intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Bệnh đạo ôn hại lúa và biện pháp quản lý

Chia sẻ: Nguyễn Thị Thanh Triều | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

96
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết này cung cấp những thông tin, dữ liệu khoa học về bệnh đạo ôn hại lúa và biện pháp phòng trừ. Bài viết trình bày triệu chứng bệnh đạo ôn Pyriculariao ryzaeCav, những ảnh hưởng của điều kiện thời tiết, khí hậu đến bệnh đạo ôn, ảnh hưởng của dinh dưỡng, chế độ bón phân đến bệnh đạo ôn hay ảnh hưởng của chế độ nước, mật độ, thời vụ đến bệnh đạo ôn. Bên cạnh đó, tác giả còn tổng hợp những nghiên cứu về chủng nấm sinh lý gây bệnh và tính chống chịu bệnh đạo ôn của các giống lúa.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Bệnh đạo ôn hại lúa và biện pháp quản lý

NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI<br /> <br /> BỆNH ĐẠO ÔN HẠI LÚA VÀ BIỆN PHÁP QUẢN LÝ<br /> <br /> n Nguyễn Tuấn Lộc<br /> Trung tâm BVTV vùng Khu 4<br /> <br /> 1. Mở đầu<br /> Việt Nam được coi là một trong những nơi phát<br /> sinh cây lúa, lúa được thuần hóa và trồng cấy từ 4000<br /> năm nay. Với điều kiện khí hậu nhiệt đới, lượng mưa<br /> hàng năm lớn, rất thích hợp cho cây lúa sinh trưởng<br /> và phát triển. Cùng với việc áp dụng giống mới, đầu<br /> tư phân bón cao thì cũng không tránh khỏi các đối<br /> tượng dịch hại ngày càng nghiêm trọng, đặc biệt là<br /> bệnh đạo ôn.<br /> Các tỉnh vùng Khu 4 hàng năm gieo trồng 670.000680.000ha lúa. Việc mở rộng diện tích lúa đặc sản, lúa<br /> hàng hóa chất lượng đang gặp phải một trở ngại lớn<br /> là mức độ và quy luật phát sinh của một số đối tượng<br /> sâu bệnh chủ yếu ngày càng phức tạp. Trong đó bệnh<br /> đạo ôn hại lúa (Pyricularia oryzae Cav.) là một trong<br /> những bệnh hại lúa nguy hiểm, gây hại nghiêm trọng<br /> cả trên lá và cổ bông. Mức độ và tác hại của bệnh thay<br /> đổi liên quan đến nhiều yếu tố như: giống lúa, thời kỳ<br /> sinh trưởng, chế độ canh tác, mùa vụ, phân bón, khí<br /> hậu, thời tiết… Vụ xuân 2017, bệnh đạo ôn cổ bông<br /> đã phát sinh gây hại trên 22.636,1ha, trong đó nặng<br /> SỐ 3/2018<br /> <br /> 7.825,8ha, (mất trắng 13.238,5ha), tỷ lệ bệnh<br /> phổ biến 5-10%, nơi cao 15-70%. Bài viết<br /> này cung cấp những thông tin, dữ liệu khoa<br /> học về bệnh đạo ôn hại lúa và biện pháp<br /> phòng trừ.<br /> 2. Triệu chứng bệnh đạo ôn Pyricularia<br /> oryzae Cav<br /> Bệnh đạo ôn phát sinh gây hại cả trên mạ<br /> và trên lúa cấy ở các thời kỳ sinh trưởng,<br /> phát triển ngoài đồng ruộng. Cây lúa có thể<br /> bị bệnh ở các bộ phận khác nhau như cổ lá,<br /> phiến lá, đốt thân, cổ bông, cổ gié, hạt. Dựa<br /> vào vị trí bị bệnh, người ta phân chia các<br /> dạng hình bệnh: đạo ôn lá, đạo ôn đốt thân,<br /> đạo ôn cổ bông…<br /> - Vết