ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

VŨ THỊ KIM CHUNG

BIẾN ĐỔI KHÔNG GIAN CƯ TRÚ CỦA NGƯỜI Ê ĐÊ

Ở BUÔN MA THUỘT TỪ SAU 1975 ĐẾN NAY

(Nghiên cứu trường hợp buôn Alê A và buôn Êa Bông)

LUẬN VĂN THẠC SĨ VIỆT NAM HỌC

Hà Nội – 2020

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

VŨ THỊ KIM CHUNG

BIẾN ĐỔI KHÔNG GIAN CƯ TRÚ CỦA NGƯỜI Ê ĐÊ

Ở BUÔN MA THUỘT TỪ SAU 1975 ĐẾN NAY

(Nghiên cứu trường hợp buôn Alê A và buôn Êa Bông)

Chuyên ngành: Việt Nam học

Mã số: 831063001

LUẬN VĂN THẠC SĨ VIỆT NAM HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Đặng Hoài Giang

Hà Nội – 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn thạc sĩ Biến đổi không gian cư trú của

người Ê Đê ở Buôn Ma Thuột từ sau 1975 đến nay là công trình nghiên

cứu của riêng tôi, các tư liệu được sử dụng trong luận văn là trung thực,

kết quả nghiên cứu của luận văn chưa được công bố trong bất kì công

trình nào khác.

Hà Nội, ngày tháng năm 2020

Tác giả luận văn

Vũ Thị Kim Chung

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1

Chương 1. Tổng quan 11

1.1. Các khái niệm 11

1.1.1. Không gian văn hoá buôn làng 11

1.1.2. Không gian cư trú 13

1.2. Các quan điểm lý thuyết 13

1.3. Không gian cư trú buôn làng ÊĐê truyền thống 16

1.4. Bối cảnh tác động đến không gian cư trú của người Ê Đê từ sau 1975

đến nay 19

1.4.1. Chính sách phát triển kinh tế 19

1.4.2. Chính sách phát triển văn hóa – xã hội 22

1.4.3. Chuyển dịch cơ cấu dân cư và dân tộc 23

Chương 2. Quá trình biến đổi không gian cư trú buôn làng Ê Đê 25

2.1. Biến đổi về cơ cấu dân cư và dân tộc 25

2.1.1. Biến đổi cơ cấu dân số và cơ cấu tộc người 25

2.1.2. Biến đổi cơ cấu tôn giáo 29

2.2. Biến đổi về loại hình gia đình và kiến trúc nhà ở 32

2.2.1. Biến đổi về loại hình gia đình 32

2.2.2. Biến đổi về kiến trúc nhà ở 35

2.3. Hệ quả của biến đổi không gian cư trú 40

2.3.1. Những thay đổi trong đời sống gia đình 40

2.3.2. Những thay đổi về mặt tiếp biến văn hóa 44

Chương 3. Xu hướng và vấn đề đặt ra từ quá trình biến đổi không gian

cư trú buôn làng ÊĐê truyền thống 48

3.1. Các xu hướng biến đổi 48

3.1.1. Xu hướng bảo tồn kết hợp hiện đại hóa 48

3.1.2. Xu hướng giải thể 50

3.2. Vấn đề đặt ra từ sự biến đổi 52

3.2.1. Nhu cầu bảo tồn không gian cư trú truyền thống 52

3.2.2. Sự thay đổi quá nhanh của không gian cư trú truyền thống 54

3.2.3. Thiếu sự liên kết giữa nhà nước và cộng đồng trong vấn đề bảo tồn 56

3.3. Đề xuất nhằm quy hoạch và bảo tồn 57

3.3.1. Nâng cao nhận thức về vai trò của không gian cư trú truyền thống 57

3.3.2. Nâng cao nhận thức về phát triển du lịch cộng đồng tại buôn 59

3.3.3. Một số khuyến nghị về quy hoạch và bảo tồn 62

KẾT LUẬN 67

TÀI LIỆU THAM KHẢO 70

PHỤ LỤC ẢNH 73

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Không gian cư trú là một trong những thành tố quan trọng có ảnh

hưởng rất lớn đến quá trình sinh sống và phát triển của con người. Nó vừa thể

hiện được sự thích nghi với tự nhiên của con người, vừa là nơi phản chiếu rõ

nhất những giá trị văn hóa bởi nó có tính địa điểm rất rõ rệt và đôi khi có

những nét riêng mà không một vùng nào có. Không gian cư trú của mỗi tộc

người phản ánh những nét văn hóa bản địa khác nhau, cho ta những hiểu biết

và cảm nhận chân thực về lối sống và con người nơi ấy.

Nhắc đến không gian cư trú của các tộc người thiểu số vùng cao, không

thể không nhắc đến các cộng đồng sinh sống ở vùng Tây Nguyên - mảnh đất

đầy nắng, gió, rượu cần và cồng chiêng. Trong số các tộc người Tây Nguyên,

không gian cư trú của người ÊĐê có những nét đặc trưng riêng biệt. Khi đọc

Trường ca Đam Săn – một tác phẩm dân ca bất hủ của người ÊĐê, hẳn chúng

ta sẽ rất nhớ hình ảnh “Mái nhà dài như một tiếng chiêng”. Đúng vậy, ngôi

nhà sàn dài vừa là yếu tố chính tạo nên nét đặc sắc cho không gian cư trú của

người ÊĐê, vừa là nơi sáng tạo, lưu giữ và trao truyền các giá trị truyền thống

của cộng đồng này.

Nhìn vào nhà sàn dài, ta có thể thấy rõ được những vấn đề căn bản góp

phần duy trì xã hội ÊĐê truyền thống: thế giới quan, cấu trúc và quan hệ thân

tộc, đời sống gia đình vận hành theo nguyên tắc mẫu hệ, gu nghệ thuật và

thẩm mỹ.

Từ năm 1975 đến nay, trong bối cảnh hai miền Nam - Bắc thống nhất,

cả nước nói chung và Tây Nguyên nói riêng đi theo con đường công nghiệp,

hiện đại hóa, không gian sinh sống của người ÊĐê đã thay đổi mạnh mẽ, đặc

biệt là các buôn cư trú ở thành phố Buôn Ma Thuột - thủ phủ của tỉnh Đắk

Lắk và Tây Nguyên. Quá trình thay đổi không gian cư trú của người ÊĐê ở

1

Buôn Ma Thuột, do đó, có ý nghĩa điển hình nếu xét trong bối cảnh thay đổi

không gian sống của các nhóm ÊĐê ở Đắk Lắk nói riêng và các tộc người

sinh sống ở Tây Nguyên nói chung. Thông qua việc nghiên cứu nhóm điển

hình này, chúng ta vừa có thể hiểu rõ hơn những thay đổi về giá trị, quan

niệm, lối sống của người ÊĐê, vừa có thể cung cấp các tham vấn hữu ích cho

các nhà quản lý địa phương trong việc quy hoạch không gian ÊĐê cho phù

hợp với tổng thể không gian đô thị Buôn Ma Thuột.

Từ các ý nghĩa lý thuyết và thực tiễn như vậy, tôi quyết định chọn đề

tài Sự biến đổi không gian cư trú của người ÊĐê ở Buôn Ma Thuột từ sau

1975 đến nay (Nghiên cứu trường hợp buôn Alê A và Êa Bông) cho luận văn

thạc sĩ của mình.

2. Mục đích nghiên cứu

Trong phạm vi luận văn này, tôi hướng đến ba mục tiêu chính sau:

Thứ nhất, làm rõ quá trình biến đổi không gian cư trú của buôn làng

ÊĐê ở Buôn Ma Thuột từ sau 1975 đến nay;

Thứ hai, làm rõ những thay đổi về lối sống gắn liền với không gian cư

trú.

Thứ ba, đưa ra một số ý tưởng nhằm góp phần bảo tồn không gian nhà

dài của người ÊĐê ở Buôn Ma Thuột.

Những mục đích nghiên cứu này sẽ là những định hướng giúp tôi tiến

hành nghiên cứu đề tài của mình một cách hiệu quả và chính xác.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là: Sự biến đổi không gian cư trú

của cộng đồng người ÊĐê ở Buôn Ma Thuột từ 1975 đến nay.

Phạm vi nghiên cứu

2

Phạm vi không gian: Tôi sẽ tập trung nghiên cứu buôn Alê A (phường

Ea Tam) và buôn Êa Bông (xã Cư Êbur). Cả hai buôn cùng thuộc thành phố

Buôn Ma Thuột.

Buôn Alê nằm ở gần đường Y Ngông. Vì Pháp đã lấy đất của buôn làm

khu quân sự khi trở lại Tây Nguyên nên buôn Alê đã chuyển xuống khu vực

sát đường Lê Duẩn hiện nay. Để thuận tiện hơn cho việc sản xuất và sinh

hoạt, một bộ phận dân cư của buôn đã tách ra lập buôn mới. Từ đó, buôn cũ

được gọi là buôn Alê A và buôn mới được gọi là buôn Alê B. Theo lời kể của

những già làng ở đây, cái tên Alê có nguồn gốc từ tiếng ÊĐê. Trong tiếng

ÊĐê, chữ “lê” có nghĩa là tre xanh. Vì buôn có rất nhiều rừng tre lớn nên

người dân đã đặt cho buôn cái tên là Alê A. Ở vùng Buôn Mê Thuột, Alê A là

một buôn lớn, giàu có và trí thức nhất vì ở buôn có có rất nhiều người làm

công chức, chiếm tỉ lệ cao hơn so với các buôn khác trong vùng. Có lẽ bởi

vậy mà số lượng người di cư về buôn cũng chiếm một tỉ lệ cao, tác động lớn

đến tốc độ biến đổi của buôn, biến Alê A dần trở thành buôn ÊĐê mang đậm

dáng dấp của người Kinh. Tuy nhiên, do ngày càng khan hiếm đất cả về đất ở

lẫn đất tự nhiên mà mật độ dân số lại cao nên Alê A được xếp vào buôn nghèo

của vùng Buôn Mê Thuột. Thay vào đó, với vị trí là buôn cận trung tâm nên

cơ hội thay đổi cuộc sống của người dân trong buôn dần nhiều hơn và mức

sống cũng phát triển hơn theo hướng hiện đại hóa. Cho đến nay, Alê A là

buôn không còn một nhà sàn truyền thống nào, các hoạt động sinh hoạt văn

hóa truyền thống cũng không còn diễn ra nhiều tại đây. Nhà thờ Kitô giáo và

không gian đạo Tin lành dần trở thành không gian tinh thần quan trọng nhất

đối với cả buôn làng.

Nếu Alê A là một buôn cận trung tâm thì Êa Bông lại là một buôn khá

xa trung tâm, cách trung tâm thành phố khoảng 5 ki lô mét. Êa Bông là tên

một con suối chảy qua buôn, nằm ở phía Đông Bắc của buôn ngày nay và là

3

nơi cư trú của người dân giai đoạn trước năm 1975. Êa Bông là một buôn

thuần nông, nghề nghiệp chính của người dân trong buôn là làm nông nghiệp,

chủ yếu là đốt nương làm rẫy. Đối với họ, đất, nước và rừng là nguồn tài

nguyên vô tận để họ có thể canh tác theo các phương thức làm nông nghiệp

truyền thống. Vì vậy, mức sống của họ giai đoạn trước 1975 là mức sống

trung bình, nghèo và sinh hoạt theo hình thức tự cung tự cấp. Cho đến cuối

thập niên 1980, khi mô hình canh tác cây công nghiệp được phổ biến thì

người dân mới bắt đầu trồng cà phê. Nhờ có diện tích đất sản xuất tương đối

cao nên cà phê trở thành nguồn thu nhập chính của người dân, mức thu nhập

của họ được nâng lên và mức sống cũng được cải thiện hơn, tỷ lệ hộ nghèo

cũng giảm đi đáng kể. Đời sống thay đổi, nhu cầu về ăn, mặc, ở, đi lại cũng

thay đổi theo. Nhà sàn dài truyền thống được thay thế dần bằng nhà bê tông,

nhà cấp bốn. Hơn 50% người dân đi theo Kitô giáo và đạo Tin lành. Bộ phận

còn lại vẫn giữ được các tín ngưỡng và sinh hoạt truyền thống.

Bảng 1. Khái quát về các buôn được lựa chọn nghiên cứu

Tên buôn

ALê A Êa Bông Thông

số

Vị trí Phường Ea Tam Xã Cư Êbur

Vùng trung tâm Vùng ngoại ô

Dân số Tổng: 365 hộ, 1561 khẩu Tổng: 312 hộ, 1559 khẩu

Ê Đê: 197 hộ, 745 khẩu Ê Đê: 270 hộ, 1358 khẩu

Diện 23,9 ha 159,6 ha

tích

Sinh kế Công chức nhà nước, làm nông Làm nông nghiệp kết hợp

nghiệp kết hợp buôn bán và làm thuê làm thuê công nhật

4

công nhật

70% Kitô giáo; 30% Tin lành, lương 70% Kitô giáo; Tôn

giáo và tín ngưỡng truyền thống 30% Tin lành, lương giáo giáo

và tín ngưỡng truyền thống

Khá giả Trung bình khá Mức

sống

[Nguồn: Số liệu tổng hợp của tác giả năm 2020]

Nếu nhìn vào các thông số ở bảng 1, giữa Buôn Alê A và Êa Bông có

nhiều điểm khác nhau căn bản, do đó, có thể đại diện cho cộng đồng 33 thôn

buôn Ê Đê ở Buôn Ma Thuột.

Phạm vi thời gian: Đề tài này tập trung nghiên cứu sự biến đổi trong

khoảng thời gian từ năm 1975 đến nay.

4. Phương pháp nghiên cứu

Tác giả sẽ sử dụng một số phương pháp chính để nghiên cứu đề tài này

như:

Phương pháp phân tích và tổng hợp tài liệu: Tôi đã tham khảo các

nghiên cứu của các học giả trong nước và quốc tế, đặc biệt là các nghiên cứu

liên quan đến biến đổi không gian cư trú tộc người ở vùng cao nói chung và ở

Tây Nguyên nói riêng. Bên cạnh đó, tôi cũng tham khảo các báo cáo tổng kết

hàng năm của thành phố Buôn Ma Thuột và của các phường Ea Tam, xã Cư

Êbur để hiểu được bối cảnh kinh tế - xã hội của sự biến đổi không gian cư trú

ở các điểm nghiên cứu.

Phương pháp điền dã dân tộc học: Dưới sự hỗ trợ trực tiếp của giáo

viên hướng dẫn, tôi đã đi thực địa ở hai buôn Alê A và Êa Bông. Tuy thời

gian thực địa không nhiều, tôi đã cố gắng thực hiện các cuộc phỏng vấn sâu

và tổ chức các cuộc thảo luận nhóm với người dân ở hai buôn nhằm có được

5

những thông tin cơ bản nhất về quá trình biến đổi không gian cư trú ở đây từ

sau 1975 đến nay.

5. Lịch sử nghiên cứu

Môi trường sống của con người là một chủ đề quen thuộc trong các tác

phẩm nhân học. Theo quan sát của chúng tôi, các tác phẩm nhân học thường

tập trung vào hai đối tượng chính trong không gian cư trú: ngôi nhà và mái

ấm. Trong các mô tả về các dân tộc bản địa ở Châu Mỹ và Châu Đại Dương,

các nhà nhân chủng học thời kỳ đầu như Lewis Henry Morgan (Morgan 1881)

hay Bronislaw Malinowski (trích dẫn bởi Collier, Rosaldo & Yanagisako

1987) xem gia đình của người bản địa là một nhóm họ hàng bị ràng buộc bởi

một không gian vật lý xác định, một lò sưởi và một ngôi nhà. Quan sát các gia

đình thượng lưu của người da đỏ Bắc Mỹ và các gia đình Trung Âu, Lévi-

Strauss cho rằng ngôi nhà có chức năng hòa nhập và kết nối các mối quan hệ

giữa các gia đình - chẳng hạn như tạo ra các liên minh quyền lực thông qua

hôn nhân [36]. Trong khi đó, từ cuộc sống gia đình của xã hội Algeria,

Bourdieu cho rằng vật chất và hình thức cấu trúc của ngôi nhà trở thành cơ sở

cho tái sản xuất xã hội [32]. Ngoài ra, các nhà nhân học cũng quan tâm đến

các khía cạnh khác như đời sống gia đình hay vai trò của kinh tế gia đình.

Trong một nghiên cứu về cuộc sống gia đình Mã Lai, Carsten đặt lò sưởi ở

trung tâm ngôi nhà: đó là nơi gặp gỡ của các thành viên trong gia đình, chuẩn

bị bữa ăn, nơi tạo ra các mối quan hệ dòng tộc thông qua việc chuyển nhượng

và chia sẻ tài sản [33]. Khía cạnh kinh tế của gia đình được các tác giả khác

gọi là "kinh tế gia đình" [35] hoặc phương thức sản xuất nội địa [37]. Theo

Gudeman và Rivera, mô hình kinh tế hộ gia đình cho phép các gia đình thỏa

mãn đời sống cá nhân trong khi đảm bảo sự hỗ trợ qua lại cho các hộ gia đình

khác, độc lập nhưng gắn với nhu cầu của thị trường bên ngoài [35, tr.10].

6

Trong khi, đối với không gian cư trú các dân tộc thiểu số, nghiên cứu

không gian dân cư dân tộc thiểu số, hầu hết các nhà nghiên cứu Việt Nam

thường háo hức tìm hiểu khía cạnh kiến trúc (Nguyễn Phước Bảo Dân 2005;

Lâm Nhân 2007; Chảo Văn Lâm 2015; Mai Ngọc Chừ 2015; Phú Văn Hân

2015; Vũ Thị Diệu 2016). Đối với khu vực Tây Nguyên Việt Nam, nhà ở của

các tộc người bản địa được nhắc đến trong các tác phẩm nổi tiếng của các học

giả Pháp như: Rừng người Thượng (Henri Maitre 2008), Chúng tôi ăn rừng

(G. Condominas 1997), Những vùng đất huyền ảo (Jacques Dournes 2003).

