ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
VŨ THỊ KIM CHUNG
BIẾN ĐỔI KHÔNG GIAN CƯ TRÚ CỦA NGƯỜI Ê ĐÊ
Ở BUÔN MA THUỘT TỪ SAU 1975 ĐẾN NAY
(Nghiên cứu trường hợp buôn Alê A và buôn Êa Bông)
LUẬN VĂN THẠC SĨ VIỆT NAM HỌC
Hà Nội – 2020
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
VŨ THỊ KIM CHUNG
BIẾN ĐỔI KHÔNG GIAN CƯ TRÚ CỦA NGƯỜI Ê ĐÊ
Ở BUÔN MA THUỘT TỪ SAU 1975 ĐẾN NAY
(Nghiên cứu trường hợp buôn Alê A và buôn Êa Bông)
Chuyên ngành: Việt Nam học
Mã số: 831063001
LUẬN VĂN THẠC SĨ VIỆT NAM HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Đặng Hoài Giang
Hà Nội – 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn thạc sĩ Biến đổi không gian cư trú của
người Ê Đê ở Buôn Ma Thuột từ sau 1975 đến nay là công trình nghiên
cứu của riêng tôi, các tư liệu được sử dụng trong luận văn là trung thực,
kết quả nghiên cứu của luận văn chưa được công bố trong bất kì công
trình nào khác.
Hà Nội, ngày tháng năm 2020
Tác giả luận văn
Vũ Thị Kim Chung
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
Chương 1. Tổng quan 11
1.1. Các khái niệm 11
1.1.1. Không gian văn hoá buôn làng 11
1.1.2. Không gian cư trú 13
1.2. Các quan điểm lý thuyết 13
1.3. Không gian cư trú buôn làng ÊĐê truyền thống 16
1.4. Bối cảnh tác động đến không gian cư trú của người Ê Đê từ sau 1975
đến nay 19
1.4.1. Chính sách phát triển kinh tế 19
1.4.2. Chính sách phát triển văn hóa – xã hội 22
1.4.3. Chuyển dịch cơ cấu dân cư và dân tộc 23
Chương 2. Quá trình biến đổi không gian cư trú buôn làng Ê Đê 25
2.1. Biến đổi về cơ cấu dân cư và dân tộc 25
2.1.1. Biến đổi cơ cấu dân số và cơ cấu tộc người 25
2.1.2. Biến đổi cơ cấu tôn giáo 29
2.2. Biến đổi về loại hình gia đình và kiến trúc nhà ở 32
2.2.1. Biến đổi về loại hình gia đình 32
2.2.2. Biến đổi về kiến trúc nhà ở 35
2.3. Hệ quả của biến đổi không gian cư trú 40
2.3.1. Những thay đổi trong đời sống gia đình 40
2.3.2. Những thay đổi về mặt tiếp biến văn hóa 44
Chương 3. Xu hướng và vấn đề đặt ra từ quá trình biến đổi không gian
cư trú buôn làng ÊĐê truyền thống 48
3.1. Các xu hướng biến đổi 48
3.1.1. Xu hướng bảo tồn kết hợp hiện đại hóa 48
3.1.2. Xu hướng giải thể 50
3.2. Vấn đề đặt ra từ sự biến đổi 52
3.2.1. Nhu cầu bảo tồn không gian cư trú truyền thống 52
3.2.2. Sự thay đổi quá nhanh của không gian cư trú truyền thống 54
3.2.3. Thiếu sự liên kết giữa nhà nước và cộng đồng trong vấn đề bảo tồn 56
3.3. Đề xuất nhằm quy hoạch và bảo tồn 57
3.3.1. Nâng cao nhận thức về vai trò của không gian cư trú truyền thống 57
3.3.2. Nâng cao nhận thức về phát triển du lịch cộng đồng tại buôn 59
3.3.3. Một số khuyến nghị về quy hoạch và bảo tồn 62
KẾT LUẬN 67
TÀI LIỆU THAM KHẢO 70
PHỤ LỤC ẢNH 73
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Không gian cư trú là một trong những thành tố quan trọng có ảnh
hưởng rất lớn đến quá trình sinh sống và phát triển của con người. Nó vừa thể
hiện được sự thích nghi với tự nhiên của con người, vừa là nơi phản chiếu rõ
nhất những giá trị văn hóa bởi nó có tính địa điểm rất rõ rệt và đôi khi có
những nét riêng mà không một vùng nào có. Không gian cư trú của mỗi tộc
người phản ánh những nét văn hóa bản địa khác nhau, cho ta những hiểu biết
và cảm nhận chân thực về lối sống và con người nơi ấy.
Nhắc đến không gian cư trú của các tộc người thiểu số vùng cao, không
thể không nhắc đến các cộng đồng sinh sống ở vùng Tây Nguyên - mảnh đất
đầy nắng, gió, rượu cần và cồng chiêng. Trong số các tộc người Tây Nguyên,
không gian cư trú của người ÊĐê có những nét đặc trưng riêng biệt. Khi đọc
Trường ca Đam Săn – một tác phẩm dân ca bất hủ của người ÊĐê, hẳn chúng
ta sẽ rất nhớ hình ảnh “Mái nhà dài như một tiếng chiêng”. Đúng vậy, ngôi
nhà sàn dài vừa là yếu tố chính tạo nên nét đặc sắc cho không gian cư trú của
người ÊĐê, vừa là nơi sáng tạo, lưu giữ và trao truyền các giá trị truyền thống
của cộng đồng này.
Nhìn vào nhà sàn dài, ta có thể thấy rõ được những vấn đề căn bản góp
phần duy trì xã hội ÊĐê truyền thống: thế giới quan, cấu trúc và quan hệ thân
tộc, đời sống gia đình vận hành theo nguyên tắc mẫu hệ, gu nghệ thuật và
thẩm mỹ.
Từ năm 1975 đến nay, trong bối cảnh hai miền Nam - Bắc thống nhất,
cả nước nói chung và Tây Nguyên nói riêng đi theo con đường công nghiệp,
hiện đại hóa, không gian sinh sống của người ÊĐê đã thay đổi mạnh mẽ, đặc
biệt là các buôn cư trú ở thành phố Buôn Ma Thuột - thủ phủ của tỉnh Đắk
Lắk và Tây Nguyên. Quá trình thay đổi không gian cư trú của người ÊĐê ở
1
Buôn Ma Thuột, do đó, có ý nghĩa điển hình nếu xét trong bối cảnh thay đổi
không gian sống của các nhóm ÊĐê ở Đắk Lắk nói riêng và các tộc người
sinh sống ở Tây Nguyên nói chung. Thông qua việc nghiên cứu nhóm điển
hình này, chúng ta vừa có thể hiểu rõ hơn những thay đổi về giá trị, quan
niệm, lối sống của người ÊĐê, vừa có thể cung cấp các tham vấn hữu ích cho
các nhà quản lý địa phương trong việc quy hoạch không gian ÊĐê cho phù
hợp với tổng thể không gian đô thị Buôn Ma Thuột.
Từ các ý nghĩa lý thuyết và thực tiễn như vậy, tôi quyết định chọn đề
tài Sự biến đổi không gian cư trú của người ÊĐê ở Buôn Ma Thuột từ sau
1975 đến nay (Nghiên cứu trường hợp buôn Alê A và Êa Bông) cho luận văn
thạc sĩ của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Trong phạm vi luận văn này, tôi hướng đến ba mục tiêu chính sau:
Thứ nhất, làm rõ quá trình biến đổi không gian cư trú của buôn làng
ÊĐê ở Buôn Ma Thuột từ sau 1975 đến nay;
Thứ hai, làm rõ những thay đổi về lối sống gắn liền với không gian cư
trú.
Thứ ba, đưa ra một số ý tưởng nhằm góp phần bảo tồn không gian nhà
dài của người ÊĐê ở Buôn Ma Thuột.
Những mục đích nghiên cứu này sẽ là những định hướng giúp tôi tiến
hành nghiên cứu đề tài của mình một cách hiệu quả và chính xác.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là: Sự biến đổi không gian cư trú
của cộng đồng người ÊĐê ở Buôn Ma Thuột từ 1975 đến nay.
Phạm vi nghiên cứu
2
Phạm vi không gian: Tôi sẽ tập trung nghiên cứu buôn Alê A (phường
Ea Tam) và buôn Êa Bông (xã Cư Êbur). Cả hai buôn cùng thuộc thành phố
Buôn Ma Thuột.
Buôn Alê nằm ở gần đường Y Ngông. Vì Pháp đã lấy đất của buôn làm
khu quân sự khi trở lại Tây Nguyên nên buôn Alê đã chuyển xuống khu vực
sát đường Lê Duẩn hiện nay. Để thuận tiện hơn cho việc sản xuất và sinh
hoạt, một bộ phận dân cư của buôn đã tách ra lập buôn mới. Từ đó, buôn cũ
được gọi là buôn Alê A và buôn mới được gọi là buôn Alê B. Theo lời kể của
những già làng ở đây, cái tên Alê có nguồn gốc từ tiếng ÊĐê. Trong tiếng
ÊĐê, chữ “lê” có nghĩa là tre xanh. Vì buôn có rất nhiều rừng tre lớn nên
người dân đã đặt cho buôn cái tên là Alê A. Ở vùng Buôn Mê Thuột, Alê A là
một buôn lớn, giàu có và trí thức nhất vì ở buôn có có rất nhiều người làm
công chức, chiếm tỉ lệ cao hơn so với các buôn khác trong vùng. Có lẽ bởi
vậy mà số lượng người di cư về buôn cũng chiếm một tỉ lệ cao, tác động lớn
đến tốc độ biến đổi của buôn, biến Alê A dần trở thành buôn ÊĐê mang đậm
dáng dấp của người Kinh. Tuy nhiên, do ngày càng khan hiếm đất cả về đất ở
lẫn đất tự nhiên mà mật độ dân số lại cao nên Alê A được xếp vào buôn nghèo
của vùng Buôn Mê Thuột. Thay vào đó, với vị trí là buôn cận trung tâm nên
cơ hội thay đổi cuộc sống của người dân trong buôn dần nhiều hơn và mức
sống cũng phát triển hơn theo hướng hiện đại hóa. Cho đến nay, Alê A là
buôn không còn một nhà sàn truyền thống nào, các hoạt động sinh hoạt văn
hóa truyền thống cũng không còn diễn ra nhiều tại đây. Nhà thờ Kitô giáo và
không gian đạo Tin lành dần trở thành không gian tinh thần quan trọng nhất
đối với cả buôn làng.
Nếu Alê A là một buôn cận trung tâm thì Êa Bông lại là một buôn khá
xa trung tâm, cách trung tâm thành phố khoảng 5 ki lô mét. Êa Bông là tên
một con suối chảy qua buôn, nằm ở phía Đông Bắc của buôn ngày nay và là
3
nơi cư trú của người dân giai đoạn trước năm 1975. Êa Bông là một buôn
thuần nông, nghề nghiệp chính của người dân trong buôn là làm nông nghiệp,
chủ yếu là đốt nương làm rẫy. Đối với họ, đất, nước và rừng là nguồn tài
nguyên vô tận để họ có thể canh tác theo các phương thức làm nông nghiệp
truyền thống. Vì vậy, mức sống của họ giai đoạn trước 1975 là mức sống
trung bình, nghèo và sinh hoạt theo hình thức tự cung tự cấp. Cho đến cuối
thập niên 1980, khi mô hình canh tác cây công nghiệp được phổ biến thì
người dân mới bắt đầu trồng cà phê. Nhờ có diện tích đất sản xuất tương đối
cao nên cà phê trở thành nguồn thu nhập chính của người dân, mức thu nhập
của họ được nâng lên và mức sống cũng được cải thiện hơn, tỷ lệ hộ nghèo
cũng giảm đi đáng kể. Đời sống thay đổi, nhu cầu về ăn, mặc, ở, đi lại cũng
thay đổi theo. Nhà sàn dài truyền thống được thay thế dần bằng nhà bê tông,
nhà cấp bốn. Hơn 50% người dân đi theo Kitô giáo và đạo Tin lành. Bộ phận
còn lại vẫn giữ được các tín ngưỡng và sinh hoạt truyền thống.
Bảng 1. Khái quát về các buôn được lựa chọn nghiên cứu
Tên buôn
ALê A Êa Bông Thông
số
Vị trí Phường Ea Tam Xã Cư Êbur
Vùng trung tâm Vùng ngoại ô
Dân số Tổng: 365 hộ, 1561 khẩu Tổng: 312 hộ, 1559 khẩu
Ê Đê: 197 hộ, 745 khẩu Ê Đê: 270 hộ, 1358 khẩu
Diện 23,9 ha 159,6 ha
tích
Sinh kế Công chức nhà nước, làm nông Làm nông nghiệp kết hợp
nghiệp kết hợp buôn bán và làm thuê làm thuê công nhật
4
công nhật
70% Kitô giáo; 30% Tin lành, lương 70% Kitô giáo; Tôn
giáo và tín ngưỡng truyền thống 30% Tin lành, lương giáo giáo
và tín ngưỡng truyền thống
Khá giả Trung bình khá Mức
sống
[Nguồn: Số liệu tổng hợp của tác giả năm 2020]
Nếu nhìn vào các thông số ở bảng 1, giữa Buôn Alê A và Êa Bông có
nhiều điểm khác nhau căn bản, do đó, có thể đại diện cho cộng đồng 33 thôn
buôn Ê Đê ở Buôn Ma Thuột.
Phạm vi thời gian: Đề tài này tập trung nghiên cứu sự biến đổi trong
khoảng thời gian từ năm 1975 đến nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả sẽ sử dụng một số phương pháp chính để nghiên cứu đề tài này
như:
Phương pháp phân tích và tổng hợp tài liệu: Tôi đã tham khảo các
nghiên cứu của các học giả trong nước và quốc tế, đặc biệt là các nghiên cứu
liên quan đến biến đổi không gian cư trú tộc người ở vùng cao nói chung và ở
Tây Nguyên nói riêng. Bên cạnh đó, tôi cũng tham khảo các báo cáo tổng kết
hàng năm của thành phố Buôn Ma Thuột và của các phường Ea Tam, xã Cư
Êbur để hiểu được bối cảnh kinh tế - xã hội của sự biến đổi không gian cư trú
ở các điểm nghiên cứu.
Phương pháp điền dã dân tộc học: Dưới sự hỗ trợ trực tiếp của giáo
viên hướng dẫn, tôi đã đi thực địa ở hai buôn Alê A và Êa Bông. Tuy thời
gian thực địa không nhiều, tôi đã cố gắng thực hiện các cuộc phỏng vấn sâu
và tổ chức các cuộc thảo luận nhóm với người dân ở hai buôn nhằm có được
5
những thông tin cơ bản nhất về quá trình biến đổi không gian cư trú ở đây từ
sau 1975 đến nay.
5. Lịch sử nghiên cứu
Môi trường sống của con người là một chủ đề quen thuộc trong các tác
phẩm nhân học. Theo quan sát của chúng tôi, các tác phẩm nhân học thường
tập trung vào hai đối tượng chính trong không gian cư trú: ngôi nhà và mái
ấm. Trong các mô tả về các dân tộc bản địa ở Châu Mỹ và Châu Đại Dương,
các nhà nhân chủng học thời kỳ đầu như Lewis Henry Morgan (Morgan 1881)
hay Bronislaw Malinowski (trích dẫn bởi Collier, Rosaldo & Yanagisako
1987) xem gia đình của người bản địa là một nhóm họ hàng bị ràng buộc bởi
một không gian vật lý xác định, một lò sưởi và một ngôi nhà. Quan sát các gia
đình thượng lưu của người da đỏ Bắc Mỹ và các gia đình Trung Âu, Lévi-
Strauss cho rằng ngôi nhà có chức năng hòa nhập và kết nối các mối quan hệ
giữa các gia đình - chẳng hạn như tạo ra các liên minh quyền lực thông qua
hôn nhân [36]. Trong khi đó, từ cuộc sống gia đình của xã hội Algeria,
Bourdieu cho rằng vật chất và hình thức cấu trúc của ngôi nhà trở thành cơ sở
cho tái sản xuất xã hội [32]. Ngoài ra, các nhà nhân học cũng quan tâm đến
các khía cạnh khác như đời sống gia đình hay vai trò của kinh tế gia đình.
Trong một nghiên cứu về cuộc sống gia đình Mã Lai, Carsten đặt lò sưởi ở
trung tâm ngôi nhà: đó là nơi gặp gỡ của các thành viên trong gia đình, chuẩn
bị bữa ăn, nơi tạo ra các mối quan hệ dòng tộc thông qua việc chuyển nhượng
và chia sẻ tài sản [33]. Khía cạnh kinh tế của gia đình được các tác giả khác
gọi là "kinh tế gia đình" [35] hoặc phương thức sản xuất nội địa [37]. Theo
Gudeman và Rivera, mô hình kinh tế hộ gia đình cho phép các gia đình thỏa
mãn đời sống cá nhân trong khi đảm bảo sự hỗ trợ qua lại cho các hộ gia đình
khác, độc lập nhưng gắn với nhu cầu của thị trường bên ngoài [35, tr.10].
6
Trong khi, đối với không gian cư trú các dân tộc thiểu số, nghiên cứu
không gian dân cư dân tộc thiểu số, hầu hết các nhà nghiên cứu Việt Nam
thường háo hức tìm hiểu khía cạnh kiến trúc (Nguyễn Phước Bảo Dân 2005;
Lâm Nhân 2007; Chảo Văn Lâm 2015; Mai Ngọc Chừ 2015; Phú Văn Hân
2015; Vũ Thị Diệu 2016). Đối với khu vực Tây Nguyên Việt Nam, nhà ở của
các tộc người bản địa được nhắc đến trong các tác phẩm nổi tiếng của các học
giả Pháp như: Rừng người Thượng (Henri Maitre 2008), Chúng tôi ăn rừng
(G. Condominas 1997), Những vùng đất huyền ảo (Jacques Dournes 2003).
Và chủ đề này tiếp tục được nhiều tác giả Việt Nam nghiên cứu sau năm
1975. Họ đã nghiên cứu sâu về kết cấu, kỹ thuật, mỹ thuật, công năng,
phương hướng sử dụng và bảo tồn nhà rông của các dân tộc Nam Tây Nguyên
(Nguyễn Khắc Tụng 1991; Lưu Hùng 1994; Bùi Minh Đạo 2004; Nguyên
Ngọc 2007; Lê Hồng Lý 2015; Nguyễn Thị Phương Châm 2015; Rơ Đăm Thị
Bích Ngọc, 2017). Tất nhiên, do kiến trúc độc đáo và vai trò quan trọng của
nó trong đời sống xã hội tộc người, nhà sàn dài nói riêng và không gian cư trú
ÊĐê nói chung đã được nhiều học giả quan tâm.
Trong cuốn Văn hóa cổ truyền ở Tây Nguyên trong phát triển bền vững
của Đỗ Hồng Kỳ đã nêu khái quát những đặc trưng quan trọng về đặc điểm,
cấu trúc và nét văn hóa đậm đà của người ÊĐê trong quá trình gìn giữ và phát
triển ngôi nhà dài và truyền thống mẫu hệ [15].
Trong bài viết Cần bảo tồn kiến trúc nhà ở truyền thống của đồng bào
Tây Nguyên của tác giả Tấn Vịnh đã đưa ra một số giải pháp trong công tác
bảo tồn nhà cửa truyền thống của đồng bào ÊĐê [30].
Chuyên khảo của tác giả Đặng Hoài Giang về Biến đổi không gian văn
hóa buôn làng Ê Đê ở Buôn Ma Thuột từ sau 1975 đến nay trong bối cảnh
chuyển đổi cấu trúc không gian buôn làng đã cho thấy được hệ quả tất yếu
của quá trình chuyển động trong cấu trúc không gian buôn làng. Khi cấu trúc
7
không gian buôn làng thay đổi, các yếu tố văn hóa truyền thống tất yếu bị
gián đoạn, các giá trị cũ nhường chỗ cho các quan niệm, giá trị mới. Trong
bài viết này, tác giả cũng đã nhắc đến sự biến đổi không gian cư trú tộc người
ÊĐê ở một số buôn làng ở Tây Nguyên [9].
Trong chuyên khảo Người ÊĐê – một xã hội mẫu quyền của Anne De
người Pháp, tác giả đã đặc biệt chú ý đến vai trò không gian nhà sàn dài
truyền thống của tộc người ÊĐê. Tác giả không những nêu ra vai trò của nhà
sàn dài về mặt tín ngưỡng, lễ hội, tâm linh, văn hóa mà còn chỉ ra sự biến đổi
của nhà sàn dài và những nguy cơ từ sự biến đổi đó. Theo quan điểm của tác
giả, việc người ÊĐê chuyển từ nhà sàn dài truyền thống sang nhà cá nhân
giống như việc họ đang từ bỏ một phần quan trọng trong đời sống nghi lễ và
xã hội, điều này sẽ dẫn đến nguy cơ nhà sàn dài bị giải thể trong tương lai
[11].
Ngoài ra, đặc điểm của nhà sàn dài cũng như phương pháp bảo tồn nhà
sàn dài Ê Đê cũng được nhắc đến trong trong một số nghiên cứu khác: Tác
động của đô thị hóa đến văn hóa nhà dài của người ÊĐê của Nguyễn Thị
Phương Thảo [29]; Nhà văn hóa cộng đồng ở Tây Nguyên: xây xong đóng
cửa bỏ hoang của Nguyên Bình [26]; Nhà ở và sinh hoạt trong nhà của người
ÊĐê ở Việt Nam của Nguyễn Thị Hòa [12] .
Các nghiên cứu nói trên là nguồn tham khảo rất quý giá giúp tôi thực
hiện luận văn này.
6. Một số đóng góp của luận văn
Thứ nhất, về hướng tiếp cận, nếu các nghiên cứu trước đây thường chú
trọng miêu tả các yếu tố kiến trúc, thì luận văn của tôi cố gắng nhìn sự biến
đổi không gian cư trú trong bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội của thành phố
Buôn Ma Thuột để thấy được các chiều tác động lên không gian sống của
người ÊĐê.