bệnh trên lá mạ, lá lúa: Lúc đầu là<br /> những chấm nhỏ màu hơi vàng mờ. Vài<br /> ngày sau, vết bệnh kéo dài về hai phía, phình<br /> to ở giữa tạo thành vết bệnh có dạng hình<br /> thoi, ở giữa vết bệnh màu xám tro, có một<br /> viền nâu, xung quanh vết bệnh có thể có<br /> Tạp chí<br /> <br /> KH-CN Nghệ An<br /> <br /> [16]<br /> <br /> NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI<br /> quầng vàng (tùy theo loại giống). Đây là vết<br /> bệnh đặc trưng. Trong điều kiện thời tiết phù<br /> hợp cho bệnh phát triển, điều kiện dinh<br /> dưỡng đạm quá nhiều thì triệu chứng vết<br /> bệnh ban đầu là một chấm nhỏ, sau lan rộng<br /> ra có màu xanh tái, kéo dài nhiều ngày. Đó<br /> là vết bệnh cấp tính, sau mới chuyển thành<br /> vết bệnh đạo ôn đặc trưng (dạng vết bệnh<br /> mãn tính). Kích thước vết bệnh hình thoi<br /> dao động trong khoảng 0,5 - 4 x 1 - 25mm.<br /> Trong trường hợp bệnh phát triển mạnh,<br /> nhiều vết bệnh nhỏ liên kết nối liền với<br /> nhau tạo thành một dải vết bệnh, lá cháy<br /> khô lụi đi nhanh chóng.<br /> - Vết bệnh trên cổ lá: Lúc đầu là chấm<br /> nâu, sau phát triển thành vết nâu hình khum<br /> theo chiều cong giữa cổ lá và phiến lá. Khi<br /> cổ lá bị bệnh toàn lá tái xanh, xám, khô lụi,<br /> gẫy gục xuống.<br /> - Vết bệnh trên đốt thân: Lúc đầu là một<br /> đốm nhỏ màu nâu sau lớn rộng ra thành một<br /> vành tròn bao quanh đốt thân làm cho thân<br /> lõm tóp lại, màu nâu đen. Khi trời mưa ẩm,<br /> đốt thân bị bệnh mềm nhũn, dễ bị gãy gập<br /> khi gặp giông, gió.<br /> - Vết bệnh trên cổ bông: Trên cổ bông,<br /> cổ gié có vết bệnh lúc đầu là đốm nhỏ, sau<br /> lan ra theo chiều dài làm cả đoạn cổ bông<br /> có màu nâu xám, khô tóp lại, cả bông lép<br /> trắng nếu nhiễm bệnh sớm ngay thời gian<br /> trỗ. Trong trường hợp nhiễm bệnh muộn<br /> vào thời kỳ làm hạt - chín thì gây ra hiện<br /> tượng nhiều hạt lép lửng, bông lúa nhỏ, dễ<br /> gãy cổ bông, rụng gié, dẫn đến làm giảm<br /> năng suất lúa.<br /> - Vết bệnh trên hạt: Vết bệnh gây hại trên<br /> hạt không đồng nhất về hình dạng như trên<br /> lá lúa mà có dạng đốm tròn hoặc không định<br /> hình, có màu nâu đen hoặc xám. Nấm ký<br /> sinh ở vỏ trấu và có thể ở bên trong hạt. Hạt<br /> giống bị nhiễm bệnh là nguồn bệnh truyền<br /> từ vụ này qua vụ khác.<br /> Trên bề mặt vết bệnh ở các bộ phận: lá,<br /> đốt thân, cổ bông đều có thể hình thành bào<br /> tử trông như một lớp mốc xám.<br /> 3. Các yếu tố ảnh hưởng đến phát sinh<br /> gây hại của bệnh đạo ôn<br /> SỐ 3/2018<br /> <br /> 3.1. Ảnh hưởng của điều kiện thời tiết, khí hậu<br /> đến bệnh đạo ôn<br /> Bệnh đạo ôn có thể phát sinh gây hại với các mức<br /> độ khác nhau, trên các mùa vụ khác nhau. Riêng ở các<br /> tỉnh miền Bắc, bệnh phát sinh gây hại ở vụ lúa chiêm<br /> xuân thường lớn hơn vụ lúa mùa.