Và chủ đề này tiếp tục được nhiều tác giả Việt Nam nghiên cứu sau năm

1975. Họ đã nghiên cứu sâu về kết cấu, kỹ thuật, mỹ thuật, công năng,

phương hướng sử dụng và bảo tồn nhà rông của các dân tộc Nam Tây Nguyên

(Nguyễn Khắc Tụng 1991; Lưu Hùng 1994; Bùi Minh Đạo 2004; Nguyên

Ngọc 2007; Lê Hồng Lý 2015; Nguyễn Thị Phương Châm 2015; Rơ Đăm Thị

Bích Ngọc, 2017). Tất nhiên, do kiến trúc độc đáo và vai trò quan trọng của

nó trong đời sống xã hội tộc người, nhà sàn dài nói riêng và không gian cư trú

ÊĐê nói chung đã được nhiều học giả quan tâm.

Trong cuốn Văn hóa cổ truyền ở Tây Nguyên trong phát triển bền vững

của Đỗ Hồng Kỳ đã nêu khái quát những đặc trưng quan trọng về đặc điểm,

cấu trúc và nét văn hóa đậm đà của người ÊĐê trong quá trình gìn giữ và phát

triển ngôi nhà dài và truyền thống mẫu hệ [15].

Trong bài viết Cần bảo tồn kiến trúc nhà ở truyền thống của đồng bào

Tây Nguyên của tác giả Tấn Vịnh đã đưa ra một số giải pháp trong công tác

bảo tồn nhà cửa truyền thống của đồng bào ÊĐê [30].

Chuyên khảo của tác giả Đặng Hoài Giang về Biến đổi không gian văn

hóa buôn làng Ê Đê ở Buôn Ma Thuột từ sau 1975 đến nay trong bối cảnh

chuyển đổi cấu trúc không gian buôn làng đã cho thấy được hệ quả tất yếu

của quá trình chuyển động trong cấu trúc không gian buôn làng. Khi cấu trúc

7

không gian buôn làng thay đổi, các yếu tố văn hóa truyền thống tất yếu bị

gián đoạn, các giá trị cũ nhường chỗ cho các quan niệm, giá trị mới. Trong

bài viết này, tác giả cũng đã nhắc đến sự biến đổi không gian cư trú tộc người

ÊĐê ở một số buôn làng ở Tây Nguyên [9].

Trong chuyên khảo Người ÊĐê – một xã hội mẫu quyền của Anne De

người Pháp, tác giả đã đặc biệt chú ý đến vai trò không gian nhà sàn dài

truyền thống của tộc người ÊĐê. Tác giả không những nêu ra vai trò của nhà

sàn dài về mặt tín ngưỡng, lễ hội, tâm linh, văn hóa mà còn chỉ ra sự biến đổi

của nhà sàn dài và những nguy cơ từ sự biến đổi đó. Theo quan điểm của tác

giả, việc người ÊĐê chuyển từ nhà sàn dài truyền thống sang nhà cá nhân

giống như việc họ đang từ bỏ một phần quan trọng trong đời sống nghi lễ và

xã hội, điều này sẽ dẫn đến nguy cơ nhà sàn dài bị giải thể trong tương lai

[11].

Ngoài ra, đặc điểm của nhà sàn dài cũng như phương pháp bảo tồn nhà

sàn dài Ê Đê cũng được nhắc đến trong trong một số nghiên cứu khác: Tác

động của đô thị hóa đến văn hóa nhà dài của người ÊĐê của Nguyễn Thị

Phương Thảo [29]; Nhà văn hóa cộng đồng ở Tây Nguyên: xây xong đóng

cửa bỏ hoang của Nguyên Bình [26]; Nhà ở và sinh hoạt trong nhà của người

ÊĐê ở Việt Nam của Nguyễn Thị Hòa [12] .

Các nghiên cứu nói trên là nguồn tham khảo rất quý giá giúp tôi thực

hiện luận văn này.

6. Một số đóng góp của luận văn

Thứ nhất, về hướng tiếp cận, nếu các nghiên cứu trước đây thường chú

trọng miêu tả các yếu tố kiến trúc, thì luận văn của tôi cố gắng nhìn sự biến

đổi không gian cư trú trong bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội của thành phố

Buôn Ma Thuột để thấy được các chiều tác động lên không gian sống của

người ÊĐê.

8

Thứ hai, luận văn không những làm rõ khái niệm không gian cư trú mà

còn vận dụng các quan điểm lý thuyết phù hợp để đánh giá và phân tích các tư

liệu dân tộc học.

Thứ ba, luận văn làm rõ các chiều cạnh biến đổi trong không gian cư

trú của người ÊĐê. Đồng thời, luận văn cũng chỉ ra những xu hướng biến đổi

trong không gian cư trú của người ÊĐê ở Buôn Mê Thuột và đề xuất những

phương hướng cũng như kiến nghị để bảo tồn và phát huy giá trị của không

gian cư trú của người ÊĐê trong tổng thể kiến trúc đô thị thành phố.

Với các đóng góp vừa nêu, luận văn sẽ là nguồn tài liệu hữu ích cho

những ai quan tâm đến lĩnh vực không gian cư trú tộc người ở Việt Nam nói

chung và ở Tây Nguyên nói riêng. Đồng thời, luận văn cũng cung cấp các

thông tin đáng tin cậy cho các nhà quản lý địa phương trong việc hoạch định

các chính sách bảo tồn văn hoá truyền thống phù hợp cho vùng đô thị Buôn

Ma Thuột.

7. Cấu trúc của luận văn

Luận văn được chia làm 3 chương và các nội dung chính như sau:

Chương 1: Tổng quan. Trong chương này tác giả sẽ làm rõ các khái

niệm cơ bản bao gồm: Khái niệm không gian văn hóa làng Việt truyền thống

vùng Đồng bằng; Khái niệm không gian văn hóa buôn làng Tây Nguyên;

Khái niệm không gian cư trú buôn làng ÊĐê truyền thống. Sau đó, tác giả sẽ

chỉ ra bối cảnh tác động đến không gian cư trú buôn làng ÊĐê truyền thống

bao gồm các chính sách phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội cũng như sự

chuyển dịch cơ cấu dân cư dân tộc ở một số buôn làng ÊĐê ở Tây Nguyên.

Chương 2: Quá trình biến đổi không gian cư trú buôn làng ÊĐê.

Chương này sẽ chỉ ra những khía cạnh biến đổi không gian cư trú - bao gồm:

Biến đổi về cơ cấu dân cư, dân tộc và tôn giáo; Biến đổi về loại hình gia đình

và kiến trúc nhà ở. Từ đó, sẽ tìm và chỉ ra hệ quả của sự biến đổi không gian

9

cư trú buôn làng ÊĐê trên nhiều mặt như thay đổi trong đời sống gia đình

cũng như thay đổi về mặt tiếp biến văn hóa.

Chương 3: Xu hướng và vấn đề đặt ra từ quá trình biến đổi không gian

cư trú buôn làng ÊĐê truyền thống. Tác giả sẽ chỉ ra những xu hướng biến đổi

chính là: Xu hướng bảo tồn kết hợp hiện đại hóa và xu hướng giải thể. Từ

những xu hướng này, tác giả sẽ nêu lên những vấn đề đặt ra từ sự biến đổi và

đưa ra các đề xuất nhằm quy hoạch và bảo tồn không gian cư trú truyền thống

cho buôn làng ÊĐê.

10

Chương 1. Tổng quan

1.1. Các khái niệm

1.1.1. Không gian văn hoá buôn làng

Trước khi tìm hiểu khái niệm không gian cư trú - vốn là khái niệm

trung tâm của luận văn, chúng tôi muốn làm rõ một khái niệm liên quan là

không gian văn hoá buôn làng vì không gian cư trú là một bộ phận không thể

thiếu của không gian văn hoá buôn làng. Theo Đặng Hoài Giang, khái niệm

không gian văn hóa buôn làng hàm chỉ một thực thể không gian đóng vai trò

như là không gian sáng tạo, thực hành và nuôi dưỡng các giá trị văn hóa của

cộng đồng buôn làng. Tác giả cũng nhấn mạnh rằng không gian văn hóa buôn

làng cũng còn có thể hiểu như là không gian văn hóa tộc người hay môi

trường nuôi dưỡng, trao truyền các giá trị văn hóa tộc người [9, tr. 62].

Về mặt cấu trúc, Đặng Hoài Giang cho rằng không gian văn hoá buôn

làng được cấu thành bởi 4 yếu tố:

Không gian sản xuất: nơi cung cấp các nguồn lợi từ tự nhiên (đất, nước,

hệ thực vật và động vật, khoáng sản ...) mà con người có quyền tiếp cận, khai

thác nhằm đáp ứng nhu cầu sinh tồn: đất để ở và để canh tác nông nghiệp;

nguồn nước để phục vụ sinh hoạt và sản xuất; rừng để khai thác thực phẩm

(rau, củ, quả, thịt thú rừng) và các loại vật liệu quan trọng (gỗ, dược liệu); các

bãi chăn thả để chăn nuôi súc vật... Trong quá trình tương tác và thích nghi

với không gian sản xuất, con người đã tích lũy tri thức về thế giới tự nhiên (tri

thức bản địa) và định hình nên các khuôn mẫu văn hóa: các quy định về tiếp

cận, sở hữu, chuyển nhượng đất đai và các loại tài nguyên; hình thức canh tác

nông nghiệp (lịch mùa vụ, công cụ sản xuất và kỹ thuật canh tác, cơ cấu cây

trồng); hình thức tiêu dùng, phân phối và trao đổi sản phẩm ...

Không gian cư trú: nơi ở của các hộ gia đình trong cộng đồng, nơi diễn

ra toàn bộ đời sống dân sự thường nhật. Nói đến không gian cư trú là nói đến

11

phong cách kiến trúc (mô típ kiến trúc, vật liệu kiến trúc, cách sử dụng không

gian kiến trúc, nghệ thuật trang trí), loại hình gia đình (hạt nhân hay mở rộng)

và vô số nguyên tắc được đặt ra trong khung cảnh đời sống gia đình: hình

thức thừa kế và phân chia tài sản, chức năng giới, hình thức lựa chọn đối

tượng hôn nhân (đối tượng phối ngẫu) và cư trú sau hôn nhân, hình thức hợp

tác giữa các gia đình cùng huyết thống ...

Không gian sinh hoạt cộng đồng: nơi diễn ra các sinh hoạt chung của

cộng đồng, trong đó đáng chú ý là nhà cộng đồng (communal house) và khu

vui chơi, giải trí. Không gian sinh hoạt cộng đồng có chức năng thúc đẩy quá

trình xã hội hóa cá nhân - giúp cá nhân nhập thân sâu hơn vào đời sống bên

ngoài, nâng cao sự gắn kết xã hội và duy trì tính liên tục văn hóa của cộng

đồng thông qua các thực hành văn hóa được tổ chức trong một số sự kiện đặc

biệt;

Không gian sinh hoạt tín ngưỡng: nơi con người tổ chức các sinh hoạt

tín ngưỡng để tạo nên sự giao tiếp giữa thế giới thực mà họ đang sống với một

thế giới tuy mơ hồ nhưng được xem là có mối liên hệ mật thiết với thế giới

của họ: thế giới tâm linh. Đó là thế giới của các nhân vật siêu nhiên và của

những người thân đã khuất. Các quan niệm và sinh hoạt gắn liền với không

gian tín ngưỡng có chức năng điều tiết hành vi của con người. Đồng thời, nó

cũng có vai trò duy trì và trao truyền các kĩ năng, các giá trị văn hóa giữa các

thế hệ trong một cộng đồng. Vì mỗi sự kiện sinh hoạt tín ngưỡng, ngoài ý

nghĩa tinh thần, còn là một cơ hội để các thành viên trong cộng đồng trình

diễn những gì được cho là tốt đẹp nhất, tinh túy nhất trong vốn văn hóa của họ

[9, tr. 64-65].

Như vậy, theo cách phân loại của Đặng Hoài Giang, không gian cư trú

là một bộ phận hữu cơ của không gian văn hoá buôn làng.

12

1.1.2. Không gian cư trú

Trong luận văn này, không gian cư trú được đặt trong bối cảnh của

không gian văn hoá buôn làng, và được hiểu là khu vực sinh sống của các hộ

gia đình trong một làng. Không gian ở bao gồm cả khía cạnh “cứng” như kiểu

gia đình, kiến trúc và cấu trúc dân tộc và những khía cạnh “mềm” liên quan

đến chúng như các quy tắc trong hôn nhân và thừa kế tài sản, tập quán hàng

ngày định hình cuộc sống của các gia đình: văn hóa ẩm thực và trang phục,

các hoạt động tôn giáo, v.v. Về cơ bản, cái mà chúng tôi gọi là “khía cạnh

mềm” là cách sống của các hộ gia đình trong một cộng đồng. Rõ ràng, cả hai

khía cạnh này có mối quan hệ tương hỗ và phụ thuộc vào nhau, do đó, một

điểm khác biệt khác của luận văn này so với các công trình trước đó là làm rõ

sự liên quan giữa sự thay đổi của các khía cạnh hữu hình với sự thay đổi của

các mặt vô hình trong toàn bộ không gian cư trú.

1.2. Các quan điểm lý thuyết

Trước hết, luận văn này dựa vào lý thuyết tiếp biến văn hóa để làm

định hướng phân tích và giải mã tài liệu. Từ "tiếp biến văn hóa" có lẽ do nhà

nhân học Mỹ J. W. Powell sử dụng từ năm 1880 khi đề cập đến sự biến đổi

của lối sống và lối suy nghĩ của người di dân khi tiếp xúc với xã hội Mỹ. Tuy

nhiên, phải đợi đến những năm 1930 mới có các hệ thống lý thuyết về hiện

tượng gặp gỡ giữa các nền văn hóa và có định nghĩa về mặt khái niệm. Năm

1936, Hội đồng nghiên cứu khoa học xã hội Mỹ lập ra một ủy ban để tổ chức

nghiên cứu các sự kiện tiếp biến văn hóa, trong đó có Robert Redfield, Ralph

Linton và Medville Herskovits. Trong Bản ghi nhớ nghiên cứu về tiếp biến

văn hóa (1936) có nêu ra định nghĩa: "Tiếp biến văn hóa bao gồm tất cả các

hiện tượng do việc tiếp xúc liên tục và trực tiếp giữa các nhóm cá thể có văn

hóa khác nhau, dẫn đến những biến đổi đáng kể trong các mô thức văn hóa

13

ban đầu của một hoặc của hai nhóm này. Cũng trong bản ghi nhớ này, "tiếp

biến văn hóa" được phân biệt với:

“Biến đổi văn hóa” (culture change), thường được dùng trong nhân học

Anh. Tiếp biến văn hóa mới chỉ là một phương diện của biến đổi văn hóa vì

biến đổi văn hóa có thể là kết quả của những nguyên nhân nội tại.

“Đồng hóa văn hóa” vì đây chỉ là giai đoạn cuối của tiếp biến văn hóa

và, vì nó hàm ý sự biến mất hoàn toàn của nền văn hóa gốc và việc du nhập

hoàn toàn nền văn hóa của nhóm thống trị.

“Truyền bá văn hóa”, vì truyền bá xuyên suốt quá trình tiếp biến văn

hóa nhưng vẫn có thể có truyền bá mà không có tiếp xúc liên tục và trực tiếp,

và dù sao nó cũng chỉ là một phương diện của quá trình tiếp biến văn hóa vốn

phức tạp hơn nhiều.

Bản Ghi nhớ cũng đưa ra một hệ thống phân loại các tiếp xúc văn hóa:

Theo các tiếp xúc diễn ra giữa toàn bộ các nhóm, hoặc giữa toàn

bộ nhóm cư dân với một nhóm của một nhóm cư dân khác (ví dụ truyền giáo,

thực dân, người di cư...).

Theo các tiếp xúc hòa hảo hay là thù địch;

Theo các tiếp xúc diễn ra giữa các nhóm có độ lớn tương đương và

giữa các nhóm có độ lớn không đều nhau;

Theo các tiếp xúc có các nền văn hóa có độ phức hợp lớn hay không;

Theo các tiếp xúc sinh ra từ thực dân hóa hay là di cư.

Sau đó có thể có các:

Tình huống "thống trị" (domination) và "bị trị" (subordination) trong

đó xảy ra tiếp biến văn hóa;

14

Tiến trình tiếp biến văn hóa tức là các thể thức "chọn lọc" các yếu tố

vay mượn hay là "phản kháng" lại sự vay mượn;

Các hình thức hội nhập các yếu tố này vào trong mô hình văn hóa gốc;

Các cơ chế tâm lý tạo điều kiện thuận lợi hay không đối với tiếp biến

văn hóa;

Cuối cùng, những hệ quả có thể của tiếp biến văn hóa, bao gồm cả

những phản ứng tiêu cực, đôi khi có thể tạo ra những phong trào "chống-tiếp

biến văn hóa".