8
Thứ hai, luận văn không những làm rõ khái niệm không gian cư trú mà
còn vận dụng các quan điểm lý thuyết phù hợp để đánh giá và phân tích các tư
liệu dân tộc học.
Thứ ba, luận văn làm rõ các chiều cạnh biến đổi trong không gian cư
trú của người ÊĐê. Đồng thời, luận văn cũng chỉ ra những xu hướng biến đổi
trong không gian cư trú của người ÊĐê ở Buôn Mê Thuột và đề xuất những
phương hướng cũng như kiến nghị để bảo tồn và phát huy giá trị của không
gian cư trú của người ÊĐê trong tổng thể kiến trúc đô thị thành phố.
Với các đóng góp vừa nêu, luận văn sẽ là nguồn tài liệu hữu ích cho
những ai quan tâm đến lĩnh vực không gian cư trú tộc người ở Việt Nam nói
chung và ở Tây Nguyên nói riêng. Đồng thời, luận văn cũng cung cấp các
thông tin đáng tin cậy cho các nhà quản lý địa phương trong việc hoạch định
các chính sách bảo tồn văn hoá truyền thống phù hợp cho vùng đô thị Buôn
Ma Thuột.
7. Cấu trúc của luận văn
Luận văn được chia làm 3 chương và các nội dung chính như sau:
Chương 1: Tổng quan. Trong chương này tác giả sẽ làm rõ các khái
niệm cơ bản bao gồm: Khái niệm không gian văn hóa làng Việt truyền thống
vùng Đồng bằng; Khái niệm không gian văn hóa buôn làng Tây Nguyên;
Khái niệm không gian cư trú buôn làng ÊĐê truyền thống. Sau đó, tác giả sẽ
chỉ ra bối cảnh tác động đến không gian cư trú buôn làng ÊĐê truyền thống
bao gồm các chính sách phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội cũng như sự
chuyển dịch cơ cấu dân cư dân tộc ở một số buôn làng ÊĐê ở Tây Nguyên.
Chương 2: Quá trình biến đổi không gian cư trú buôn làng ÊĐê.
Chương này sẽ chỉ ra những khía cạnh biến đổi không gian cư trú - bao gồm:
Biến đổi về cơ cấu dân cư, dân tộc và tôn giáo; Biến đổi về loại hình gia đình
và kiến trúc nhà ở. Từ đó, sẽ tìm và chỉ ra hệ quả của sự biến đổi không gian
9
cư trú buôn làng ÊĐê trên nhiều mặt như thay đổi trong đời sống gia đình
cũng như thay đổi về mặt tiếp biến văn hóa.
Chương 3: Xu hướng và vấn đề đặt ra từ quá trình biến đổi không gian
cư trú buôn làng ÊĐê truyền thống. Tác giả sẽ chỉ ra những xu hướng biến đổi
chính là: Xu hướng bảo tồn kết hợp hiện đại hóa và xu hướng giải thể. Từ
những xu hướng này, tác giả sẽ nêu lên những vấn đề đặt ra từ sự biến đổi và
đưa ra các đề xuất nhằm quy hoạch và bảo tồn không gian cư trú truyền thống
cho buôn làng ÊĐê.
10
Chương 1. Tổng quan
1.1. Các khái niệm
1.1.1. Không gian văn hoá buôn làng
Trước khi tìm hiểu khái niệm không gian cư trú - vốn là khái niệm
trung tâm của luận văn, chúng tôi muốn làm rõ một khái niệm liên quan là
không gian văn hoá buôn làng vì không gian cư trú là một bộ phận không thể
thiếu của không gian văn hoá buôn làng. Theo Đặng Hoài Giang, khái niệm
không gian văn hóa buôn làng hàm chỉ một thực thể không gian đóng vai trò
như là không gian sáng tạo, thực hành và nuôi dưỡng các giá trị văn hóa của
cộng đồng buôn làng. Tác giả cũng nhấn mạnh rằng không gian văn hóa buôn
làng cũng còn có thể hiểu như là không gian văn hóa tộc người hay môi
trường nuôi dưỡng, trao truyền các giá trị văn hóa tộc người [9, tr. 62].
Về mặt cấu trúc, Đặng Hoài Giang cho rằng không gian văn hoá buôn
làng được cấu thành bởi 4 yếu tố:
Không gian sản xuất: nơi cung cấp các nguồn lợi từ tự nhiên (đất, nước,
hệ thực vật và động vật, khoáng sản ...) mà con người có quyền tiếp cận, khai
thác nhằm đáp ứng nhu cầu sinh tồn: đất để ở và để canh tác nông nghiệp;
nguồn nước để phục vụ sinh hoạt và sản xuất; rừng để khai thác thực phẩm
(rau, củ, quả, thịt thú rừng) và các loại vật liệu quan trọng (gỗ, dược liệu); các
bãi chăn thả để chăn nuôi súc vật... Trong quá trình tương tác và thích nghi
với không gian sản xuất, con người đã tích lũy tri thức về thế giới tự nhiên (tri
thức bản địa) và định hình nên các khuôn mẫu văn hóa: các quy định về tiếp
cận, sở hữu, chuyển nhượng đất đai và các loại tài nguyên; hình thức canh tác
nông nghiệp (lịch mùa vụ, công cụ sản xuất và kỹ thuật canh tác, cơ cấu cây
trồng); hình thức tiêu dùng, phân phối và trao đổi sản phẩm ...
Không gian cư trú: nơi ở của các hộ gia đình trong cộng đồng, nơi diễn
ra toàn bộ đời sống dân sự thường nhật. Nói đến không gian cư trú là nói đến
11
phong cách kiến trúc (mô típ kiến trúc, vật liệu kiến trúc, cách sử dụng không
gian kiến trúc, nghệ thuật trang trí), loại hình gia đình (hạt nhân hay mở rộng)
và vô số nguyên tắc được đặt ra trong khung cảnh đời sống gia đình: hình
thức thừa kế và phân chia tài sản, chức năng giới, hình thức lựa chọn đối
tượng hôn nhân (đối tượng phối ngẫu) và cư trú sau hôn nhân, hình thức hợp
tác giữa các gia đình cùng huyết thống ...
Không gian sinh hoạt cộng đồng: nơi diễn ra các sinh hoạt chung của
cộng đồng, trong đó đáng chú ý là nhà cộng đồng (communal house) và khu
vui chơi, giải trí. Không gian sinh hoạt cộng đồng có chức năng thúc đẩy quá
trình xã hội hóa cá nhân - giúp cá nhân nhập thân sâu hơn vào đời sống bên
ngoài, nâng cao sự gắn kết xã hội và duy trì tính liên tục văn hóa của cộng
đồng thông qua các thực hành văn hóa được tổ chức trong một số sự kiện đặc
biệt;
Không gian sinh hoạt tín ngưỡng: nơi con người tổ chức các sinh hoạt
tín ngưỡng để tạo nên sự giao tiếp giữa thế giới thực mà họ đang sống với một
thế giới tuy mơ hồ nhưng được xem là có mối liên hệ mật thiết với thế giới
của họ: thế giới tâm linh. Đó là thế giới của các nhân vật siêu nhiên và của
những người thân đã khuất. Các quan niệm và sinh hoạt gắn liền với không
gian tín ngưỡng có chức năng điều tiết hành vi của con người. Đồng thời, nó
cũng có vai trò duy trì và trao truyền các kĩ năng, các giá trị văn hóa giữa các
thế hệ trong một cộng đồng. Vì mỗi sự kiện sinh hoạt tín ngưỡng, ngoài ý
nghĩa tinh thần, còn là một cơ hội để các thành viên trong cộng đồng trình
diễn những gì được cho là tốt đẹp nhất, tinh túy nhất trong vốn văn hóa của họ
[9, tr. 64-65].
Như vậy, theo cách phân loại của Đặng Hoài Giang, không gian cư trú
là một bộ phận hữu cơ của không gian văn hoá buôn làng.
12
1.1.2. Không gian cư trú
Trong luận văn này, không gian cư trú được đặt trong bối cảnh của
không gian văn hoá buôn làng, và được hiểu là khu vực sinh sống của các hộ
gia đình trong một làng. Không gian ở bao gồm cả khía cạnh “cứng” như kiểu
gia đình, kiến trúc và cấu trúc dân tộc và những khía cạnh “mềm” liên quan
đến chúng như các quy tắc trong hôn nhân và thừa kế tài sản, tập quán hàng
ngày định hình cuộc sống của các gia đình: văn hóa ẩm thực và trang phục,
các hoạt động tôn giáo, v.v. Về cơ bản, cái mà chúng tôi gọi là “khía cạnh
mềm” là cách sống của các hộ gia đình trong một cộng đồng. Rõ ràng, cả hai
khía cạnh này có mối quan hệ tương hỗ và phụ thuộc vào nhau, do đó, một
điểm khác biệt khác của luận văn này so với các công trình trước đó là làm rõ
sự liên quan giữa sự thay đổi của các khía cạnh hữu hình với sự thay đổi của
các mặt vô hình trong toàn bộ không gian cư trú.
1.2. Các quan điểm lý thuyết
Trước hết, luận văn này dựa vào lý thuyết tiếp biến văn hóa để làm
định hướng phân tích và giải mã tài liệu. Từ "tiếp biến văn hóa" có lẽ do nhà
nhân học Mỹ J. W. Powell sử dụng từ năm 1880 khi đề cập đến sự biến đổi
của lối sống và lối suy nghĩ của người di dân khi tiếp xúc với xã hội Mỹ. Tuy
nhiên, phải đợi đến những năm 1930 mới có các hệ thống lý thuyết về hiện
tượng gặp gỡ giữa các nền văn hóa và có định nghĩa về mặt khái niệm. Năm
1936, Hội đồng nghiên cứu khoa học xã hội Mỹ lập ra một ủy ban để tổ chức
nghiên cứu các sự kiện tiếp biến văn hóa, trong đó có Robert Redfield, Ralph
Linton và Medville Herskovits. Trong Bản ghi nhớ nghiên cứu về tiếp biến
văn hóa (1936) có nêu ra định nghĩa: "Tiếp biến văn hóa bao gồm tất cả các
hiện tượng do việc tiếp xúc liên tục và trực tiếp giữa các nhóm cá thể có văn
hóa khác nhau, dẫn đến những biến đổi đáng kể trong các mô thức văn hóa
13
ban đầu của một hoặc của hai nhóm này. Cũng trong bản ghi nhớ này, "tiếp
biến văn hóa" được phân biệt với:
“Biến đổi văn hóa” (culture change), thường được dùng trong nhân học
Anh. Tiếp biến văn hóa mới chỉ là một phương diện của biến đổi văn hóa vì
biến đổi văn hóa có thể là kết quả của những nguyên nhân nội tại.
“Đồng hóa văn hóa” vì đây chỉ là giai đoạn cuối của tiếp biến văn hóa
và, vì nó hàm ý sự biến mất hoàn toàn của nền văn hóa gốc và việc du nhập
hoàn toàn nền văn hóa của nhóm thống trị.
“Truyền bá văn hóa”, vì truyền bá xuyên suốt quá trình tiếp biến văn
hóa nhưng vẫn có thể có truyền bá mà không có tiếp xúc liên tục và trực tiếp,
và dù sao nó cũng chỉ là một phương diện của quá trình tiếp biến văn hóa vốn
phức tạp hơn nhiều.
Bản Ghi nhớ cũng đưa ra một hệ thống phân loại các tiếp xúc văn hóa:
Theo các tiếp xúc diễn ra giữa toàn bộ các nhóm, hoặc giữa toàn
bộ nhóm cư dân với một nhóm của một nhóm cư dân khác (ví dụ truyền giáo,
thực dân, người di cư...).
Theo các tiếp xúc hòa hảo hay là thù địch;
Theo các tiếp xúc diễn ra giữa các nhóm có độ lớn tương đương và
giữa các nhóm có độ lớn không đều nhau;
Theo các tiếp xúc có các nền văn hóa có độ phức hợp lớn hay không;
Theo các tiếp xúc sinh ra từ thực dân hóa hay là di cư.
Sau đó có thể có các:
Tình huống "thống trị" (domination) và "bị trị" (subordination) trong
đó xảy ra tiếp biến văn hóa;
14
Tiến trình tiếp biến văn hóa tức là các thể thức "chọn lọc" các yếu tố
vay mượn hay là "phản kháng" lại sự vay mượn;
Các hình thức hội nhập các yếu tố này vào trong mô hình văn hóa gốc;
Các cơ chế tâm lý tạo điều kiện thuận lợi hay không đối với tiếp biến
văn hóa;
Cuối cùng, những hệ quả có thể của tiếp biến văn hóa, bao gồm cả
những phản ứng tiêu cực, đôi khi có thể tạo ra những phong trào "chống-tiếp
biến văn hóa".
Các nhà nhân học Mỹ dùng khái niệm "khuynh hướng" vay mượn từ
ngôn ngữ học của Sapir để giải thích rằng tiếp biến văn hóa không bao giờ
đơn thuần là một sự cải hóa từ nền văn hóa này sang nền văn hóa khác. Sự
biến đổi của nền văn hóa gốc diễn ra bằng cách "chọn lọc" các yếu tố văn hóa
vay mượn, và sự chọn lọc này được thực hiện theo "khuynh hướng" nội tại
của nền văn hóa gốc. Herskovits đưa ra khái niệm "diễn giải và biểu đạt lại"
(réinterprétation) được định nghĩa là "tiến trình trong đó những ý nghĩa cũ
được gán cho các yếu tố mới hoặc là những giá trị mới làm thay đổi những ý
nghĩa văn hóa của các hình thức cũ”. Một quy luật chung được rút ra là các
yếu tố không phải là biểu trưng (kỹ thuật và vật chất) của một nền văn hóa thì
sẽ dễ chuyển được sang nền văn hóa khác hơn là các yếu tố biểu trưng (tôn
giáo, tư tưởng, vv.)
Để mường tượng được sự phức hợp của tiến trình xúc tiến văn hóa, H.
G. Barnett phân biệt: "hình thức" (biểu đạt hiện hữu); "chức năng" và "ý
nghĩa" của các nét văn hóa. Từ cách phân biệt này, có ba hợp thức phụ có thể
được nêu ra:
15
Hình thức mà càng "lạ lẫm" với nền văn hóa tiếp nhận thì sự chấp nhận
nó càng khó.
Hình thức dễ được chuyển giao hơn là các chức năng.
Một nét văn hóa, dù hình thức và chức năng của nó như thế nào thì nó
cũng sẽ dễ được chấp nhận và hội nhập hơn nếu nó mang một ý nghĩa phù
hợp với nền văn hóa tiếp nhận [9].
Luận văn cũng sử dụng quan điểm của Ernesto Laclau về bản sắc văn
hoá để phân tích động thái bảo tồn văn hoá truyền thống của người Ê Đê
trong bối cảnh đô thị. Theo quan điểm của Ernesto Laclau, ý nghĩa của bản
sắc chỉ được khám phá một cách đầy đủ nếu bản sắc đó được tiếp xúc với
“người ngoài cuộc”. Ý tưởng ban đầu này cho rằng tiếp cận từ góc độ khác,
tiếp xúc với dân tộc Kinh cũng là cơ hội để cộng đồng Ê Đê nhận thức rõ hơn
về bản sắc của họ vì theo quan điểm của Ernesto Laclau, ý nghĩa của bản sắc
sẽ được khám phá đầy đủ nếu bản sắc đó được tiếp xúc với "người ngoài
cuộc" [Laclau 2005: 68]. Tự nhận thức có thể dẫn đến nhiều hành động khác
nhau để khẳng định bản sắc riêng của cộng đồng, và đối với người Ê Đê ở
Buôn Ma Thuột, đó là nỗ lực bảo tồn văn hóa truyền thống trước khi “làn
sóng Việt hóa” (Kinh hóa) lấn át trên Tây Nguyên Việt Nam.
1.3. Không gian cư trú buôn làng ÊĐê truyền thống
Xét về không gian cư trú buôn làng ÊĐê truyền thống, tôi sẽ nghiên
cứu dựa theo những thành tố chính cấu thành và xây dựng lên một kiến trúc
không gian cư trú tổng thể. Cụ thể là nhà ở và loại hình gia đình truyền thống
của người ÊĐê. Đây là hai thành tố chính tạo nên sự thay đổi cả về chất và
lượng trong không gian cư trú buôn làng nơi đây.
Về nhà ở
Nơi ở truyền thống của người ÊĐê là một ngôi nhà sàn dài – sang với
chiều dài trung bình từ sáu mươi đến tám mươi mét, thậm chí có thể đạt đến
16
cả trăm mét. Nhà được xây dựng vững chãi trên các cột, mái được lợp bằng
tranh và luôn được định hướng theo trục Bắc – Nam, cửa chính được đặt ở
đầu nhà không phân biệt hướng. Mỗi đầu nhà có một adring gah: là một hàng
hiên lát gỗ tròn để đặt cối, chày giã thóc hàng ngày cũng như những chiếc nia,
lồng gà, bành voi… Riêng đối với nhà giàu còn có thêm gơng mrai là những
cột gỗ to được chạm trổ. Người ta thường leo lên adring bằng cầu thang – ê
nan. Cửa nhà được làm bằng tre đan – còn gọi là bang bha, được mở bằng
cách đẩy trượt vào căn nhà chung, phòng này bao giờ cũng nằm ở phía Tây
của mặt tiền. Cửa dẫn vào các phòng riêng cũng như vậy nhưng nhỏ hơn [11,
tr. 153-154].
Dù dài bao nhiêu thì nhà sàn dài của người ÊĐê chủ yếu gồm có hai
phần: phòng chung – gah và phòng riêng – ôk. Trong đó, phòng chung chiếm
một vị trí quan trọng trong ngôi nhà. Phòng này có 3 gian, hai đôi cột trong
nhà chính là ranh giới giữa các gian, được trang trí bằng các hoa văn điêu
khắc với mô típ chính là sừng trâu, tắc kè, rùa cùng với các hoa văn được
cách điệu hay hình học. Cột ở phía gah được gọi là kmeh knang, còn ở phía
ôk thì kmeh kpang. Dưới chân cột phía Đông của cặp cột thứ nhất là Kpur –
bếp lò chung, hầu như lúc nào cũng nóng kể cả vào mùa nóng. Quanh bếp là
những chiếc ghế đẩu bằng gỗ được đẽo một cách thô kệch với 4 chân. Hai bên
cột là hai tấm phản mà việc chế tạo và bày biện là dịp người chủ nhà phải tiến
hành một lễ hiến sinh quan trọng, kèm theo nhiều điều kiêng kị. Đó là nơi để
đàn ông nghỉ ngơi vào ban ngày hoặc dùng cho khách qua đường ngủ lại. Dọc
theo chiều vách bằng tre đan ở phía Tây là chiếc ghế dài – Kpan, là chỗ ngồi
của dàn cồng chiêng. Dưới kpan người ta xếp những của cải, tài sản chung
của nhà như các nồi đồng lớn và cồng chiêng. Dọc vách phía đông treo các
ché đầy rượu hay rỗng [11, tr. 155-156]. Có thể nói, phòng chung chính là nơi
diễn ra toàn bộ đời sống cộng đồng những người dân làng, nó chính là linh
17
hồn đại diện cho tinh thần gắn bó cộng đồng đến tận máu thịt của mỗi người
Ê Đê.
Các căn buồng riêng là phần nối dài của phòng chung, được ngăn cách
với phòng này bằng một bức vách tre mở ra một hành lang rộng, trổ ra hành
lang này là các ngăn của từng gia đình nằm ở phía đông của hành lang, số
lượng tăng lên tùy theo nhu cầu và mức độ tăng sinh của người trong nhà.
Trong chiều dài ngôi nhà, ngăn gia đình chiếm một gian, nghĩa là khoảng
không gian giữa hai đôi cột cái, khoảng ba đến năm mét, được ngăn cách bởi
hai vách tre. Tấm vách tre theo kiểu cửa kéo, mở ra hàng lang trung tâm hiếm
khi được khép lại. Các ngăn được quét nhiều lần trong ngày, sạch sẽ và ít có
thứ gì vương vãi ở đó. Đồ đạc trong các ngăn khá đơn giản. Mỗi ngăn là
khoảng không gian riêng tư của các hộ gia đình nhỏ. [11, tr. 158-159].
Gia đình truyền thống
Gia đình truyền thống của người ÊĐê là một gia đình mẫu hệ mở rộng,
sống chung trong một mái nhà sàn, gồm nhiều gia đình nhỏ và mỗi hộ gia
đình sinh hoạt trong một căn buồng riêng của ngôi nhà. Mỗi căn buồng có
một cặp vợ chồng và con cái của họ. Chủ nhà – Posang là người đàn bà cao
tuổi nhất, thường là người chị cả chịu trách nhiệm trông nom và quản lý các
công việc trong nội bộ gia đình. Còn chồng của bà ấy thì lo các công việc
ngoài phạm vi ngôi nhà [15, tr. 22].
Dù cho quy mô của các gia đình mẫu hệ có khác nhau thế nào đi chăng
nữa thì trong số những phụ nữ trong gia đình, người chị cả luôn đóng vai trò
là người mẹ và nếu người chị cả là một bà góa đã già thì con gái của bà ấy sẽ
thay mặt mẽ giữ quyền tối cao trong gia đình. Trong những quyết định quan
trọng như chia gia tài hay chia của hồi môn, người con gái trưởng này vẫn
không quên tham khảo và xin phép ý kiến của mẹ [11, tr. 285].
18
Một vai trò khác rất quan trọng của chủ nhà là quản lý gia sản mà tổ
tiên để lại. Phần gia sản này gồm những của cải có giá trị lâu dài: chum ché
hay cồng chiêng cổ, nồi đồng tạo thành cái vốn có thể định giá; mặt khác là
những động sản trong nhà như ghế dài và ván phản, mà ta biết rằng giá trị của
chúng còn hơn những đồ vật bằng gỗ rất nhiều vì đó là biểu tượng của một
cương vị tôn giáo mà chủ nhà đã đạt được và cuối cùng là các vật dụng cho
việc cúng bái như: chén đồng hoặc bát đĩa sành dùng cho lễ hiến sinh, thảng
hoặc một cây gương và một cái khiên. Những thứ này vốn được thừa hưởng
từ ông bà, được truyền một cách toàn vẹn và tự động từ người con gái của thế
hệ trên cho người con gái cả của bà ta vẫn còn ở lại trong nhà [11, tr. 279-
285].