<br /> Ở vụ chiêm xuân, bệnh thường xuất hiện vào tháng<br /> 1, 2 trên mạ chiêm, đầu tháng 3 bệnh xuất hiện cục bộ<br /> trên lúa xuân đẻ nhánh. Từ giữa tháng 3 đến giữa<br /> tháng 5, bệnh thường phát sinh gây hại mạnh trên diện<br /> rộng. Trên các trà lúa mùa bệnh phát sinh vào thời kỳ<br /> lúa trỗ trở đi từ tháng 10-11. Điều đó chứng tỏ bệnh<br /> đạo ôn phát sinh theo quy luật chung trong những<br /> tháng có nhiều ngày liên tiếp đảm bảo nhiệt độ 18250C, ẩm độ cao trên 90%, mưa lai rai, số giờ nắng ít<br /> (nhỏ hơn 2 giờ/ngày).<br /> Những kết quả nghiên cứu ở Viện Lúa đồng bằng<br /> sông Cửu Long cũng cho thấy các tác động ảnh hưởng<br /> của điều kiện khí hậu tới bệnh đạo ôn. Mật độ bào tử<br /> bắt được trong bẫy tỷ lệ thuận với ẩm độ không khí.<br /> Sự phát tán của bào tử nấm Pyricularia oryzae Cav<br /> mạnh nhất trong các tháng 8, 9 và tháng 11 trong năm.<br /> Lượng mưa trong các tháng ở mùa mưa tỷ lệ thuận với<br /> sự nhiễm bệnh của cây ký chủ.<br /> 3.2. Ảnh hưởng của dinh dưỡng, chế độ bón phân<br /> đến bệnh đạo ôn<br /> Nhiều kết quả nghiên cứu và cho rằng, đạm, kali<br /> bón nhiều không hợp lý đều làm cho bệnh đạo ôn phát<br /> triển mạnh.<br /> Đạm là yếu tố dinh dưỡng ảnh hưởng lớn đến bệnh<br /> đạo ôn, làm giảm tính chống chịu bệnh, hạn chế quá<br /> <br /> Nguyên nhân gây bệnh do nấm Pirycularia oryzae Cav. gây ra<br /> <br /> Tạp chí<br /> <br /> KH-CN Nghệ An<br /> <br /> [17]<br /> <br /> NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI<br /> trình silic hóa của tế bào làm tăng hàm lượng<br /> axit amin tự do trong cây.<br /> 3.3. Ảnh hưởng của chế độ nước, mật<br /> độ, thời vụ đến bệnh đạo ôn<br /> Chế độ nước và mật độ có ảnh hưởng trực<br /> tiếp đến chế độ dinh dưỡng của cây. Nước là<br /> môi trường hòa tan các chất dễ tiêu cho cây<br /> hấp thu. Nhờ nước, các hợp chất silic có thể<br /> hòa tan để cây hấp thụ đẩy nhanh quá trình<br /> silic hóa vách tế bào, biểu bì, tăng sức chống<br /> chịu bệnh đạo ôn, hạn chế ảnh hưởng của đạm<br /> đối với bệnh.<br /> Bệnh đạo ôn phát triển mạnh hơn ở<br /> những ruộng có mật độ cấy quá cao, các trà<br /> lúa xuân cấy sớm và mùa muộn thường bị<br /> đạo ôn phá hại sớm và kéo dài.<br /> 4. Tổng hợp những nghiên cứu về<br /> chủng nấm sinh lý gây bệnh và tính chống<br /> chịu bệnh đạo ôn của các giống lúa<br /> Nấm bệnh đạo ôn là loại nấm ký sinh<br /> chuyên tính, quần thể loại nấm đạo ôn Pyricularia oryzae Cav. không đồng nhất về tính<br /> độc, tính gây bệnh. Trong tự nhiên, tính gây<br /> bệnh của nấm đạo ôn luôn biến đổi do đột<br /> biến và do sự biến động của các yếu tố sinh<br /> thái địa lý và sự xuất hiện của các giống lúa<br /> khác nhau. Từ đó hình thành nên các nòi<br /> sinh lý (race) của nấm đạo ôn.