Các nhà nhân học Mỹ dùng khái niệm "khuynh hướng" vay mượn từ

ngôn ngữ học của Sapir để giải thích rằng tiếp biến văn hóa không bao giờ

đơn thuần là một sự cải hóa từ nền văn hóa này sang nền văn hóa khác. Sự

biến đổi của nền văn hóa gốc diễn ra bằng cách "chọn lọc" các yếu tố văn hóa

vay mượn, và sự chọn lọc này được thực hiện theo "khuynh hướng" nội tại

của nền văn hóa gốc. Herskovits đưa ra khái niệm "diễn giải và biểu đạt lại"

(réinterprétation) được định nghĩa là "tiến trình trong đó những ý nghĩa cũ

được gán cho các yếu tố mới hoặc là những giá trị mới làm thay đổi những ý

nghĩa văn hóa của các hình thức cũ”. Một quy luật chung được rút ra là các

yếu tố không phải là biểu trưng (kỹ thuật và vật chất) của một nền văn hóa thì

sẽ dễ chuyển được sang nền văn hóa khác hơn là các yếu tố biểu trưng (tôn

giáo, tư tưởng, vv.)

Để mường tượng được sự phức hợp của tiến trình xúc tiến văn hóa, H.

G. Barnett phân biệt: "hình thức" (biểu đạt hiện hữu); "chức năng" và "ý

nghĩa" của các nét văn hóa. Từ cách phân biệt này, có ba hợp thức phụ có thể

được nêu ra:

15

Hình thức mà càng "lạ lẫm" với nền văn hóa tiếp nhận thì sự chấp nhận

nó càng khó.

Hình thức dễ được chuyển giao hơn là các chức năng.

Một nét văn hóa, dù hình thức và chức năng của nó như thế nào thì nó

cũng sẽ dễ được chấp nhận và hội nhập hơn nếu nó mang một ý nghĩa phù

hợp với nền văn hóa tiếp nhận [9].

Luận văn cũng sử dụng quan điểm của Ernesto Laclau về bản sắc văn

hoá để phân tích động thái bảo tồn văn hoá truyền thống của người Ê Đê

trong bối cảnh đô thị. Theo quan điểm của Ernesto Laclau, ý nghĩa của bản

sắc chỉ được khám phá một cách đầy đủ nếu bản sắc đó được tiếp xúc với

“người ngoài cuộc”. Ý tưởng ban đầu này cho rằng tiếp cận từ góc độ khác,

tiếp xúc với dân tộc Kinh cũng là cơ hội để cộng đồng Ê Đê nhận thức rõ hơn

về bản sắc của họ vì theo quan điểm của Ernesto Laclau, ý nghĩa của bản sắc

sẽ được khám phá đầy đủ nếu bản sắc đó được tiếp xúc với "người ngoài

cuộc" [Laclau 2005: 68]. Tự nhận thức có thể dẫn đến nhiều hành động khác

nhau để khẳng định bản sắc riêng của cộng đồng, và đối với người Ê Đê ở

Buôn Ma Thuột, đó là nỗ lực bảo tồn văn hóa truyền thống trước khi “làn

sóng Việt hóa” (Kinh hóa) lấn át trên Tây Nguyên Việt Nam.

1.3. Không gian cư trú buôn làng ÊĐê truyền thống

Xét về không gian cư trú buôn làng ÊĐê truyền thống, tôi sẽ nghiên

cứu dựa theo những thành tố chính cấu thành và xây dựng lên một kiến trúc

không gian cư trú tổng thể. Cụ thể là nhà ở và loại hình gia đình truyền thống

của người ÊĐê. Đây là hai thành tố chính tạo nên sự thay đổi cả về chất và

lượng trong không gian cư trú buôn làng nơi đây.

Về nhà ở

Nơi ở truyền thống của người ÊĐê là một ngôi nhà sàn dài – sang với

chiều dài trung bình từ sáu mươi đến tám mươi mét, thậm chí có thể đạt đến

16

cả trăm mét. Nhà được xây dựng vững chãi trên các cột, mái được lợp bằng

tranh và luôn được định hướng theo trục Bắc – Nam, cửa chính được đặt ở

đầu nhà không phân biệt hướng. Mỗi đầu nhà có một adring gah: là một hàng

hiên lát gỗ tròn để đặt cối, chày giã thóc hàng ngày cũng như những chiếc nia,

lồng gà, bành voi… Riêng đối với nhà giàu còn có thêm gơng mrai là những

cột gỗ to được chạm trổ. Người ta thường leo lên adring bằng cầu thang – ê

nan. Cửa nhà được làm bằng tre đan – còn gọi là bang bha, được mở bằng

cách đẩy trượt vào căn nhà chung, phòng này bao giờ cũng nằm ở phía Tây

của mặt tiền. Cửa dẫn vào các phòng riêng cũng như vậy nhưng nhỏ hơn [11,

tr. 153-154].

Dù dài bao nhiêu thì nhà sàn dài của người ÊĐê chủ yếu gồm có hai

phần: phòng chung – gah và phòng riêng – ôk. Trong đó, phòng chung chiếm

một vị trí quan trọng trong ngôi nhà. Phòng này có 3 gian, hai đôi cột trong

nhà chính là ranh giới giữa các gian, được trang trí bằng các hoa văn điêu

khắc với mô típ chính là sừng trâu, tắc kè, rùa cùng với các hoa văn được

cách điệu hay hình học. Cột ở phía gah được gọi là kmeh knang, còn ở phía

ôk thì kmeh kpang. Dưới chân cột phía Đông của cặp cột thứ nhất là Kpur –

bếp lò chung, hầu như lúc nào cũng nóng kể cả vào mùa nóng. Quanh bếp là

những chiếc ghế đẩu bằng gỗ được đẽo một cách thô kệch với 4 chân. Hai bên

cột là hai tấm phản mà việc chế tạo và bày biện là dịp người chủ nhà phải tiến

hành một lễ hiến sinh quan trọng, kèm theo nhiều điều kiêng kị. Đó là nơi để

đàn ông nghỉ ngơi vào ban ngày hoặc dùng cho khách qua đường ngủ lại. Dọc

theo chiều vách bằng tre đan ở phía Tây là chiếc ghế dài – Kpan, là chỗ ngồi

của dàn cồng chiêng. Dưới kpan người ta xếp những của cải, tài sản chung

của nhà như các nồi đồng lớn và cồng chiêng. Dọc vách phía đông treo các

ché đầy rượu hay rỗng [11, tr. 155-156]. Có thể nói, phòng chung chính là nơi

diễn ra toàn bộ đời sống cộng đồng những người dân làng, nó chính là linh

17

hồn đại diện cho tinh thần gắn bó cộng đồng đến tận máu thịt của mỗi người

Ê Đê.

Các căn buồng riêng là phần nối dài của phòng chung, được ngăn cách

với phòng này bằng một bức vách tre mở ra một hành lang rộng, trổ ra hành

lang này là các ngăn của từng gia đình nằm ở phía đông của hành lang, số

lượng tăng lên tùy theo nhu cầu và mức độ tăng sinh của người trong nhà.

Trong chiều dài ngôi nhà, ngăn gia đình chiếm một gian, nghĩa là khoảng

không gian giữa hai đôi cột cái, khoảng ba đến năm mét, được ngăn cách bởi

hai vách tre. Tấm vách tre theo kiểu cửa kéo, mở ra hàng lang trung tâm hiếm

khi được khép lại. Các ngăn được quét nhiều lần trong ngày, sạch sẽ và ít có

thứ gì vương vãi ở đó. Đồ đạc trong các ngăn khá đơn giản. Mỗi ngăn là

khoảng không gian riêng tư của các hộ gia đình nhỏ. [11, tr. 158-159].

Gia đình truyền thống

Gia đình truyền thống của người ÊĐê là một gia đình mẫu hệ mở rộng,

sống chung trong một mái nhà sàn, gồm nhiều gia đình nhỏ và mỗi hộ gia

đình sinh hoạt trong một căn buồng riêng của ngôi nhà. Mỗi căn buồng có

một cặp vợ chồng và con cái của họ. Chủ nhà – Posang là người đàn bà cao

tuổi nhất, thường là người chị cả chịu trách nhiệm trông nom và quản lý các

công việc trong nội bộ gia đình. Còn chồng của bà ấy thì lo các công việc

ngoài phạm vi ngôi nhà [15, tr. 22].

Dù cho quy mô của các gia đình mẫu hệ có khác nhau thế nào đi chăng

nữa thì trong số những phụ nữ trong gia đình, người chị cả luôn đóng vai trò

là người mẹ và nếu người chị cả là một bà góa đã già thì con gái của bà ấy sẽ

thay mặt mẽ giữ quyền tối cao trong gia đình. Trong những quyết định quan

trọng như chia gia tài hay chia của hồi môn, người con gái trưởng này vẫn

không quên tham khảo và xin phép ý kiến của mẹ [11, tr. 285].

18

Một vai trò khác rất quan trọng của chủ nhà là quản lý gia sản mà tổ

tiên để lại. Phần gia sản này gồm những của cải có giá trị lâu dài: chum ché

hay cồng chiêng cổ, nồi đồng tạo thành cái vốn có thể định giá; mặt khác là

những động sản trong nhà như ghế dài và ván phản, mà ta biết rằng giá trị của

chúng còn hơn những đồ vật bằng gỗ rất nhiều vì đó là biểu tượng của một

cương vị tôn giáo mà chủ nhà đã đạt được và cuối cùng là các vật dụng cho

việc cúng bái như: chén đồng hoặc bát đĩa sành dùng cho lễ hiến sinh, thảng

hoặc một cây gương và một cái khiên. Những thứ này vốn được thừa hưởng

từ ông bà, được truyền một cách toàn vẹn và tự động từ người con gái của thế

hệ trên cho người con gái cả của bà ta vẫn còn ở lại trong nhà [11, tr. 279-

285].

Trong cấu trúc gia đình truyền thống của người Ê Đê, một thành phần

đóng vai trò không kém phần quan trọng so với bà chủ nhà, đó là ông cậu –

dăm dei. Ông cậu là anh trai hay em trai ruột hoặc anh trai hay em trai họ của

mẹ. Khi dăm dei đã lập gia đình và về ở bên nhà vợ thì vai trò lại càng quan

trọng trong gia đình nhà mẹ đẻ. Trong gia đình mẹ, dăm dei đảm nhận nhiều

vai trò như: đứng ra giải quyết các mâu thuẫn phát sinh giữa các thành viên

trong nhà hoặc giữa người trong nhà với người ngoài, đại diện cho gia đình

của chị gái hay em gái để đi hỏi chồng cho con gái của họ. Người Ê Đê xem

dăm dei như là chỗ dựa của gia đình, dòng họ. Nếu dòng họ hay gia đình

không có dăm dei sẽ cảm thấy cô đơn, lẻ loi, không nơi nương tựa [9, tr. 53]

1.4. Bối cảnh tác động đến không gian cư trú của người Ê Đê từ sau 1975

đến nay

1.4.1. Chính sách phát triển kinh tế

Tây Nguyên là vùng địa lý sinh thái núi – cao nguyên phía Tây Trường

Sơn Nam của đất nước với diện tích gần 5.4 triệu ha. Với vị thế đặc biệt quan

trọng, Tây Nguyên được coi là “nóc nhà Đông Dương” và là vùng sinh thái

19

cảnh quan đầu nguồn. Bởi vậy, ngay từ sau 1975, nhà nước đã ban hành nhiều

chủ trương chính sách nhằm phát triển kinh tế của vùng Tây Nguyên nói

chung và tỉnh Đắk Lắk nói riêng. Buôn Ma Thuột với tư cách là thủ phủ của

vùng Tây Nguyên cũng trở thành đối tượng nhận được nhiều chính sách quan

trọng của nhà nước nhằm phát triển kinh tế.

Quốc hữu hóa tài nguyên đất rừng

Chính sách quốc hữu hóa toàn bộ tài nguyên đất và tài nguyên rừng đã

được nhà nước tiến hành ngay sau năm 1975. Cùng với đó là chính sách rà

soát quỹ đất của toàn bộ các tỉnh Tây Nguyên. Trong đó, những mảnh đất

đang trong thời kỳ hưu canh của người dân thuộc các dân tộc thiểu số, có cả

người Ê Đê đều được coi là đất hoang hóa hoặc đất rừng tự nhiên. Với mục

đích khai thác hiệu quả kho tài nguyên dồi dào ấy, nhà nước đã tiến hành

chuyển các đơn vị quân đội đang đóng quân trên địa bàn Tây Nguyên thành

các đơn vị kinh tế. Nhiều đơn vị quân đội độc lập cấp Trung đoàn đã được sử

dụng làm long cốt để xây dựng các nông lâm trường. Chiến dịch này cũng có

sự tham gia của các binh đoàn như binh đoàn 331, 332, 333. Ban đầu các đơn

vị quân đội này được gọi là các binh đoàn làm kinh tế, sau chuyển sang dân

sự và đổi thành Liên hiệp xí nghiệp nông, lâm, công nghiệp và sau này được

chuyển thành các công ty nông, lâm nghiệp [21, tr. 33].

Bên cạnh đó, các lâm trường quốc doanh cũng được thành lập tại Đăk

Lăk và hoạt động dưới sự quản lý của 3 liên hiệp và các lâm trường độc lập.

Diện tích đất lâm nghiệp phần lớn do các lâm trường trực thuộc Trung ương

quản lý: liên hiệp nông lâm công nghiệp Gia Nghĩa và liên hiệp nông lâm

công nghiệp Ea Súp quản lý 35/47 lâm trường; ngoài ra có hai lâm trường độc

lập và các đơn vị Ban Quản lý rừng, Vườn Quốc gia đều do bộ lâm nghiệp

quản lý. Các nông trường được thành lập trên cơ sở các đơn vị quân đội và

các đơn vị trực thuộc Bộ Nông Nghiệp. Liên hiệp 333 có 12/46 nông trường.

20

Xí nghiệp cà phê Việt Đức có 6/46 nông trường. Đến nay trên địa bàn tỉnh

Đắk Lắk còn có 57 công ty nông lâm trường – quản lý, quản lý 67% tổng diện

tích đất đai của tỉnh [9, tr. 68].

Trải qua một quá trình tái cấu trúc và đổi mới, Buôn Ma Thuột còn lại

một số công ty nông nghiệp đáng chú ý như: Công ty cao su Đắk Lắk, công ty

Cà Phê Buôn Ma Thuột, Công ty cà phê Việt Thắng và công ty D’rây

H’Linh…

Tập thể hóa và giải thể hợp tác xã nông nghiệp

Giai đoạn 1978 – 1980, nhà nước đã vận động người dân các dân tộc ở

Tây Nguyên chuyển sang kinh tế tập thể - thông qua hình thức tập đoàn và

hợp tác xã nông nghiệp. Đồng thời với đó, nhà nước cũng đan xen tổ chức di

dân từ đồng bằng lên Tây Nguyên làm kinh tế mới, tạo nên hình thái cư trú

xen kẽ Kinh – Thượng. Tại các vùng xen cư, hàng loạt các tập đoàn sản xuất,

hợp tác xã nông nghiệp cấp buôn và hợp tác xã nông nghiệp cấp xã được

thành lập. Đến cuối thập niên 1980, mô hình hợp tác xã được giải thể, đất sản

xuất do hợp tác xã quản lý được chia đều cho các nhóm di cư và các nhóm

dân tộc thiểu số tại chỗ [6, tr. 193].

Phát triển cây công nghiệp

Sau năm 1975, nhà nước chủ trương biến Tây Nguyên thành vùng

chuyên canh cây công nghiệp hàng đầu cả nước nhằm khai thác các lợi thế tự

nhiên của mảnh đất này. Chiến dịch phát triển cây công nghiệp bắt đầu xuất

hiện từ 1980 nhưng đến thập niên 1990 thì nó bùng lên mạnh mẽ và vẫn chưa

có dấu hiệu dừng lại cho đến thời điểm này.

Nắm bắt được xu thế phát triển mạnh mẽ trong thâm canh cây công

nghiệp, Đắk Lắk với những lợi thế lớn về thổ nhưỡng và điều kiện sinh thái

của mình đã nổi lên như một trung tâm lớn về cây cà phê. Từ 1975 đến nay,

diện tích cà phê của Đắk Lắk đã và đang phát triển rất nhanh chóng. Theo

21

thống kê của Sở nông nghiệp và phát triển nông thôn, Đắk Lắk có khoảng gần

200.000 ha cà phê với sản lượng trên 400.000 tấn chiếm 40% sản lượng cà

phê cả nước. Cà phê được trồng ở nhiều huyện thuộc tỉnh Đắk Lắk nhưng

trong đó, Buôn Ma Thuột được xem là thủ phủ cà phê của Đắk Lắk nhờ vào

chất lượng và hương vị đặc biệt của nó.

1.4.2. Chính sách phát triển văn hóa – xã hội

Mở rộng đô thị

Buôn Ma Thuột là thành phố nằm ở vị trí trung tâm của Đắk Lắk và

Tây Nguyên, lại có lợi thế đặc biệt về vị trí chính trị, kinh tế và văn hóa nên

ngay từ đầu thế kỉ XX, Buôn Ma Thuột đã được người Pháp chú trọng đầu tư.

Từ thập niên 1930 đến nửa đầu thập niên 1970, dưới thời Pháp thuộc và Việt

Nam cộng hòa, Buôn Ma Thuột chính là thị xã đầu não của cao nguyên. Sau

1975, trong bối cảnh đất nước thống nhất và đổi mới, Buôn Ma Thuột đã trải

qua một quá trình chuyển mình đầy ấn tượng. Nhằm hiện thực hóa chủ trương

đẩy mạnh công nghiệp hóa, đô thị hóa thời kỳ Đổi mới, Trung ương và chính

quyền địa phương đã đưa ra nhiều chính sách để phát triển đô thị Buôn Ma

Thuột trên cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Năm 1995, thị xã Buôn Ma Thuột đã

được nâng cấp lên quy mô thành phố. Mười năm sau (2005) Buôn Ma Thuột

gia nhập vào nhóm đô thị loại II. Năm 2010, Thủ tướng Chính phủ đã ký

quyết định công nhận thành phố Buôn Ma Thuột là đô thị loại I, thuộc sự

quản lý trực tiếp của tỉnh Đắk Lắk. Dự kiến đến năm 2020, Buôn Ma Thuột sẽ

trở thành đô thị trực thuộc Trung ương, cũng là đô thị trung tâm của vùng Tây

Nguyên.