Trong cấu trúc gia đình truyền thống của người Ê Đê, một thành phần
đóng vai trò không kém phần quan trọng so với bà chủ nhà, đó là ông cậu –
dăm dei. Ông cậu là anh trai hay em trai ruột hoặc anh trai hay em trai họ của
mẹ. Khi dăm dei đã lập gia đình và về ở bên nhà vợ thì vai trò lại càng quan
trọng trong gia đình nhà mẹ đẻ. Trong gia đình mẹ, dăm dei đảm nhận nhiều
vai trò như: đứng ra giải quyết các mâu thuẫn phát sinh giữa các thành viên
trong nhà hoặc giữa người trong nhà với người ngoài, đại diện cho gia đình
của chị gái hay em gái để đi hỏi chồng cho con gái của họ. Người Ê Đê xem
dăm dei như là chỗ dựa của gia đình, dòng họ. Nếu dòng họ hay gia đình
không có dăm dei sẽ cảm thấy cô đơn, lẻ loi, không nơi nương tựa [9, tr. 53]
1.4. Bối cảnh tác động đến không gian cư trú của người Ê Đê từ sau 1975
đến nay
1.4.1. Chính sách phát triển kinh tế
Tây Nguyên là vùng địa lý sinh thái núi – cao nguyên phía Tây Trường
Sơn Nam của đất nước với diện tích gần 5.4 triệu ha. Với vị thế đặc biệt quan
trọng, Tây Nguyên được coi là “nóc nhà Đông Dương” và là vùng sinh thái
19
cảnh quan đầu nguồn. Bởi vậy, ngay từ sau 1975, nhà nước đã ban hành nhiều
chủ trương chính sách nhằm phát triển kinh tế của vùng Tây Nguyên nói
chung và tỉnh Đắk Lắk nói riêng. Buôn Ma Thuột với tư cách là thủ phủ của
vùng Tây Nguyên cũng trở thành đối tượng nhận được nhiều chính sách quan
trọng của nhà nước nhằm phát triển kinh tế.
Quốc hữu hóa tài nguyên đất rừng
Chính sách quốc hữu hóa toàn bộ tài nguyên đất và tài nguyên rừng đã
được nhà nước tiến hành ngay sau năm 1975. Cùng với đó là chính sách rà
soát quỹ đất của toàn bộ các tỉnh Tây Nguyên. Trong đó, những mảnh đất
đang trong thời kỳ hưu canh của người dân thuộc các dân tộc thiểu số, có cả
người Ê Đê đều được coi là đất hoang hóa hoặc đất rừng tự nhiên. Với mục
đích khai thác hiệu quả kho tài nguyên dồi dào ấy, nhà nước đã tiến hành
chuyển các đơn vị quân đội đang đóng quân trên địa bàn Tây Nguyên thành
các đơn vị kinh tế. Nhiều đơn vị quân đội độc lập cấp Trung đoàn đã được sử
dụng làm long cốt để xây dựng các nông lâm trường. Chiến dịch này cũng có
sự tham gia của các binh đoàn như binh đoàn 331, 332, 333. Ban đầu các đơn
vị quân đội này được gọi là các binh đoàn làm kinh tế, sau chuyển sang dân
sự và đổi thành Liên hiệp xí nghiệp nông, lâm, công nghiệp và sau này được
chuyển thành các công ty nông, lâm nghiệp [21, tr. 33].
Bên cạnh đó, các lâm trường quốc doanh cũng được thành lập tại Đăk
Lăk và hoạt động dưới sự quản lý của 3 liên hiệp và các lâm trường độc lập.
Diện tích đất lâm nghiệp phần lớn do các lâm trường trực thuộc Trung ương
quản lý: liên hiệp nông lâm công nghiệp Gia Nghĩa và liên hiệp nông lâm
công nghiệp Ea Súp quản lý 35/47 lâm trường; ngoài ra có hai lâm trường độc
lập và các đơn vị Ban Quản lý rừng, Vườn Quốc gia đều do bộ lâm nghiệp
quản lý. Các nông trường được thành lập trên cơ sở các đơn vị quân đội và
các đơn vị trực thuộc Bộ Nông Nghiệp. Liên hiệp 333 có 12/46 nông trường.
20
Xí nghiệp cà phê Việt Đức có 6/46 nông trường. Đến nay trên địa bàn tỉnh
Đắk Lắk còn có 57 công ty nông lâm trường – quản lý, quản lý 67% tổng diện
tích đất đai của tỉnh [9, tr. 68].
Trải qua một quá trình tái cấu trúc và đổi mới, Buôn Ma Thuột còn lại
một số công ty nông nghiệp đáng chú ý như: Công ty cao su Đắk Lắk, công ty
Cà Phê Buôn Ma Thuột, Công ty cà phê Việt Thắng và công ty D’rây
H’Linh…
Tập thể hóa và giải thể hợp tác xã nông nghiệp
Giai đoạn 1978 – 1980, nhà nước đã vận động người dân các dân tộc ở
Tây Nguyên chuyển sang kinh tế tập thể - thông qua hình thức tập đoàn và
hợp tác xã nông nghiệp. Đồng thời với đó, nhà nước cũng đan xen tổ chức di
dân từ đồng bằng lên Tây Nguyên làm kinh tế mới, tạo nên hình thái cư trú
xen kẽ Kinh – Thượng. Tại các vùng xen cư, hàng loạt các tập đoàn sản xuất,
hợp tác xã nông nghiệp cấp buôn và hợp tác xã nông nghiệp cấp xã được
thành lập. Đến cuối thập niên 1980, mô hình hợp tác xã được giải thể, đất sản
xuất do hợp tác xã quản lý được chia đều cho các nhóm di cư và các nhóm
dân tộc thiểu số tại chỗ [6, tr. 193].
Phát triển cây công nghiệp
Sau năm 1975, nhà nước chủ trương biến Tây Nguyên thành vùng
chuyên canh cây công nghiệp hàng đầu cả nước nhằm khai thác các lợi thế tự
nhiên của mảnh đất này. Chiến dịch phát triển cây công nghiệp bắt đầu xuất
hiện từ 1980 nhưng đến thập niên 1990 thì nó bùng lên mạnh mẽ và vẫn chưa
có dấu hiệu dừng lại cho đến thời điểm này.
Nắm bắt được xu thế phát triển mạnh mẽ trong thâm canh cây công
nghiệp, Đắk Lắk với những lợi thế lớn về thổ nhưỡng và điều kiện sinh thái
của mình đã nổi lên như một trung tâm lớn về cây cà phê. Từ 1975 đến nay,
diện tích cà phê của Đắk Lắk đã và đang phát triển rất nhanh chóng. Theo
21
thống kê của Sở nông nghiệp và phát triển nông thôn, Đắk Lắk có khoảng gần
200.000 ha cà phê với sản lượng trên 400.000 tấn chiếm 40% sản lượng cà
phê cả nước. Cà phê được trồng ở nhiều huyện thuộc tỉnh Đắk Lắk nhưng
trong đó, Buôn Ma Thuột được xem là thủ phủ cà phê của Đắk Lắk nhờ vào
chất lượng và hương vị đặc biệt của nó.
1.4.2. Chính sách phát triển văn hóa – xã hội
Mở rộng đô thị
Buôn Ma Thuột là thành phố nằm ở vị trí trung tâm của Đắk Lắk và
Tây Nguyên, lại có lợi thế đặc biệt về vị trí chính trị, kinh tế và văn hóa nên
ngay từ đầu thế kỉ XX, Buôn Ma Thuột đã được người Pháp chú trọng đầu tư.
Từ thập niên 1930 đến nửa đầu thập niên 1970, dưới thời Pháp thuộc và Việt
Nam cộng hòa, Buôn Ma Thuột chính là thị xã đầu não của cao nguyên. Sau
1975, trong bối cảnh đất nước thống nhất và đổi mới, Buôn Ma Thuột đã trải
qua một quá trình chuyển mình đầy ấn tượng. Nhằm hiện thực hóa chủ trương
đẩy mạnh công nghiệp hóa, đô thị hóa thời kỳ Đổi mới, Trung ương và chính
quyền địa phương đã đưa ra nhiều chính sách để phát triển đô thị Buôn Ma
Thuột trên cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Năm 1995, thị xã Buôn Ma Thuột đã
được nâng cấp lên quy mô thành phố. Mười năm sau (2005) Buôn Ma Thuột
gia nhập vào nhóm đô thị loại II. Năm 2010, Thủ tướng Chính phủ đã ký
quyết định công nhận thành phố Buôn Ma Thuột là đô thị loại I, thuộc sự
quản lý trực tiếp của tỉnh Đắk Lắk. Dự kiến đến năm 2020, Buôn Ma Thuột sẽ
trở thành đô thị trực thuộc Trung ương, cũng là đô thị trung tâm của vùng Tây
Nguyên.
Về tổ chức hành chính, thành phố Buôn Ma Thuột có 8 xã, 13 phường,
gồm 247 thôn, buôn, tổ dân phố (72 thôn, 142 tổ dân phố, 33 buôn). Cụ thể
như sau:
22
Khu trung tâm gồm các phường: Tân Tiến, Thắng Lợi, Thống Nhất,
Thành Công, Tân Lợi, Tự An, Tân Lập, Tân Thành.
Khu cần trung tâm gồm các phường: Khánh Xuân, Tân Hòa, Thành Nhất, Ea
Tam, Tân An.
Khu ven nội gồm các phường, xã: Cư Ebur, Hòa Thắng, Hòa Khánh,
Hòa Thuận, Ea Tu, Ea Kao, Hòa Phú, Hòa Xuân.
Bảo tồn văn hóa truyền thống
Thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương V khóa VIII (1998) về xây
dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc,
các tỉnh Tây Nguyên nói chung và thành phố Buôn Ma Thuột nói riêng đã
thực hiện nhiều chính sách nhằm khôi phục và bảo tồn văn hóa truyền thống
của nhóm dân tộc tại chỗ. Nhờ sự hỗ trợ ngân sách từ phía Nhà nước, hầu hết
các buôn ÊĐê trên địa bàn thành phố đều đã có nhà văn hóa để tổ chức các
sinh hoạt cộng đồng. Hệ thống cơ sở hạ tầng cũng như hệ thống truyền thông
của các buôn làng đã được cải thiện rõ rệt, giúp người dân có thể tiếp cận
nhiều hơn và nhanh hơn với thế giới bên ngoài. Hàng năm, chính quyền thành
phố cũng hỗ trợ ngân sách vào việc góp phần duy trì và phát triển những giá
trị văn hóa truyền thống tại các buôn. Nhờ đó, cảnh quan buôn làng cũng như
tình hình sinh hoạt văn hóa truyền thống trong các thôn, buôn ÊĐê ở Buôn
Ma Thuột cũng đã có nhiều khởi sắc.
1.4.3. Chuyển dịch cơ cấu dân cư và dân tộc
Từ những năm 1976 đến cuối thập niên 90 của thế kỉ XX, Đảng và Nhà
nước đã đề ra một số mục tiêu để thực hiện kế hoạch xây dựng vùng kinh tế
mới ở các tỉnh Tây Nguyên nói chung và Đắk Lắk nói riêng. Kế hoạch này đã
dẫn đến sự di dân trên địa bàn thành phố. Cụ thể, từ 1976-1996 Đắk Lắk đã
đón nhận 52544 hộ với 311764 khẩu, bình quân mỗi năm tiếp nhận 2400 hộ
dân di cư theo kế hoạch. Giai đoạn 1976-1985, di cư vào Đắk Lắk diễn ra ồ
23
ạt, chiếm khoảng 71% tổng số hộ đến trong 20 năm (1976-1996). Trong 10
năm tiếp theo (1986-1996), di cư theo kế hoạch giảm mạnh so với giai đoạn
đầu (chiếm 29%). Riêng giai đoạn 1991-1995, dòng di cư tự do phát triển
mạnh mẽ, lấn át dòng di cư theo kế hoạch, thậm chí còn lấn chiếm nhiều địa
bàn dự kiến tiếp nhận dòng di cư theo kế hoạch. Từ 1986-1996, có khoảng
131000 dân di cư tự do đến Đắk Lắk, hoàn toàn vượt trội so với lượng dân di
cư theo kế hoạch trong cùng thời kỳ là 87500 người (Mai Thanh Sơn 2011:
34). Buôn Ma Thuột với vị thế đặc biệt về cả kinh tế và chính trị đã trở thành
điểm dừng chân quen thuộc của nhiều luồng di cư trong cả nước. Trải qua 1
quá trình chuyển dịch dân cư và dân tộc, hiện nay ở Buôn Ma Thuột có 40 tộc
người cùng sinh sống, trong đó cộng đồng người Kinh và các nhóm thiểu số
phía Bắc chiếm gần 90%. Còn lại, là nhóm dân tộc tại chỗ với thành phần chủ
yếu là người ÊĐê chiếm 11.21%.
Như vậy, chúng ta có thể thấy, trước những chính sách phát triển về
kinh tế - văn hóa – xã hội mà Đảng và nhà nước đã đặt ra, Tây Nguyên nói
chung và thành phố Buôn Ma Thuột nói đã có nhiều thay đổi trên tất cả các
mặt cả về kinh tế, văn hóa lẫn chính trị, xã hội. Chính sự thay đổi nhiều mặt
và toàn diện đó đã dẫn đến một quá trình biến đổi không ngừng ở vùng đất
này, đặc biệt là sự biến đổi về không gian cư trú tại các buôn làng ÊĐê truyền
thống.
24
Chương 2. Quá trình biến đổi không gian cư trú buôn làng ÊĐê
Sau năm 1975, không gian buôn làng ÊĐê ở Buôn Mê Thuột diễn ra sự
biến đổi mạnh mẽ. Bên cạnh những biến về không gian sản xuất, không gian
sinh hoạt cộng đồng, không gian tín ngưỡng thì không gian cư trú của người
dân nơi đây cũng có nhiều biến đổi lớn như: Biến đổi về cơ cấu dân cư và dân
tộc, biến đổi về loại hình gia đình và kiến trúc nhà ở. Những biến đổi này dẫn
đến những hệ quả nhất định, không chỉ làm nên một diện mạo mới cho buôn
làng ÊĐê mà còn làm thay đổi cách nhìn, cách nghĩ, hành vi và lối sống của
người nơi đây.
2.1. Biến đổi về cơ cấu dân cư và dân tộc
2.1.1. Biến đổi cơ cấu dân số và cơ cấu tộc người
Một bước ngoặt lớn trong quá trình biến đổi không gian cư trú phải kể
đến là dân di cư. Giai đoạn sau năm 1975, các dòng dân di cư liên tục đổ về
nhập cư ở Buôn Mê Thuột bằng nhiều con đường khác nhau. Người dân từ
các vùng khác nhau đến, mua đất thổ cư của người ÊĐê, xây dựng nhà cửa,
định cư, lập nghiệp tại vùng này, họ sống trong buôn làng của người ÊĐê.
Quá trình này diễn ra mạnh mẽ từ thời bao cấp cho đến thời kì đổi mới. Vào
thời bao cấp, nhu cầu về lương thực, thực phẩm là một vấn đề cấp bách cần
được giải quyết, vì thế người dân ÊĐê đã buộc phải trích một phần đất vườn
để bán cho người dân nhập cư, cụ thể là người Kinh. Sang đến thời kì đổi
mới, nhu cầu về nhà ở, đời sống của người dân ÊĐê nâng cao đã thôi thúc họ
tiếp tục bán đất vườn để lấy tiền kiến thiết, xây dựng lại nhà cửa khang trang
hơn và phục vụ các nhu cầu khác của gia đình. Tình hình này diễn ra không
chỉ ở một khu vực hay buôn nào riêng nào mà nó diễn ở rất nhiều buôn thuộc
vùng trung tâm, cận trung tâm hay thậm chí là vùng ngoại ô thành phố. Một
hệ quả tất yếu của quá trình nhập cư ồ ạt này là sự thay đổi rõ rệt về cơ cấu
25
dân số, cụ thể là sự tăng lên nhanh chóng về số lượng người Kinh ở các buôn
làng Buôn Mê Thuột giai đoạn sau thập niên 1990.
Bảng 2.1: Cơ cấu dân số buôn Alê A năm 2015 - 2020
Số hộ Số khẩu Tỷ lệ (%) Nhóm
dân tộc
Năm 2015 2020 2015 2020 2015 2020
173 162 723 792 51,8% 50,7% Kinh
169 197 656 745 47% 47,7% Ê Đê
5 6 17 24 0,2% 1,6% Khác
347 365 1396 1561 100% 100% Tổng
số
Nguồn: [Trưởng Buôn Alê A cung cấp]
Về số hộ, chúng ta có thể thấy số hộ của người Kinh có xu hướng giảm,
còn số hộ của người ÊĐê có xu hướng tăng. Nguyên nhân là nằm ở việc tách
hộ của người ÊĐê. Người ÊĐê sau khi con cái kết hôn, không sống chung với
bố mẹ mà tách hộ ra ở riêng, có thể sống trong buôn để gần bố mẹ, cũng có
thể sống trong chính mảnh đất vườn được bố mẹ cho để dựng nhà. Bên cạnh
đó, người Kinh sau khi nhập cư vào buôn, có một số người đã kết hôn với
người ÊĐê và được cho đất dựng nhà cửa. Điều này đã giải thích cho việc, vì
sao số hộ ÊĐê ở buôn ngày càng tăng.
Về số khẩu, nếu như tỉ lệ dân số của người Kinh tăng 8,7% trong giai
đoạn 2015 – 2020 thì người ÊĐê tăng 12%. Và nếu như năm 2015, tỷ lệ
chênh lệch giữa người Kinh và người ÊĐê là 4,8% thì đến năm 2020, con số
này đã có sự giảm nhẹ xuống còn 3%. Mặc dù tỷ lệ người Kinh tại buôn vẫn
chiếm trên 50% so với người ÊĐê nhưng dựa vào những con số trên, có thể
thấy xu hướng dịch chuyển đang có sự thay đổi mới. Những người ÊĐê sau
khi kết hôn, họ sinh con đẻ cái chính là một phần nguyên nhân dẫn đến việc tỉ
26
lệ người ÊĐê tăng nhanh so với người Kinh. Vì người ÊĐê có xu hướng sinh
đông con hơn người Kinh.
Đối với buôn Alê A, nguyên nhân chính dẫn đến sự thay đổi cơ cấu dân
số là việc thay đổi quỹ đất. Trước đây, toàn bộ người ÊĐê có thể thoải mái cư
trú trên mảnh đất rộng 12 ha của buôn làng. Có những gia đình sở hữu cả một
ô bàn cờ tương đương với gần 1 ha đất, đủ cho cả một dòng họ chung sống
cùng một khu. Tùy nhiên, sau đổi mới, nhu cầu về nhà ở, sinh hoạt của người
dân có nhiều thay đổi. Nhà cửa của người dân bản địa bị xuống cấp, cần tu
sửa bảo trì hoặc xây mới để tiện cho sinh hoạt. Nhưng lúc bấy giờ, chi phí tu
sửa nhà tốn kém, kiếm tiền không dễ dàng, nguyên liệu để tu sửa nhà là gỗ
rừng cũng không còn. Bán đất là một lựa chọn tất yếu để người dân có điều
kiện tu sửa lại nhà cửa và cải tạo cuộc sống. Ngoài ra, sau giải phóng năm
1975, những cán bộ công chức và cả những mục sư Tin lành trước đó được bố
trí nhà ở giờ cũng mất việc và bị thu hồi nhà. Họ quay trở về buôn, bán đất để
lấy tiền dựng một ngôi nhà nhỏ hoặc di cư đến nơi khác. Giai đoạn này, bán
đất được coi là một xu hướng mới của các buôn làng ÊĐê ở Buôn Mê Thuột.
Về phía người Kinh, theo kế hoạch xây dựng vùng kinh tế mới ở Tây
Nguyên nói chung và tỉnh Đắk Lắk nói riêng, người dân ồ ạt đổ về đây nhập
cư, bao gồm cả đối tượng di cư theo kế hoạch lẫn đối tượng di cư tự phát. Với
tư cách là thủ phủ của Đắk Lắk và của vùng Tây Nguyên thì Buôn Mê Thuột
trở thành địa điểm dừng dân quen thuộc của nhiều luồng di cư trong cả nước.
Alê A là một buôn trung tâm nên đã thu hút một lượng lớn dân nhập cư, chủ
yếu là dân tộc Kinh. Người Kinh trong quá trình di cư đi làm kinh tế mới đã
mang theo cả gia đình họ, bao gồm vợ chồng con cái thậm chí cả anh chị em
đi cùng. Họ đến đây, mua đất, dựng nhà ở buôn làng, cùng sống, canh tác và
làm việc trên mảnh đất mới cùng với người dân bản địa. Lâu dần, buôn làng
người ÊĐê như trở thành ngôi nhà thứ hai của họ, họ tiếp tục làm ăn, sinh con
27
đẻ cái, con cái họ trưởng thành và lại tiếp tục lập gia đình, và cứ thế, họ đã
gắn bó cả cuộc đời mình ở nơi đây.
Có thể nói, việc người ÊĐê bán đất và dân nhập cư mua đất đã tạo nên
sự chuyển dịch cơ cấu dân số mạnh mẽ ở buôn Alê A. Đây cũng là bước
ngoặt lớn mở đầu cho sự thay đổi toàn diện cả về chất và lượng, tạo nên một
diện mạo mới cho buôn làng ÊĐê nói chung và không gian cư trú buôn làng
nơi đây nói riêng.
Khác với buôn Alê A, Êa Bông là một buôn nằm ở xa trung tâm hơn, vì
vậy, cơ cấu dân cư – dân tộc của buôn có phần nghiêng nhiều về phía tộc
người ÊĐê hơn.
