiệp tối đa là 3 héc ta/hộ, Việt Nam có trên 9 triệu héc ta đất
89
nông nghiệp cho 9,2 triệu hộ làm nông nghiệp. Nếu một hộ có 3 héc ta, thì sẽ
có hộ không có đất đai. Theo kinh nghiệm từ Đài Loan, Nhà nước mua đất để
cho nông dân mượn đất canh tác. Nông dân được hỗ trợ tích tụ bằng công
nghệ, chế biến các sản phẩm, hình thành vùng thương mại hàng hóa với quy
mô lớn. Điều này sẽ tạo ra nhiều lợi nhuận cho nông dân hơn là tích tụ quyền
sở hữu ruộng đất.
Thiết lập những cơ chế phân phối lại thu nhập
- Phân phối lại thu nhập làm giảm khoảng cách giàu nghèo, nâng cao
tổng lợi ích của toàn xã hội. Để thực hiện được cơ chế này, các loại thuế, trợ
cấp khác nhau, các biện pháp kiểm soát giá và ưu đãi khác (các hành động
kiên quyết) cần phải được áp dụng. Những biện pháp này có thể tạo ra những
hậu quả về tài chính và những lệch lạc về thị trường, do vậy việc áp dụng
chúng cần hết sức thận trọng và có mục tiêu thích hợp để tránh các khủng
hoảng về ngân sách, cũng như chính trị. Phân phối lại có thể đi ngược lại xu
thế tự do hoá nền kinh tế nhưng nó cần thiết để giảm bớt sự bất mãn về chính
trị tại các nước đang tăng trưởng mạnh. Tại Nhật Bản sau thế chiến thứ 2,
Chính phủ đã tiến hành việc phân bổ lại các nguồn lực giữa các thành phố
công nghiệp bị đánh bom với các khu vực nông thôn thông qua việc phân bổ
lại ngân sách trung ương và địa phương, trợ cấp và bảo hộ nông dân, ưu tiên
đầu tư các dự án công tại khu vực nông thôn. Chính sách này đã giúp Chính
phủ Nhật Bản ổn định tình hình chính trị trong nước tuy nhiên lại gây cản trở
cho sự đổi mới trong nông nghiệp. Một khía cạnh khác của vấn đề phân phối
lại là thời hạn áp dụng; bảo hộ rất khó xoá bỏ thậm chí ngay khả khi sự tồn tại
của nó không còn ý nghĩa nữa.
- Xây dựng và hoàn thiện hệ thống bảo hiểm thích ứng với nền kinh tế
thị trường. Xây dựng một xã hội có nhiều người giàu, không có người nghèo
90
đói, hoặc có người nghèo đói nhưng được xã hội trợ giúp, quan tâm – đó là
một định hướng mà Việt Nam lựa chọn. Chương trình xóa đói, giảm nghèo đã
được Chính phủ Việt Nam thực hiện có kết quả trong nhiều năm là một sự thể
hiện rõ quyết tâm đó. Kết quả thu được là rõ nét – đã giảm được hơn một nửa
số người nghèo đói trong vòng 10 năm. Có thể nói chương trình xóa đói, giảm
nghèo theo nghĩa rộng nhất đã bao gồm toàn bộ chương trình phát triển của
Việt Nam, nhưng theo nghĩa hẹp nó chỉ tập trung vào những trợ giúp cho các
vùng, các tầng lớp nghèo đói. Tuy nhiên có thể còn phải có những cố gắng
tiếp tục hoàn thiện chương trình này theo hướng xây dựng một hệ thống an
sinh xã hội hoàn thiện hơn, bảo đảm an toàn hơn cho những người gặp rủi ro,
cơ nhỡ, hỗ trợ tốt hơn cho những vùng nghèo, khu vực bị thiên tai. Căn cứ
vào tình hình thực tế của mình, Việt Nam cần phải xây dựng hệ thống bảo
hiểm xã hội hóa, nhiều tầng nhiều nấc. Bảo hiểm dưỡng lão, y tế, giáo dục…
cần phải xây dựng trên cơ sở kết hợp giữa xã hội và cá nhân, giữa công bằng
và hiệu quả, thích ứng với yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, góp phần thúc đẩy tiến trình đổi mới hơn nữa ở Việt Nam.