Về tổ chức hành chính, thành phố Buôn Ma Thuột có 8 xã, 13 phường,

gồm 247 thôn, buôn, tổ dân phố (72 thôn, 142 tổ dân phố, 33 buôn). Cụ thể

như sau:

22

Khu trung tâm gồm các phường: Tân Tiến, Thắng Lợi, Thống Nhất,

Thành Công, Tân Lợi, Tự An, Tân Lập, Tân Thành.

Khu cần trung tâm gồm các phường: Khánh Xuân, Tân Hòa, Thành Nhất, Ea

Tam, Tân An.

Khu ven nội gồm các phường, xã: Cư Ebur, Hòa Thắng, Hòa Khánh,

Hòa Thuận, Ea Tu, Ea Kao, Hòa Phú, Hòa Xuân.

Bảo tồn văn hóa truyền thống

Thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương V khóa VIII (1998) về xây

dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc,

các tỉnh Tây Nguyên nói chung và thành phố Buôn Ma Thuột nói riêng đã

thực hiện nhiều chính sách nhằm khôi phục và bảo tồn văn hóa truyền thống

của nhóm dân tộc tại chỗ. Nhờ sự hỗ trợ ngân sách từ phía Nhà nước, hầu hết

các buôn ÊĐê trên địa bàn thành phố đều đã có nhà văn hóa để tổ chức các

sinh hoạt cộng đồng. Hệ thống cơ sở hạ tầng cũng như hệ thống truyền thông

của các buôn làng đã được cải thiện rõ rệt, giúp người dân có thể tiếp cận

nhiều hơn và nhanh hơn với thế giới bên ngoài. Hàng năm, chính quyền thành

phố cũng hỗ trợ ngân sách vào việc góp phần duy trì và phát triển những giá

trị văn hóa truyền thống tại các buôn. Nhờ đó, cảnh quan buôn làng cũng như

tình hình sinh hoạt văn hóa truyền thống trong các thôn, buôn ÊĐê ở Buôn

Ma Thuột cũng đã có nhiều khởi sắc.

1.4.3. Chuyển dịch cơ cấu dân cư và dân tộc

Từ những năm 1976 đến cuối thập niên 90 của thế kỉ XX, Đảng và Nhà

nước đã đề ra một số mục tiêu để thực hiện kế hoạch xây dựng vùng kinh tế

mới ở các tỉnh Tây Nguyên nói chung và Đắk Lắk nói riêng. Kế hoạch này đã

dẫn đến sự di dân trên địa bàn thành phố. Cụ thể, từ 1976-1996 Đắk Lắk đã

đón nhận 52544 hộ với 311764 khẩu, bình quân mỗi năm tiếp nhận 2400 hộ

dân di cư theo kế hoạch. Giai đoạn 1976-1985, di cư vào Đắk Lắk diễn ra ồ

23

ạt, chiếm khoảng 71% tổng số hộ đến trong 20 năm (1976-1996). Trong 10

năm tiếp theo (1986-1996), di cư theo kế hoạch giảm mạnh so với giai đoạn

đầu (chiếm 29%). Riêng giai đoạn 1991-1995, dòng di cư tự do phát triển

mạnh mẽ, lấn át dòng di cư theo kế hoạch, thậm chí còn lấn chiếm nhiều địa

bàn dự kiến tiếp nhận dòng di cư theo kế hoạch. Từ 1986-1996, có khoảng

131000 dân di cư tự do đến Đắk Lắk, hoàn toàn vượt trội so với lượng dân di

cư theo kế hoạch trong cùng thời kỳ là 87500 người (Mai Thanh Sơn 2011:

34). Buôn Ma Thuột với vị thế đặc biệt về cả kinh tế và chính trị đã trở thành

điểm dừng chân quen thuộc của nhiều luồng di cư trong cả nước. Trải qua 1

quá trình chuyển dịch dân cư và dân tộc, hiện nay ở Buôn Ma Thuột có 40 tộc

người cùng sinh sống, trong đó cộng đồng người Kinh và các nhóm thiểu số

phía Bắc chiếm gần 90%. Còn lại, là nhóm dân tộc tại chỗ với thành phần chủ

yếu là người ÊĐê chiếm 11.21%.

Như vậy, chúng ta có thể thấy, trước những chính sách phát triển về

kinh tế - văn hóa – xã hội mà Đảng và nhà nước đã đặt ra, Tây Nguyên nói

chung và thành phố Buôn Ma Thuột nói đã có nhiều thay đổi trên tất cả các

mặt cả về kinh tế, văn hóa lẫn chính trị, xã hội. Chính sự thay đổi nhiều mặt

và toàn diện đó đã dẫn đến một quá trình biến đổi không ngừng ở vùng đất

này, đặc biệt là sự biến đổi về không gian cư trú tại các buôn làng ÊĐê truyền

thống.

24

Chương 2. Quá trình biến đổi không gian cư trú buôn làng ÊĐê

Sau năm 1975, không gian buôn làng ÊĐê ở Buôn Mê Thuột diễn ra sự

biến đổi mạnh mẽ. Bên cạnh những biến về không gian sản xuất, không gian

sinh hoạt cộng đồng, không gian tín ngưỡng thì không gian cư trú của người

dân nơi đây cũng có nhiều biến đổi lớn như: Biến đổi về cơ cấu dân cư và dân

tộc, biến đổi về loại hình gia đình và kiến trúc nhà ở. Những biến đổi này dẫn

đến những hệ quả nhất định, không chỉ làm nên một diện mạo mới cho buôn

làng ÊĐê mà còn làm thay đổi cách nhìn, cách nghĩ, hành vi và lối sống của

người nơi đây.

2.1. Biến đổi về cơ cấu dân cư và dân tộc

2.1.1. Biến đổi cơ cấu dân số và cơ cấu tộc người

Một bước ngoặt lớn trong quá trình biến đổi không gian cư trú phải kể

đến là dân di cư. Giai đoạn sau năm 1975, các dòng dân di cư liên tục đổ về

nhập cư ở Buôn Mê Thuột bằng nhiều con đường khác nhau. Người dân từ

các vùng khác nhau đến, mua đất thổ cư của người ÊĐê, xây dựng nhà cửa,

định cư, lập nghiệp tại vùng này, họ sống trong buôn làng của người ÊĐê.

Quá trình này diễn ra mạnh mẽ từ thời bao cấp cho đến thời kì đổi mới. Vào

thời bao cấp, nhu cầu về lương thực, thực phẩm là một vấn đề cấp bách cần

được giải quyết, vì thế người dân ÊĐê đã buộc phải trích một phần đất vườn

để bán cho người dân nhập cư, cụ thể là người Kinh. Sang đến thời kì đổi

mới, nhu cầu về nhà ở, đời sống của người dân ÊĐê nâng cao đã thôi thúc họ

tiếp tục bán đất vườn để lấy tiền kiến thiết, xây dựng lại nhà cửa khang trang

hơn và phục vụ các nhu cầu khác của gia đình. Tình hình này diễn ra không

chỉ ở một khu vực hay buôn nào riêng nào mà nó diễn ở rất nhiều buôn thuộc

vùng trung tâm, cận trung tâm hay thậm chí là vùng ngoại ô thành phố. Một

hệ quả tất yếu của quá trình nhập cư ồ ạt này là sự thay đổi rõ rệt về cơ cấu

25

dân số, cụ thể là sự tăng lên nhanh chóng về số lượng người Kinh ở các buôn

làng Buôn Mê Thuột giai đoạn sau thập niên 1990.

Bảng 2.1: Cơ cấu dân số buôn Alê A năm 2015 - 2020

Số hộ Số khẩu Tỷ lệ (%) Nhóm

dân tộc

Năm 2015 2020 2015 2020 2015 2020

173 162 723 792 51,8% 50,7% Kinh

169 197 656 745 47% 47,7% Ê Đê

5 6 17 24 0,2% 1,6% Khác

347 365 1396 1561 100% 100% Tổng

số

Nguồn: [Trưởng Buôn Alê A cung cấp]

Về số hộ, chúng ta có thể thấy số hộ của người Kinh có xu hướng giảm,

còn số hộ của người ÊĐê có xu hướng tăng. Nguyên nhân là nằm ở việc tách

hộ của người ÊĐê. Người ÊĐê sau khi con cái kết hôn, không sống chung với

bố mẹ mà tách hộ ra ở riêng, có thể sống trong buôn để gần bố mẹ, cũng có

thể sống trong chính mảnh đất vườn được bố mẹ cho để dựng nhà. Bên cạnh

đó, người Kinh sau khi nhập cư vào buôn, có một số người đã kết hôn với

người ÊĐê và được cho đất dựng nhà cửa. Điều này đã giải thích cho việc, vì

sao số hộ ÊĐê ở buôn ngày càng tăng.

Về số khẩu, nếu như tỉ lệ dân số của người Kinh tăng 8,7% trong giai

đoạn 2015 – 2020 thì người ÊĐê tăng 12%. Và nếu như năm 2015, tỷ lệ

chênh lệch giữa người Kinh và người ÊĐê là 4,8% thì đến năm 2020, con số

này đã có sự giảm nhẹ xuống còn 3%. Mặc dù tỷ lệ người Kinh tại buôn vẫn

chiếm trên 50% so với người ÊĐê nhưng dựa vào những con số trên, có thể

thấy xu hướng dịch chuyển đang có sự thay đổi mới. Những người ÊĐê sau

khi kết hôn, họ sinh con đẻ cái chính là một phần nguyên nhân dẫn đến việc tỉ

26

lệ người ÊĐê tăng nhanh so với người Kinh. Vì người ÊĐê có xu hướng sinh

đông con hơn người Kinh.

Đối với buôn Alê A, nguyên nhân chính dẫn đến sự thay đổi cơ cấu dân

số là việc thay đổi quỹ đất. Trước đây, toàn bộ người ÊĐê có thể thoải mái cư

trú trên mảnh đất rộng 12 ha của buôn làng. Có những gia đình sở hữu cả một

ô bàn cờ tương đương với gần 1 ha đất, đủ cho cả một dòng họ chung sống

cùng một khu. Tùy nhiên, sau đổi mới, nhu cầu về nhà ở, sinh hoạt của người

dân có nhiều thay đổi. Nhà cửa của người dân bản địa bị xuống cấp, cần tu

sửa bảo trì hoặc xây mới để tiện cho sinh hoạt. Nhưng lúc bấy giờ, chi phí tu

sửa nhà tốn kém, kiếm tiền không dễ dàng, nguyên liệu để tu sửa nhà là gỗ

rừng cũng không còn. Bán đất là một lựa chọn tất yếu để người dân có điều

kiện tu sửa lại nhà cửa và cải tạo cuộc sống. Ngoài ra, sau giải phóng năm

1975, những cán bộ công chức và cả những mục sư Tin lành trước đó được bố

trí nhà ở giờ cũng mất việc và bị thu hồi nhà. Họ quay trở về buôn, bán đất để

lấy tiền dựng một ngôi nhà nhỏ hoặc di cư đến nơi khác. Giai đoạn này, bán

đất được coi là một xu hướng mới của các buôn làng ÊĐê ở Buôn Mê Thuột.

Về phía người Kinh, theo kế hoạch xây dựng vùng kinh tế mới ở Tây

Nguyên nói chung và tỉnh Đắk Lắk nói riêng, người dân ồ ạt đổ về đây nhập

cư, bao gồm cả đối tượng di cư theo kế hoạch lẫn đối tượng di cư tự phát. Với

tư cách là thủ phủ của Đắk Lắk và của vùng Tây Nguyên thì Buôn Mê Thuột

trở thành địa điểm dừng dân quen thuộc của nhiều luồng di cư trong cả nước.

Alê A là một buôn trung tâm nên đã thu hút một lượng lớn dân nhập cư, chủ

yếu là dân tộc Kinh. Người Kinh trong quá trình di cư đi làm kinh tế mới đã

mang theo cả gia đình họ, bao gồm vợ chồng con cái thậm chí cả anh chị em

đi cùng. Họ đến đây, mua đất, dựng nhà ở buôn làng, cùng sống, canh tác và

làm việc trên mảnh đất mới cùng với người dân bản địa. Lâu dần, buôn làng

người ÊĐê như trở thành ngôi nhà thứ hai của họ, họ tiếp tục làm ăn, sinh con

27

đẻ cái, con cái họ trưởng thành và lại tiếp tục lập gia đình, và cứ thế, họ đã

gắn bó cả cuộc đời mình ở nơi đây.

Có thể nói, việc người ÊĐê bán đất và dân nhập cư mua đất đã tạo nên

sự chuyển dịch cơ cấu dân số mạnh mẽ ở buôn Alê A. Đây cũng là bước

ngoặt lớn mở đầu cho sự thay đổi toàn diện cả về chất và lượng, tạo nên một

diện mạo mới cho buôn làng ÊĐê nói chung và không gian cư trú buôn làng

nơi đây nói riêng.

Khác với buôn Alê A, Êa Bông là một buôn nằm ở xa trung tâm hơn, vì

vậy, cơ cấu dân cư – dân tộc của buôn có phần nghiêng nhiều về phía tộc

người ÊĐê hơn.

Bảng 2.2: Cơ cấu dân số buôn Êa Bông 2015 – 2020

Nhóm dân Số hộ Số khẩu Tỷ lệ (%)

tộc

Năm 2015 2020 2015 2020 2015 2020

Kinh 41 42 179 201 13,33% 12,9%

Ê Đê 217 270 1163 1358 86,67% 87,1%

Khác 0 0 0 0 0% 0%

Tổng số 258 312 1342 1559 100% 100%

Nguồn: [Trưởng buôn Êa Bông cung cấp]

Theo thống kê, chúng ta có thể thấy Êa Bông là một buôn chỉ có người

Kinh và người ÊĐê. Hơn nữa, người ÊĐê chiếm một tỉ lệ khá cao (87,1%),

hoàn toàn vượt trội hơn hẳn so với người Kinh (12,9%). Tỷ lệ chênh lệch này

một phần do vị trí của buôn. Êa Bông là một buôn nằm ở khá xa trung tâm

thành phố, người Kinh khi định cư lại muốn tìm một vị trí ở gần trung tâm để

thuận tiện cho quá trình canh tác, kinh doanh và làm kinh tế nên họ không

chuộng những buôn xa như Êa Bông. Mặt khác, cố già làng của Êa Bông là

Ylho Eban đã đưa ra chủ trương ngay sau 1975: không bán đất thổ cư cho

28

người ngoài để tránh tình trạng cư trú hỗn tạp. Vậy nên, phần lớn dân số của

buôn làng đều là người ÊĐê. Người Kinh mặc dù cũng chiếm một tỉ lệ nhỏ

trong tổng cơ cấu dân số của buôn, nhưng phần lớn họ đều cư trú tại phía rìa

đường và tách biệt hẳn so với khu vực cư trú của người dân bản địa.

Có lẽ, chính bởi việc chiếm ưu thế hơn về mặt dân số mà buôn Ea Bông

vẫn còn giữ lại được một số nét văn hóa và phong tục truyền thống, những

nếp nhà sàn dài truyền thống. Bởi thế mà khi đến với Êa Bông, rất dễ để nhận

ra cái chất ÊĐê khó lẫn của nó. Có thể nói, cơ cấu dân cư và dân tộc đóng vai

trò quan trọng trong việc giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa của mỗi

tộc người.

2.1.2. Biến đổi cơ cấu tôn giáo

Trước 1975, Buôn Ma Thuột nói riêng và Tây Nguyên nói chung là

mảnh đất màu mỡ của các tín ngưỡng đa thần và đời sống tôn giáo của các

buôn ÊĐê trên thực tế xoay quanh hệ thống các nghi lễ nông nghiệp và nghi

lễ vòng đời. Sau năm 1975, các tôn giáo du nhập về Buôn Mê Thuột bằng

nhiều con đường khác nhau. Các tôn giáo lớn như Phật giáo, Kitô giáo, Tin

Lành, Cao Đài đã tạo nên một bức tranh phong phú, nhiều màu sắc và thu hút

đông đảo các nhóm dân tộc tham gia. Nếu như cộng đồng người Kinh có số

đông theo Kitô giáo và Phật giáo thì bà con dân tộc ÊĐê lại theo xu hướng

Kitô giáo và đạo Tin lành nhiều hơn.

Ở buôn Alê A, trước 1975, bà con chủ yếu theo tín ngưỡng truyền

thống, Kitô giáo đã có mặt trong cộng đồng, nhưng chỉ thu hút một số thanh

niên và gia đình của họ. Những thanh niên là thành phần đã tiếp thu văn minh

đô thị, lại được tiếp nhận với một nền giáo dục kiểu mới nên rất nhạy cảm với

cái mới. Thực tế này đã được miêu tả chi tiết trong chuyên khảo của Đặng

Hoài Giang: Lúc Amĩ Then (buôn Alê A) học lớp đệ tứ trường Vinh Sơn

(trường tư thục Kitô giáo) thì nhà thờ Mẫu Tâm vừa hoàn thành và cha cố

29

Bạch đang thúc đẩy công cuộc truyền giáo ở Buôn Ma Thuột. Từ mùa thu

1957, vào các buổi chiều trong tuần, cha Bạch thường đi xe Jeep đến các

trường Vinh Sơn, La San và Nguyễn Du đón học sinh người ÊĐê đến nhà thờ

Mẫu Tâm học giáo lý. Học xong, cha phát kẹo cho từng người rồi mang về

tận buôn. Ban đầu, Amĩ Then và các bạn đi học giáo lý chỉ vì tò mò trước cái

mới. Nhưng khi đã trưởng thành, họ thấy được lợi ích của việc học giáo lý

nên quyết định làm lễ rửa tội ở nhà thờ. Sau đó, họ vận động người thân đi

nhà thờ và một số người đã vận động thành công. Trước giải phóng, buôn Alê

A có khoảng 10 hộ Kitô giáo - chiếm 1/10 số hộ trong buôn. Họ là thế hệ cải

đạo đầu tiên ở buôn Alê A [9, tr. 173-174]. Hơi khác một chút so với buôn

Alê A, ở buôn Êa Bông, trước 1975, tín ngưỡng truyền thống vẫn là yếu tố

ngự trị đời sống tinh thần của người dân.