Bảng 2.2: Cơ cấu dân số buôn Êa Bông 2015 – 2020
Nhóm dân Số hộ Số khẩu Tỷ lệ (%)
tộc
Năm 2015 2020 2015 2020 2015 2020
Kinh 41 42 179 201 13,33% 12,9%
Ê Đê 217 270 1163 1358 86,67% 87,1%
Khác 0 0 0 0 0% 0%
Tổng số 258 312 1342 1559 100% 100%
Nguồn: [Trưởng buôn Êa Bông cung cấp]
Theo thống kê, chúng ta có thể thấy Êa Bông là một buôn chỉ có người
Kinh và người ÊĐê. Hơn nữa, người ÊĐê chiếm một tỉ lệ khá cao (87,1%),
hoàn toàn vượt trội hơn hẳn so với người Kinh (12,9%). Tỷ lệ chênh lệch này
một phần do vị trí của buôn. Êa Bông là một buôn nằm ở khá xa trung tâm
thành phố, người Kinh khi định cư lại muốn tìm một vị trí ở gần trung tâm để
thuận tiện cho quá trình canh tác, kinh doanh và làm kinh tế nên họ không
chuộng những buôn xa như Êa Bông. Mặt khác, cố già làng của Êa Bông là
Ylho Eban đã đưa ra chủ trương ngay sau 1975: không bán đất thổ cư cho
28
người ngoài để tránh tình trạng cư trú hỗn tạp. Vậy nên, phần lớn dân số của
buôn làng đều là người ÊĐê. Người Kinh mặc dù cũng chiếm một tỉ lệ nhỏ
trong tổng cơ cấu dân số của buôn, nhưng phần lớn họ đều cư trú tại phía rìa
đường và tách biệt hẳn so với khu vực cư trú của người dân bản địa.
Có lẽ, chính bởi việc chiếm ưu thế hơn về mặt dân số mà buôn Ea Bông
vẫn còn giữ lại được một số nét văn hóa và phong tục truyền thống, những
nếp nhà sàn dài truyền thống. Bởi thế mà khi đến với Êa Bông, rất dễ để nhận
ra cái chất ÊĐê khó lẫn của nó. Có thể nói, cơ cấu dân cư và dân tộc đóng vai
trò quan trọng trong việc giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa của mỗi
tộc người.
2.1.2. Biến đổi cơ cấu tôn giáo
Trước 1975, Buôn Ma Thuột nói riêng và Tây Nguyên nói chung là
mảnh đất màu mỡ của các tín ngưỡng đa thần và đời sống tôn giáo của các
buôn ÊĐê trên thực tế xoay quanh hệ thống các nghi lễ nông nghiệp và nghi
lễ vòng đời. Sau năm 1975, các tôn giáo du nhập về Buôn Mê Thuột bằng
nhiều con đường khác nhau. Các tôn giáo lớn như Phật giáo, Kitô giáo, Tin
Lành, Cao Đài đã tạo nên một bức tranh phong phú, nhiều màu sắc và thu hút
đông đảo các nhóm dân tộc tham gia. Nếu như cộng đồng người Kinh có số
đông theo Kitô giáo và Phật giáo thì bà con dân tộc ÊĐê lại theo xu hướng
Kitô giáo và đạo Tin lành nhiều hơn.
Ở buôn Alê A, trước 1975, bà con chủ yếu theo tín ngưỡng truyền
thống, Kitô giáo đã có mặt trong cộng đồng, nhưng chỉ thu hút một số thanh
niên và gia đình của họ. Những thanh niên là thành phần đã tiếp thu văn minh
đô thị, lại được tiếp nhận với một nền giáo dục kiểu mới nên rất nhạy cảm với
cái mới. Thực tế này đã được miêu tả chi tiết trong chuyên khảo của Đặng
Hoài Giang: Lúc Amĩ Then (buôn Alê A) học lớp đệ tứ trường Vinh Sơn
(trường tư thục Kitô giáo) thì nhà thờ Mẫu Tâm vừa hoàn thành và cha cố
29
Bạch đang thúc đẩy công cuộc truyền giáo ở Buôn Ma Thuột. Từ mùa thu
1957, vào các buổi chiều trong tuần, cha Bạch thường đi xe Jeep đến các
trường Vinh Sơn, La San và Nguyễn Du đón học sinh người ÊĐê đến nhà thờ
Mẫu Tâm học giáo lý. Học xong, cha phát kẹo cho từng người rồi mang về
tận buôn. Ban đầu, Amĩ Then và các bạn đi học giáo lý chỉ vì tò mò trước cái
mới. Nhưng khi đã trưởng thành, họ thấy được lợi ích của việc học giáo lý
nên quyết định làm lễ rửa tội ở nhà thờ. Sau đó, họ vận động người thân đi
nhà thờ và một số người đã vận động thành công. Trước giải phóng, buôn Alê
A có khoảng 10 hộ Kitô giáo - chiếm 1/10 số hộ trong buôn. Họ là thế hệ cải
đạo đầu tiên ở buôn Alê A [9, tr. 173-174]. Hơi khác một chút so với buôn
Alê A, ở buôn Êa Bông, trước 1975, tín ngưỡng truyền thống vẫn là yếu tố
ngự trị đời sống tinh thần của người dân.
Tuy nhiên, sau 1975, trong bối cảnh Buôn Ma Thuột nói riêng và Tây
Nguyên nói chung bước sang một giai đoạn mới với nhiều thay đổi hệ trọng
về chế độ sở hữu tài nguyên, phương thức sản xuất và sinh kế, cơ cấu dân cư
và cơ cấu văn hoá, đời sống tôn giáo ở các buôn ÊĐê cũng chứng kiến những
thay đổi quan trọng theo các cách khác nhau. Ở Buôn Alê A đã diễn ra một sự
tương phản rõ rệt giữa tín ngưỡng truyền thống và các tôn giáo mới: trong khi
các nghi lễ/lễ hội truyền thống sớm vụt tắt thì các tôn giáo mới thâm nhập
nhanh và sâu trong cộng đồng. Thực tế này được phản ánh qua cơ cấu tôn
giáo của buôn:
30
Bảng 2.3. Cơ cấu tôn giáo, tín ngưỡng ở các điểm nghiên cứu
Buôn Tín ngưỡng truyền Nhóm Kitô giáo Nhóm Tin lành
thống
Alê A 39,34% 27,89% 32,77%
Ea 62,87% 25,36% 11,77%
Bông
[Nguồn: Trưởng buôn Alê A và Êa Bông cung cấp]
Nếu nhìn vào bảng trên, tuy tỷ lệ tự nhận theo tín ngưỡng truyền
thống ở buôn Alê A còn khá cao (39,34%) nhưng thực tế, ngoại trừ việc duy
trì lễ bỏ mả đã ít nhiều bị phôi pha theo hướng lược bỏ, nhóm này hầu như
không còn duy trì bất cứ nghi lễ truyền thống nào trong vòng vài chục năm
trở lại đây. Ngược lại, các nhóm Kitô giáo và Tin Lành của Alê A vẫn sinh
hoạt ở nhà thờ rất đều đặn. Ở Êa Bông, tình hình diễn ra theo chiều hướng có
phần ngược lại. Với xu thế cải đạo khó cưỡng ở Buôn Ma Thuột và Tây
Nguyên, một số hộ dân Êa Bông đã đi theo tiếng gọi của nhà thờ. Tuy nhiên,
các nhóm Kitô giáo và Tin lành chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ so với nhóm tín ngưỡng
truyền thống ở Êa Bông.
Kitô giáo và Tin lành có cách tiếp cận khác nhau trong mối quan hệ
với văn hoá bản địa. Kitô giáo có xu hướng dung nạp văn hóa truyền thống
của các tộc người, còn đạo Tin Lành thì ngược lại. Cụ thể là, những người
theo Kitô giáo vẫn thực hiện và tham gia vào các lễ nghi truyền thống của
người ÊĐê tại buôn như: lễ mừng lúa mới, lễ cúng sức khỏe, lễ thôi nôi, đánh
cồng chiêng, uống rượu cần… Ngược lại, các tín đồ Tin lành hầu như không
31
tham gia những hoạt động này. Đối với người theo đạo Tin lành, đánh chiêng
và uống rượu cần là một trong những điều cấm kỵ.
Như vậy, chúng ta có thể thấy xu hướng biến đổi tôn giáo của ở các
buôn làng ÊĐê nói chung và buôn Alê A, Êa Bông nói riêng là xu hướng từ
tín ngưỡng truyền thống sang Kitô giáo và Tin Lành. Bên cạnh đó, chuyển
dịch cơ cấu dân số, người Kinh và người ÊĐê sống gần nhau, xen kẽ với nhau
cũng góp phần tạo nên một nét mới trong tôn giáo của đồng bào dân tộc ÊĐê,
đó là việc người dân ÊĐê lập bàn thờ để tưởng nhớ về tổ tiên, về những người
thân đã mất. Và xu hướng này được người đồng bào gọi với cái tên mới là
Lương Giáo.
2.2. Biến đổi về loại hình gia đình và kiến trúc nhà ở
2.2.1. Biến đổi về loại hình gia đình
Nói đến sự biến đổi về loại hình gia đình ở Buôn Mê Thuột phải nói
đến sự phân rã các gia đình mở rộng. Đối với người ÊĐê, loại hình gia đình
mở rộng chính là nét đặc trưng tiêu biểu của một xã hội ÊĐê truyền thống.
Người ta đã rất quen thuộc với hình ảnh một ngôi nhà sàn dài với nhiều thế hệ
cùng sinh sống theo chế độ mẫu hệ mỗi khi nhắc đến tộc người ÊĐê. Tuy
nhiên, cho đến đầu thập niên 1980, khi nhà nước ban hành chính sách tổ chức
định canh định cư cho các làng dân tộc ở vùng Tây Nguyên, loại hình gia đình
mở rộng đã bị thay thế dần bằng một loại hình gia đình mới, đó là gia đình hạt
nhân. Điều này có nghĩa là, gia đình mẫu hệ lớn của người ÊĐê được tách nhỏ
ra thành các hộ gia đình độc lập, hay còn gọi là gia đình hạt nhân. Thay vì
sinh sống cùng nhau trong một ngôi nhà sàn dài như một thể thống nhất, một
khối liên kết chặt chẽ thì các hộ gia đình nhỏ sẽ phải sống như các đơn vị độc
lập. Các gia đình hạt nhân mới có thể sinh sống ở chính tại buôn làng đó,
cũng có thể chuyển sang làng khác hay thậm chí dựng nhà trên chính mảnh
32
vườn của gia đình lớn nếu được bố mẹ cho đất. Điều này phụ thuộc vào việc
phân chia đất của các gia đình.
Mỗi buôn sẽ có một định mức phân chia quỹ đất khác nhau tùy thuộc
vào quy mô quỹ đất và số dân ở buôn làng mình. Ở Alê A, do dân số đông
nên mỗi hộ chỉ được chia 500 mét vuông đất vườn. Ngược lại, ở buôn Êa
Bông do quỹ đất lớn, vùng cư trú rộng nên mỗi hộ được chia 1,5 sào đất
vườn. Những hộ thuộc phía rìa của buôn có thể nhận được quỹ đất lên đến 2
sào. Ở thời điểm mới tách hộ, việc phân chia đất định cư có thể chưa phải là
vấn đề lớn nhưng về lâu dài, khi số khẩu trong mỗi hộ tăng lên và giá đất lên
cao khi dân nhập cư đến ngày một nhiều thì quỹ đất đó chính là yếu tố quyết
định đến tương lai của các hộ gia đình [9, tr. 97]
Ở buôn Alê A, chính sách này được người dân đón nhận với thái độ
khá thoải mái và có phần hiện đại, thể hiện được tư duy đổi mới, hòa nhập với
xu hướng phát triển mới của xã hội.
“Bây giờ, con cái lập gia đình xong, có điều kiện thì ra ở riêng, bố mẹ
có đất thì cho đất, có tiền thì cho tiền để hỗ trợ. Còn gia đình mà không có
điều kiện thì vẫn tiếp tục ở với bố mẹ, khi nào đủ điều kiện kinh tế thì ra ở
riêng.” (Phỏng vấn sâu Cô Hduk Jin – Buôn Alê A).
“Việc có ở riêng hay không tùy gia đình, mỗi nhà mỗi khác. Như nhà
bà, cháu ngoại của bà lấy chồng người Kinh, hai vợ chồng học ở Đà Nẵng
xong không tìm được việc làm nên về đây, sống cùng với bà luôn. Con cháu
mình không có điều kiện thì mình nuôi. Ông bà đều có lương hưu nên lo được
thì lo thôi.” (Phỏng vấn sâu bà Hvai – nguyên hiệu trưởng trường tiểu học
Nguyễn Thị Định – Buôn Alê A).
“Bây giờ hầu hết mọi người kết hôn xong đều ra ở riêng cho thoải mái.
Nhưng em vẫn thích sống cùng bà và bố mẹ nên em không ra ở riêng. Chồng
em là người Kinh, bố mẹ chồng em cũng cho nhà nhưng hai vợ chồng không
33
ra riêng vì ở đây có bà và bố mẹ trông con cho nên đỡ cực. Hai vợ chồng có
thời gian đi làm.” (Phỏng vấn sâu em Hduk Lin – Buôn Alê A).
Có thể thấy, phần lớn người dân đều đón nhận chính sách tách hộ này
bằng thái độ đồng tình. Tuy nhiên, mỗi vấn đề đều có những lợi thế và bất lợi
riêng. Vậy, chúng ta hãy xem việc thay đổi thói quen sống, chuyển từ lối sinh
hoạt theo gia đình như một liên kết xã hội nhỏ sang lối sinh hoạt độc lập đã
tác động như thế nào đến người dân trong buôn làng.
“Nhà chị hai vợ chồng hai đứa con sống cùng nhau. Hai vợ chồng đi
làm rẫy rồi ai mướn gì thì làm đó. Kiếm tiền nuôi hai đứa con ăn học. Chị
thấy thoải mái lắm, không có vấn đề gì cả.” (Phỏng vấn sâu chị Klua – Buôn
Alê A).
“Con cái lấy vợ lấy chồng, rồi ra ở riêng thì đôi khi bố mẹ cũng buồn.
Nhưng mà xã hội hiện đại rồi, mình cũng phải thay đổi thôi. Nó ở riêng để nó
trưởng thành, làm chủ cuộc sống rồi còn nuôi dạy con cái chứ ở với bố mẹ,
bao bọc mãi chừng nào lớn.” (Phỏng vấn sâu HYun – Buôn Alê A)
Ở một buôn cận trung tâm như Alê A, dù là người già hay người trẻ thì
cũng đều có những cách nghĩ rất tiến bộ và văn minh. Bên cạnh đó, Êa Bông
mặc dù xa trung tâm, nhưng cuộc sống và cách nghĩ của người dân cũng
không kém phần hiện đại và đổi mới, luôn cải cách và thay đổi cuộc sống theo
kịp những chính sách mới của Đảng và nhà nước.
“Ở buôn chị giờ cứ lấy chồng ra ở riêng hết. Nhà chị có 10 anh chị em.
Ngày xưa sống cùng nhau ở nhà sàn sau đó giỡ đi xây nhà này. Các anh chị
em của chị lấy chồng lấy vợ xong đều xây nhà ra ở riêng hết. Hai chị xây hai
nhà trước, hai chị nữa ở nhà bên cạnh, còn các anh trai lấy vợ xong theo vợ
rồi. Chị cũng sắp ra ở riêng. Đất rộng nên mấy chị em ở quanh đây hết để
gần bố mẹ. Còn lại cô em út sau lấy chồng thì vẫn ở nhà này phụng dưỡng bố
mẹ thôi.” (Phỏng vấn sâu Chị H’ Dliu – Buôn Êa Bông).
34
“Bây giờ chỉ có con gái út ở với bố mẹ. Còn lại lấy vợ lấy chồng xong
đều ra ở riêng. Bố mẹ cho đất xây nhà, mọi người thường xây nhà cấp bốn
thôi vì không có nhiều tiền xây nhà to.” (Phỏng vấn sâu em H’ Ngo - Buôn Êa
Bông).
Có thể thấy, loại hình gia đình thay đổi từ gia đình mẫu hệ mở rộng
sang gia đình hạt nhân, nhưng chế độ mẫu hệ vẫn toát lên trong mỗi gia đình
ở các buôn làng ÊĐê. Dù là lấy chồng, ra ở riêng nhưng người con gái vẫn là
người có trách nhiệm chăm lo, phụng dưỡng bố mẹ khi về già. Hay khi tách
hộ, người cho đất để các cặp vợ chồng trẻ xây nhà ra ở riêng hầu hết là gia
đình nhà gái. Mặc dù những hộ gia đình lớn tách thành gia đình nhỏ nhưng
hầu hết những gia đình mới đều lựa chọn tiếp tục sống trong buôn để ở gần bố
mẹ. Họ vẫn hỗ trợ nhau trong cuộc sống hàng ngày như giúp nhau làm rẫy,
cùng nhau tổ chức những lễ cầu sức khỏe cho cả đại gia đình, ông bà thì giúp
trông cháu để con cái đi làm. Cuộc sống của người dân ÊĐê vẫn gắn bó chặt
chẽ với nhau. Tuy nhiên, không thể phủ nhận một điều là chính sách định
canh định cư của nhà nước đã chính thức chấm dứt sự tồn tại của loại hình gia
đình nhiều thế hệ cùng chung sống dưới mái nhà sàn của người ÊĐê, mở ra
một loại hình mới, một diện mạo mới trong buôn làng ÊĐê, dẫn đến sự thay
đổi về nhiều mặt của đời sống và xã hội ÊĐê truyền thống. Một trong những
thay đổi lớn nhất phải kể đến là sự biến đổi về loại hình và kiến trúc nhà ở.
2.2.2. Biến đổi về kiến trúc nhà ở
Biến đổi về loại hình gia đình dẫn đến sự biến đổi tất yếu không thể
tránh khỏi của loại hình và kiến trúc nhà ở. Cụ thể là sau khi tách hộ gia đình
từ gia đình mở rộng thành gia đình hạt nhân, nhà sàn dài trước đây sẽ bị tháo
xuống, nguyên vật liệu từ nhà sàn dài đó sẽ được phân chia cho các gia đình
hạt nhân để họ xây dựng một ngôi nhà sàn mới, chúng ta có thể tạm gọi đó là
nhà sàn hạt nhân.
35
Chính sách định canh định cư này diễn ra đồng loạt ở nhiều buôn làng
ÊĐê khác nhau, nhưng mỗi làng lại có một cách thức hoạt động và tách hộ
riêng. Ở buôn làng Êa Bông, nguyên vật liệu tháo dỡ từ nhà sàn dài sẽ được
chia đều cho các hộ gia đình nhỏ để họ dựng lên một ngôi nhà sàn mới. Các
gia đình giúp đỡ lẫn nhau trong việc dựng nhà hoặc nhờ đến sự giúp đỡ của
anh chị em họ hàng trong gia đình. Một số gia đình vì nhu cầu sử dụng chưa
nhiều nên phần nguyên vật liệu được chia sau khi tách hộ đủ để họ có thể
dựng lên một ngôi nhà sàn nhỏ cho riêng mình. Ngược lại, một số hộ khác với
nhu cầu sử dụng lớn hơn nên họ chủ động vào rừng kiếm thêm gỗ để có thể
dựng một ngôi nhà khang trang như ý muốn. Khác với buôn Êa Bông, buôn
Alê A sau khi tách hộ, các gia đình phải tự tìm nguyên vật liệu để dựng lên
một ngôi nhà sàn mới. Các hộ gia đình có thể tiếp tục ở trong buôn hoặc
chuyển sang sinh sống ở một buôn khác. Ngôi nhà sàn dài truyền thống vẫn
được giữ lại nguyên vẹn. Đặc điểm này khiến cho số lượng nhà sàn ở buôn bị
giảm đi nhiều do nhà sàn cũ bị hư hỏng, hư hại vì không được trùng tu thêm.
Bên cạnh việc phân chia nguyên vật liệu để dựng nhà, người ÊĐê cũng
tiến hành phân chia tài sản sau khi tách hộ. Có những gia đình dùng tài sản
được phân chia, mua một mảnh đất mới để dựng nhà. Nhưng cũng có những
gia đình do điều kiện kinh tế không đủ mà dựng tạm một ngôi nhà nhỏ trên
chính mảnh đất vườn được bố mẹ chia cho.
Về kiến trúc nhà ở, nếu như nhà sàn truyền thống có chiều dài từ vài
chục đến cả trăm mét thì nhà sàn thời định cư có chiều dài trung bình từ 15 -
20 mét, mang nhiều nét mới khác biệt hơn so với nhà sàn truyền thống. Cụ thể
là:
Hướng nhà sẽ được đặt theo hướng quy hoạch có sẵn của lô đất thổ cư,
không nhất thiết phải theo trục Bắc - Nam như nhà truyền thống [18, tr. 112].
36
Nhà có sàn thấp, sân sàn trước ngắn và không có sân sàn sau [9, tr. 97].
Thay vì dùng cửa lùa như trước đây, cửa của nhà sàn mới được thiết kế
để đóng mở với hai cánh, cài trong khóa ngoài.
Mái nhà không dùng mái tranh mà chuyển sang dùng mái ngói hoặc
mái tôn, sàn và vách tre được thay bằng gỗ [9, tr. 97].
Vách nhà thẳng đứng không xiên như vách nhà mái tranh trước đây
[15, tr. 178 – 179]
Diện tích của căn phòng khách được thu nhỏ lại. Chỉ có một gian buồng
sử dụng chung cho cả ngôi nhà, đặt được từ 1-2 chiếc giường ngủ.
Tính thiêng của ngôi nhà bị mất đi gần như hoàn toàn vì không còn
thực hiện các nghi lễ hiến sinh truyền thống cũng như không còn thực hiện
các điều cấm kị trong không gian ngôi nhà [9, tr. 97].
Như vậy, tác động đầu tiên của chính sách định canh định cư của nhà
nước đối với kiến trúc nhà ở của người Ê Đê chính là sự biến đổi từ nhà sàn
dài truyền thống sang nhà sàn hạt nhân.