- Bên cạnh đó, chính sách của Nhà nước phải hướng tới việc khuyến
khích và tạo cơ hội để người nghèo và các nhóm yếu thế tham gia hưởng lợi
từ tăng trưởng kinh tế, đảm bảo mọi người dân đều được chia sẻ thành quả
của sự phát triển bằng cách quan tâm tới ba lĩnh vực: giáo dục, y tế và an sinh
xã hội, không để người dân rơi vào “bẫy nghèo” vì chi phí đào tạo và dịch vụ
y tế quá cao. Trong thực tế, thời gian qua, chúng ta đã quan tâm đến vấn đề
này và đã đạt được những thành quả đáng ghi nhận. Tuy nhiên, để có thể duy
trì mức tăng trưởng cao và bền vững cần phải thực hiện tốt hơn nữa.
Tiếp tục khuyến khích mọi người, các chính phủ, tổ chức nước ngoài
tài trợ, giúp đỡ cho những người, khu vực nghèo khó của Việt Nam. Việc này
cải thiện phần nào về thu nhập, kinh tế cho những người, khu vực nông thôn,
91
miền núi, vùng sâu, vùng xa đặc biệt khó khăn, hay bị thiên tai.
Bên cạnh việc sử dụng các công cụ chính sách để trực tiếp giải quyết
vấn đề bất bình đẳng, có thể chú tâm khơi dậy và phát huy những nét văn hóa
và đức tính tốt đẹp tiềm ẩn trong con người Việt để hỗ trợ cho quá trình này.
Suy cho cùng thì sự thành công của chính sách cũng do yếu tố con người mà
ra (từ người làm chính sách cho đến người mà chính sách nhắm đến). Tinh
thần tương thân tương ái, lòng trắc ẩn, tinh thần vì tổ quốc... là những nét đẹp
không những làm xã hội đẹp hơn mà còn giúp kiến tạo những chính sách có
hiệu quả trong công cuộc thúc đẩy phát triển đất nước một cách công bằng
hơn.
- Có chính sách thu hút kiều hối và tạo điều kiện cho người dân đi xuất
khẩu lao động. Kiều hối mỗi năm khoảng 8 tỷ USD, trong đó khoảng 1,8 – 2
tỷ, bằng khoảng 25% là do người đi xuất khẩu lao động gửi về. Dự kiến năm
2012 dự kiến có khoảng 9 tỷ USD kiều hối được gửi về. Lượng kiều hối được
gửi về vùng nông thôn sẽ làm tăng thu nhập đáng kể cho khu vực này.
- Điều chỉnh sự bất bình đẳng về tài sản. Thừa kế tài sản từ bố mẹ là
một trong những nguyên nhân gây bất bình đẳng. Nhiều người có đất ở thành
phố bất ngờ trở thành triệu phú. Nhiều người khác giàu có lên nhờ quen biết
và tham nhũng. Tuy nhiên, thậm chí ngay cả đối với những người giàu có một
cách chân chính nhờ lao động và trí óc thì vấn đề đánh thuế tài sản để phân
phối lại cho một bộ phận dân chúng còn nghèo khổ vẫn còn là vấn đề tranh
luận. Tại thời điểm hiện nay, Việt Nam vẫn chưa áp dụng bất cứ chính sách
thuế nào nhằm điều chỉnh sự bất bình đẳng về tài sản. Các chính sách, pháp
luật của Nhà nước như thuế thừa kế, thuế tài sản, thuế đầu tư v.v. cần được
nghiên cứu và triển khai theo các trình tự hợp lý.
92
Tăng đầu tư vào các dự án công và khu vực kém phát triển.