Tuy nhiên, sau 1975, trong bối cảnh Buôn Ma Thuột nói riêng và Tây

Nguyên nói chung bước sang một giai đoạn mới với nhiều thay đổi hệ trọng

về chế độ sở hữu tài nguyên, phương thức sản xuất và sinh kế, cơ cấu dân cư

và cơ cấu văn hoá, đời sống tôn giáo ở các buôn ÊĐê cũng chứng kiến những

thay đổi quan trọng theo các cách khác nhau. Ở Buôn Alê A đã diễn ra một sự

tương phản rõ rệt giữa tín ngưỡng truyền thống và các tôn giáo mới: trong khi

các nghi lễ/lễ hội truyền thống sớm vụt tắt thì các tôn giáo mới thâm nhập

nhanh và sâu trong cộng đồng. Thực tế này được phản ánh qua cơ cấu tôn

giáo của buôn:

30

Bảng 2.3. Cơ cấu tôn giáo, tín ngưỡng ở các điểm nghiên cứu

Buôn Tín ngưỡng truyền Nhóm Kitô giáo Nhóm Tin lành

thống

Alê A 39,34% 27,89% 32,77%

Ea 62,87% 25,36% 11,77%

Bông

[Nguồn: Trưởng buôn Alê A và Êa Bông cung cấp]

Nếu nhìn vào bảng trên, tuy tỷ lệ tự nhận theo tín ngưỡng truyền

thống ở buôn Alê A còn khá cao (39,34%) nhưng thực tế, ngoại trừ việc duy

trì lễ bỏ mả đã ít nhiều bị phôi pha theo hướng lược bỏ, nhóm này hầu như

không còn duy trì bất cứ nghi lễ truyền thống nào trong vòng vài chục năm

trở lại đây. Ngược lại, các nhóm Kitô giáo và Tin Lành của Alê A vẫn sinh

hoạt ở nhà thờ rất đều đặn. Ở Êa Bông, tình hình diễn ra theo chiều hướng có

phần ngược lại. Với xu thế cải đạo khó cưỡng ở Buôn Ma Thuột và Tây

Nguyên, một số hộ dân Êa Bông đã đi theo tiếng gọi của nhà thờ. Tuy nhiên,

các nhóm Kitô giáo và Tin lành chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ so với nhóm tín ngưỡng

truyền thống ở Êa Bông.

Kitô giáo và Tin lành có cách tiếp cận khác nhau trong mối quan hệ

với văn hoá bản địa. Kitô giáo có xu hướng dung nạp văn hóa truyền thống

của các tộc người, còn đạo Tin Lành thì ngược lại. Cụ thể là, những người

theo Kitô giáo vẫn thực hiện và tham gia vào các lễ nghi truyền thống của

người ÊĐê tại buôn như: lễ mừng lúa mới, lễ cúng sức khỏe, lễ thôi nôi, đánh

cồng chiêng, uống rượu cần… Ngược lại, các tín đồ Tin lành hầu như không

31

tham gia những hoạt động này. Đối với người theo đạo Tin lành, đánh chiêng

và uống rượu cần là một trong những điều cấm kỵ.

Như vậy, chúng ta có thể thấy xu hướng biến đổi tôn giáo của ở các

buôn làng ÊĐê nói chung và buôn Alê A, Êa Bông nói riêng là xu hướng từ

tín ngưỡng truyền thống sang Kitô giáo và Tin Lành. Bên cạnh đó, chuyển

dịch cơ cấu dân số, người Kinh và người ÊĐê sống gần nhau, xen kẽ với nhau

cũng góp phần tạo nên một nét mới trong tôn giáo của đồng bào dân tộc ÊĐê,

đó là việc người dân ÊĐê lập bàn thờ để tưởng nhớ về tổ tiên, về những người

thân đã mất. Và xu hướng này được người đồng bào gọi với cái tên mới là

Lương Giáo.

2.2. Biến đổi về loại hình gia đình và kiến trúc nhà ở

2.2.1. Biến đổi về loại hình gia đình

Nói đến sự biến đổi về loại hình gia đình ở Buôn Mê Thuột phải nói

đến sự phân rã các gia đình mở rộng. Đối với người ÊĐê, loại hình gia đình

mở rộng chính là nét đặc trưng tiêu biểu của một xã hội ÊĐê truyền thống.

Người ta đã rất quen thuộc với hình ảnh một ngôi nhà sàn dài với nhiều thế hệ

cùng sinh sống theo chế độ mẫu hệ mỗi khi nhắc đến tộc người ÊĐê. Tuy

nhiên, cho đến đầu thập niên 1980, khi nhà nước ban hành chính sách tổ chức

định canh định cư cho các làng dân tộc ở vùng Tây Nguyên, loại hình gia đình

mở rộng đã bị thay thế dần bằng một loại hình gia đình mới, đó là gia đình hạt

nhân. Điều này có nghĩa là, gia đình mẫu hệ lớn của người ÊĐê được tách nhỏ

ra thành các hộ gia đình độc lập, hay còn gọi là gia đình hạt nhân. Thay vì

sinh sống cùng nhau trong một ngôi nhà sàn dài như một thể thống nhất, một

khối liên kết chặt chẽ thì các hộ gia đình nhỏ sẽ phải sống như các đơn vị độc

lập. Các gia đình hạt nhân mới có thể sinh sống ở chính tại buôn làng đó,

cũng có thể chuyển sang làng khác hay thậm chí dựng nhà trên chính mảnh

32

vườn của gia đình lớn nếu được bố mẹ cho đất. Điều này phụ thuộc vào việc

phân chia đất của các gia đình.

Mỗi buôn sẽ có một định mức phân chia quỹ đất khác nhau tùy thuộc

vào quy mô quỹ đất và số dân ở buôn làng mình. Ở Alê A, do dân số đông

nên mỗi hộ chỉ được chia 500 mét vuông đất vườn. Ngược lại, ở buôn Êa

Bông do quỹ đất lớn, vùng cư trú rộng nên mỗi hộ được chia 1,5 sào đất

vườn. Những hộ thuộc phía rìa của buôn có thể nhận được quỹ đất lên đến 2

sào. Ở thời điểm mới tách hộ, việc phân chia đất định cư có thể chưa phải là

vấn đề lớn nhưng về lâu dài, khi số khẩu trong mỗi hộ tăng lên và giá đất lên

cao khi dân nhập cư đến ngày một nhiều thì quỹ đất đó chính là yếu tố quyết

định đến tương lai của các hộ gia đình [9, tr. 97]

Ở buôn Alê A, chính sách này được người dân đón nhận với thái độ

khá thoải mái và có phần hiện đại, thể hiện được tư duy đổi mới, hòa nhập với

xu hướng phát triển mới của xã hội.

“Bây giờ, con cái lập gia đình xong, có điều kiện thì ra ở riêng, bố mẹ

có đất thì cho đất, có tiền thì cho tiền để hỗ trợ. Còn gia đình mà không có

điều kiện thì vẫn tiếp tục ở với bố mẹ, khi nào đủ điều kiện kinh tế thì ra ở

riêng.” (Phỏng vấn sâu Cô Hduk Jin – Buôn Alê A).

“Việc có ở riêng hay không tùy gia đình, mỗi nhà mỗi khác. Như nhà

bà, cháu ngoại của bà lấy chồng người Kinh, hai vợ chồng học ở Đà Nẵng

xong không tìm được việc làm nên về đây, sống cùng với bà luôn. Con cháu

mình không có điều kiện thì mình nuôi. Ông bà đều có lương hưu nên lo được

thì lo thôi.” (Phỏng vấn sâu bà Hvai – nguyên hiệu trưởng trường tiểu học

Nguyễn Thị Định – Buôn Alê A).

“Bây giờ hầu hết mọi người kết hôn xong đều ra ở riêng cho thoải mái.

Nhưng em vẫn thích sống cùng bà và bố mẹ nên em không ra ở riêng. Chồng

em là người Kinh, bố mẹ chồng em cũng cho nhà nhưng hai vợ chồng không

33

ra riêng vì ở đây có bà và bố mẹ trông con cho nên đỡ cực. Hai vợ chồng có

thời gian đi làm.” (Phỏng vấn sâu em Hduk Lin – Buôn Alê A).

Có thể thấy, phần lớn người dân đều đón nhận chính sách tách hộ này

bằng thái độ đồng tình. Tuy nhiên, mỗi vấn đề đều có những lợi thế và bất lợi

riêng. Vậy, chúng ta hãy xem việc thay đổi thói quen sống, chuyển từ lối sinh

hoạt theo gia đình như một liên kết xã hội nhỏ sang lối sinh hoạt độc lập đã

tác động như thế nào đến người dân trong buôn làng.

“Nhà chị hai vợ chồng hai đứa con sống cùng nhau. Hai vợ chồng đi

làm rẫy rồi ai mướn gì thì làm đó. Kiếm tiền nuôi hai đứa con ăn học. Chị

thấy thoải mái lắm, không có vấn đề gì cả.” (Phỏng vấn sâu chị Klua – Buôn

Alê A).

“Con cái lấy vợ lấy chồng, rồi ra ở riêng thì đôi khi bố mẹ cũng buồn.

Nhưng mà xã hội hiện đại rồi, mình cũng phải thay đổi thôi. Nó ở riêng để nó

trưởng thành, làm chủ cuộc sống rồi còn nuôi dạy con cái chứ ở với bố mẹ,

bao bọc mãi chừng nào lớn.” (Phỏng vấn sâu HYun – Buôn Alê A)

Ở một buôn cận trung tâm như Alê A, dù là người già hay người trẻ thì

cũng đều có những cách nghĩ rất tiến bộ và văn minh. Bên cạnh đó, Êa Bông

mặc dù xa trung tâm, nhưng cuộc sống và cách nghĩ của người dân cũng

không kém phần hiện đại và đổi mới, luôn cải cách và thay đổi cuộc sống theo

kịp những chính sách mới của Đảng và nhà nước.

“Ở buôn chị giờ cứ lấy chồng ra ở riêng hết. Nhà chị có 10 anh chị em.

Ngày xưa sống cùng nhau ở nhà sàn sau đó giỡ đi xây nhà này. Các anh chị

em của chị lấy chồng lấy vợ xong đều xây nhà ra ở riêng hết. Hai chị xây hai

nhà trước, hai chị nữa ở nhà bên cạnh, còn các anh trai lấy vợ xong theo vợ

rồi. Chị cũng sắp ra ở riêng. Đất rộng nên mấy chị em ở quanh đây hết để

gần bố mẹ. Còn lại cô em út sau lấy chồng thì vẫn ở nhà này phụng dưỡng bố

mẹ thôi.” (Phỏng vấn sâu Chị H’ Dliu – Buôn Êa Bông).

34

“Bây giờ chỉ có con gái út ở với bố mẹ. Còn lại lấy vợ lấy chồng xong

đều ra ở riêng. Bố mẹ cho đất xây nhà, mọi người thường xây nhà cấp bốn

thôi vì không có nhiều tiền xây nhà to.” (Phỏng vấn sâu em H’ Ngo - Buôn Êa

Bông).

Có thể thấy, loại hình gia đình thay đổi từ gia đình mẫu hệ mở rộng

sang gia đình hạt nhân, nhưng chế độ mẫu hệ vẫn toát lên trong mỗi gia đình

ở các buôn làng ÊĐê. Dù là lấy chồng, ra ở riêng nhưng người con gái vẫn là

người có trách nhiệm chăm lo, phụng dưỡng bố mẹ khi về già. Hay khi tách

hộ, người cho đất để các cặp vợ chồng trẻ xây nhà ra ở riêng hầu hết là gia

đình nhà gái. Mặc dù những hộ gia đình lớn tách thành gia đình nhỏ nhưng

hầu hết những gia đình mới đều lựa chọn tiếp tục sống trong buôn để ở gần bố

mẹ. Họ vẫn hỗ trợ nhau trong cuộc sống hàng ngày như giúp nhau làm rẫy,

cùng nhau tổ chức những lễ cầu sức khỏe cho cả đại gia đình, ông bà thì giúp

trông cháu để con cái đi làm. Cuộc sống của người dân ÊĐê vẫn gắn bó chặt

chẽ với nhau. Tuy nhiên, không thể phủ nhận một điều là chính sách định

canh định cư của nhà nước đã chính thức chấm dứt sự tồn tại của loại hình gia

đình nhiều thế hệ cùng chung sống dưới mái nhà sàn của người ÊĐê, mở ra

một loại hình mới, một diện mạo mới trong buôn làng ÊĐê, dẫn đến sự thay

đổi về nhiều mặt của đời sống và xã hội ÊĐê truyền thống. Một trong những

thay đổi lớn nhất phải kể đến là sự biến đổi về loại hình và kiến trúc nhà ở.

2.2.2. Biến đổi về kiến trúc nhà ở

Biến đổi về loại hình gia đình dẫn đến sự biến đổi tất yếu không thể

tránh khỏi của loại hình và kiến trúc nhà ở. Cụ thể là sau khi tách hộ gia đình

từ gia đình mở rộng thành gia đình hạt nhân, nhà sàn dài trước đây sẽ bị tháo

xuống, nguyên vật liệu từ nhà sàn dài đó sẽ được phân chia cho các gia đình

hạt nhân để họ xây dựng một ngôi nhà sàn mới, chúng ta có thể tạm gọi đó là

nhà sàn hạt nhân.

35

Chính sách định canh định cư này diễn ra đồng loạt ở nhiều buôn làng

ÊĐê khác nhau, nhưng mỗi làng lại có một cách thức hoạt động và tách hộ

riêng. Ở buôn làng Êa Bông, nguyên vật liệu tháo dỡ từ nhà sàn dài sẽ được

chia đều cho các hộ gia đình nhỏ để họ dựng lên một ngôi nhà sàn mới. Các

gia đình giúp đỡ lẫn nhau trong việc dựng nhà hoặc nhờ đến sự giúp đỡ của

anh chị em họ hàng trong gia đình. Một số gia đình vì nhu cầu sử dụng chưa

nhiều nên phần nguyên vật liệu được chia sau khi tách hộ đủ để họ có thể

dựng lên một ngôi nhà sàn nhỏ cho riêng mình. Ngược lại, một số hộ khác với

nhu cầu sử dụng lớn hơn nên họ chủ động vào rừng kiếm thêm gỗ để có thể

dựng một ngôi nhà khang trang như ý muốn. Khác với buôn Êa Bông, buôn

Alê A sau khi tách hộ, các gia đình phải tự tìm nguyên vật liệu để dựng lên

một ngôi nhà sàn mới. Các hộ gia đình có thể tiếp tục ở trong buôn hoặc

chuyển sang sinh sống ở một buôn khác. Ngôi nhà sàn dài truyền thống vẫn

được giữ lại nguyên vẹn. Đặc điểm này khiến cho số lượng nhà sàn ở buôn bị

giảm đi nhiều do nhà sàn cũ bị hư hỏng, hư hại vì không được trùng tu thêm.

Bên cạnh việc phân chia nguyên vật liệu để dựng nhà, người ÊĐê cũng

tiến hành phân chia tài sản sau khi tách hộ. Có những gia đình dùng tài sản

được phân chia, mua một mảnh đất mới để dựng nhà. Nhưng cũng có những

gia đình do điều kiện kinh tế không đủ mà dựng tạm một ngôi nhà nhỏ trên

chính mảnh đất vườn được bố mẹ chia cho.

Về kiến trúc nhà ở, nếu như nhà sàn truyền thống có chiều dài từ vài

chục đến cả trăm mét thì nhà sàn thời định cư có chiều dài trung bình từ 15 -

20 mét, mang nhiều nét mới khác biệt hơn so với nhà sàn truyền thống. Cụ thể

là:

Hướng nhà sẽ được đặt theo hướng quy hoạch có sẵn của lô đất thổ cư,

không nhất thiết phải theo trục Bắc - Nam như nhà truyền thống [18, tr. 112].

36

Nhà có sàn thấp, sân sàn trước ngắn và không có sân sàn sau [9, tr. 97].

Thay vì dùng cửa lùa như trước đây, cửa của nhà sàn mới được thiết kế

để đóng mở với hai cánh, cài trong khóa ngoài.

Mái nhà không dùng mái tranh mà chuyển sang dùng mái ngói hoặc

mái tôn, sàn và vách tre được thay bằng gỗ [9, tr. 97].

Vách nhà thẳng đứng không xiên như vách nhà mái tranh trước đây

[15, tr. 178 – 179]

Diện tích của căn phòng khách được thu nhỏ lại. Chỉ có một gian buồng

sử dụng chung cho cả ngôi nhà, đặt được từ 1-2 chiếc giường ngủ.

Tính thiêng của ngôi nhà bị mất đi gần như hoàn toàn vì không còn

thực hiện các nghi lễ hiến sinh truyền thống cũng như không còn thực hiện

các điều cấm kị trong không gian ngôi nhà [9, tr. 97].