<br /> Ở Việt Nam, từ 1976, những khảo sát về<br /> sự phổ biến các nhóm nòi đạo ôn bước đầu<br /> được tiến hành ở Viện Bảo vệ thực vật và<br /> Trường Đại học Nông Nghiệp I - Hà Nội.<br /> Kết quả cho thấy, toàn bộ 8 giống lúa trong<br /> bộ giống lúa quốc tế chỉ thị nòi nhiễm bệnh<br /> khác nhau trong một số vùng miền Bắc và<br /> miền Nam. Ở vùng Bắc Hà, toàn bộ giống<br /> chỉ thị nhóm nòi A, B, C, D, IE, IF, H đều bị<br /> nhiễm bệnh đạo ôn nặng từ cấp 5-9. Nhưng<br /> ở vùng Điện Biên, 3 trong 8 giống quốc tế<br /> chỉ thị nòi lại nhiễm đạo ôn rất nhẹ ở cấp<br /> bệnh từ cấp 1-2. Đó là giống Raminad St- 3<br /> chỉ thị nhóm nòi A, giống Zenith chỉ thị nòi<br /> B, giống Usen chỉ thị nhóm nòi D. Ở vùng<br /> Tiền Giang chỉ có giống Usen chỉ thị nhóm<br /> nòi D nhiễm đạo ôn nặng ở cấp 6, còn các<br /> giống Zenith chỉ thị nòi B và giống Kunto 51 chỉ thị nhóm nòi IF chống bệnh cao chỉ<br /> nhiễm ở cấp 1. Các giống khác còn lại nhiễm<br /> SỐ 3/2018<br /> <br /> Các vết bệnh đạo ôn kế tiếp nhau gây héo lá mạ<br /> <br /> Vết bệnh đạo ôn trên lá lúa<br /> <br /> Vết chấm dạng hình thoi đặc trưng, viền nâu, tâm màu xám trắng<br /> <br /> Tạp chí<br /> <br /> KH-CN Nghệ An<br /> <br /> [18]<br /> <br /> NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI<br /> đạo ôn trung bình ở cấp 3- 4 như giống NP 125 chỉ thị nhóm nòi C, giống Dular chỉ thị<br /> nhóm nòi IE và giống Caloro chỉ thị nhóm<br /> nòi H…<br /> Cho đến năm 1985-1987, những kết quả<br /> nghiên cứu bổ sung đã bắt đầu khẳng định<br /> rõ hơn ở vùng Quảng Nam - Đà Nẵng chủ<br /> yếu có 3 nhóm nòi đạo ôn trong 5 là nhóm<br /> nòi IB, IC, IF. Trong đó, nhóm nòi IB phổ<br /> biến hơn chiếm ưu thế trong vụ đông xuân<br /> còn nhóm nòi IC và IF chiếm ưu thế trong<br /> vụ lúa xuân hè, nhóm nòi IC chiếm ưu thế<br /> trong vụ lúa hè thu.<br /> Trong thí nghiệm với 12 nguồn mẫu nấm<br /> phân lập từ 12 tỉnh ở các vùng địa lý khác<br /> nhau của nước ta, sơ bộ phân định ra 5 nhóm<br /> nòi chủ yếu như sau:<br /> Nhóm nòi IA: Có mặt ở vùng Tiền Giang,<br /> Sơn La.<br /> Nhóm nòi IB: Có mặt ở Quảng Nam - Đà<br /> Nẵng, Nghệ Tĩnh, Hà Nam Ninh, Hà Nội,<br /> Hải Phòng, Hải Hưng, Hà Bắc.<br /> Nhóm nòi IC: Có mặt ở vùng Quảng Nam<br /> - Đà Nẵng, Vĩnh Phúc.<br /> Nhóm nòi ID: Có mặt ở Thái Bình, Hà<br /> Bắc.<br /> Nhóm nòi IF: Có mặt ở Quảng Nam Đà Nẵng.<br /> Kết quả nghiên cứu phối hợp giữa<br /> Trường Đại học Nông Nghiệp I và Viện<br /> Khoa học kỹ thuật Nông nghiệp Việt Nam<br /> cho thấy, các nòi nấm có tính độc khác nhau.<br /> Mẫu phân lập nấm đạo ôn ở vùng Nghệ Tĩnh<br /> có tính độc cao hơn và đặc tính sinh trưởng<br /> khác nhau so với mẫu nấm đạo ôn ở vùng<br /> Điện Biên.