Xây dựng các công trình công cộng, cơ sở hạ tầng giao thông và cung
cấp cấp điện có thể mang lại lợi ích cho các vùng trọng điểm thông qua hai
kênh chính. Thứ nhất là tạo công ăn việc làm trong quá trình xây dựng và thứ
hai là cung cấp dịch vụ sau khi quá trình thi công các công trình hoàn tất. Tuy
nhiên cũng cần lưu ý, đầu tư công là con dao hai lưỡi. Rất nhiều dự án công
tiêu tốn rất nhiều chi phí của ngân sách nhưng không đem lại mấy hiệu quả
cho người dân địa phương. Kinh tế và chính trị luôn luôn có tác động qua lại,
tuy nhiên cũng cần phải dựa trên các tiêu chí về kinh tế để đánh giá hiệu quả
của dự án.
Điều chỉnh lại chiến lược đầu tư công để hiệu quả và phù hợp với thực
tế, đẩy mạnh đầu tư vào khu vực nông nghiệp và phát triển nông thôn. Nếu
chuyển bớt nguồn lực đầu tư vào những ngành công nghiệp làm ăn không
hiệu quả sang phát triển nông nghiệp và nông thôn thì không những giúp tăng
hiệu quả kinh tế mà còn cải thiện đời sống của rất nhiều người nghèo và giảm
bớt tình trạng di cư vào các thành phố lớn (vốn đã quá tải) để kiếm sống. Chi
tiết hơn, bên cạnh việc xây dựng cơ sở hạ tầng và cải thiện các dịch vụ cốt
yếu cho người nông dân, cần tạo điều kiện giúp những hộ nông dân có thể dễ
dàng vay vốn ưu đãi nhằm giúp họ phát huy sản xuất.
Chính phủ cũng cần xem xét lại các tiêu chí phân bổ đầu tư phát triển.
Những tiêu chí không thể chung cho các địa bàn, mà phải chú ý đặc điểm
vùng, miền và tình trạng phát triển của từng địa phương. Như miền núi không
có diện tích lúa như đồng bằng để đạt điểm số cao, để có lợi trong phân bổ
vốn đầu tư.
Cần tiếp tục công nghiệp hóa nông nghiệp. Thực tế, dù kinh tế lâm vào
khủng hoảng, nhưng nông nghiệp vẫn phát triển ổn định. Thực tế phát triển
93
nông nghiệp trong thời gian qua, chỉ cần chọn một khâu đột phá để đầu tư cho
nông nghiệp, sẽ tạo ra một bước chuyển lớn. Ví dụ ở khu vực đồng bằng sông
Cửu Long, nếu đầu tư tốt cho công nghệ sau thu hoạch sẽ giảm thất thoát
trong quá trình tồn trữ từ 10-20%, tương đương với 0,7 – 1,4 triệu tấn gạo
xuất khẩu (so với sản lượng gạo mà Việt Nam xuất khẩu khoảng 7 triệu tấn).
Để nông dân an tâm canh tác trên mảnh đất của mình, Nhà nước cũng
cần sớm hoàn thành việc quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp, bao gồm cả
việc quy hoạch vùng nông nghiệp chuyên canh lớn. Trong đó quan tâm đến
quỹ đất nông nghiệp ổn định, đặc biệt là đất trồng cây lương thực, không cho
lấy đất trồng lúa sử dụng sang việc khác. Điều này giúp cho người nông dân
có điều kiện thâm canh, chuyên canh sâu trên thửa ruộng của mình. Ngoài ra,
Nhà nước nên tiếp tục triển khai việc miễn, giảm thuế sử dụng đất nông
nghiệp đến năm 2020.
Muốn giảm khoảng cách giữa thành thị và nông thôn này, phải tiến
hành đô thị hóa và công nghiệp hóa nông thôn. Thời gian qua, Nhà nước tập
trung vào đô thị hóa và công nghiệp hóa thành thị, bỏ quên nông thôn, để
nông dân tự làm lấy một cách tự phát. Phải xác định chiến lược và xây dựng
quy hoạch đô thị hóa và công nghiệp hóa nông thôn. Bao gồm việc xây dựng
các thị trấn, thị tứ ở nông thôn, phát triển công nghiệp và dịch vụ nông thôn,
xây dựng thị trường nông thôn, giải quyết việc làm cho lao động dư thừa ở
nông thôn.
Khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia phát triển hoạt động
nghiên cứu và áp dụng khoa học công nghệ. Nhà nước tập trung đầu tư các
lĩnh vực khoa học công nghệ phục vụ mục đích công cộng trong lĩnh vực
nông nghiệp và hoạt động khuyến nông, thú y, bảo vệ thực vật ở các vùng
nghèo, vùng khó khăn. Thiết thực hỗ trợ các thành phần kinh tế tham gia cung
94
cấp dịch vụ kĩ thuật có thu phí ở các vùng thuận lợi. Tương tự, Nhà nước tập
trung đầu tư và trợ cấp hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao... ở nông
thôn, nhất là các vùng nghèo, khu vực khó khăn, khuyến khích các thành phần
kinh tế tham gia đầu tư kinh doanh phát triển dịch vụ ở nông thôn và các vùng
phát khó khăn. Từng bước thu hẹp khoảng cách về chất lượng dịch vụ giữa đô
thị và nông thôn.
Nâng cao chất lượng cung cấp các dịch vụ công
Điều này trực tiếp tác động đến người nghèo khác hẳn với các dự án
đầu tư vào khu vực công với mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế địa
phương và gián tiếp trợ giúp người nghèo. Giáo dục cơ sở và chăm sóc sức
khoẻ cần phải được cung cấp ở mọi nơi với chi phí phù hợp. Nước sạch và
các dịch vụ vệ sinh môi trường cần được đảm bảo. Khoảng cách giữa nông
thôn với thành thị, các điểm mù chữ cần phải xoá bỏ. Cải thiện hệ thống an
sinh xã hội nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân cũng là nhiệm
vụ quan trọng. Các nước đang phát triển có các hình thức cung cấp dịch vụ
công khác nhau. So với chuẩn quốc tế, việc cung cấp các dịch vụ công tại
Việt Nam tương đối tốt, tuy nhiên vẫn còn nhiều việc cần hoàn thiện.
Để nâng cao giá trị của nông sản, cần áp dụng một hệ thống quản lý
chất lượng nông sản để vừa đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng, vừa
tăng thu nhập cho nông dân. Để làm được điều này, Nhà nước cần hỗ trợ xây
dựng thương hiệu cho nông sản. Xây dựng các thể chế cho nông dân tham gia
trực tiếp vào thị trường không qua thương nhân, như tổ chức hợp tác xã, tổ
chức các chợ bán buôn nông sản ở thành thị. Ký hợp đồng với siêu thị, lập các
hiệp hội bao gồm cả người sản xuất và thương nhân, giới thiệu ẩm thực truyền
thống cho khách du lịch... là những cách để đa dạng hóa sinh kế cho nông
dân. Điều quan trọng hơn, để thực hiện việc này, cần phải tạo lập một nền
95
“thương mại công bằng” cho nông dân.
Để giảm bớt khó khăn, từng bước nâng cao thu nhập và ổn định đời
sống người nông dân, khuyến khích tổ chức, cá nhân đầu tư vào lĩnh vực nông
nghiệp, Chính phủ đề nghị Quốc hội tiếp tục cho phép miễn, giảm thuế sử
dụng đất nông nghiệp với đối tượng và phạm vi miễn, giảm như đã thực hiện
từ 2003-2010.