Như vậy, tác động đầu tiên của chính sách định canh định cư của nhà

nước đối với kiến trúc nhà ở của người Ê Đê chính là sự biến đổi từ nhà sàn

dài truyền thống sang nhà sàn hạt nhân.

Xu hướng biến đổi này vẫn tiếp tục diễn ra vài năm sau đó. Cụ thể là

nhà sàn hạt nhân đã không còn đáp ứng được đầy đủ nhu cầu về nhà ở và sinh

hoạt cho người dân, nên "bê tông hóa" đã trở thành xu thế mới trong vấn đề

nhà ở của các buôn làng. Khi các thế hệ thanh niên trẻ lớn lên, họ lập gia đình

và mong muốn ra ở riêng. Ông bà cha mẹ sau khi dựng vợ gả chồng cho con

cái phải tính việc tách hộ, dựng nhà cho con cái ở riêng. Nhưng thời điểm đó,

dân số tăng, quỹ đất hạn chế, điều kiện kinh tế hạn hẹp đã buộc nhiều gia đình

phải dùng chính mảnh đất vườn nhà mình để dựng tạm một ngôi nhà nhỏ cho

con cái ở riêng. Nguyên vật liệu không có, diện tích đất không đủ rộng nên

nhà ván có mái lợp tôn là lựa chọn được người ÊĐê ưu tiên hơn cả.

Vào những năm giữa thập niên 1990, nhà bê tông đã xuất hiện lác đác

trên các buôn làng ÊĐê. Một phần là vì việc sản xuất và kinh doanh cà phê

37

phát triển dẫn đến sự phát triển về kinh tế của người dân. Phần khác là vì sự

giao thoa, tiếp xúc văn hóa của người ÊĐê với người Kinh dẫn đến sự thay

đổi về suy nghĩ, nếp sống, thói quen sinh hoạt. Người dân có những nhu cầu

lớn hơn về nhà ở và việc lựa chọn kiến trúc nhà ở vì ngôi nhà theo kiến trúc

mới chính là cách để thể hiện sự hòa nhập văn hóa của họ. Bên cạnh đó, nhà

sàn truyền thống và nhà sàn hạt nhân đã có những dấu hiệu xuống cấp rõ rệt,

thôi thúc người dân đi theo xu hướng nhà ở mới. Đó là lý do vì sao giai đoạn

năm 2000, xu hướng xây nhà bê tông xuất hiện như một trào lưu trong các

buôn làng ÊĐê ở Buôn Mê Thuột.

Cho đến nay (2019 - 2020), sau gần hai thập kỷ của trào lưu bê tông

hóa, các buôn làng Ê Đê với những mái nhà sàn dài ngày xưa đã có một diện

mạo hoàn toàn mới và thật khó cho những ai lần đầu đặt chân đến buôn có thể

nhận ra đó là buôn làng của người ÊĐê.

Đối với buôn Alê A, nếu như năm 2015 cả buôn còn sót lại hai nhà sàn

thì đến nay, không còn một nhà sàn truyền thống nào còn sót lại trong buôn.

Khi đặt chân đến đây, hình ảnh các ngôi nhà bê tông, nhà xây, nhà cấp bốn

san sát nhau với đường sá, xe cộ đi lại khiến chúng ta hình dung đến một khu

phố huyện ở một tỉnh thành nào đó của người dân tộc Kinh. Mặc dù có một

mái nhà nhìn giống như nhà sàn của người ÊĐê nhưng thực chất không còn

hình ảnh nhà tranh vách nứa như xưa mà thay vào đó là nhà mái tôn, tường

xây bằng gạch xi măng, nền nhà được đổ bê tông hoặc lát gạch đá hoa và lối

cửa lên xuống cũng được làm bậc bê tông.

“Trước đây cô ở nhà sàn này, nhà này bằng tre nứa hết, dài lắm.

Nhưng nó bị hỏng, phải sửa lại bằng gỗ. Sau bị nghiêng hết nên lại sửa lần

nữa. Hồi giải phóng mái tôn bị trúng đạn, mưa gió dột hết không ở được nữa

nên phải sửa lại, mẹ cô lúc đó sắp mất, muốn được ở cái nhà này nên cô phải

vay mượn để sửa sang, xây dựng lại cái nhà này giống như nhà sàn để toại

38

nguyện cho mẹ cô. Giờ không ai ở nhà này, cô thỉnh thoảng qua lau chùi

thôi”. (Phỏng vấn sâu cô H’Nun - Buôn Alê A).

Như vậy, ngôi nhà giống với nhà sàn, còn được giữ lại và khôi phục

theo kiến trúc hiện đại cũng không còn đóng vai trò chính trong cuộc sống

của người dân Alê A. Nó chỉ đơn thuần là một nơi lưu giữ kỉ niệm cho người

dân Alê A thay vì là một ngôi nhà ở như trước đây.

Về phía buôn Êa Bông, vì ở xa trung tâm, kinh tế có phần kém phát

triển hơn, xu hướng đô thị hóa cũng chậm hơn nên chúng ta vẫn bắt gặp hình

ảnh những ngôi nhà sàn dài thấp thoáng trong buôn làng, đan xen cùng với

những ngôi nhà bê tông. Theo thống kê năm 2015, trong buôn có tất cả 26 nhà

sàn thì hiện nay con số này đã giảm gần một nửa, cả buôn chỉ còn lại 15 nhà

sàn. Một số gia đình vẫn sử dụng nhà sàn để ở, một số gia đình khác thì để

làm nơi chứa đồ và xây nhà mới để ở.

“Nhà chị làm hơn 20 năm rồi. Nhà dài 14m. Ngày xưa mái tranh, sau

sửa lại mái tôn hết. Nhà chị có một cái thang đi lên, cũng có một cái bếp thôi.

Nhà truyền thống phải có hai. Nhà có năm người ở. Có người mua nhà sàn

chị cũng không bán. Đất còn rộng, khi nào có tiền xây nhà bên cạnh chứ

không bán nhà. Mưa gió cũng ngại nhưng không có điều kiện để xây.”

(Phỏng vấn sâu chị Eban Hrim – Buôn Êa Bông).

“Nhà cô xây nhà sàn năm 1997. Nhà dài 12 mét, có một cửa lên. Hai

vợ chồng vẫn ở nhà. Sau này nhà hỏng cũng sửa để ở thôi chứ không xây nữa.

Hai nhà bên cạnh là nhà các con. Nhiều nhà có nhà xây rồi, không dùng nhà

sàn nữa nên bán.” (Phỏng vấn sâu cô Enuol H’Yun – Buôn Êa Bông).

“Nhà sàn xây 30-40 năm rồi, từ khi cô còn nhỏ nên nó cũ, hỏng nhiều

lắm rồi. Có nhà bê tông rồi nên nhà sàn chỉ để đồ thôi. Nhà cô bán rồi, không

ở nữa nên bán. Nhà 16 mét bán 70tr cho người ta về người ta xây nhà sàn

39

làm du lịch ấy. Nhà cô có một đứa con gái thôi, nhà bê tông xây to rồi để

cũng không ai ở.” (Phỏng vấn sâu cô Mi Doen – Buôn Êa Bông).

Có thể thấy, những ngôi nhà sàn còn lại ở Êa Bông giờ đây đang thực

hiện nhiều chức năng khác nhau. Nhiều gia đình giữ lại nhà sàn vì họ chưa

biết làm gì với ngôi nhà đó nên để làm nơi chứa đồ, nhiều gia đình khác đang

lên kế hoạch dỡ bỏ nhà sàn lấy đất xây nhà, chỉ còn một số gia đình giữ lại

nhà sàn để ở, tuy nhiên họ cũng đã có một căn nhà xây vững chãi bên cạnh.

Như vậy, nhà sàn vốn là một nét đặc trưng cho không gian cư trú của

tộc người ÊĐê nay đã trở thành một bộ phận nhà ở thiểu số trong không gian

cư trú buôn làng Êa Bông và biến mất hoàn toàn ở buôn Alê A. Việc thay đổi

về loại hình gia đình và kiến trúc nhà ở đã mang đến những hệ quả đáng kể

đối với không gian cư trú buôn làng của người ÊĐê ở Buôn Mê Thuột.

2.3. Hệ quả của biến đổi không gian cư trú

2.3.1. Những thay đổi trong đời sống gia đình

Nét đặc trưng trong không gian cư trú của người ÊĐê là ngôi nhà sàn

dài. Mỗi mái nhà sàn là đại diện cho một gia đình, một dòng họ cùng chung

sống với nhau. Trong đó, gõ esei là người đứng đầu cai quản cả gia đình bao

gồm gia đình nhỏ của người con gái đã kết hôn và những người con trai con

gái còn độc thân. Mỗi người con gái sau khi kết hôn đều làm chủ trong gia

đình nhỏ của mình, tuy nhiên mọi sự sắp xếp, điều khiển đều làm theo lời của

người phụ nữ đứng đầu mỗi bếp, người được gọi là ana gõ. Sau khi nhà nước

cho thi hành chính sách định canh định cư, các hộ gia đình nhỏ trong mái sàn

chung phải tách ra ở riêng. Điều này ít nhiều tạo ra những thay đổi trong mối

quan hệ giữa gõ esei và các ana gõ cũng như thay đổi trong mối quan hệ giữa

ana gõ và những người phụ nữ đã tách ra khỏi bếp chung.

Thay đổi đầu tiên mà tôi muốn nhắc đến ở đây là tính độc lập, tự quản

trong các gia đình bao gồm cả gia đình lớn của ana gõ và gia đình nhỏ mới

40

tách ra của những người phụ nữ khác. Trước đây, khi tất cả cùng chung sống

trong một mái sàn dài, cùng canh tác sản xuất và làm ăn kinh tế, vợ chồng ana

gõ sẽ là người nắm quyền hành trong việc giám sát, sắp đặt, quản lý các sản

phẩm thu được từ việc canh tác chung của cả gia đình [12, tr.285]. Cuộc sống

sinh hoạt và làm việc của họ giống như một cộng đồng nhỏ mà ở đó tinh thần

đoàn kết, cố kết cộng đồng là yếu tố quyết định đến sự phát triển của gia đình

đó, của cộng đồng nhỏ đó. Tuy nhiên, sau khi các hộ gia đình tách ra ở riêng,

họ sống trong một mái nhà riêng, sở hữu khu canh tác sản xuất riêng, trở

thành những đơn vị sản xuất độc lập thì tính tự quản trong mỗi gia đình là

điều tất yếu. Thay vì làm theo mọi quyết định của ana gõ như trước đây,

những gia đình mới giờ đây có thể tự đưa ra các quyết định riêng và làm chủ

cuộc sống riêng của chính họ như: Tự quyết về kiến trúc nhà ở, chuyện học

hành của con cái, việc canh tác và sử dụng đất canh tác, việc quản lý kinh tế

hay các sản phẩm thu được từ quá trình sản xuất, việc thiết lập các mối quan

hệ mới ngoài phạm vi một gõ esei... Tất cả đều do họ làm chủ dựa trên sự

tham khảo ý kiến từ ana gõ và các damdei, đúng như nhận định mà Thu

Nhung Mlo đã đưa ra. Đó là các gia đình nhỏ mới tách hộ là những cá thể,

những tế bào riêng cấu tạo nên buôn làng. Những gia đình này có sự độc lập

về kinh tế, độc lập về nhà ở giống như một đơn vị sản xuất kinh tế độc lập

chứ không còn là một phần tử của gia đình lớn như trước đây [18, tr. 111].

Sự thay đổi này bên cạnh việc tạo nên tính độc lập, tự quản cho các gia

đình mới còn góp phần giúp nhiều người trong gia đình có cơ hội tách ra khỏi

lớp vỏ bọc an toàn mà họ đang sống lâu nay để trưởng thành hơn. Khi sống

trong mái nhà sàn chung, việc mà nhiều gia đình nhỏ cần làm chỉ là nghe và

làm theo mọi sự sắp xếp của người đứng đầu là vợ chồng ana gõ. Giờ đây, khi

phải tách riêng, tự đi trên đôi chân của mình và tự đưa ra các quyết định trong

cuộc sống của mình, nhiều gia đình không tránh khỏi bỡ ngỡ. Những thay đổi

41

trong gia đình và thay đổi của từng thành viên trong gia đình cũng có thể bắt

đầu từ đây. Tuy nhiên, không thể phủ định một điều là việc tách hộ theo chính

sách định canh định cư của nhà nước đã làm một nét mới, thay đổi diện mạo

của một xã hội ÊĐê truyền thống.

Bên cạnh việc nâng cao tính độc lập, tự quản, việc thay đổi loại hình

gia đình cũng dẫn đến sự thay đổi về quyền thừa kế và phân chia tài sản trong

các gia đình. Nói về vấn đề này, trước hết tôi muốn đưa ra một phép so sánh

giữa chế độ phụ hệ của người Kinh với chế độ mẫu hệ của người ÊĐê. Trong

chế độ phụ hệ, quyền thừa kế tài sản được chia cho tất cả những người con

trai trong gia đình, dù là con trai cả hay con trai thứ cũng đều được phân chia

tài sản. Tuy nhiên, người con trai cả có trách nhiệm thờ cúng tổ tiên theo

phong tục truyền thống nên thường được ưu tiên phần nhiều hơn. Trái lại,

trong chế độ mẫu hệ của người ÊĐê truyền thống, quyền thừa kế và sở hữu tài

sản hoàn toàn thuộc về người con gái cả. Người con gái cả sau khi bố mẹ mất

sẽ thực hiện việc cai quản gia đình, tiếp tục giữ gìn và phát triển gia đình mà

bố mẹ đã xây dựng. Nét đặc trưng này có xu hướng thay đổi và dịch chuyển

sau khi thực hiện chính sách định canh định cư. Những người chị lớn trong

gia đình sau khi kết hôn sẽ lần lượt tách ra khỏi mái nhà chung, trở thành

những gia đình độc lập. Người còn ở lại trong nhà sau cùng thường là những

người con trai con gái út còn độc thân chưa lập gia đình. Vì vậy mà quyền

thừa kế toàn bộ tài sản được chuyển sang cho người con gái út. Sau khi cô

con gái út lập gia đình, hai vợ chồng cô sẽ không tách hộ mà tiếp tục ở lại

trong gia đình để phụng dưỡng chăm sóc cho bố mẹ khi họ về già, đồng nghĩa

với việc họ sẽ được kế thừa những tài sản mà tổ tiên để lại. Thậm chí, khi bố

mẹ phân chia đất đai hay tư liệu sản xuất, người con gái út bao giờ cũng được

ưu tiên phần nhiều hơn so với các anh chị trong nhà. Đó là lý do vì sao mà các

42

chàng trai ÊĐê luôn mong muốn được kết hôn với những cô con gái út và trở

thành rể út của những gia đình có nhiều nương rẫy ở vùng Buôn Mê Thuột.

Còn đối với những chàng trai ÊĐê sống trong một xã hội mẫu hệ truyền

thống, xét một phương diện nào đó, họ có phần thiệt thòi hơn so với chị em

trong gia đình. Nói về quyền thừa kế tài sản, trước đây người con trai trong

gia đình mẫu hệ hoàn toàn không được thừa kế bất kì tài sản gì từ bố mẹ và

gia đình. Sau khi họ kết hôn sẽ đến sống ở nhà vợ, tài sản duy nhất họ có thể

mang đi chỉ là những đồ dùng tùy thân tối thiểu như quần áo, chăn và các

công cụ lao động. Tất cả những đồ dùng anh ta sắm sửa khi còn độc thân đều

phải để lại nhà mẹ [11, tr. 346]. Sau này, khi việc phân chia tài sản có xu

hướng thay đổi trên bình diện giới tính thì người con trai trong gia đình bắt

đầu được chú ý đến nhiều hơn. Cụ thể là trong quá trình phân chia tài sản, bên

cạnh việc chia cho các chị em gái trong nhà thì người con trai cũng nhận được

một phần từ bố mẹ, bao gồm cả đất sản xuất. Khi kết hôn, người con trai cũng

được bố mẹ cho một vật mà theo ngôn ngữ của người Kinh, đó là “của hồi

môn” khi lập gia đình. Vật đó có thể là một chiếc xe máy mới hoặc chiếc xe

máy mà anh ta vẫn thường sử dụng. Tuy nhiên, điều ý nghĩa hơn cả đối với

người con trai ÊĐê thời đại mới là việc anh ta sẽ được bố mẹ cho đất xây nhà

sau khi cưới vợ hoặc được sống cùng với bố mẹ trong chính ngôi nhà hiện tại

nếu như gia đình bên vợ thiếu đất hoặc không có đất xây nhà. Sự thay đổi này

có thể nói là một bước đột phá trong gia đình mẫu hệ của người ÊĐê, nó

không còn đơn thuần là sự hỗ trợ, giúp đỡ về mặt vật chất mà là một tín hiệu

hết sức mới mẻ về vấn đề quy định, luật tục, văn hóa truyền thống của cộng

đồng người ÊĐê. Bước ngoặt lớn này có thể xuất phát từ sự tiếp biến văn hóa

của người ÊĐê với văn hóa của người Kinh theo chế độ phụ hệ, cũng có thể

đến từ quan điểm giáo dục của tôn giáo về hôn nhân và gia đình [9, tr. 105].

Tuy nhiên, nhìn ở một góc độ khác, so với người Kinh thì đàn ông ÊĐê không

43

phải đóng vai trò là trụ cột gia đình, không phải mang lễ cưới đi hỏi vợ,

không phải lo nhiều về vấn đề nhà cửa sau hôn nhân đồng nghĩa với việc

trách nhiệm của họ cũng phần nào được giảm nhẹ hơn so với người đàn ông

dân tộc Kinh. Nhìn chung, chế độ mẫu hệ của người ÊĐê vẫn còn giữ lại

những nét truyền thống nhưng đã có sự đan xen với chế độ phụ hệ của người

Kinh và mang hơi hướng của chính sách bình đẳng giới mà Đảng và nhà nước

đề ra.