<br /> Theo tác giả Lê Đình Đôn, YuKio Tosa,<br /> Hitoshi Nakayazshiki và Shigeyuki Mayama<br /> (1999), khi nghiên cứu cấu trúc quần thể<br /> nấm Pyricularia oryzae Cav. Ở Việt Nam,<br /> đã thu thập được 78 mẫu phân lập ở Đồng<br /> bằng sông Hồng (Hà Tây, Thái Bình) và<br /> Đồng bằng sông Cửu Long (Long An, Tiền<br /> Giang, Hậu Giang). Kết quả cho thấy, có 4<br /> dòng nấm được tìm thấy ở miền Bắc là VL1,<br /> VL2, VL3, VL4. Trong đó, dòng VL2 chiếm<br /> ưu thế và chỉ 1 dòng được tìm thấy ở Đồng<br /> bằng sông Cửu Long là VL5. Trong số các<br /> SỐ 3/2018<br /> <br /> mẫu phân lập tham gia thí nghiệm có 15 nòi được tìm<br /> ra đó là: 000, 002, 200, 122, 232, 102, 103, 105, 106,<br /> 107, 112, 132, 502, 505, 507. Sự phân bố các nòi này<br /> cũng khác nhau ở miền Bắc và miền Nam. Nòi 000<br /> chiếm ưu thế ở vùng Đồng bằng sông Hồng còn ở<br /> vùng Đồng bằng sông Cửu Long thì nòi 102 lại chiếm<br /> ưu thế và không có nòi nào được tìm thấy ở cả 2 vùng<br /> đồng bằng.<br /> Nado Takahito, Nagao Hayashi, Phan Văn Du,<br /> Hoàng Dinh Dinh and Lai Van E, October (1999) khi<br /> nghiên cứu về các chủng sinh lý của nấm Pyricularia<br /> ôryzae Cav. Ở Việt Nam đã thu được 129 mẫu và sắp<br /> xếp vào 12 chủng sinh lý dựa trên cơ sở tính độc của<br /> 12 giống lúa khác nhau ở miền Bắc Việt Nam. Trong<br /> đó có chủng 002.4 chiếm 31% của các mẫu phân lập,<br /> chủng 106.4 chiếm 19,4%, chủng 006.4 chiếm 17,1%,<br /> chủng 102.4 chiếm 14,7% và chủng 002.0 chiếm 7%<br /> còn 7 chủng khác là các chủng thứ yếu ở Việt Nam.<br /> Bigimana.J, NT Ninh Thuân (2002) đã xác định<br /> được 114 mẫu phân lập thu thập cuối vụ 2001 tại 11<br /> tỉnh miền Bắc Việt Nam. Hầu hết các nòi nấm Pyricularia oryzae Cav. đều không lan rộng, tại miền Bắc<br /> 87% số mẫu phân lập đã được xác định thuộc 3 nhóm<br /> nòi. Nhóm nòi lớn nhất chiếm 52% tổng số lượng mẫu<br /> phân lập ở miền Bắc, miền Nam và miền Trung nước<br /> ta cho thấy hầu hết các mẫu phân lập đều thuộc Mat<br /> 1-2. Mặt khác nghiên cứu trên 9 mẫu phân lập thu thập<br /> ở cả 3 miền Bắc, Trung, Nam; 6 mẫu phân lập ở<br /> Brundi và 5 mẫu phân lập từ Ấn Độ đã phân ra được<br /> 8 nhóm nòi khác nhau trong đó số mẫu phân lập giống<br /> nhau chiếm tới 80%.<br /> Việc nghiên cứu và sử dụng các giống chống bệnh<br /> đạo ôn ở nước ta được tiến hành rộng rãi, kết quả bước<br /> đầu đã phát hiện được trong tập đoàn giống cổ truyền<br /> Việt Nam có nhiều giống chống chịu bệnh cao như:<br /> Tẻ Tép, Chiêm Chanh Phú Thọ, Chiêm Bầu Thanh<br /> Hóa, Gié, Tép Sài Gòn, Nàng Thơm, Nàng Chét…<br /> Nhiều giống nhập nội được chọn lọc lai tạo có tính<br /> chống bệnh đạo ôn ở nhiều vùng như: NN 75-2, NN3B, NN-3A, IR1820, IR56, IR64…<br /> Chọn tạo giống kháng bệnh đạo ôn theo phương<br /> pháp phả hệ là một phương pháp có khả năng định<br /> hướng trước từ giai đoạn chọn bố mẹ để truyền lại cho<br /> con cháu ở các thế hệ sau trong quá trình tái tổ hợp<br /> các gen kháng. Phương pháp nuôi cấy túi phấn từ cây<br /> F1 cũng có thể có nhiều khả năng cho ta một kết quả<br /> tốt nhờ cố định được tính trội, kháng bệnh đạo ôn ở<br /> thế hệ F1.