Xu hướng biến đổi này vẫn tiếp tục diễn ra vài năm sau đó. Cụ thể là
nhà sàn hạt nhân đã không còn đáp ứng được đầy đủ nhu cầu về nhà ở và sinh
hoạt cho người dân, nên "bê tông hóa" đã trở thành xu thế mới trong vấn đề
nhà ở của các buôn làng. Khi các thế hệ thanh niên trẻ lớn lên, họ lập gia đình
và mong muốn ra ở riêng. Ông bà cha mẹ sau khi dựng vợ gả chồng cho con
cái phải tính việc tách hộ, dựng nhà cho con cái ở riêng. Nhưng thời điểm đó,
dân số tăng, quỹ đất hạn chế, điều kiện kinh tế hạn hẹp đã buộc nhiều gia đình
phải dùng chính mảnh đất vườn nhà mình để dựng tạm một ngôi nhà nhỏ cho
con cái ở riêng. Nguyên vật liệu không có, diện tích đất không đủ rộng nên
nhà ván có mái lợp tôn là lựa chọn được người ÊĐê ưu tiên hơn cả.
Vào những năm giữa thập niên 1990, nhà bê tông đã xuất hiện lác đác
trên các buôn làng ÊĐê. Một phần là vì việc sản xuất và kinh doanh cà phê
37
phát triển dẫn đến sự phát triển về kinh tế của người dân. Phần khác là vì sự
giao thoa, tiếp xúc văn hóa của người ÊĐê với người Kinh dẫn đến sự thay
đổi về suy nghĩ, nếp sống, thói quen sinh hoạt. Người dân có những nhu cầu
lớn hơn về nhà ở và việc lựa chọn kiến trúc nhà ở vì ngôi nhà theo kiến trúc
mới chính là cách để thể hiện sự hòa nhập văn hóa của họ. Bên cạnh đó, nhà
sàn truyền thống và nhà sàn hạt nhân đã có những dấu hiệu xuống cấp rõ rệt,
thôi thúc người dân đi theo xu hướng nhà ở mới. Đó là lý do vì sao giai đoạn
năm 2000, xu hướng xây nhà bê tông xuất hiện như một trào lưu trong các
buôn làng ÊĐê ở Buôn Mê Thuột.
Cho đến nay (2019 - 2020), sau gần hai thập kỷ của trào lưu bê tông
hóa, các buôn làng Ê Đê với những mái nhà sàn dài ngày xưa đã có một diện
mạo hoàn toàn mới và thật khó cho những ai lần đầu đặt chân đến buôn có thể
nhận ra đó là buôn làng của người ÊĐê.
Đối với buôn Alê A, nếu như năm 2015 cả buôn còn sót lại hai nhà sàn
thì đến nay, không còn một nhà sàn truyền thống nào còn sót lại trong buôn.
Khi đặt chân đến đây, hình ảnh các ngôi nhà bê tông, nhà xây, nhà cấp bốn
san sát nhau với đường sá, xe cộ đi lại khiến chúng ta hình dung đến một khu
phố huyện ở một tỉnh thành nào đó của người dân tộc Kinh. Mặc dù có một
mái nhà nhìn giống như nhà sàn của người ÊĐê nhưng thực chất không còn
hình ảnh nhà tranh vách nứa như xưa mà thay vào đó là nhà mái tôn, tường
xây bằng gạch xi măng, nền nhà được đổ bê tông hoặc lát gạch đá hoa và lối
cửa lên xuống cũng được làm bậc bê tông.
“Trước đây cô ở nhà sàn này, nhà này bằng tre nứa hết, dài lắm.
Nhưng nó bị hỏng, phải sửa lại bằng gỗ. Sau bị nghiêng hết nên lại sửa lần
nữa. Hồi giải phóng mái tôn bị trúng đạn, mưa gió dột hết không ở được nữa
nên phải sửa lại, mẹ cô lúc đó sắp mất, muốn được ở cái nhà này nên cô phải
vay mượn để sửa sang, xây dựng lại cái nhà này giống như nhà sàn để toại
38
nguyện cho mẹ cô. Giờ không ai ở nhà này, cô thỉnh thoảng qua lau chùi
thôi”. (Phỏng vấn sâu cô H’Nun - Buôn Alê A).
Như vậy, ngôi nhà giống với nhà sàn, còn được giữ lại và khôi phục
theo kiến trúc hiện đại cũng không còn đóng vai trò chính trong cuộc sống
của người dân Alê A. Nó chỉ đơn thuần là một nơi lưu giữ kỉ niệm cho người
dân Alê A thay vì là một ngôi nhà ở như trước đây.
Về phía buôn Êa Bông, vì ở xa trung tâm, kinh tế có phần kém phát
triển hơn, xu hướng đô thị hóa cũng chậm hơn nên chúng ta vẫn bắt gặp hình
ảnh những ngôi nhà sàn dài thấp thoáng trong buôn làng, đan xen cùng với
những ngôi nhà bê tông. Theo thống kê năm 2015, trong buôn có tất cả 26 nhà
sàn thì hiện nay con số này đã giảm gần một nửa, cả buôn chỉ còn lại 15 nhà
sàn. Một số gia đình vẫn sử dụng nhà sàn để ở, một số gia đình khác thì để
làm nơi chứa đồ và xây nhà mới để ở.
“Nhà chị làm hơn 20 năm rồi. Nhà dài 14m. Ngày xưa mái tranh, sau
sửa lại mái tôn hết. Nhà chị có một cái thang đi lên, cũng có một cái bếp thôi.
Nhà truyền thống phải có hai. Nhà có năm người ở. Có người mua nhà sàn
chị cũng không bán. Đất còn rộng, khi nào có tiền xây nhà bên cạnh chứ
không bán nhà. Mưa gió cũng ngại nhưng không có điều kiện để xây.”
(Phỏng vấn sâu chị Eban Hrim – Buôn Êa Bông).
“Nhà cô xây nhà sàn năm 1997. Nhà dài 12 mét, có một cửa lên. Hai
vợ chồng vẫn ở nhà. Sau này nhà hỏng cũng sửa để ở thôi chứ không xây nữa.
Hai nhà bên cạnh là nhà các con. Nhiều nhà có nhà xây rồi, không dùng nhà
sàn nữa nên bán.” (Phỏng vấn sâu cô Enuol H’Yun – Buôn Êa Bông).
“Nhà sàn xây 30-40 năm rồi, từ khi cô còn nhỏ nên nó cũ, hỏng nhiều
lắm rồi. Có nhà bê tông rồi nên nhà sàn chỉ để đồ thôi. Nhà cô bán rồi, không
ở nữa nên bán. Nhà 16 mét bán 70tr cho người ta về người ta xây nhà sàn
39
làm du lịch ấy. Nhà cô có một đứa con gái thôi, nhà bê tông xây to rồi để
cũng không ai ở.” (Phỏng vấn sâu cô Mi Doen – Buôn Êa Bông).
Có thể thấy, những ngôi nhà sàn còn lại ở Êa Bông giờ đây đang thực
hiện nhiều chức năng khác nhau. Nhiều gia đình giữ lại nhà sàn vì họ chưa
biết làm gì với ngôi nhà đó nên để làm nơi chứa đồ, nhiều gia đình khác đang
lên kế hoạch dỡ bỏ nhà sàn lấy đất xây nhà, chỉ còn một số gia đình giữ lại
nhà sàn để ở, tuy nhiên họ cũng đã có một căn nhà xây vững chãi bên cạnh.
Như vậy, nhà sàn vốn là một nét đặc trưng cho không gian cư trú của
tộc người ÊĐê nay đã trở thành một bộ phận nhà ở thiểu số trong không gian
cư trú buôn làng Êa Bông và biến mất hoàn toàn ở buôn Alê A. Việc thay đổi
về loại hình gia đình và kiến trúc nhà ở đã mang đến những hệ quả đáng kể
đối với không gian cư trú buôn làng của người ÊĐê ở Buôn Mê Thuột.
2.3. Hệ quả của biến đổi không gian cư trú
2.3.1. Những thay đổi trong đời sống gia đình
Nét đặc trưng trong không gian cư trú của người ÊĐê là ngôi nhà sàn
dài. Mỗi mái nhà sàn là đại diện cho một gia đình, một dòng họ cùng chung
sống với nhau. Trong đó, gõ esei là người đứng đầu cai quản cả gia đình bao
gồm gia đình nhỏ của người con gái đã kết hôn và những người con trai con
gái còn độc thân. Mỗi người con gái sau khi kết hôn đều làm chủ trong gia
đình nhỏ của mình, tuy nhiên mọi sự sắp xếp, điều khiển đều làm theo lời của
người phụ nữ đứng đầu mỗi bếp, người được gọi là ana gõ. Sau khi nhà nước
cho thi hành chính sách định canh định cư, các hộ gia đình nhỏ trong mái sàn
chung phải tách ra ở riêng. Điều này ít nhiều tạo ra những thay đổi trong mối
quan hệ giữa gõ esei và các ana gõ cũng như thay đổi trong mối quan hệ giữa
ana gõ và những người phụ nữ đã tách ra khỏi bếp chung.
Thay đổi đầu tiên mà tôi muốn nhắc đến ở đây là tính độc lập, tự quản
trong các gia đình bao gồm cả gia đình lớn của ana gõ và gia đình nhỏ mới
40
tách ra của những người phụ nữ khác. Trước đây, khi tất cả cùng chung sống
trong một mái sàn dài, cùng canh tác sản xuất và làm ăn kinh tế, vợ chồng ana
gõ sẽ là người nắm quyền hành trong việc giám sát, sắp đặt, quản lý các sản
phẩm thu được từ việc canh tác chung của cả gia đình [12, tr.285]. Cuộc sống
sinh hoạt và làm việc của họ giống như một cộng đồng nhỏ mà ở đó tinh thần
đoàn kết, cố kết cộng đồng là yếu tố quyết định đến sự phát triển của gia đình
đó, của cộng đồng nhỏ đó. Tuy nhiên, sau khi các hộ gia đình tách ra ở riêng,
họ sống trong một mái nhà riêng, sở hữu khu canh tác sản xuất riêng, trở
thành những đơn vị sản xuất độc lập thì tính tự quản trong mỗi gia đình là
điều tất yếu. Thay vì làm theo mọi quyết định của ana gõ như trước đây,
những gia đình mới giờ đây có thể tự đưa ra các quyết định riêng và làm chủ
cuộc sống riêng của chính họ như: Tự quyết về kiến trúc nhà ở, chuyện học
hành của con cái, việc canh tác và sử dụng đất canh tác, việc quản lý kinh tế
hay các sản phẩm thu được từ quá trình sản xuất, việc thiết lập các mối quan
hệ mới ngoài phạm vi một gõ esei... Tất cả đều do họ làm chủ dựa trên sự
tham khảo ý kiến từ ana gõ và các damdei, đúng như nhận định mà Thu
Nhung Mlo đã đưa ra. Đó là các gia đình nhỏ mới tách hộ là những cá thể,
những tế bào riêng cấu tạo nên buôn làng. Những gia đình này có sự độc lập
về kinh tế, độc lập về nhà ở giống như một đơn vị sản xuất kinh tế độc lập
chứ không còn là một phần tử của gia đình lớn như trước đây [18, tr. 111].
Sự thay đổi này bên cạnh việc tạo nên tính độc lập, tự quản cho các gia
đình mới còn góp phần giúp nhiều người trong gia đình có cơ hội tách ra khỏi
lớp vỏ bọc an toàn mà họ đang sống lâu nay để trưởng thành hơn. Khi sống
trong mái nhà sàn chung, việc mà nhiều gia đình nhỏ cần làm chỉ là nghe và
làm theo mọi sự sắp xếp của người đứng đầu là vợ chồng ana gõ. Giờ đây, khi
phải tách riêng, tự đi trên đôi chân của mình và tự đưa ra các quyết định trong
cuộc sống của mình, nhiều gia đình không tránh khỏi bỡ ngỡ. Những thay đổi
41
trong gia đình và thay đổi của từng thành viên trong gia đình cũng có thể bắt
đầu từ đây. Tuy nhiên, không thể phủ định một điều là việc tách hộ theo chính
sách định canh định cư của nhà nước đã làm một nét mới, thay đổi diện mạo
của một xã hội ÊĐê truyền thống.
Bên cạnh việc nâng cao tính độc lập, tự quản, việc thay đổi loại hình
gia đình cũng dẫn đến sự thay đổi về quyền thừa kế và phân chia tài sản trong
các gia đình. Nói về vấn đề này, trước hết tôi muốn đưa ra một phép so sánh
giữa chế độ phụ hệ của người Kinh với chế độ mẫu hệ của người ÊĐê. Trong
chế độ phụ hệ, quyền thừa kế tài sản được chia cho tất cả những người con
trai trong gia đình, dù là con trai cả hay con trai thứ cũng đều được phân chia
tài sản. Tuy nhiên, người con trai cả có trách nhiệm thờ cúng tổ tiên theo
phong tục truyền thống nên thường được ưu tiên phần nhiều hơn. Trái lại,
trong chế độ mẫu hệ của người ÊĐê truyền thống, quyền thừa kế và sở hữu tài
sản hoàn toàn thuộc về người con gái cả. Người con gái cả sau khi bố mẹ mất
sẽ thực hiện việc cai quản gia đình, tiếp tục giữ gìn và phát triển gia đình mà
bố mẹ đã xây dựng. Nét đặc trưng này có xu hướng thay đổi và dịch chuyển
sau khi thực hiện chính sách định canh định cư. Những người chị lớn trong
gia đình sau khi kết hôn sẽ lần lượt tách ra khỏi mái nhà chung, trở thành
những gia đình độc lập. Người còn ở lại trong nhà sau cùng thường là những
người con trai con gái út còn độc thân chưa lập gia đình. Vì vậy mà quyền
thừa kế toàn bộ tài sản được chuyển sang cho người con gái út. Sau khi cô
con gái út lập gia đình, hai vợ chồng cô sẽ không tách hộ mà tiếp tục ở lại
trong gia đình để phụng dưỡng chăm sóc cho bố mẹ khi họ về già, đồng nghĩa
với việc họ sẽ được kế thừa những tài sản mà tổ tiên để lại. Thậm chí, khi bố
mẹ phân chia đất đai hay tư liệu sản xuất, người con gái út bao giờ cũng được
ưu tiên phần nhiều hơn so với các anh chị trong nhà. Đó là lý do vì sao mà các
42
chàng trai ÊĐê luôn mong muốn được kết hôn với những cô con gái út và trở
thành rể út của những gia đình có nhiều nương rẫy ở vùng Buôn Mê Thuột.
Còn đối với những chàng trai ÊĐê sống trong một xã hội mẫu hệ truyền
thống, xét một phương diện nào đó, họ có phần thiệt thòi hơn so với chị em
trong gia đình. Nói về quyền thừa kế tài sản, trước đây người con trai trong
gia đình mẫu hệ hoàn toàn không được thừa kế bất kì tài sản gì từ bố mẹ và
gia đình. Sau khi họ kết hôn sẽ đến sống ở nhà vợ, tài sản duy nhất họ có thể
mang đi chỉ là những đồ dùng tùy thân tối thiểu như quần áo, chăn và các
công cụ lao động. Tất cả những đồ dùng anh ta sắm sửa khi còn độc thân đều
phải để lại nhà mẹ [11, tr. 346]. Sau này, khi việc phân chia tài sản có xu
hướng thay đổi trên bình diện giới tính thì người con trai trong gia đình bắt
đầu được chú ý đến nhiều hơn. Cụ thể là trong quá trình phân chia tài sản, bên
cạnh việc chia cho các chị em gái trong nhà thì người con trai cũng nhận được
một phần từ bố mẹ, bao gồm cả đất sản xuất. Khi kết hôn, người con trai cũng
được bố mẹ cho một vật mà theo ngôn ngữ của người Kinh, đó là “của hồi
môn” khi lập gia đình. Vật đó có thể là một chiếc xe máy mới hoặc chiếc xe
máy mà anh ta vẫn thường sử dụng. Tuy nhiên, điều ý nghĩa hơn cả đối với
người con trai ÊĐê thời đại mới là việc anh ta sẽ được bố mẹ cho đất xây nhà
sau khi cưới vợ hoặc được sống cùng với bố mẹ trong chính ngôi nhà hiện tại
nếu như gia đình bên vợ thiếu đất hoặc không có đất xây nhà. Sự thay đổi này
có thể nói là một bước đột phá trong gia đình mẫu hệ của người ÊĐê, nó
không còn đơn thuần là sự hỗ trợ, giúp đỡ về mặt vật chất mà là một tín hiệu
hết sức mới mẻ về vấn đề quy định, luật tục, văn hóa truyền thống của cộng
đồng người ÊĐê. Bước ngoặt lớn này có thể xuất phát từ sự tiếp biến văn hóa
của người ÊĐê với văn hóa của người Kinh theo chế độ phụ hệ, cũng có thể
đến từ quan điểm giáo dục của tôn giáo về hôn nhân và gia đình [9, tr. 105].
Tuy nhiên, nhìn ở một góc độ khác, so với người Kinh thì đàn ông ÊĐê không
43
phải đóng vai trò là trụ cột gia đình, không phải mang lễ cưới đi hỏi vợ,
không phải lo nhiều về vấn đề nhà cửa sau hôn nhân đồng nghĩa với việc
trách nhiệm của họ cũng phần nào được giảm nhẹ hơn so với người đàn ông
dân tộc Kinh. Nhìn chung, chế độ mẫu hệ của người ÊĐê vẫn còn giữ lại
những nét truyền thống nhưng đã có sự đan xen với chế độ phụ hệ của người
Kinh và mang hơi hướng của chính sách bình đẳng giới mà Đảng và nhà nước
đề ra.
2.3.2. Những thay đổi về mặt tiếp biến văn hóa
Quá trình di canh di cư đã biến không gian cư trú buôn làng của tộc
người ÊĐê thành không gian cư trú đa tộc người. Người dân tộc Kinh và các
dân tộc khác nhập cư về đây sinh sống, canh tác và sản xuất đã làm cho người
ÊĐê trở thành nhóm thiểu số so với các dân tộc khác trên chính buôn làng
truyền thống của mình. Dân tộc Kinh nhập cư về đây ngày càng nhiều và
chiếm tỷ lệ vượt trội hơn hẳn so với dân tộc ÊĐê dẫn đến sự tiếp biến văn hóa
Kinh - ÊĐê diễn ra tự nhiên như một quy luật tất yếu. Việc hai dân tộc khác
nhau sống đan xen cùng nhau trên một không gian cư trú khiến họ tương tác
với nhau, có sự học hỏi, tiếp thu, tác động qua lại lẫn nhau. Nhóm này tiếp
nhận những giá trị mới, những tinh hoa của nhóm kia và biến nó thành nét
văn hóa mới cùng mình, lâu dần họ quen với nền văn hóa tiếp biến ấy và thực
hiện nó như một thói quen trong đời sống sinh hoạt hàng ngày của mình.
Về mặt ẩm thực, sự hòa quyện ẩm thực giữa hai tộc người Kinh – ÊĐê
đã xuất hiện rất rõ nét trong bữa cơm hàng ngày của người ÊĐê. Thay vì chỉ
có hai món ăn cơ bản là: cơm và một món thức ăn như trước đây, giờ đây
người ÊĐê đã biết cách làm phong phú bữa ăn của mình với các món ăn mới
được chế biến cầu kỳ hơn với nhiều kỹ thuật nấu nướng hơn như chiên, xào,
nấu, nướng, rán… Bữa cơm của người ÊĐê cũng có cơm, món canh, món
mặn và một bát nước chấm như người Kinh. Đặc biệt là đối với những
44
nguyên liệu truyền thống của dân tộc mình như lá mì, cà đắng,… người ÊĐê
đã biết chế biến nó theo cách nấu của người Kinh, tạo thành những món ăn
mang tính đặc sản vùng miền, khiến cho du khách đến đây phải cảm thấy ấn
tượng và nhớ đến món canh cà đắng và lá mì xào của người ÊĐê như nhớ về
món ăn truyền thống của dân tộc họ. Ngoài ra, trước đây khi cả làng có lễ lớn
như đám tang, lễ bỏ mả, đám hỉ, lễ thôi nôi, lễ kết nghĩa… cả làng sẽ giết
trâu, bò, lợn, gà tập trung ăn uống cùng nhau. Qua đó người ÊĐê cũng học
thêm được những kĩ thuật chế biến đồ ăn của người Kinh. Ngày nay, những lễ
đó ít được diễn ra hoặc diễn ra với quy mô nhỏ hơn, người ÊĐê cũng có xu
hướng đặt món ăn từ nhà hàng của người Kinh hoặc đặt tiệc ở nhà hàng. Đến
với Buôn Mê Thuột, chúng ta có thể cảm nhận rõ rệt về sự đa dạng trong văn
hóa ẩm thực vùng miền. Món ăn miền Bắc, miền Trung, miền Nam đều hội tụ
đủ ở đây. Tuy nhiên, những món đặc sản truyền thống vẫn làm nên nét riêng
đặc sắc không thể hòa lần cho ẩm thực vùng này. Sự hòa nhập văn hóa này
không chỉ diễn ra trên phương diện ẩm thực mà nó còn diễn ra trên nhiều
phương diện khác, thể hiện trong chính những cách nhìn, cách nghĩ, cách
hành động của người dân ở buôn ÊĐê.
“Bây giờ đám cưới sẽ tổ chức theo phong tục truyền thống ở nhà, sau
đó lại tiếp tục đi ra nhà hàng, cô dâu chú rể mặc vest và váy cưới, tổ chức và
ăn uống ở đó lần nữa, giống như phong tục của người Kinh.” (Cô Hương –
Trưởng buôn Alê A).