Cải thiện môi trường đầu tư ở nông thôn để tạo điều kiện thuận lợi thu
hút đầu tư của các thành phần kinh tế trong và ngoài nước vào địa bàn nông
thôn. Hỗ trợ cư dân nông thôn tích lũy phát triển hộ ngành nghề, phát triển
doanh nghiệp, phát triển kinh tế trang trại, tạo điều kiện hình thành liên
doanh, liên kết giữa kinh tế đô thị với kinh tế nông thôn (mạng lưới vệ tinh
gia công sản xuất, dây chuyền phân phối tiếp thị, vùng sản xuất nguyên liệu
cho công nghiệp chế biến, hệ thống cung ứng dịch vụ...). Tăng năng lực và
hiệu quả kinh doanh, sản xuất cho doanh nghiệp nông thôn nhằm tạo nhiều
việc làm và thu nhập cho cư dân nông thôn.
Tháo gỡ mọi vướng mắc, tạo điều kiện phát triển thị trường tài nguyên
(lao động, đất, vốn, khoa học công nghệ) ở nông thôn để cơ chế thị trường
phát huy và nuôi dưỡng nội lực của cư dân nông thôn, điều tiết có hiệu quả
mọi nguồn tài nguyên hiện có của xã hội vào quá trình phát triển nông thôn.
Khai thác hiệu quả các nguồn đất chưa sử dụng có hiệu quả ở đồng bằng sông
Hồng, Bắc Trung bộ, trong các nông lâm trường quốc doanh, ở các vùng đất
trống; huy động các nguồn lao động dồi dào trong nông thôn; các nguồn vốn
dự trữ ở đô thị, vốn quốc tế vào đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn,
phát triển dịch vụ và ngành nghề (kể cả công nghiệp, phi nông nghiệp ở địa
bàn nông thôn), giãn xây dựng đô thị, phát triển công nghiệp về địa bàn nông
96
thôn; đưa lao động nông thôn ra đô thị và xuất khẩu.
- Xác định rõ các chỉ tiêu cân bằng kinh tế và môi trường cần thiết, xác
định rõ địa bàn phù hợp như diện tích đất lúa tối thiểu, mức che phủ rừng hợp
lý, tỷ lệ và phạm vi rừng phòng hộ và đặc dụng cần thiết... có chính sách để
đảm bảo các cân đối cần thiết trên trong quy hoạch sử dụng và phát triển tài
nguyên, đồng thời bù đắp đúng mức để người dân ở các vùng nằm trong quy
hoạch không thiệt thòi so với mức quyền lợi chung của xã hội, đảm bảo phát
triển bền vững về xã hội và môi trường. Chủ động quy hoạch hài hòa về kinh
tế, xã hội, môi trường địa bàn dân cư nông thôn kết hợp với sản xuất nông
nghiệp và ngoài nông nghiệp.
Những tiêu cực liên quan đến vấn đề thu hồi đất phải được giải quyết
và ngăn chặn. Bên cạnh việc rà soát và điều chỉnh lại các luật lệ đất đai, quy
trình thu hồi đất cũng đòi hỏi một sự minh bạch rõ ràng để tránh những sự lợi
dụng danh nghĩa "phát triển kinh tế" lấy đất của người nông dân trao cho
những đối tượng khác. Cần tránh các trường hợp thu hồi đất canh tác tốt để
phục vụ cho các chương trình đô thị hóa và xây dựng khu công nghiệp một
cách ồ ạt, thiếu thận trọng. Người dân cần có một cơ chế tốt để họ có thể phản
ánh (và được giải quyết thỏa đáng) những oan ức lên cấp cao hơn trong
trường hợp các cấp địa phương có những động thái không đúng.
Điều hòa hợp lý sự di dân từ nông thôn ra thành thị.
Dòng người nông thôn đến các thành phố để tìm việc làm và thu nhập
đang không ngừng diễn ra ở hầu hết các nước đang phát triển, và dòng người
di dân này đang ngày càng gia tăng khi tăng trưởng ngày càng tăng. Ở Việt
Nam cũng vậy, di dân từ nông thôn ra thành thị cũng không ngừng gia tăng,
tuy nhiên cơ hội làm việc không thể đáp ứng được sự tăng lên ngày càng
mạnh mẽ của dòng người này. Việc di dân này có cả tác động tích cực và tiêu
97
cựu đối với các điểm đến. Mặc dù di cư từ nông thôn ra thành thị về cơ bản
được diễn ra do bản thân những người di dân mong muốn đến các thành phố,
chính phủ cần có những chính sách thích hợp để hạn chế những vấn đề không
mong muốn có thể xảy ra và bảo vệ những người di dân khỏi những rủi ro có
thể xảy đến, đồng thời điều hòa hợp lý luồng di dân.