<br /> Tạp chí<br /> <br /> KH-CN Nghệ An<br /> <br /> [19]<br /> <br /> NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI<br /> Theo tác giả Lê Xuân Cuộc, Vũ Tuyên<br /> Hoàng, Hà Minh Trung, (1993) [8] về di<br /> truyền tính kháng bệnh đạo ôn ở 2 giống<br /> CH3 và CH133 do Viện Cây lương thực và<br /> thực phẩm chọn từ cặp lai DCH1/424 và lúa<br /> khô Nghệ An/Xuân số 2 đã kết luận:<br /> Mỗi giống có ít nhất 1 gen trội riêng<br /> kháng bệnh đạo ôn. Đây là cơ sở cho công<br /> tác lai tạo giống kháng bệnh đạo ôn có hiệu<br /> quả trong sản xuất.<br /> Lê Xuân Cuộc và ctv, (1994) cho thấy,<br /> các nòi nấm Pyricularia oryzae Cav. rất dễ<br /> bị biến dị và tạo ra nòi mới, sinh ra các độc<br /> tính và khả năng xâm nhiễm khác nhau trên<br /> cây lúa.<br /> Theo Hà Minh Trung, Ngô Vĩnh Viễn và<br /> ctv (1991-1995) sau khi nghiên cứu về thời<br /> gian duy trì tính kháng bệnh của một số<br /> giống lúa kháng bệnh đạo ôn ở các vùng sinh<br /> thái khác nhau cho thấy, sự thay đổi khả<br /> năng ký sinh của nấm gây bệnh đạo ôn được<br /> biểu hiện rõ nhất là sự đổ vỡ tính kháng bệnh<br /> của các giống kháng bệnh sau một thời gian<br /> gieo cấy trên đồng ruộng. Ở các vùng sinh<br /> thái khác nhau, tốc độ thay đổi khả năng ký<br /> sinh của nấm gây bệnh đạo ôn cũng khác<br /> nhau, ngoài ra nguyên nhân gây nên sự đổ<br /> vỡ tính kháng còn phụ thuộc vào gen kháng.<br /> Như vậy, tuyển chọn gen kháng bệnh là vấn<br /> đề được quan tâm trong công tác lai tạo và<br /> tuyển chọn giống kháng bệnh.<br /> Theo Hà Minh Trung và ctv, (19961997), kết quả nghiên cứu phản ứng của các<br /> giống lúa với các đơn bào tử nấm gây bệnh<br /> đạo ôn ở các vùng sinh thái khác nhau cho<br /> thấy: Không phải 1 giống lúa bị nhiễm bệnh<br /> đạo ôn trên đồng ruộng là nhiễm tất cả các<br /> nguồn nấm đạo ôn. Chúng chỉ nhiễm một<br /> vài isolate và cũng kháng một vài isolate.<br /> Ngay cả giống Tẻ Tép được coi là kháng<br /> bệnh cao nhưng cũng nhiễm một vài isolate<br /> nấm Pyricularia oryzae Cav. Tuy nhiên,<br /> phải khẳng định giống Tẻ Tép kháng với<br /> hầu hết nguồn nấm gây bệnh đạo ôn ở các<br /> vùng khác nhau.<br /> Trong thí nghiệm tiến hành ở IRRI cuối<br /> năm 1995 đến đầu năm 1996 thử phản ứng<br /> của các giống lúa gieo cấy phổ biến ở nước<br /> SỐ 3/2018<br /> <br /> Biện pháp phòng trừ bệnh đạo ôn:<br /> <br /> Sử dụng giống kháng bệnh<br /> <br /> Áp dụng kỹ thuật thâm canh lúa cải tiến SRI<br /> <br /> Phun thuốc hóa học khi bệnh gây hại nặng<br /> <br /> Tạp chí<br /> <br /> KH-CN Nghệ An<br /> <br /> [20]<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2