2.3.2. Những thay đổi về mặt tiếp biến văn hóa

Quá trình di canh di cư đã biến không gian cư trú buôn làng của tộc

người ÊĐê thành không gian cư trú đa tộc người. Người dân tộc Kinh và các

dân tộc khác nhập cư về đây sinh sống, canh tác và sản xuất đã làm cho người

ÊĐê trở thành nhóm thiểu số so với các dân tộc khác trên chính buôn làng

truyền thống của mình. Dân tộc Kinh nhập cư về đây ngày càng nhiều và

chiếm tỷ lệ vượt trội hơn hẳn so với dân tộc ÊĐê dẫn đến sự tiếp biến văn hóa

Kinh - ÊĐê diễn ra tự nhiên như một quy luật tất yếu. Việc hai dân tộc khác

nhau sống đan xen cùng nhau trên một không gian cư trú khiến họ tương tác

với nhau, có sự học hỏi, tiếp thu, tác động qua lại lẫn nhau. Nhóm này tiếp

nhận những giá trị mới, những tinh hoa của nhóm kia và biến nó thành nét

văn hóa mới cùng mình, lâu dần họ quen với nền văn hóa tiếp biến ấy và thực

hiện nó như một thói quen trong đời sống sinh hoạt hàng ngày của mình.

Về mặt ẩm thực, sự hòa quyện ẩm thực giữa hai tộc người Kinh – ÊĐê

đã xuất hiện rất rõ nét trong bữa cơm hàng ngày của người ÊĐê. Thay vì chỉ

có hai món ăn cơ bản là: cơm và một món thức ăn như trước đây, giờ đây

người ÊĐê đã biết cách làm phong phú bữa ăn của mình với các món ăn mới

được chế biến cầu kỳ hơn với nhiều kỹ thuật nấu nướng hơn như chiên, xào,

nấu, nướng, rán… Bữa cơm của người ÊĐê cũng có cơm, món canh, món

mặn và một bát nước chấm như người Kinh. Đặc biệt là đối với những

44

nguyên liệu truyền thống của dân tộc mình như lá mì, cà đắng,… người ÊĐê

đã biết chế biến nó theo cách nấu của người Kinh, tạo thành những món ăn

mang tính đặc sản vùng miền, khiến cho du khách đến đây phải cảm thấy ấn

tượng và nhớ đến món canh cà đắng và lá mì xào của người ÊĐê như nhớ về

món ăn truyền thống của dân tộc họ. Ngoài ra, trước đây khi cả làng có lễ lớn

như đám tang, lễ bỏ mả, đám hỉ, lễ thôi nôi, lễ kết nghĩa… cả làng sẽ giết

trâu, bò, lợn, gà tập trung ăn uống cùng nhau. Qua đó người ÊĐê cũng học

thêm được những kĩ thuật chế biến đồ ăn của người Kinh. Ngày nay, những lễ

đó ít được diễn ra hoặc diễn ra với quy mô nhỏ hơn, người ÊĐê cũng có xu

hướng đặt món ăn từ nhà hàng của người Kinh hoặc đặt tiệc ở nhà hàng. Đến

với Buôn Mê Thuột, chúng ta có thể cảm nhận rõ rệt về sự đa dạng trong văn

hóa ẩm thực vùng miền. Món ăn miền Bắc, miền Trung, miền Nam đều hội tụ

đủ ở đây. Tuy nhiên, những món đặc sản truyền thống vẫn làm nên nét riêng

đặc sắc không thể hòa lần cho ẩm thực vùng này. Sự hòa nhập văn hóa này

không chỉ diễn ra trên phương diện ẩm thực mà nó còn diễn ra trên nhiều

phương diện khác, thể hiện trong chính những cách nhìn, cách nghĩ, cách

hành động của người dân ở buôn ÊĐê.

“Bây giờ đám cưới sẽ tổ chức theo phong tục truyền thống ở nhà, sau

đó lại tiếp tục đi ra nhà hàng, cô dâu chú rể mặc vest và váy cưới, tổ chức và

ăn uống ở đó lần nữa, giống như phong tục của người Kinh.” (Cô Hương –

Trưởng buôn Alê A).

Về mặt trang phục, hiện nay hầu hết người ÊĐê đều chuyển sang mặc

trang phục mới, giống như trang phục của người Kinh. Chỉ trừ những người

già vẫn còn giữ lại một vài nét nhỏ trong trang phục truyền thống, chẳng hạn

như mặc một cái váy dài đến mắt cá chân, nhưng bên trên mặc áo sơ mi hoặc

áo phông giống như người Kinh. Trang phục truyền thống chỉ được sử dụng

trong những dịp đặc biệt như lễ cưới, lễ hội, hay biểu diễn văn hóa truyền

45

thống vào những sự kiện đặc biệt cho buôn làng hoặc nhà nước tổ chức. Nói

về vấn đề trang phục, người dân trong buôn cũng bày tỏ quan điểm cá nhân

của mình:

“Mặc quần áo truyền thống rất nóng, không thoải mái và sinh hoạt

hằng ngày cũng bất tiện. Từ khi em sinh ra đã không còn thấy mọi người mặc

đồ truyền thống nữa rồi.” (Phỏng vấn sâu em H’Loan – Buôn Êa Bông).

“Thời tiết thì nóng bức, lại phải làm việc nặng nhiều nên không mấy ai

mặc đồ ngày xưa nữa. Cứ đồ nào thoải mái thì mặc thôi. Mà quần áo của

người Ê Đê giờ mua cũng đâu có rẻ đâu em, mắc lắm!” (Phỏng vấn sâu chị

H’Dliu – Buôn Êa Bông).

Sự thay đổi về trang phục không chỉ đến từ vấn đề kinh tế mà nó còn

nằm ở sự phù hợp trong nhu cầu của mỗi người. Người dân không còn diện

những trang phục truyền thống là bởi họ muốn hướng đến sự thoải mái và tiện

lợi trong đời sống sinh hoạt hàng ngày.

Về mặt tiếp biến tín ngưỡng, điểm đáng chú ý nhất phải kể đến là tục

thờ cúng tổ tiên. Theo văn hóa truyền thống của người ÊĐê, sau khi có đi

người thân mất đi, họ sẽ giữ mã từ 1-3 năm rồi sau đó làm lễ bỏ mả, cắt đứt

hoàn toàn quan hệ với người đã mất. Nhưng giờ đây, người ÊĐê đã học được

tục thờ cúng của người Kinh, trong nhà lập bàn thờ để tưởng nhớ đến người

đã mất và hằng năm cũng làm giỗ cho người đã mất, kể cả sau khi họ đã làm

lễ bỏ mả. Có thể coi là một trong những biểu hiện giao thoa văn hóa tiêu biểu

nhất giữa người ÊĐê và người Kinh.

Với vị thế là thành phố trung tâm của Đắk Lắk và Tây Nguyên, ngay từ

trước 1975, thành phố Buôn Ma Thuột đã được chú trọng đầu tư. Sau 1975,

thành phố này đã có những bước chuyển mạnh mẽ, bước vào thời kì phát triển

sôi động và nhanh chóng trở thành thủ phủ hành chính – kinh tế của toàn

vùng. Chính bối cảnh ấy đã tạo nên một diện mạo đa dạng, mới mẻ với những

46

sự thay đổi về nhiều mặt của thành phố này, đặc biệt là sự thay đổi về không

gian cư trú. Sau chương trình định canh, định cư của nhà nước, không gian cư

trú truyền thống của người ÊĐê ở Buôn Mê Thuột đã có những sự thay đổi

gần như chưa từng có trong lịch sử: Gia đình mẫu hệ mở rộng được chia tách

ra thành các gia đình hạt nhân nhỏ, tính đơn tộc được thay bằng hình thức cư

trú đa tộc, nhà sàn dài truyền thống dần được thay bằng những ngôi nhà bê

tông, nhà xây theo kiến trúc hiện đại. Bên trong một không gian cư trú với

kiến trúc mới, những nếp sống và thói quen sinh hoạt cũng dần có sự giao

thoa giữa Kinh – ÊĐê, từ đó quan hệ giữa các thành viên trong gia đình hay

các gia đình trong dòng tộc cũng có sự thay đổi theo hướng độc lập, tự chủ, tư

hữu và đề cao vai trò cá nhân hơn. Quá trình biến đổi nhanh chóng về nhiều

mặt này đã đặt ra nhiều vấn đề nghiêm trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến văn hóa

truyền thống mang tính tộc người như rừng thiêng, bến nước dần mất đi,

những ngôi nhà sàn dài truyền thống cũng thưa thớt dần và đứng trước nguy

cơ mai một. Tất cả đều đặt ra những vấn đề cấp bách cần được giải quyết

nhằm bảo tồn không gian cư trú truyền thống cũng như không gian văn hóa

của tộc người ÊĐê ở Buôn Mê Thuột.

47

Chương 3. Xu hướng và vấn đề đặt ra từ quá trình biến đổi không gian

cư trú buôn làng ÊĐê truyền thống

3.1. Các xu hướng biến đổi

3.1.1. Xu hướng bảo tồn kết hợp hiện đại hóa

Mặc dù hiện nay, không gian cư trú của các buôn làng ÊĐê đã có nhiều

thay đổi, nhà sàn truyền thống đang mất dần và được thay thế bằng các loại

hình nhà ở hiện đại như nhà xây cấp bốn, nhà tầng nhưng không gian cư trú

buôn làng ÊĐê đang được bảo lưu trong một chừng mực nhất định để duy trì

các giá trị văn hóa truyền thống.

Ở buôn Alê A, mặc dù nhà sàn dài truyền thống hiện không còn, nhưng

một số hộ gia đình đã có xu hướng sửa chữa lại nhà sàn trên cơ sở giữ nguyên

kiến trúc cũ và thay đổi vật liệu xây nhà để nâng cao tuổi thọ của mái nhà sàn.

Theo cô H’Nun chia sẻ, nhà sàn của gia đình cô được xây dựng từ trước năm

1975. Cô sống cùng bố mẹ và các anh chị em trong ngôi nhà sàn ấy. Do ảnh

hưởng của chiến tranh, mái nhà bị hư hỏng nặng, gia đình cô đã tu sửa lại

bằng cách lợp mái tôn. Tuy nhiên, thời gian qua đi, ngôi nhà sàn cũ dần và

buộc phải lựa chọn giữa việc tu sửa toàn bộ để tiếp tục ở hay xây dựng nhà

mới. Vì muốn cho bố mẹ được sống trong ngôi nhà mà gia đình đã gắn bó cả

cuộc đời, gia đình cô quyết định tu sửa lại nhà một lần nữa. Lần này, ngôi nhà

sàn mặc dù sử dụng vật liệu là xi măng, bê tông, nền nhà đá hoa nhưng kiến

trúc ngôi nhà vẫn được giữ nguyên vẹn, các cột trụ chính và xà ngang cũng

vẫn được làm bằng gỗ. Sau khi bố mẹ cô mất đi, gia đình cô đã có nhà bê tông

bên cạnh nhà sàn, nhà sàn không có ai ở nhưng gia đình cô vẫn quyết định giữ

lại ngôi nhà như giữ lại những kỉ niệm đẹp mà cả nhà đã sống cùng nhau

những năm tháng qua, đồng thời cũng là giữ lại một phần nhỏ nét văn hóa

truyền thống của người đồng bào mình qua mái nhà sàn ấy.

48

Bên cạnh việc tu sửa nhà cũ để giữ gìn văn hóa truyền thống, một số hộ

gia đình khác trong buôn Alê A cũng đã và đang hướng đến phương án xây

dựng nhà sàn với mục kinh doanh, phục vụ du lịch cộng đồng, cũng chính là

quảng bá văn hóa truyền thống của buôn mình, đồng bào mình. Hai anh em

anh H’Sieng cùng với bố mẹ mình quyết định xây dựng một ngôi nhà sàn mới

hoàn toàn, vật liệu 100% từ gỗ với mục đích kinh doanh du lịch cộng đồng.

Theo chia sẻ của gia đình, họ dự định sẽ tổ chức biểu diễn văn hóa truyền

thống như đánh cồng chiêng, uống rượu cần, chế biến các món ăn đặc sản của

người dân tộc Ê Đê trong nhà sàn. Phía dưới nhà sàn dùng làm quán cà phê và

karaoke. Kết hợp cả hai hình thức truyền thống và hiện đại, để phục vụ khách

du lịch tùy thuộc vào nhu cầu của du khách. Tính đến thời điểm hiện tại, ngôi

nhà đã hoàn thành và chi phí ước tính khoảng hơn 2 tỷ đồng.

Ngoài ra, buôn đã cho tu sửa lại nhà văn hóa thôn theo kiến trúc nhà

sàn. Tuy không phải nhà sàn truyền thống bằng gỗ như xưa nhưng kiến trúc

nhà sàn vẫn góp phần gợi lại những hình ảnh quen thuộc về một không gian

cư trú truyền thống của người dân. Mỗi dịp đặc biệt như ngày Phụ nữ Việt

Nam, ngày Thương binh liệt sĩ, ngày gia đình… người dân trong buôn sum

họp ở nhà văn hóa, cùng tổ chức các sự kiện đặc biệt cũng là cách để họ nhìn

lại những thay đổi của buôn làng mình, trân trọng những gì của quá khứ, của

truyền thống và ý thức về việc bảo tồn nó cho đến hiện tại và tương lai.

Khác với Alê A, buôn Êa Bông vẫn còn giữ lại được một số lượng nhà

sàn nhất định là 15 nhà sàn. Qua khảo sát, có một điểm rất đáng chú ý ở Êa

Bông đó là một bộ phận người dân vẫn đang nỗ lực duy trì nhà sàn truyền

thống mặc dù xung quanh có ngày càng nhiều những ngôi nhà xây, nhà cấp

bốn mọc lên. Điển hình là gia đình cô H’Vin. Nhà cô hiện tại đang có một

ngôi nhà sàn, xây dựng năm 1997. Sau khi các con cô lập gia đình, xây nhà bê

tông bên cạnh để ở thì chỉ còn hai vợ chồng cô sống ở nhà sàn. Hiện tại, nhà

49

sàn đã khá cũ, có nhiều người muốn mua lại nhà sàn, các con cô cũng muốn

bán nhà sàn, đón bố mẹ sang ở cùng nhưng vợ chồng cô không đồng ý. Sống

ở nhà sàn nhiều năm quen rồi, nên nếu nhà hỏng đâu thì sẽ sửa đó để ở chứ

không bán nhà. Hay như gia đình của chị H’ Luôn, mặc dù gia đình chị đã có

nhà cấp bốn bên cạnh nhưng hầu hết thời gian vẫn sống và sinh hoạt ở nhà

sàn, chỉ khi nào trời mưa lớn mới sang nhà cấp bốn để ngủ vì nhà sàn cũng đã

cũ và dột nhiều. Dự định của chị khi có tiền là tu sửa lại nhà sàn để ở tiếp chứ

không bán nhà.

Một bộ phận khác góp phần tạo nên xu hướng bảo tồn, lưu giữ lại

những truyền thống văn hóa của dân tộc chính là lớp người cao tuổi trong

buôn. Ông A’Thu là một nghệ nhân đã từng chơi cồng chiêng tại các sự kiện

lớn của tỉnh, của thành phố. Nhóm của ông gồm có 6 người, cùng nhau tham

gia những sự kiện văn hóa văn nghệ lớn nhỏ khắp vùng, nhưng hiện tại ba

người đã mất. Chỉ còn lại ba người nên nhóm đã tan rã. Vì một long muốn lưu

giữ lại nét văn hóa truyền thống này, ông đã tổ chức dạy chơi nhạc cụ dân tộc

cho các em bé ở trong buôn. Nhóm ông dạy có khoảng hơn 10 bé, học tại nhà

văn hóa của buôn. Qua việc dạy nhạc cụ, ông còn dạy cho các bé hiểu về văn

hóa của đồng bào mình, dạy cho các bé biết giữ gìn những giá trị văn hóa

truyền thống và giúp các bé hiểu được ý nghĩa của việc chơi nhạc cụ trong

chính ngôi nhà truyền thống của đồng bào mình.

Như vậy, mặc dù không giữ lại được nguyên vẹn toàn bộ cấu trúc nhà

sàn dài cũ nhưng xét trên phương diện tích cực thì không gian cư trú buôn

làng, cụ thể là nhà sàn vẫn giữ lại những yếu tố, biểu tượng cơ bản của không

gian cư trú truyền thống.

3.1.2. Xu hướng giải thể

Giải thể nhà sàn truyền thống là một xu hướng biến đổi rõ nét không

thể không nhắc đến khi nói về sự biến đổi không gian cư trú buôn làng ÊĐê.

50

Nhà sàn dài từ chỗ là loại hình kiến trúc duy nhất nay chỉ còn chiếm một tỷ lệ

rất thấp trong tổng thể nhà ở của các buôn. Trong nghiên cứu này, việc lựa

chọn một buôn cận trung tâm là Alê A và một buôn xa trung tâm là Êa Bông

cũng chính nhằm mục đích cho thấy sự khác biệt, liên quan trực tiếp đến tốc

độ đô thị hóa vùng.