Về xây dựng nông thôn mới. Trên cơ sở tổng kết thực tiễn, rút kinh
nghiệm từ các mô hình thí điểm, cần tiếp tục kế hoạch xây dựng nông thôn
mới, kết hợp các giải pháp ở trên vận dụng vào xây dựng nông thôn mới.
Trong đó đặc biệt chú ý đầu tư xây dựng cơ sở vật chất về giao thông, phát
triển hơn nữa giáo dục, y tế, coi trọng đội ngũ cán bộ thôn, xã cho những nơi
được chọn để xây dựng nông thôn mới. Tạo sinh kế, việc làm, phát triển các
ngành nghề truyền thống, tạo đầu ra cho sản phẩm, khuyến khích thu hút đầu
tư vào nông thôn, đặc biệt khuyến khích những người đã rời khỏi địa phương
98
quay trở lại đầu tư vào địa phương,
KẾT LUẬN
Tỷ lệ khoảng cách về thu nhập giữa thành thị và nông thôn ở Việt Nam
hiện nay đã được cải thiện đáng kể, nhưng vẫn còn nhiều nội dung phải giải
quyết để tiếp tục giảm khoảng cách chênh lệch này, cải thiện hơn sự bất bình
đẳng về thu nhập như tạo công việc làm, tăng thu nhập cho nhóm người có
thu nhập thấp của cả nước nói chung và của nông thôn nói riêng, giảm tỷ lệ
đói nghèo, giảm những cách biệt về cơ hội trong cuộc sống như đầu tư cho
giáo dục, y tế, giao thông ở nông thôn... Các biện pháp đề ra mang tính vĩ mô,
đòi hỏi phải có các chủ chương lớn, định hướng của Nhà nước, sự đầu tư của
tư nhân, Nhà nước và tranh thủ viện trợ, đầu tư từ nước ngoài cùng với sự
chung sức của toàn dân và đặc biệt là sự chủ động của bản thân người dân
nông thôn để thực hiện.
Bằng sự đầu tư công sức và thời gian thỏa đáng, đến nay luận văn “Bất
bình đẳng thu nhập giữa nông thôn và thành thị ở Việt Nam hiện nay” đã
được hoàn thành đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của luận văn thạc sỹ chuyên
ngành Kinh tế chính trị ở Trung tâm đào tạo, bồi dưỡng giảng viên lý luận
chính trị thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội.
Những kết quả khoa học trong luận văn sẽ có sự đóng góp nhất định về
mặt lý luận cho khoa học Kinh tế chính trị, mà trực tiếp là vấn đề bất bình
đẳng trong xã hội. Đồng thời là tài liệu tham khảo bổ ích cho các nhà hoạch
định chính sách để giải quyết vấn đề giảm khoảng cách về thu nhập giữa nông
thôn và thành thị ở Việt Nam.
Luận văn thạc sỹ khó tránh khỏi một số khiếm khuyết, rất mong nhận
được các ý kiến đóng góp để vấn đề này được tiếp tục hoàn thiện tốt hơn và
xin trân trọng cảm ơn về sự thông cảm đối với những nội dung chưa được
99
hoàn chỉnh của luận văn.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đỗ Phú Trần Bình (2010), Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội -
Lý thuyết và thực tiển ở thành phố Hồ Chí Minh, Nxb Lao động, Hồ Chí
Minh.
2. Bộ Lao động, thương binh và xã hội (2007), Kết quả điều tra thực
trạng việc làm và thất nghiệp ở Việt Nam, Nxb Lao động, Hà Nội.