Về mặt trang phục, hiện nay hầu hết người ÊĐê đều chuyển sang mặc
trang phục mới, giống như trang phục của người Kinh. Chỉ trừ những người
già vẫn còn giữ lại một vài nét nhỏ trong trang phục truyền thống, chẳng hạn
như mặc một cái váy dài đến mắt cá chân, nhưng bên trên mặc áo sơ mi hoặc
áo phông giống như người Kinh. Trang phục truyền thống chỉ được sử dụng
trong những dịp đặc biệt như lễ cưới, lễ hội, hay biểu diễn văn hóa truyền
45
thống vào những sự kiện đặc biệt cho buôn làng hoặc nhà nước tổ chức. Nói
về vấn đề trang phục, người dân trong buôn cũng bày tỏ quan điểm cá nhân
của mình:
“Mặc quần áo truyền thống rất nóng, không thoải mái và sinh hoạt
hằng ngày cũng bất tiện. Từ khi em sinh ra đã không còn thấy mọi người mặc
đồ truyền thống nữa rồi.” (Phỏng vấn sâu em H’Loan – Buôn Êa Bông).
“Thời tiết thì nóng bức, lại phải làm việc nặng nhiều nên không mấy ai
mặc đồ ngày xưa nữa. Cứ đồ nào thoải mái thì mặc thôi. Mà quần áo của
người Ê Đê giờ mua cũng đâu có rẻ đâu em, mắc lắm!” (Phỏng vấn sâu chị
H’Dliu – Buôn Êa Bông).
Sự thay đổi về trang phục không chỉ đến từ vấn đề kinh tế mà nó còn
nằm ở sự phù hợp trong nhu cầu của mỗi người. Người dân không còn diện
những trang phục truyền thống là bởi họ muốn hướng đến sự thoải mái và tiện
lợi trong đời sống sinh hoạt hàng ngày.
Về mặt tiếp biến tín ngưỡng, điểm đáng chú ý nhất phải kể đến là tục
thờ cúng tổ tiên. Theo văn hóa truyền thống của người ÊĐê, sau khi có đi
người thân mất đi, họ sẽ giữ mã từ 1-3 năm rồi sau đó làm lễ bỏ mả, cắt đứt
hoàn toàn quan hệ với người đã mất. Nhưng giờ đây, người ÊĐê đã học được
tục thờ cúng của người Kinh, trong nhà lập bàn thờ để tưởng nhớ đến người
đã mất và hằng năm cũng làm giỗ cho người đã mất, kể cả sau khi họ đã làm
lễ bỏ mả. Có thể coi là một trong những biểu hiện giao thoa văn hóa tiêu biểu
nhất giữa người ÊĐê và người Kinh.
Với vị thế là thành phố trung tâm của Đắk Lắk và Tây Nguyên, ngay từ
trước 1975, thành phố Buôn Ma Thuột đã được chú trọng đầu tư. Sau 1975,
thành phố này đã có những bước chuyển mạnh mẽ, bước vào thời kì phát triển
sôi động và nhanh chóng trở thành thủ phủ hành chính – kinh tế của toàn
vùng. Chính bối cảnh ấy đã tạo nên một diện mạo đa dạng, mới mẻ với những
46
sự thay đổi về nhiều mặt của thành phố này, đặc biệt là sự thay đổi về không
gian cư trú. Sau chương trình định canh, định cư của nhà nước, không gian cư
trú truyền thống của người ÊĐê ở Buôn Mê Thuột đã có những sự thay đổi
gần như chưa từng có trong lịch sử: Gia đình mẫu hệ mở rộng được chia tách
ra thành các gia đình hạt nhân nhỏ, tính đơn tộc được thay bằng hình thức cư
trú đa tộc, nhà sàn dài truyền thống dần được thay bằng những ngôi nhà bê
tông, nhà xây theo kiến trúc hiện đại. Bên trong một không gian cư trú với
kiến trúc mới, những nếp sống và thói quen sinh hoạt cũng dần có sự giao
thoa giữa Kinh – ÊĐê, từ đó quan hệ giữa các thành viên trong gia đình hay
các gia đình trong dòng tộc cũng có sự thay đổi theo hướng độc lập, tự chủ, tư
hữu và đề cao vai trò cá nhân hơn. Quá trình biến đổi nhanh chóng về nhiều
mặt này đã đặt ra nhiều vấn đề nghiêm trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến văn hóa
truyền thống mang tính tộc người như rừng thiêng, bến nước dần mất đi,
những ngôi nhà sàn dài truyền thống cũng thưa thớt dần và đứng trước nguy
cơ mai một. Tất cả đều đặt ra những vấn đề cấp bách cần được giải quyết
nhằm bảo tồn không gian cư trú truyền thống cũng như không gian văn hóa
của tộc người ÊĐê ở Buôn Mê Thuột.
47
Chương 3. Xu hướng và vấn đề đặt ra từ quá trình biến đổi không gian
cư trú buôn làng ÊĐê truyền thống
3.1. Các xu hướng biến đổi
3.1.1. Xu hướng bảo tồn kết hợp hiện đại hóa
Mặc dù hiện nay, không gian cư trú của các buôn làng ÊĐê đã có nhiều
thay đổi, nhà sàn truyền thống đang mất dần và được thay thế bằng các loại
hình nhà ở hiện đại như nhà xây cấp bốn, nhà tầng nhưng không gian cư trú
buôn làng ÊĐê đang được bảo lưu trong một chừng mực nhất định để duy trì
các giá trị văn hóa truyền thống.
Ở buôn Alê A, mặc dù nhà sàn dài truyền thống hiện không còn, nhưng
một số hộ gia đình đã có xu hướng sửa chữa lại nhà sàn trên cơ sở giữ nguyên
kiến trúc cũ và thay đổi vật liệu xây nhà để nâng cao tuổi thọ của mái nhà sàn.
Theo cô H’Nun chia sẻ, nhà sàn của gia đình cô được xây dựng từ trước năm
1975. Cô sống cùng bố mẹ và các anh chị em trong ngôi nhà sàn ấy. Do ảnh
hưởng của chiến tranh, mái nhà bị hư hỏng nặng, gia đình cô đã tu sửa lại
bằng cách lợp mái tôn. Tuy nhiên, thời gian qua đi, ngôi nhà sàn cũ dần và
buộc phải lựa chọn giữa việc tu sửa toàn bộ để tiếp tục ở hay xây dựng nhà
mới. Vì muốn cho bố mẹ được sống trong ngôi nhà mà gia đình đã gắn bó cả
cuộc đời, gia đình cô quyết định tu sửa lại nhà một lần nữa. Lần này, ngôi nhà
sàn mặc dù sử dụng vật liệu là xi măng, bê tông, nền nhà đá hoa nhưng kiến
trúc ngôi nhà vẫn được giữ nguyên vẹn, các cột trụ chính và xà ngang cũng
vẫn được làm bằng gỗ. Sau khi bố mẹ cô mất đi, gia đình cô đã có nhà bê tông
bên cạnh nhà sàn, nhà sàn không có ai ở nhưng gia đình cô vẫn quyết định giữ
lại ngôi nhà như giữ lại những kỉ niệm đẹp mà cả nhà đã sống cùng nhau
những năm tháng qua, đồng thời cũng là giữ lại một phần nhỏ nét văn hóa
truyền thống của người đồng bào mình qua mái nhà sàn ấy.
48
Bên cạnh việc tu sửa nhà cũ để giữ gìn văn hóa truyền thống, một số hộ
gia đình khác trong buôn Alê A cũng đã và đang hướng đến phương án xây
dựng nhà sàn với mục kinh doanh, phục vụ du lịch cộng đồng, cũng chính là
quảng bá văn hóa truyền thống của buôn mình, đồng bào mình. Hai anh em
anh H’Sieng cùng với bố mẹ mình quyết định xây dựng một ngôi nhà sàn mới
hoàn toàn, vật liệu 100% từ gỗ với mục đích kinh doanh du lịch cộng đồng.
Theo chia sẻ của gia đình, họ dự định sẽ tổ chức biểu diễn văn hóa truyền
thống như đánh cồng chiêng, uống rượu cần, chế biến các món ăn đặc sản của
người dân tộc Ê Đê trong nhà sàn. Phía dưới nhà sàn dùng làm quán cà phê và
karaoke. Kết hợp cả hai hình thức truyền thống và hiện đại, để phục vụ khách
du lịch tùy thuộc vào nhu cầu của du khách. Tính đến thời điểm hiện tại, ngôi
nhà đã hoàn thành và chi phí ước tính khoảng hơn 2 tỷ đồng.
Ngoài ra, buôn đã cho tu sửa lại nhà văn hóa thôn theo kiến trúc nhà
sàn. Tuy không phải nhà sàn truyền thống bằng gỗ như xưa nhưng kiến trúc
nhà sàn vẫn góp phần gợi lại những hình ảnh quen thuộc về một không gian
cư trú truyền thống của người dân. Mỗi dịp đặc biệt như ngày Phụ nữ Việt
Nam, ngày Thương binh liệt sĩ, ngày gia đình… người dân trong buôn sum
họp ở nhà văn hóa, cùng tổ chức các sự kiện đặc biệt cũng là cách để họ nhìn
lại những thay đổi của buôn làng mình, trân trọng những gì của quá khứ, của
truyền thống và ý thức về việc bảo tồn nó cho đến hiện tại và tương lai.
Khác với Alê A, buôn Êa Bông vẫn còn giữ lại được một số lượng nhà
sàn nhất định là 15 nhà sàn. Qua khảo sát, có một điểm rất đáng chú ý ở Êa
Bông đó là một bộ phận người dân vẫn đang nỗ lực duy trì nhà sàn truyền
thống mặc dù xung quanh có ngày càng nhiều những ngôi nhà xây, nhà cấp
bốn mọc lên. Điển hình là gia đình cô H’Vin. Nhà cô hiện tại đang có một
ngôi nhà sàn, xây dựng năm 1997. Sau khi các con cô lập gia đình, xây nhà bê
tông bên cạnh để ở thì chỉ còn hai vợ chồng cô sống ở nhà sàn. Hiện tại, nhà
49
sàn đã khá cũ, có nhiều người muốn mua lại nhà sàn, các con cô cũng muốn
bán nhà sàn, đón bố mẹ sang ở cùng nhưng vợ chồng cô không đồng ý. Sống
ở nhà sàn nhiều năm quen rồi, nên nếu nhà hỏng đâu thì sẽ sửa đó để ở chứ
không bán nhà. Hay như gia đình của chị H’ Luôn, mặc dù gia đình chị đã có
nhà cấp bốn bên cạnh nhưng hầu hết thời gian vẫn sống và sinh hoạt ở nhà
sàn, chỉ khi nào trời mưa lớn mới sang nhà cấp bốn để ngủ vì nhà sàn cũng đã
cũ và dột nhiều. Dự định của chị khi có tiền là tu sửa lại nhà sàn để ở tiếp chứ
không bán nhà.
Một bộ phận khác góp phần tạo nên xu hướng bảo tồn, lưu giữ lại
những truyền thống văn hóa của dân tộc chính là lớp người cao tuổi trong
buôn. Ông A’Thu là một nghệ nhân đã từng chơi cồng chiêng tại các sự kiện
lớn của tỉnh, của thành phố. Nhóm của ông gồm có 6 người, cùng nhau tham
gia những sự kiện văn hóa văn nghệ lớn nhỏ khắp vùng, nhưng hiện tại ba
người đã mất. Chỉ còn lại ba người nên nhóm đã tan rã. Vì một long muốn lưu
giữ lại nét văn hóa truyền thống này, ông đã tổ chức dạy chơi nhạc cụ dân tộc
cho các em bé ở trong buôn. Nhóm ông dạy có khoảng hơn 10 bé, học tại nhà
văn hóa của buôn. Qua việc dạy nhạc cụ, ông còn dạy cho các bé hiểu về văn
hóa của đồng bào mình, dạy cho các bé biết giữ gìn những giá trị văn hóa
truyền thống và giúp các bé hiểu được ý nghĩa của việc chơi nhạc cụ trong
chính ngôi nhà truyền thống của đồng bào mình.
Như vậy, mặc dù không giữ lại được nguyên vẹn toàn bộ cấu trúc nhà
sàn dài cũ nhưng xét trên phương diện tích cực thì không gian cư trú buôn
làng, cụ thể là nhà sàn vẫn giữ lại những yếu tố, biểu tượng cơ bản của không
gian cư trú truyền thống.
3.1.2. Xu hướng giải thể
Giải thể nhà sàn truyền thống là một xu hướng biến đổi rõ nét không
thể không nhắc đến khi nói về sự biến đổi không gian cư trú buôn làng ÊĐê.
50
Nhà sàn dài từ chỗ là loại hình kiến trúc duy nhất nay chỉ còn chiếm một tỷ lệ
rất thấp trong tổng thể nhà ở của các buôn. Trong nghiên cứu này, việc lựa
chọn một buôn cận trung tâm là Alê A và một buôn xa trung tâm là Êa Bông
cũng chính nhằm mục đích cho thấy sự khác biệt, liên quan trực tiếp đến tốc
độ đô thị hóa vùng.
Khi đến với Alê A, chúng ta sẽ không thể nhận ra đây là một buôn của
người dân tộc ÊĐê khi nhìn vào tổng thể không gian cư trú và kiến trúc của
buôn làng. Nhà tầng, nhà bê tông, nhà lợp mái Thái với tường, cổng, sân vườn
khang trang mang đến cho người xem một cảm giác như đang đứng giữa một
khu thị trấn của người Kinh. Và đặc biệt, nếu không có người giới thiệu thì sẽ
rất khó để chúng ta có thể tìm thấy một ngôi nhà sàn dù chỉ là mang kiến trúc
nhà sàn hay còn gọi là nhà sàn hiện đại. Nếu không có mục đích kinh doanh,
phát triển du lịch thì hầu hết người dân đều đi theo xu hướng mới là nhà xây,
nhà bê tông, nhà tầng với đầy đủ tiện nghi.
Không gian cư trú cũng có sự chuyển đổi từ không gian đơn tộc sang
không gian cư trú đa tộc. Người bản địa, người nhập cư, người dân tộc khác
kết hôn với người bản địa tạo nên một không gian tổng thể đa chiều, phức
hợp. Đến Alê A, ngoài kiến trúc nhà ở thì không gian tổng thể hai bên trục
đường chính cũng sẽ khiến chúng ta không khỏi ngạc nhiên. Các hiệu sửa xe,
các quán ăn sáng, các cửa hàng tạp hóa, hiệu cắt tóc dày đặc hai bên trục
đường chính khiến chúng ta khó mà cảm nhận được đang ở một buôn ÊĐê.
Buôn Êa Bông dù còn giữ được nhiều nhà sàn hơn, nhưng một xu
hướng biến đổi rất đáng lưu ý là các hộ gia đình ở đây bán nhà sàn. Bên cạnh
một bộ phận nhỏ những người dân nỗ lực lưu giữ giá trị văn hóa truyền thống
thì cũng có một bộ phận lớn người dân hướng đến những nhu cầu cuộc sống
cao hơn, chất lượng cuộc sống tốt hơn bằng cách bán nhà sàn. Một số người
51
dân bán nhà sàn với mục đích xây dựng một ngôi nhà mới khang trang, vững
chãi hơn. Một số người khác bán vì không có nhu cầu sử dụng nhà sàn nữa.
Như trường hợp của nhà bà Mi Lan, bà muốn bán nhà sàn vì nhà sàn
hiện tại rất cũ, nếu sửa sang lại nhà thì chi phí rất cao, tốn kém và kinh tế gia
đình bà không đủ để lo được việc đó. Nếu như bán nhà sàn, gia đình sẽ có một
khoản kinh phí lớn, đủ xây dựng một ngôi nhà mới để cả gia đình có thể yên
tâm hơn mỗi khi mưa khi nắng.
Hay như gia đình chị H’Jung, hiện tại có một ngôi nhà sàn dài khoảng
20m và một ngôi nhà mái bằng xây dựng cách đây 3 năm. Gia đình chị có ba
người, hai vợ chồng và một cô con gái đều đang sống ở nhà mới xây. Còn nhà
sàn hiện tại chỉ để không, bên dưới chăn nuôi gia súc. Chị H’Jung chia sẻ, chỉ
có một đứa con gái thì sau này đã có nhà xây rồi, còn nhà sàn để đó cũng
không ở không dùng đến nên bán đi lấy tiền làm ăn kinh tế và lấy đất vườn
trồng trọt, chăn nuôi.
Có thể thấy, trước khi nghĩ về việc giữ gìn những giá trị văn hóa truyền
thống thì người dân vẫn ưu tiên hơn đến cuộc sống của gia đình họ, vì đó là
cách để họ có thể cân đối, cải thiện và nâng cao cuộc sống cho không chỉ họ
mà còn con cái, những thành viên trong gia đình họ. Dù vậy thì chúng ta vẫn
rất cần có những phương án để có thể duy trì hay giữ lại một phần dù rất nhỏ
của những giá trị văn hóa truyền thống. Bởi lẽ, nhà sàn không còn thì các giá
trị văn hóa như các buổi lễ hiến sinh trong không gian nhà sàn dài sẽ bị mai
một khi con người tiếp thu những nền văn hóa mới và không chịu sự ràng
buộc của một loại văn hóa truyền thống duy nhất.
3.2. Vấn đề đặt ra từ sự biến đổi
3.2.1. Nhu cầu bảo tồn không gian cư trú truyền thống
Nói về bảo tồn không gian cư trú, phải khẳng định một điều là người
dân ÊĐê có nhu cầu bảo tồn giá trị truyền thống của dân tộc mình nhưng lại
52
chưa có định hướng rõ ràng nên nhu cầu đó chỉ là ý niệm, là nguyện vọng và
được thể hiện một cách rời rạc, thiếu hệ thống giữa một không gian mà nhà
xây đang chiếm tỷ lệ áp đảo.
Ở Alê A, gia đình cô H’Nun muốn giữ lại nhà sàn vì đó là kỉ niệm, là
ngôi nhà mà cô đã sinh sống cùng bố mẹ, anh chị em. Nó đã đi cùng gia đình
cô từ thời chiến tranh cho đến thời đất nước được hòa bình, đã trải qua biết
bao lần tu sửa, đã lưu giữ kỉ niệm của cả gia đình khi mà bố mẹ cô còn sống.
Một phần khác, cô cũng muốn giữ lại hình ảnh ngôi nhà sàn quen thuộc trước
khi buôn bị phủ kín bởi nhà tầng, nhà xây. Hay bản thân bà H’Vai, một người
già đã gắn bó với buôn gần cả cuộc đời, luôn canh cánh những hoài niệm về
thời cả làng còn nhà sàn, còn cùng nhau sinh hoạt văn hóa, tổ chức những lễ
nghi truyền thống. Giờ đây, điều duy nhất bà có thể làm là chứng kiến sự thay
đổi của buôn làng, chứng kiến một diện mạo mới hoàn toàn khác biệt so với
trước đây. Thậm chí bản thân bà cũng sống trong một ngôi nhà xây vì nhà sàn
đã quá cũ và không có chi phí để tu sửa. Điều đó cho thấy, bản thân những
người ÊĐê luôn có nhu cầu về việc lưu giữ lại giá trị truyền thống nhưng họ
đơn độc trong suy nghĩ và bất lực trong hành động bảo tồn vì thiếu nguồn
lực.
Thực tế này cũng là điều mà những người dân ở buôn Êa Bông đang
gặp phải. Những người năm nay đã ngoài 60-70 tuổi, đã gắn bó với buôn làng
cả cuộc đời, những người mà hình ảnh mái nhà sàn, bến nước đã in sâu vào
tâm trí của họ. Tất cả họ đều muốn giữ lại hình ảnh nhà sàn, để cho con cháu
họ được chứng kiến, cảm nhận và hiểu về cuộc sống của tổ tiên, của dân tộc Ê
Đê. Cô H’Jung chia sẻ: “Trước đây các nghi lễ được tổ chức ở nhà sàn, không
có nhà sàn thì lấy nơi nào để tổ chức nghi lễ. Phải có các nghi lễ thì con cháu
mình mới hiểu được về dân tộc mình, cả làng mới đồng lòng được”. Có lẽ,
bởi vậy mà nhà sàn dù cũ và đã bị hỏng ít nhiều, vợ chồng cô cũng sửa tạm để
53
ở chứ quyết không bán nhà. Dù thực sự muốn giữ lại được ngôi nhà, giữ lại
truyền thống để dạy cho con cháu hiểu về dân tộc mình nhưng cô H’Jung
cũng không thể khuyên các gia đình khác cũng giữ nhà sàn như mình vì suy
nghĩ và nhu cầu của mỗi người khác nhau. Thậm chí như cô H’Duyen, khi
được hỏi về mong muốn, bản thân cô vẫn muốn buôn làng cùng nhau sinh
hoạt và tổ chức lễ nghi trong không gian nhà sàn nhưng gia đình cô đã bán
nhà sàn vì nó đã quá cũ, không thể ở và cũng không có nhu cầu sử dụng nữa.
Như vậy, giữa việc có nhu cầu và làm gì để đáp ứng nhu cầu đó lại một lần
nữa là hai câu chuyện khác nhau được đặt ra ở buôn Êa Bông.
Đối với người dân ÊĐê, tuy không phải là tất cả nhưng hầu hết người
dân bản địa vẫn quan tâm đến việc bảo tồn các giá trị truyền thống của dân
tộc nhưng bản thân họ lại không biết phải làm gì để bảo tồn, và cứ thế các
hoạt động xây nhà, bán nhà sàn tiếp tục diễn ra để phục vụ nhu cầu cuộc sống
thiết yếu của mọi người. Còn nhu cầu về bảo tồn dường như chỉ còn trong suy
nghĩ của mọi người khi nghĩ về hay khi nhắc đến.
3.2.2. Sự thay đổi quá nhanh của không gian cư trú truyền thống
Như chúng ta đã biết, Buôn Ma Thuột là một đô thị nằm trên một vùng
địa sinh thái, địa văn hóa khác với những đô thị vùng xuôi như Hà Nội, Hồ
Chí Minh hay Đà Nẵng. Có thể nói Buôn Ma Thuột giống như một đô thị
rừng vì nó nằm ở vùng núi rừng Tây Nguyên và rừng chính là một nét đặc
trưng của vùng đô thị này. Nói đến Buôn Ma Thuột, có lẽ nhiều người sẽ hình
dung đến một thành phố đậm đà sắc màu cao nguyên với những ngôi nhà sàn
dài bằng gỗ nằm cạnh bến nước, các khu rẫy và thảng hoặc bắt gặp những vạt
rừng còn sót lại. Nhưng giờ đây khi đến với Buôn Ma Thuột, hình ảnh mà
chúng ta nhìn thấy là một thành phố hiện đại với những ngôi nhà cao tầng,
phố xá, người xe đi lại tấp nập, các trung tâm kinh doanh buôn bán sầm uất.