3. Nguyễn Văn Công, Ngô Mến, Nguyễn Khắc Minh, Trần Đình Toàn,
Phạm Thị Kim San, Hoàn Yến (2009), Giáo trình Nguyên lý kinh tế vi mô,
Nxb Lao động, Hà Nội.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X, http://dangbo.most.gov.vn/modules.php?name=News&file =
article&sid =184.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, http://123.30.190.43:8080/tiengviet/tulieuvankien/vankiendang/?topic
=191 &subtopic=8&leader_topic=989.
8. Đoàn Dũng: Tổng thu nhập một tháng của nông dân, http://
tuanvietnam.vietnamnet.vn/doc-gia-phan-bien-tong-thu-nhap-mot-thang-cua- nong-dan.
9. Nguyễn Văn Hảo, Nguyễn Thị Thanh Huyền, Nguyễn Đình Kháng,
100
Nguyễn Văn Luân, Nguyễn Xuân Khoát, Lê Danh Tốn, Vũ Hồng Tiến,
Nguyễn Tiến Hoàng (2006), Giáo trình Kinh tế chính trị Mác – Lê Nin, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
10. Nguyễn Mạnh Hùng: Về chênh lệch thu nhập vùng và giữa thành
thị - nông thôn trong kinh tế Việt Nam, http://www.wright.edu/
~tdung/Aix_NMHung.htm.
11. Phạm Ngọc Linh, Nguyễn Thị Kim Dung (2009), Giáo trình Kinh
tế phát triển, Nxb Đại học kinh tế quốc dân, Hà Nội.
12. Phạm Xuân Nam, Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Tạp chí cộng sản, số 13,
tháng 7-2004, trang 22-31.
13. Nguyễn Thị Nga (2007), Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công
bằng xã hội ở Việt Nam thời kỳ đổi mới - vấn đề và giải pháp, Nxb Lý luận
chính trị, Hà Nội.
14. Nguyễn Công Nghiệp (2006), Phân phối trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
15. Chu Tiến Quang (2005), Huy động và sử dụng các nguồn lực trong
phát triển kinh tế nông thôn: Thực trạng và giải pháp, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.
16. Chu Tiến Quang, Lưu Đức Khải (2009), Kinh tế hộ gia đình ở nông
thôn Việt Nam - Thực trạng và giải pháp phát triển, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
17. Đặng Kim Sơn (2008), Nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt
101
Nam – Hôm này và mai sau, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
18. Phan Xuân Sơn, Phạm Thế Lực (2008), Nhận diện tham nhũng và
các giải pháp phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
19. Hoàng Đức Thân (2010), Quan điểm và giải pháp bảo đảm gắn kết
giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội ở nước ta, đề tài cấp
nhà nước, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội.
20. Tổng cục thống kê: Kết quả khảo sát mức sống hộ gia đình năm 2004,
http://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=417&idmid=4&ItemID= 4284.
21. Tổng cục thống kê: Kết quả khảo sát mức sống hộ gia đình năm 2006,
http://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=512&idmid=5&ItemID= 818219.
22. Tổng cục thống kê: Kết quả khảo sát mức sống hộ gia đình năm 2008,
http://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=417&idmid=4&ItemID= 9712.
23. Tổng cục thống kê: Kết quả khảo sát mức sống hộ gia đình năm 2010,
http://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=417&idmid=4&ItemID= 12428.
24. Tổng cục thống kê, Báo cáo kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở
năm 2009, http://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=507&idmid=&ItemID=
9784.
25. Tổng cục thống kê, Kết quả tổng điều tra nông nghiệp, nông thôn
và thủy sản năm 2011, http://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=408&idmid
=4&ItemID=13398.
26. Viện nghiên cứu quản lý Trung ương (2012): Giảm khoảng cách
chênh lệch thu nhập tại Việt Nam, Hà Nội.
27. UNDP(2004), Đánh giá chương trình mục tiêu quốc gia về xóa đói
102
giảm nghèo và chương trình 135.