Đến với các buôn làng ÊĐê vùng trung tâm thì thấy hình ảnh những ngôi nhà
54
xây, nhà cấp bốn san sát nhau và nhà sàn là một hình ảnh thật hiếm gặp. Hay
khi đi xa hơn để tới các buôn xa trung tâm thì lại bắt gặp hình ảnh những ngôi
nhà sàn bị lu mờ, lạc lõng trong tổng thể không gian kiến trúc mà nhà xây
chiếm vai trò chủ đạo còn dấu ấn rừng thì hầu như không còn nữa. Tiến trình
quy hoạch đô thị hóa ở Buôn Ma Thuột quá chú trọng đến các không gian bề
thế, hiện đại đang ảnh hưởng nghiêm trọng đến không gian cư trú truyền
thống, làm mất đi giá trị văn hóa và nét đặc trưng vốn có của một khu đô thị
rừng giữa vùng núi Tây Nguyên.
Bên cạnh đó, quá trình tiếp biến văn hóa Kinh – ÊĐê cũng làm thay đổi
tư duy và cách nghĩ của người bản địa về không gian cư trú lâu đời của mình.
Nhà xây của người Kinh khang trang, chắc chắn và nhiều tiện ích đã thu hút
người ÊĐê tìm hiểu và áp dụng loại hình nhà ở mới này vào cuộc sống của
họ. Ban đầu là những mái nhà cấp bốn lợp mái tôn, lâu dần là nhà mái bằng
đổ bê tông và ngày càng nhiều những nhà tầng mọc lên. Và cứ như thế, nhà
sàn ngày càng ít đi và dần trở nên hiếm gặp ở những buôn làng mà trước đây
nhà sàn là mô hình kiến trúc chung của tất cả mọi nhà. Tiếp biến văn hóa,
người dân ÊĐê thay đổi nhà ở và nhu cầu cuộc sống của họ cũng thay đổi
theo. Họ dần hướng đến sự tiện lợi và hiện đại, thay vì lấy nước ở bến nước
như trước đây thì giờ đây, người dân sử dụng nước máy, nước giếng khoan
nên bến nước cũng dần trở nên xa lạ và bị bỏ lại phía sau trong quá trình phát
triển của buôn làng.
Ở buôn Alê A, bến nước chỉ còn tồn tại trong đầu mỗi người dân như
một hoài niệm. Khi tìm đến bến nước mà trước đây, hầu hết người dân đều
lấy nước sinh hoạt ở đó, tôi chỉ thấy hình ảnh của một con suối với những cái
túi nilon nổi lềnh bềnh trên mặt nước hay những cành cây khô nằm vắt ngang
suối khi bị mắc vào những tảng đá. Mặc dù buôn đang có kế hoạch xin ngân
sách của thành phố để khôi phục lại bến nước nhưng rồi ai sẽ là người đến đó
55
lấy nước và sử dụng nước ở đó khi mà mọi nhà đều đã có nguồn nước giếng
khoan cho mình? Nhu cầu sử dụng không có, nhu cầu tâm linh không nhiều,
thế thì liệu rằng bến nước đó sẽ tồn tại như thế nào sau khi được phục dựng
lại? Hay ở Êa Bông, bến nước vẫn còn đó, lễ hội bến nước vẫn được tổ chức
nhưng mức độ đã thưa thớt dần. Trước đây người dân tổ chức lễ hội bến nước
mỗi năm một lần nhưng hiện tại tổ chức hai năm một lần. Lần gần nhất tổ
chức lễ hội bến nước là vào năm 2018 và năm nay là năm 2020 nhưng người
dân chưa có kế hoạch gì về việc tổ chức lễ hội này. Liệu rằng lễ hội truyền
thống này sẽ diễn ra thêm được bao nhiêu lần nữa, nó sẽ được duy trì thế nào
khi một ngày nào đó những già làng đi đầu trong việc duy trì lễ hội không
còn?
Chính vì lẽ đó, thế hệ trẻ đang đứng trước nguy cơ không còn thấy
được những nét văn hóa truyền thống, ngôi nhà truyền thống mà cha mẹ, ông
bà mình đã từng sống. Vô tình, một phần lịch sử về dân tộc, về buôn làng bị
mai một đi trong mắt người trẻ. Sự thấu hiểu về giá trị lõi của lịch sử, của
phong tục truyền thống cũng dần mất đi. Những cơ hội được chứng kiến và
tham gia những lễ hội truyền thống đặc sắc của buôn làng, của vùng miền
ngày càng ít dần và sẽ mất hẳn nếu không có biện pháp bảo tồn. Bởi lẽ đó,
vấn đề về bảo tồn là một điều hết sức cấp thiết và cần được quan tâm.
3.2.3. Thiếu sự liên kết giữa nhà nước và cộng đồng trong vấn đề bảo tồn
Công bằng mà nói, chính quyền các cấp ở thành phố Buôn Ma Thuột
đã có những nỗ lực nhất định nhằm bảo tồn văn hoá truyền thống của người
ÊĐê. Tuy nhiên, các giải pháp bảo tồn lại chủ yếu xuất phát từ cách nhìn của
cán bộ người Kinh. Lấy văn hóa người Kinh làm chuẩn, chưa có sự suy xét về
tính phù hợp của chính sách đó đối với người ÊĐê và văn hóa ÊĐê. Những
chính sách đưa xuống dưới các buôn làng chưa thực sự được xem xét, đánh
56
giá xem người ÊĐê có thật sự cần hay không và điều đó có quan trọng hay
không?
Ở buôn Alê A, chính quyền đã cho xây dựng lại nhà văn hóa của buôn
làm nơi tổ chức các hoạt động sinh hoạt của buôn. Chủ thể tiếp nhận giá trị
này là người dân trong buôn nhưng họ lại không nhận được sự tham khảo ý
kiến hay bất kì sự bàn bạc nào về việc xây dựng từ phía chính quyền. Từ khâu
thiết kế đến khâu xây dựng như kiến trúc, vật liệu xây dựng, hay mục đích, kế
hoạch sử dụng người dân đều không được tham gia đóng góp ý kiến. Thậm
chí đơn vị thi công cũng là do người Kinh thực hiện. Sau khi xây dựng xong
nhà sàn đó, chính quyền bàn giao lại cho người dân. Điều này thể hiện sự
thiếu tôn trọng tiếng nói của người trong cuộc, cũng bởi thế mà người dân
không mặn mà với nhà văn hóa đó. Đó được dùng làm nơi diễn ra các hoạt
động chung của buôn nhưng người tham gia chỉ là một số đối tượng có liên
quan trực tiếp.
Còn ở buôn Êa Bông, tình trạng bán nhà sàn và xây nhà bê tông đang
diễn ra ồ ạt. Tất cả các hoạt động đều diễn ra tự phát tùy vào nhu cầu và mục
đích sử dụng của người dân. Họ bán nhà vì không có nhu cầu sử dụng nữa,
hoặc họ bán nhà để lấy tiền xây một ngôi nhà mới chắc chắn hơn. Chính
quyền không có tác động gì đến người dân và và người dân cũng không có sự
dẫn dắt, chỉ đạo hay một định hướng rõ ràng nào từ phía chính quyền nên tất
cả những gì họ có thể là làm những quyết định mang tính tự phát. Thực tế này
đang cho thấy một mối liên hệ rời rạc, thiếu tính liên kết, chia sẻ giữa chính
quyền nhà nước với cộng đồng dân cư.
3.3. Đề xuất nhằm quy hoạch và bảo tồn
3.3.1. Nâng cao nhận thức về vai trò của không gian cư trú truyền thống
Trong đời sống của người ÊĐê ở Tây Nguyên, nhà sàn chính là nguồn
cội, là nơi che chở cho các gia đình qua nhiều thế hệ và cũng là nơi lan tỏa
57
văn hóa cộng đồng. Bởi vậy, việc bảo tồn và phục dựng lại những ngôi nhà
sàn dài để góp phần bảo tồn kiến trúc văn hóa truyền thống nói chung và
không gian cư trú buôn làng của người ÊĐê nói riêng là một việc làm hết sức
quan trọng và cần thiết. Nâng cao nhận thức của người dân về vai trò của
không gian cư trú truyền thống là việc làm cấp thiết cần được triển khai.
Sở dĩ người dân tự xây cất nhà của mình theo hướng “Kinh hóa”, “bê
tông hóa” là vì họ chưa có những định hướng cụ thể để có thể quy hoạch một
cách bài bản, có hệ thống và hơn hết là họ chưa thật sự nhận thức rõ được vai
trò của nhà sàn trong đời sống hiện đại. Bởi vậy, chính quyền các cấp cần có
những phương hướng, biện pháp cụ thể để cho người dân thấy rõ được vai trò
của nhà sàn. Nhà sàn không những là không gian thực hành, nuôi dưỡng, trao
truyền những giá trị văn hóa tộc người mà nó còn là hồn cốt, là linh hồn của
buôn làng ÊĐê mà họ đang sinh sống. Nếu không có nhà sàn, điều gì có thể
làm nên nét đặc biệt cho buôn làng? Điều gì có thể khiến cho người khác
nhận ra đó là một buôn làng ÊĐê?
Kể những câu chuyện về buôn làng, người trước kể cho người sau, cha
mẹ kể cho con, ông bà kể cho cháu, người dân làng cùng kể cho nhau nghe và
động viên nhau giữ nhà sàn, giữ lấy hồn cốt của người ÊĐê cũng là cách để
các thế hệ trước có thể truyền lửa, tiếp sức cho thế hệ sau cùng lưu giữ bản
sắc văn hóa của dân tộc mình. Giống như ông Khăm Phết chia sẻ: “Bảo tồn
những nét đẹp văn hóa luôn được ông quan tâm, nhất là những ngôi nhà dài -
nét đẹp văn hóa người của buôn làng Tây Nguyên. Trong ngôi nhà dài thường
có chiếc ghế K’pan là chiếc ghế dài. Nó được để về bên phía mặt trời lặn vì
theo quan niệm của người Tây Nguyên, ghế K’pan thường để dùng trong các
dịp lễ, đám để mọi người ngồi đánh và thường để về phía mặt trời lặn…Còn
chiếc xưn K’pan là ghế ngắn thì được đặt về phía mặt trời mọc có ý nghĩa
thường để gia chủ nằm hoặc ngồi đón nhận những điều tốt đẹp từ phía mặt
58
trời hy vọng cuộc sống có những tương lai rực rỡ đẹp như lúc buổi sáng…
Chọn gỗ để làm ghế K’pan không đơn giản. Muốn lấy gỗ làm thì phải lên
rừng chọn làm lễ cúng thần Rừng sau đó lấy rìu bập vào cây, hai ba ngày sau
lên nếu thấy rìu còn dính trên cây thì mới được làm. Nếu rìu rơi xuống đất có
nghĩa là thần chưa cho làm thì không được lấy gỗ về. Vì vậy mà ghế K’pan và
xưn K’pan rất thiêng… Từ xa xưa đến sau này, nhà sàn của người Tây
Nguyên thường được làm bằng tranh tre nứa, lá, gỗ ván rất ấm cúng…” Qua
những câu chuyện như vậy, người dân sẽ thấy yêu và hiểu hơn về dân tộc
mình, văn hóa truyền thống của đồng bào mình và càng có thêm niềm tin tốt
đẹp để cùng nhau bảo vệ những nét đẹp truyền thống vốn có trong văn hóa
buôn làng của mình.
Bên cạnh đó, những người già làng gắn bó với buôn làng cũng luôn có
mong muốn truyền lại những giá trị văn hóa tốt đẹp cho thế hệ sau và đang
từng bước hiện thực hóa mong muốn ấy. Ông Ama Thu ở buôn Êa Bông đã
ngoài 70 tuổi nhưng hàng ngày vẫn mở lớp, kêu gọi và miệt mài dạy cho trẻ
em trong buôn học chơi các nhạc cụ truyền thống ở nhà sinh hoạt cộng đồng.
Chính quyền cũng nên có biện pháp kêu gọi người dân hưởng ứng và cho con
em tham gia vào các lớp học như thế để có thể lưu truyền lại những giá trị văn
hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc mình.
3.3.2. Nâng cao nhận thức về phát triển du lịch cộng đồng tại buôn
Tây Nguyên có trên 30% dân số là người dân tộc thiểu số. Kinh tế nhìn
chung chậm phát triển hơn so với các khu vực khác. Cơ cấu kinh tế chủ yếu
vẫn là nông nghiệp, thậm chí một số nơi vẫn còn hình thức sản xuất nông
nghiệp lạc hậu gắn với tập quán canh tác cổ truyền của nhân dân thuộc nhóm
dân tộc thiểu số. Xét từ khía cạnh du lịch, Tây Nguyên hoàn toàn có đầy đủ
khả năng để triển khai mô hình du lịch cộng đồng một cách rộng rãi. Vì vậy,
việc nâng cao nhận thức về phát triển du lịch cộng đồng tại buôn là một trong
59
những việc làm cần thiết để góp phần bảo tồn không gian cư trú truyền thống.
Cụ thể là cần cho người dân thấy và hiểu được những đặc thù của Tây
Nguyên cho phép phát triển lịch cộng đồng, chẳng hạn như:
Đối với khu vực có nhiều cộng đồng dân tộc thiểu số sinh sống, đặc
biệt là các buôn của người ÊĐê, phát triển du lịch cộng đồng sẽ dựa trên cơ sở
sự khác biệt văn hóa khi so sánh các nền văn hóa lớn là văn hóa Việt và các
tiểu văn hóa khác. Tây Nguyên có thể tham khảo các mô hình du lịch cộng
đồng tại các tỉnh miền núi phía Bắc và áp dụng những mô hình sinh hoạt cộng
đồng trong nhà sàn dài với văn hóa cồng chiêng và văn nghệ truyền thống tại
các buôn ÊĐê.
Đối với khu vực có nhiều xã, thôn thuộc diện nghèo, kinh nghiệm của
các tổ chức phi chính phủ là hỗ trợ ban đầu cho hoạt động du lịch từ đó kích
thích phát triển kinh tế, nâng cao thu nhập và tạo việc làm cho người dân địa
phương. Chính sách này cũng khuyến khích người dân chủ động tham gia
nhiều hơn vào việc xây dựng chính sách, phát triển sản phẩm du lịch, trực tiếp
tham gia vào lực lượng lao động từ đó khẳng định được vị thế của mình trong
một xã hội rộng lớn hơn. Sau đó, từ những thu nhập từ du lịch, nguồn vốn
được hình thành và tái đầu tư vào cơ sở hạ tầng nhằm thỏa mãn yêu cầu phát
triển bền vững. Du lịch cộng đồng có thể đáp ứng được nhiều mục tiêu khác
nhau trong cùng một giai đoạn như mục tiêu xóa đói giảm nghèo, nâng cao
chất lượng đời sống văn hóa - tinh thần của người dân, bảo tồn nền văn hóa
truyền thống, tạo việc làm tại chỗ, tăng nguồn lưu thông tiền mặt và xuất khẩu
tại chỗ các sản vật địa phương.
Không chỉ vậy, Tây Nguyên còn là khu vực có khung cảnh thiên nhiên
còn tương đối nguyên sơ, có vùng núi cao, cao nguyên và rừng nhiệt đới. Cho
dù hiện nay tình trạng phá rừng, hoạt động lạm dụng khai thác tài nguyên
đang đi đến tình trạng báo động nhưng về cơ bản Tây Nguyên vẫn còn những
60
cánh rừng nguyên sinh độc đáo luôn tạo ra sự hấp dẫn đối với khách du lịch
thuộc nhóm du lịch cộng đồng. Yếu tố môi trường nguyên sơ, trong lành khi
đặt cùng nguồn tài nguyên du lịch văn hóa (các làng bản người dân tộc thiểu
số, phong tục, tập quán, trang phục, nề nếp sinh hoạt) tạo ra một thế mạnh rất
cạnh tranh dành khu vực này so với những khu vực khác. Có thể nói, du lịch
cộng đồng không nên chỉ được xác định là một loại hình du lịch có triển vọng
mà còn phải được coi là sản phẩm du lịch đặc thù trong chiến lược phát triển
du lịch.
Để phát triển du lịch cộng đồng đúng hướng, khai thác tốt hệ thống tài
nguyên du lịch phong phú tại đây, tác giả xin đưa ra một số đề xuất nhằm đưa
loại hình du lịch cộng đồng trở thành một điểm sáng, có đóng góp lớn về mặt
kinh tế - xã hội của khu vực và quan trọng nhất là sự phát triển đó phải luôn
gắn với mục tiêu phát triển bền vững.
Trước hết, theo nhà văn Nguyên Ngọc, văn hóa Tây Nguyên gắn bó
chặt chẽ với không gian - môi trường tự nhiên đã tồn tại từ ngàn đời tại đây -
đó là môi trường rừng. Hiện nay, có một số xu hướng biến đổi văn hóa tiêu
cực gây ảnh hưởng đến văn hóa truyền thống đặc sắc của đồng bào bản địa và
xu hướng biến đổi này có nguyên nhân trực tiếp đến từ việc phá rừng, phá vỡ
môi trường cho lối sống cộng đồng của các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên.
Việc bảo vệ rừng nguyên sinh ngoài những khu bảo tồn cần được đặc biệt
quan tâm để gìn giữ môi trường phát triển văn hóa cho người dân bản địa.
Trong tình trạng ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu toàn cầu ngày nay,
nhu cầu bảo vệ rừng càng cần được quan tâm nhiều hơn bởi tác động của việc
phá rừng ngày càng lớn và ảnh hưởng ở phạm vi rộng hơn địa bàn Tây
Nguyên rất nhiều.
Thứ hai, có cơ chế và khuyến khích người dân bản địa tham gia nhiều
hơn vào công tác lập quy hoạch phát triển du lịch, tổ chức xây dựng sản phẩm
61
du lịch và trực tiếp phục vụ khách du lịch nhằm phân phối lợi ích nghiêng về
phía cộng đồng. Có như vậy, du lịch cộng đồng tại Tây Nguyên mới thỏa mãn
yêu cầu xóa đói giảm nghèo, tạo công việc, thu nhập và nâng cao cao đời
sống người dân như mục tiêu của các chương trình về nông thôn của Đảng,
Nhà nước ta đang thực hiện.
Thứ ba, nâng cao trình độ và năng lực của người dân bản địa thông qua
tổ chức những khóa đào tạo ngắn hạn về kỹ năng, nghiệp vụ du lịch…
Thứ tư, liên kết giữa các công ty lữ hành trong và ngoài tỉnh với đại
diện chương trình phát triển du lịch cộng đồng tại cơ sở. Bước đầu UBND xã,
huyện có thể làm trung gian giữa bản làng với công ty lữ hành, sau đó chuyển
giao công việc lại cho những người, nhóm người đại diện trong buôn.
Thứ năm, tổ chức các sự kiện riêng của Tây Nguyên như Lễ hội trái
cây, Lễ hội cồng chiêng… Những lễ hội truyền thống có thể gắn với lễ hội
của từng dân tộc cụ thể nhằm giới thiệu văn hóa truyền thống đặc sắc và
không khí mới lạ cho du khách. Những sự kiện hiện đại cần tập trung vào tính
đa dạng văn hóa và tinh thần chinh phục - khai phá thiên nhiên của các dân
tộc bản địa. Việc tổ chức các sự kiện nhằm mục đích quảng bá du lịch và văn
hóa, thu hút khách du lịch đến với Tây Nguyên nhiều hơn…
3.3.3. Một số khuyến nghị về quy hoạch và bảo tồn
Như đã nói ở trên, không gian cư trú truyền thống của buôn làng ÊĐê ở
Buôn Ma Thuột đang tồn tại hai xu hướng chính: Xu hướng bảo tồn kết hợp
hiện đại hóa và xu hướng giải thể. Đặc trưng của xu hướng bảo tồn là giữ lại
những yếu tố cũ, cải tạo chúng hoặc kết hợp giữa những yếu tố cũ và yếu tố
mới để giữ lại được không gian tổng thể, mang những yếu tố và giá trị truyền
thống cơ bản. Xu hướng giải thể thì tạo nên sự xáo trộn trong không gian văn
hóa buôn làng, những yếu tố truyền thống đứng trước nguy cơ bị mai một và
bị xóa bỏ hẳn. Bởi vậy, khi đưa ra các khuyến nghị về quy hoạch và bảo tồn,
62
tác giả muốn bám sát hai xu hướng chính này để tìm ra những biện pháp phù
hợp nhất cho việc bảo tồn không gian văn hóa truyền thống của người Ê Đê.
Đối với những buôn thuộc xu hướng bảo tồn kết hợp hiện đại, chúng ta
cần hiện thực hóa suy nghĩ và định hướng của người dân bằng những phương
án và kế hoạch cụ thể để người dân có thể tiến hành chính sách bảo tồn một
cách có hệ thống và hiệu quả nhất.
Một là khảo sát và tập hợp các cá nhân, nhóm người dân có xu hướng
bảo tồn trong từng buôn lại, sau đó quy hoạch các buôn đó lại với nhau. Từ
đó, liên kết họ thành một cộng đồng người có chung mục đích, đưa ra những
phương án phát triển du lịch cộng đồng, hỗ trợ họ xây dựng các điểm du lịch
cộng đồng và liên kết các điểm du lịch đó thành một tuyến du lịch như một
điểm nhấn trong các tuyến du lịch dành cho du khách trong và ngoài nước khi
đến với Buôn Ma Thuột.
Hai là tổ chức các lớp tập huấn về du lịch để người dân có thêm kiến
thức và hiểu biết về du lịch cộng đồng. Chẳng hạn như giới thiệu đến người
dân những mô hình du lịch cộng đồng mà các vùng dân tộc thiểu số khác
đang áp dụng và thực hiện. Đưa người dân đến các vùng du lịch cộng đồng để
trải nghiệm và học hỏi cách làm du lịch cộng đồng. Từ đó, người dân các
buôn có thể có thêm kiến thức, chọn lọc được mô hình du lịch phù hợp với tài
nguyên du lịch vốn có của buôn làng mình.
Ba là đưa ra những biện pháp cụ thể để hỗ trợ người dân trong việc bảo
tồn không gian cư trú buôn làng. Ví dụ như:
Đối với những gia đình có xu hướng bảo tồn nhưng không đủ điều kiện
kinh tế, nhà nước có thể tạo điều kiện hỗ trợ về nguyên vật liệu để người dân
có thể sửa chữa và trùng tu nhà cửa bằng cách giúp đỡ người dân tiếp cận với
nguồn gỗ để họ có điều kiện sửa chữa nhà. Bên cạnh việc cho phép khai thác
gỗ rừng tự nhiên trong một mức độ cho phép dưới sự giám sát của kiểm lâm,
63
nhà nước cũng có thể có phương án xử lý phù hợp với nguồn gỗ rừng khai
thác trái phép mà cơ quan chức năng đang tạm giữ để người dân có điều kiện
thuận lợi nhất để tu sửa nhà cửa, duy trì được không gian cư trú truyền thống.
Duy trì không gian sinh hoạt cộng đồng và tâm linh cho người dân
bằng cách cấp sổ đỏ chứng nhận quyền sở hữu đất của cộng đồng đối với
những khu vực sinh hoạt chung của buôn như đất rừng, bến nước và nghĩa
địa. Tình trạng xâm lấn đất rừng đã và đang diễn ra ở một số buôn của người
ÊĐê, vì vậy đây cũng là một biện pháp thiết thực để người dân yên tâm trong
việc bảo tồn.
Đối với những buôn thuộc xu hướng giải thể, việc cân bằng quỹ đất và
thay đổi về quyền sở hữu đất là một việc làm không thể thiếu. Trên địa bàn
thành phố, hiện nay có rất nhiều công ty đang sử dụng quỹ đất mà trước đây
là đất của buôn làng như công ty cao su Đắk Lắk, công ty Cà phê Buôn Mê
Thuột, Công ty Cà Phê Việt Thắng… Mặc dù là những công ty nông nghiệp,
sử dụng quỹ đất nhằm mục đích phát triển kinh tế của vùng nhưng một số
công ty lại đang sử dụng thiếu hiệu quả quỹ đất đó. Vì vậy, việc nghiên cứu
biện pháp thu hồi đất của các công ty để cấp lại cho những hộ gia đình thiếu
đất ở khu vực quanh đó là hoàn toàn xác đáng và có thể đem lại nhiều lợi ích
cho người dân nói riêng cũng như công tác bảo tồn giá trị truyền thống và
phát triển kinh tế nói chung. Chính sách hỗ trợ đất ở này đã diễn ra ở Buôn
Mê Thuột nhưng chưa thật sự hiệu quả, vì vậy các cơ quan chức năng cần đẩy
mạnh và thực hiện triệt để hơn nữa.
Mặc dù thực tế có thể thấy rõ lợi ích từ việc cấp đất cho người dân,
nhưng đây không phải là một biện pháp thật sự khả thi. Trong trường hợp
không thể thu hồi đất từ các công ty, chính quyền cần có những biện pháp để
cân bằng lợi ích giữa các buôn thiếu đất và các công ty du lịch, chẳng hạn như
cho áp dụng những mô hình sản xuất liên kết giữa người dân với các doanh
64
nghiệp. Cụ thể là các doanh nghiệp sẽ cung cấp giống cây trồng, vật tư, hỗ trợ
về kỹ thuật và đảm bảo đầu ra cho các sản phẩm nông nghiệp thu được từ quá
trình sản xuất của người dân, hai bên có thể phân chia quyền lợi dưới sự
thống nhất của cả hai bên. Mô hình sản xuất này đã được áp dụng bởi công ty
cao su Đắk Lắk và mang lại lợi ích không nhỏ cho các hộ ÊĐê trong quá trình
tham gia.
Bên cạnh các biện pháp cụ thể với từng xu hướng riêng của các buôn,
những giải pháp chung để ổn định về mặt đời sống, an sinh xã hội từ đó hiện
thực hóa mục đích quy hoạch và bảo tồn cũng là yếu tố không thể thiếu. Cụ
thể là:
Đào tạo nghề cho phụ nữ và thanh niên trong làng bằng cách khôi phục
và phát triển các nghề thủ công truyền thống như dệt thổ cẩm, nấu rượu cần,
làm nhạc cụ dân tộc… Cách này sẽ tạo nên sự đa dạng hóa nghề nghiệp cho
người dân trong buôn làng, để cuộc sống của họ không cần phụ thuộc hoàn
toàn vào nông nghiệp, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế sang thủ công
nghiệp.
Tạo điều kiện để các hộ gia đình có thể vay vốn ngân hàng với mức lãi
suất thấp, thời gian hoàn trả vốn dài hơn để có thể đầu tư phát triển sản xuất,
cải tạo nhà cửa hay có điều kiện hơn để đầu tư cho con cái được học hành đầy
đủ hơn. Đặc biệt là tạo thêm nhiều ưu đãi như vay không mất lãi cho những
hộ nghèo, những hộ gia đình có hoàn cảnh có khăn để họ có cơ hội cải thiện
cuộc sống.
Mở rộng chức năng của nhà cộng đồng hay nhà văn hóa của các buôn.
Hiện nay các buôn đều có nhà sinh hoạt cộng đồng là nhà sàn hoặc nhà mang
hình thức của nhà sàn truyền thống. Tuy nhiên, nhà cộng đồng đó vẫn chưa
thực sự phát huy được hết vai trò vốn có của nó. Thay vì chỉ gói gọn trong các
chức năng hành chính như hội họp, kỉ niệm, chính quyền có thể xem xét mở
65
rộng thêm các chức năng dân sự khác như tạo thêm sân chơi tại nhà sinh hoạt
cộng đồng cho người dân, mang lại quyền tự quản cho họ để họ có cảm giác
gắn bó từ đó thêm hiểu và yêu hơn giá trị tốt đẹp trong truyền thống văn hóa
của chính họ.
Quá trình biến đổi không gian cư trú buôn làng đặt ra nhiều vấn đề
đáng suy ngẫm, đòi hỏi người dân và chính quyền cần chung tay lại, cùng
nhau tìm ra các biện pháp trước mắt và lâu dài để giải quyết các vấn đề cấp
bách được đặt ra. Chính quyền các cấp cần nhìn nhận một cách nghiêm túc và
thấu đáo hơn về tầm quan trọng của vấn đề bảo tồn không gian cư trú buôn
làng và du lịch cộng đồng đối với việc bảo tồn giá trị văn hóa truyền thống.
Cùng với đó, nhà nước cũng cần có những chương trình nghiên cứu, khảo sát
để phân loại các xu hướng biến đổi của các buôn làng dân tộc tại chỗ, cụ thể
là xu hướng bảo tồn kết hợp hiện đại hóa và xu hướng giải thể, từ đó đưa ra
các chính sách, dự án bảo tồn phù hợp đối với từng xu hướng để việc thực
hiện quá trình bảo tồn đạt được hiệu quả cao nhất. Bên cạnh đó, người dân
cũng cần nghiêm túc thực hiện các chính sách và nghị quyết của nhà nước,
nâng cao tinh thần và ý thức cộng đồng, tuyên truyền đến những người quanh
mình để cùng nhau đi theo các chủ trương của nhà nước, cùng nhau bảo tồn
và lưu giữ không gian văn hóa truyền thống đáng quý của dân tộc mình, của
vùng miền mình.
66
KẾT LUẬN
1. Trong bối cảnh có nhiều biến động về kinh tế - chính trị - xã hội từ
sau 1975 đến nay, diện mạo của vùng Tây Nguyên nói chung cũng như không
gian cư trú buôn làng của người ÊĐê ở Buôn Mê Thuột nói riêng đã có những
thay đổi sâu sắc, đặt ra nhiều vấn đề cần được nghiêm túc nhìn nhận và giải
quyết. Trong nghiên cứu này, tác giả sử dụng khái niệm không gian cư trú
buôn làng để khảo sát về các khía cạnh xoay quanh nó, bao gồm nhà ở, loại
hình gia đình (gia đình mẫu hệ mở rộng và gia đình hạt nhân) để làm rõ sự
biến đổi từ 1975 đến nay. Trải qua quá trình định canh, định cư, không gian
cư trú đã có nhiều biến đổi lớn theo xu hướng hiện đại hóa, có sự giao thoa về
nhiều mặt như kiến trúc nhà ở, loại hình gia đình, văn hóa và thói quen giữa
người Kinh và người ÊĐê. Qua việc khảo sát và phân tích sự biến đổi, tác giả
sẽ tìm ra vấn đề và đưa ra những phương hướng để giải quyết vấn đề được đặt
ra từ quá trình biến đổi.
2. Với vị trí là thành phố trung tâm của Tây Nguyên, Buôn Mê Thuột
trở thành đối tượng được nhà nước quan tâm về nhiều mặt. Những chính sách
thay đổi về kinh tế - chính trị - xã hội đều hướng đến mục tiêu phát triển
thành phố, tạo nên những tác động không nhỏ dẫn đến sự thay đổi về không
gian cư trú buôn làng. Các chính sách phát triển kinh tế như quốc hữu hóa tài
nguyên đất rừng, tập thể hóa và giải thể hợp tác xã nông nghiệp, phát triển
cây công nghiệp tạo nên cho Buôn Mê Thuột diện mạo của một thành phố
kinh tế trẻ, năng động. Về mặt hành chính, nhà nước cũng có những chính
sách mở rộng đô thị, phát triển Buôn Mê Thuột thành một thành phố công
nghiệp hóa, hiện đại hóa trong thời kỳ Đổi Mới, thay đổi cả về chiều rộng lẫn
chiều sâu. Phát triển kinh tế - chính trị dẫn đến những thay đổi về mặt xã hội.
Buôn Mê Thuột từ một thị xã nhỏ bé nhanh chóng trở thành một thủ phủ hành
chính của toàn vùng, mang trên mình một diện mạo hoàn toàn mới, không
67
gian văn hóa, không gian cư trú chung của người dân tộc tại chỗ cùng từ đó
mà thay đổi theo với sự nâng cấp về hệ thống điện, đường, trường trạm và đặc
biệt là sự thay đổi về kiến trúc không gian cư trú tổng thể của các buôn làng
khu vực trung tâm và cận trung tâm thành phố.
3. Trước sự tác động về nhiều mặt, không gian cư trú của người ÊĐê ở
Buôn Mê Thuột có sự biến đổi phức tạp theo nhiều chiều cạnh khác nhau. Cơ
cấu tộc người chuyển từ chế độ đơn tộc sang chế độ đa tộc với sự giao thoa
văn hóa giữa các tộc người, đặc biệt là sự giao thoa văn hóa Kinh – ÊĐê. Nhà
sàn dài truyền thống cũng được nâng cấp, tu sửa hoặc thay thế bằng những
ngôi nhà xây, nhà cấp bốn hiện đại dẫn đến tổng thể không gian kiến trúc
truyền thống bị phá vỡ. Gia đình mẫu hệ mở rộng đặc trưng của người ÊĐê
cũng dần được tách ra, chia nhỏ thành những gia đình hạt nhân, đề cao tính
độc lập, tự chủ, tư hữu cá nhân. Những yếu tố làm nên đặc trưng cho buôn
làng Ê Đê như rừng thiêng, bến nước đang đứng trước nguy cơ bị mai một,
không còn phát huy được chức năng cố hữu vốn có. Các không gian sinh hoạt
cộng đồng truyền thống cũng mất dần và được chuyển hóa thành không gian
văn hóa, thực hiện các chức năng hành chính cơ bản. Hình ảnh một thành phố
của núi rừng Tây Nguyên với nét đặc trưng là văn hóa cộng đồng dân tộc
thiểu số với nhà sàn dài được bao quanh là rừng đã và đang dần trở lên xa lạ
trước mắt của những du khách và của cả những con người Tây Nguyên đang
sống trên mảnh đất quen thuộc của chính họ.
4. Không gian cư trú buôn làng ÊĐê đang đi theo hai xu hướng chính là
xu hướng bảo tồn kết hợp hiện đại hóa và xu hướng giải thể. Một số buôn
làng vẫn còn giữ lại được nhà sàn và mong muốn giữ lại nhà sàn như giữ lại
một phần văn hóa của dân tộc mình, giữ lại một mảnh kí ức cho con cháu
mình và cho các thế hệ sau. Một số khác thì mong muốn thay đổi, dỡ bỏ
những ngôi nhà sàn đã quá cũ để thay thế bằng những ngôi nhà xây khang
68
trang và hiện đại hơn. Trên cơ sở đó, tổng thể không gian kiến trúc của tộc
người Ê Đê đang dần bị phá vỡ và đứng trước nguy cơ biến mất hoàn toàn,
đòi hỏi phải có những chính sách kịp thời và hợp lý để bảo tồn, lưu giữ lại
những giá trị truyền thống của dân tộc. Và an sinh xã hội, ổn định đời sống
của người dân là biện pháp đi đầu. Việc tạo công ăn việc làm cho người dân
bằng cách khôi phục lại những nghề thủ công đã bị mai một, hỗ trợ người dân
tu sửa lại nhà cửa, giúp đỡ họ tiếp cận với nguồn vay vốn ngân hàng lãi suất
hợp lý hay thúc đẩy phát triển du lịch cộng đồng chính là những biện pháp để
cải thiện và nâng cao đời sống cho người dân. Khi có một cuộc sống ổn định,
người dân sẽ có niềm tin vào các chính sách của Đảng nhà nước. Từ đó, chính
quyền các cấp có thể dễ dàng triển khai các chính sách bảo tồn đến người dân,
việc thực hiện quy hoạch đất đai và khôi phục không gian cư trú cũng dễ dàng
được hưởng ứng và thực hiện có hiệu quả theo hướng tích cực – bền vững.
69
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
1. Trương Bi (2010), Nghi lễ - lễ hội Ê Đê , Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.
2. Trương Bi – Bùi Minh Vũ (2009), Bảo tồn, phát huy di sản văn hóa các tộc
người Ê Đê – M’nông, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.
3. Trần Văn Bính (2004), Văn hóa Dân tộc Tây Nguyên: thực trạng và những
vấn đề đặt ra, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
4. Ngô Văn Doanh (1995), Lễ hội bỏ mả (Pơ thi) các dân tộc Bắc Tây
Nguyên: Dân tộc Gia Rai – Ba Na, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
5. Jacques Dournes (2003), Miền đất huyền ảo (Các dân tộc miền núi Nam
Đông Dương) (Nguyên Ngọc dịch), Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
6. Bùi Minh Đạo (2010), Tổ chức và hoạt động buôn làng trong phát triển
bền vững vùng Tây Nguyên, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
7. Nguyễn Tấn Đắc (2005), Văn hóa Xã hội và con người Tây Nguyên, Nxb
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
8. Bế Viết Đẳng (1982), Đại cương các dân tộc Ê Đê, M’nông ở Đắk Lắk,
Nxb Khoa học Xã Hội, Hà Nội.
9. Đặng Hoàng Giang (2015), Biến đổi không gian văn hóa buôn làng Ê Đê ở
Buôn Mê Thuột từ 1975 đến nay, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
10. Nguyễn Thị Hạnh (2004), Mẫu hệ, phụ nữ Ê Đê và kinh tế hộ gia đình,
Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
11. Anna De Hautecloque-Howe (2004), Người Ê Đê – một xã hội Mẫu
quyền, (Nguyên Ngọc và Phùng Ngọc Cửu dịch), Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà
Nội.
12. Nguyễn Thị Hòa (1999), Nhà ở và sinh hoạt trong nhà của người Ê Đê ở
Việt Nam, Luận án Tiến sĩ dân tộc học, Hà Nội.
70
13. Nguyễn Ngọc Hòa (2002), Văn hóa Ê Đê: Truyền thống và biến đổi, Luận
án Tiến sĩ Lịch sử, Hà Nội.
14. Lưu Hùng (1996), Văn hóa cổ truyền Tây Nguyên, Nxb Văn hóa Dân tộc,
Hà Nội.
15. Đỗ Hồng Kỳ (2012), Văn hóa cổ truyền ở Tây Nguyên trong phát triển
bền vững, Nxb Từ điển Bách Khoa, Hà Nội.
16. Nguyên Ngọc (2009), Tuyển tập (tập 2), Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
17. Nguyên Ngọc (2013), Các bạn tôi ở trên ấy, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí
Minh.
18. Thu Nhung Mlô Duôn Du (2001), Người phụ nữ Ê Đê trong đời sống xã
hội tộc người, Luận án Tiến sĩ Lịch sử, Hà Nội.
19. Tuyết Nhung Buôn Krông (2010), Văn hóa ẩm thực của người Ê Đê, Nxb
Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.
20. Tuyết Nhung Buôn Krông (2012), Văn hóa mẫu hệ qua sử thi Ê Đê, Nxb
Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.
21. Mai Thanh Sơn (2011), Chính sách đất đai và văn hóa tộc người (Nghiên
cứu trường hợp tại Đắk Lắk), Nxb Thế giới, Hà Nội.
22. Nguyễn Văn Sửu (2014), Công nghiệp hóa, đô thị hóa và biến đổi sinh kế
ở ven đô Hà Nội, Nxb Tri thức, Hà Nội.
23. Trần Ngọc Thêm (1996), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam: cái nhìn hệ
thống – loại hình, Nxb Tp.Hồ Chí Minh, Tp.Hồ Chí Minh.
24. Ngô Đức Thịnh (1993), Văn hóa Vùng và phân vùng văn hóa ở Việt Nam,
Nxb Khoa học Xã Hội, Hà Nội.
25. Ngô Đức Thịnh (2007), Những mảng màu văn hóa Tây Nguyên, Nxb Trẻ,
Tp.Hồ Chí Minh.
71
Tài liệu Internet
26. Nguyên Bình (21/11/2013), Nhà văn hóa cộng đồng ở Tây Nguyên: xây
xong đóng cửa bỏ hoang, Nguồn: anninhthudo.vn.
27. Philemon, Chi hội Tin lành buôn Alê A, chặng đường 80 năm hình thành
và phát triển, nguồn: hoithanh.com
28. Nguyễn Công Thảo (2013), Một cách tiếp cận về làng Việt đương đại,
Tạp chí khoa học xã hội Việt Nam, Nguồn: http://vssr.vass.gov.vn
29. Nguyễn Thị Phương Thảo (2017), Tác động của đô thị hóa đến văn hóa
nhà dài của người Ê Đê, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật số 400, Nguồn:
vhnt.org.vn
30. Tấn Vịnh (19/06/2011), Cần bảo tồn kiến trúc nhà ở truyền thống của
đồng bào Tây Nguyên, Nguồn: baodaklak.vn
Tài liệu tiếng Anh
31. Birdwell-Pheasant, D. & D. Lawrence-Zuniga (1999). House life: space,
place and family in Europe. Oxford: Berg.
32. Bourdieu, P. (1976), Marriage strategies as strategies of social
reproduction. In Family and society (eds) R. Forster & O. Ranum, 117-44.
Baltimore: Johns Hopkins University Press.
33. Carsten (2003), After kinship. Cambridge: University Press.
34. Morgan, L.H. 1981 (1881), Houses and house-life of the American
aborigines. Chicago: University Press.
35. Gudeman, S. & A. Rivera (1990), Conversations in Colombia.
Cambridge: Cambridge University Press.
36. Levi-Strauss, C. (1983), The way of the masks. London: Jonathan Cape.
37. Sahlins, M. (1972), Stone age economics. Chicago: Aldine & Atherton.
72
PHỤ LỤC ẢNH
Nhà sàn mới xây dựng ở Ale A
Nguồn: Vũ Thị Kim Chung, 7/2020
Nhà sàn còn lại ở Ale A
Nguồn: Vũ Thị Kim Chung, 7/2020
73
Bến nước sắp được phục dựng ở buôn Alê A
Nguồn: Vũ Thị Kim Chung, 7/2020
Rừng thông buôn Alê A
Nguồn: Vũ Thị Kim Chung, 7/2020
74
Quang cảnh buôn Alê A
Nguồn: Vũ Thị Kim Chung, 7/2020
Trường mẫu giáo buôn Alê A
Nguồn: Vũ Thị Kim Chung, 7/202
75
Nhà sàn của trưởng buôn Ea Bông
Nguồn: Vũ Thị Kim Chung, 7/2020
Nhà sàn cũ ở Ea Bông
Nguồn: Vũ Thị Kim Chung, 7/2020
76
Nhà sàn truyền thống ở Ea Bông
Nguồn: Vũ Thị Kim Chung, 7/2020
Nhà sàn truyền thống ở Ea Bông
Nguồn: Vũ Thị Kim Chung, 7/2020
77
Nhà sàn đã bán, đang tháo dỡ ở Ea Bông
Nguồn: Vũ Thị Kim Chung, 7/2020
Nhà sàn cũ, dùng để chứa đồ ở Ea Bông
Nguồn: Vũ Thị Kim Chung, 7/2020
78
Nhà sàn của cô E’Nuol ở Ea Bông
Nguồn: Vũ Thị Kim Chung, 7/2020
Khung cảnh buôn Ea Bông
Nguồn: Vũ Thị Kim Chung, 7/2020
79
Các nghệ nhân biểu diễn nhạc cụ truyền thống
Nguồn: Vũ Thị Kim Chung, 7/2020
Nghệ nhân biểu diễn khèn
Nguồn: Vũ Thị Kim Chung, 7/2020
80
Nghệ nhân hát then và thổi khèn
Nguồn: Vũ Thị Kim Chung, 7/2020
Các nghệ nhân biểu diễn chiêng trống
Nguồn: Vũ Thị Kim Chung, 7/2020