Khi đến với Alê A, chúng ta sẽ không thể nhận ra đây là một buôn của

người dân tộc ÊĐê khi nhìn vào tổng thể không gian cư trú và kiến trúc của

buôn làng. Nhà tầng, nhà bê tông, nhà lợp mái Thái với tường, cổng, sân vườn

khang trang mang đến cho người xem một cảm giác như đang đứng giữa một

khu thị trấn của người Kinh. Và đặc biệt, nếu không có người giới thiệu thì sẽ

rất khó để chúng ta có thể tìm thấy một ngôi nhà sàn dù chỉ là mang kiến trúc

nhà sàn hay còn gọi là nhà sàn hiện đại. Nếu không có mục đích kinh doanh,

phát triển du lịch thì hầu hết người dân đều đi theo xu hướng mới là nhà xây,

nhà bê tông, nhà tầng với đầy đủ tiện nghi.

Không gian cư trú cũng có sự chuyển đổi từ không gian đơn tộc sang

không gian cư trú đa tộc. Người bản địa, người nhập cư, người dân tộc khác

kết hôn với người bản địa tạo nên một không gian tổng thể đa chiều, phức

hợp. Đến Alê A, ngoài kiến trúc nhà ở thì không gian tổng thể hai bên trục

đường chính cũng sẽ khiến chúng ta không khỏi ngạc nhiên. Các hiệu sửa xe,

các quán ăn sáng, các cửa hàng tạp hóa, hiệu cắt tóc dày đặc hai bên trục

đường chính khiến chúng ta khó mà cảm nhận được đang ở một buôn ÊĐê.

Buôn Êa Bông dù còn giữ được nhiều nhà sàn hơn, nhưng một xu

hướng biến đổi rất đáng lưu ý là các hộ gia đình ở đây bán nhà sàn. Bên cạnh

một bộ phận nhỏ những người dân nỗ lực lưu giữ giá trị văn hóa truyền thống

thì cũng có một bộ phận lớn người dân hướng đến những nhu cầu cuộc sống

cao hơn, chất lượng cuộc sống tốt hơn bằng cách bán nhà sàn. Một số người

51

dân bán nhà sàn với mục đích xây dựng một ngôi nhà mới khang trang, vững

chãi hơn. Một số người khác bán vì không có nhu cầu sử dụng nhà sàn nữa.

Như trường hợp của nhà bà Mi Lan, bà muốn bán nhà sàn vì nhà sàn

hiện tại rất cũ, nếu sửa sang lại nhà thì chi phí rất cao, tốn kém và kinh tế gia

đình bà không đủ để lo được việc đó. Nếu như bán nhà sàn, gia đình sẽ có một

khoản kinh phí lớn, đủ xây dựng một ngôi nhà mới để cả gia đình có thể yên

tâm hơn mỗi khi mưa khi nắng.

Hay như gia đình chị H’Jung, hiện tại có một ngôi nhà sàn dài khoảng

20m và một ngôi nhà mái bằng xây dựng cách đây 3 năm. Gia đình chị có ba

người, hai vợ chồng và một cô con gái đều đang sống ở nhà mới xây. Còn nhà

sàn hiện tại chỉ để không, bên dưới chăn nuôi gia súc. Chị H’Jung chia sẻ, chỉ

có một đứa con gái thì sau này đã có nhà xây rồi, còn nhà sàn để đó cũng

không ở không dùng đến nên bán đi lấy tiền làm ăn kinh tế và lấy đất vườn

trồng trọt, chăn nuôi.

Có thể thấy, trước khi nghĩ về việc giữ gìn những giá trị văn hóa truyền

thống thì người dân vẫn ưu tiên hơn đến cuộc sống của gia đình họ, vì đó là

cách để họ có thể cân đối, cải thiện và nâng cao cuộc sống cho không chỉ họ

mà còn con cái, những thành viên trong gia đình họ. Dù vậy thì chúng ta vẫn

rất cần có những phương án để có thể duy trì hay giữ lại một phần dù rất nhỏ

của những giá trị văn hóa truyền thống. Bởi lẽ, nhà sàn không còn thì các giá

trị văn hóa như các buổi lễ hiến sinh trong không gian nhà sàn dài sẽ bị mai

một khi con người tiếp thu những nền văn hóa mới và không chịu sự ràng

buộc của một loại văn hóa truyền thống duy nhất.

3.2. Vấn đề đặt ra từ sự biến đổi

3.2.1. Nhu cầu bảo tồn không gian cư trú truyền thống

Nói về bảo tồn không gian cư trú, phải khẳng định một điều là người

dân ÊĐê có nhu cầu bảo tồn giá trị truyền thống của dân tộc mình nhưng lại

52

chưa có định hướng rõ ràng nên nhu cầu đó chỉ là ý niệm, là nguyện vọng và

được thể hiện một cách rời rạc, thiếu hệ thống giữa một không gian mà nhà

xây đang chiếm tỷ lệ áp đảo.

Ở Alê A, gia đình cô H’Nun muốn giữ lại nhà sàn vì đó là kỉ niệm, là

ngôi nhà mà cô đã sinh sống cùng bố mẹ, anh chị em. Nó đã đi cùng gia đình

cô từ thời chiến tranh cho đến thời đất nước được hòa bình, đã trải qua biết

bao lần tu sửa, đã lưu giữ kỉ niệm của cả gia đình khi mà bố mẹ cô còn sống.

Một phần khác, cô cũng muốn giữ lại hình ảnh ngôi nhà sàn quen thuộc trước

khi buôn bị phủ kín bởi nhà tầng, nhà xây. Hay bản thân bà H’Vai, một người

già đã gắn bó với buôn gần cả cuộc đời, luôn canh cánh những hoài niệm về

thời cả làng còn nhà sàn, còn cùng nhau sinh hoạt văn hóa, tổ chức những lễ

nghi truyền thống. Giờ đây, điều duy nhất bà có thể làm là chứng kiến sự thay

đổi của buôn làng, chứng kiến một diện mạo mới hoàn toàn khác biệt so với

trước đây. Thậm chí bản thân bà cũng sống trong một ngôi nhà xây vì nhà sàn

đã quá cũ và không có chi phí để tu sửa. Điều đó cho thấy, bản thân những

người ÊĐê luôn có nhu cầu về việc lưu giữ lại giá trị truyền thống nhưng họ

đơn độc trong suy nghĩ và bất lực trong hành động bảo tồn vì thiếu nguồn

lực.

Thực tế này cũng là điều mà những người dân ở buôn Êa Bông đang

gặp phải. Những người năm nay đã ngoài 60-70 tuổi, đã gắn bó với buôn làng

cả cuộc đời, những người mà hình ảnh mái nhà sàn, bến nước đã in sâu vào

tâm trí của họ. Tất cả họ đều muốn giữ lại hình ảnh nhà sàn, để cho con cháu

họ được chứng kiến, cảm nhận và hiểu về cuộc sống của tổ tiên, của dân tộc Ê

Đê. Cô H’Jung chia sẻ: “Trước đây các nghi lễ được tổ chức ở nhà sàn, không

có nhà sàn thì lấy nơi nào để tổ chức nghi lễ. Phải có các nghi lễ thì con cháu

mình mới hiểu được về dân tộc mình, cả làng mới đồng lòng được”. Có lẽ,

bởi vậy mà nhà sàn dù cũ và đã bị hỏng ít nhiều, vợ chồng cô cũng sửa tạm để

53

ở chứ quyết không bán nhà. Dù thực sự muốn giữ lại được ngôi nhà, giữ lại

truyền thống để dạy cho con cháu hiểu về dân tộc mình nhưng cô H’Jung

cũng không thể khuyên các gia đình khác cũng giữ nhà sàn như mình vì suy

nghĩ và nhu cầu của mỗi người khác nhau. Thậm chí như cô H’Duyen, khi

được hỏi về mong muốn, bản thân cô vẫn muốn buôn làng cùng nhau sinh

hoạt và tổ chức lễ nghi trong không gian nhà sàn nhưng gia đình cô đã bán

nhà sàn vì nó đã quá cũ, không thể ở và cũng không có nhu cầu sử dụng nữa.

Như vậy, giữa việc có nhu cầu và làm gì để đáp ứng nhu cầu đó lại một lần

nữa là hai câu chuyện khác nhau được đặt ra ở buôn Êa Bông.

Đối với người dân ÊĐê, tuy không phải là tất cả nhưng hầu hết người

dân bản địa vẫn quan tâm đến việc bảo tồn các giá trị truyền thống của dân

tộc nhưng bản thân họ lại không biết phải làm gì để bảo tồn, và cứ thế các

hoạt động xây nhà, bán nhà sàn tiếp tục diễn ra để phục vụ nhu cầu cuộc sống

thiết yếu của mọi người. Còn nhu cầu về bảo tồn dường như chỉ còn trong suy

nghĩ của mọi người khi nghĩ về hay khi nhắc đến.

3.2.2. Sự thay đổi quá nhanh của không gian cư trú truyền thống

Như chúng ta đã biết, Buôn Ma Thuột là một đô thị nằm trên một vùng

địa sinh thái, địa văn hóa khác với những đô thị vùng xuôi như Hà Nội, Hồ

Chí Minh hay Đà Nẵng. Có thể nói Buôn Ma Thuột giống như một đô thị

rừng vì nó nằm ở vùng núi rừng Tây Nguyên và rừng chính là một nét đặc

trưng của vùng đô thị này. Nói đến Buôn Ma Thuột, có lẽ nhiều người sẽ hình

dung đến một thành phố đậm đà sắc màu cao nguyên với những ngôi nhà sàn

dài bằng gỗ nằm cạnh bến nước, các khu rẫy và thảng hoặc bắt gặp những vạt

rừng còn sót lại. Nhưng giờ đây khi đến với Buôn Ma Thuột, hình ảnh mà

chúng ta nhìn thấy là một thành phố hiện đại với những ngôi nhà cao tầng,

phố xá, người xe đi lại tấp nập, các trung tâm kinh doanh buôn bán sầm uất.

Đến với các buôn làng ÊĐê vùng trung tâm thì thấy hình ảnh những ngôi nhà

54

xây, nhà cấp bốn san sát nhau và nhà sàn là một hình ảnh thật hiếm gặp. Hay

khi đi xa hơn để tới các buôn xa trung tâm thì lại bắt gặp hình ảnh những ngôi

nhà sàn bị lu mờ, lạc lõng trong tổng thể không gian kiến trúc mà nhà xây

chiếm vai trò chủ đạo còn dấu ấn rừng thì hầu như không còn nữa. Tiến trình

quy hoạch đô thị hóa ở Buôn Ma Thuột quá chú trọng đến các không gian bề

thế, hiện đại đang ảnh hưởng nghiêm trọng đến không gian cư trú truyền

thống, làm mất đi giá trị văn hóa và nét đặc trưng vốn có của một khu đô thị

rừng giữa vùng núi Tây Nguyên.

Bên cạnh đó, quá trình tiếp biến văn hóa Kinh – ÊĐê cũng làm thay đổi

tư duy và cách nghĩ của người bản địa về không gian cư trú lâu đời của mình.

Nhà xây của người Kinh khang trang, chắc chắn và nhiều tiện ích đã thu hút

người ÊĐê tìm hiểu và áp dụng loại hình nhà ở mới này vào cuộc sống của

họ. Ban đầu là những mái nhà cấp bốn lợp mái tôn, lâu dần là nhà mái bằng

đổ bê tông và ngày càng nhiều những nhà tầng mọc lên. Và cứ như thế, nhà

sàn ngày càng ít đi và dần trở nên hiếm gặp ở những buôn làng mà trước đây

nhà sàn là mô hình kiến trúc chung của tất cả mọi nhà. Tiếp biến văn hóa,

người dân ÊĐê thay đổi nhà ở và nhu cầu cuộc sống của họ cũng thay đổi

theo. Họ dần hướng đến sự tiện lợi và hiện đại, thay vì lấy nước ở bến nước

như trước đây thì giờ đây, người dân sử dụng nước máy, nước giếng khoan

nên bến nước cũng dần trở nên xa lạ và bị bỏ lại phía sau trong quá trình phát

triển của buôn làng.

Ở buôn Alê A, bến nước chỉ còn tồn tại trong đầu mỗi người dân như

một hoài niệm. Khi tìm đến bến nước mà trước đây, hầu hết người dân đều

lấy nước sinh hoạt ở đó, tôi chỉ thấy hình ảnh của một con suối với những cái

túi nilon nổi lềnh bềnh trên mặt nước hay những cành cây khô nằm vắt ngang

suối khi bị mắc vào những tảng đá. Mặc dù buôn đang có kế hoạch xin ngân

sách của thành phố để khôi phục lại bến nước nhưng rồi ai sẽ là người đến đó

55

lấy nước và sử dụng nước ở đó khi mà mọi nhà đều đã có nguồn nước giếng

khoan cho mình? Nhu cầu sử dụng không có, nhu cầu tâm linh không nhiều,

thế thì liệu rằng bến nước đó sẽ tồn tại như thế nào sau khi được phục dựng

lại? Hay ở Êa Bông, bến nước vẫn còn đó, lễ hội bến nước vẫn được tổ chức

nhưng mức độ đã thưa thớt dần. Trước đây người dân tổ chức lễ hội bến nước

mỗi năm một lần nhưng hiện tại tổ chức hai năm một lần. Lần gần nhất tổ

chức lễ hội bến nước là vào năm 2018 và năm nay là năm 2020 nhưng người

dân chưa có kế hoạch gì về việc tổ chức lễ hội này. Liệu rằng lễ hội truyền

thống này sẽ diễn ra thêm được bao nhiêu lần nữa, nó sẽ được duy trì thế nào

khi một ngày nào đó những già làng đi đầu trong việc duy trì lễ hội không

còn?

Chính vì lẽ đó, thế hệ trẻ đang đứng trước nguy cơ không còn thấy

được những nét văn hóa truyền thống, ngôi nhà truyền thống mà cha mẹ, ông

bà mình đã từng sống. Vô tình, một phần lịch sử về dân tộc, về buôn làng bị

mai một đi trong mắt người trẻ. Sự thấu hiểu về giá trị lõi của lịch sử, của

phong tục truyền thống cũng dần mất đi. Những cơ hội được chứng kiến và

tham gia những lễ hội truyền thống đặc sắc của buôn làng, của vùng miền

ngày càng ít dần và sẽ mất hẳn nếu không có biện pháp bảo tồn. Bởi lẽ đó,

vấn đề về bảo tồn là một điều hết sức cấp thiết và cần được quan tâm.

3.2.3. Thiếu sự liên kết giữa nhà nước và cộng đồng trong vấn đề bảo tồn

Công bằng mà nói, chính quyền các cấp ở thành phố Buôn Ma Thuột

đã có những nỗ lực nhất định nhằm bảo tồn văn hoá truyền thống của người

ÊĐê. Tuy nhiên, các giải pháp bảo tồn lại chủ yếu xuất phát từ cách nhìn của

cán bộ người Kinh. Lấy văn hóa người Kinh làm chuẩn, chưa có sự suy xét về

tính phù hợp của chính sách đó đối với người ÊĐê và văn hóa ÊĐê. Những

chính sách đưa xuống dưới các buôn làng chưa thực sự được xem xét, đánh

56

giá xem người ÊĐê có thật sự cần hay không và điều đó có quan trọng hay

không?

Ở buôn Alê A, chính quyền đã cho xây dựng lại nhà văn hóa của buôn

làm nơi tổ chức các hoạt động sinh hoạt của buôn. Chủ thể tiếp nhận giá trị

này là người dân trong buôn nhưng họ lại không nhận được sự tham khảo ý

kiến hay bất kì sự bàn bạc nào về việc xây dựng từ phía chính quyền. Từ khâu

thiết kế đến khâu xây dựng như kiến trúc, vật liệu xây dựng, hay mục đích, kế

hoạch sử dụng người dân đều không được tham gia đóng góp ý kiến. Thậm

chí đơn vị thi công cũng là do người Kinh thực hiện. Sau khi xây dựng xong

nhà sàn đó, chính quyền bàn giao lại cho người dân. Điều này thể hiện sự

thiếu tôn trọng tiếng nói của người trong cuộc, cũng bởi thế mà người dân

không mặn mà với nhà văn hóa đó. Đó được dùng làm nơi diễn ra các hoạt

động chung của buôn nhưng người tham gia chỉ là một số đối tượng có liên

quan trực tiếp.

Còn ở buôn Êa Bông, tình trạng bán nhà sàn và xây nhà bê tông đang

diễn ra ồ ạt. Tất cả các hoạt động đều diễn ra tự phát tùy vào nhu cầu và mục

đích sử dụng của người dân. Họ bán nhà vì không có nhu cầu sử dụng nữa,

hoặc họ bán nhà để lấy tiền xây một ngôi nhà mới chắc chắn hơn. Chính

quyền không có tác động gì đến người dân và và người dân cũng không có sự

dẫn dắt, chỉ đạo hay một định hướng rõ ràng nào từ phía chính quyền nên tất

cả những gì họ có thể là làm những quyết định mang tính tự phát. Thực tế này

đang cho thấy một mối liên hệ rời rạc, thiếu tính liên kết, chia sẻ giữa chính

quyền nhà nước với cộng đồng dân cư.

3.3. Đề xuất nhằm quy hoạch và bảo tồn

3.3.1. Nâng cao nhận thức về vai trò của không gian cư trú truyền thống

Trong đời sống của người ÊĐê ở Tây Nguyên, nhà sàn chính là nguồn

cội, là nơi che chở cho các gia đình qua nhiều thế hệ và cũng là nơi lan tỏa

57

văn hóa cộng đồng. Bởi vậy, việc bảo tồn và phục dựng lại những ngôi nhà

sàn dài để góp phần bảo tồn kiến trúc văn hóa truyền thống nói chung và

không gian cư trú buôn làng của người ÊĐê nói riêng là một việc làm hết sức

quan trọng và cần thiết. Nâng cao nhận thức của người dân về vai trò của

không gian cư trú truyền thống là việc làm cấp thiết cần được triển khai.

Sở dĩ người dân tự xây cất nhà của mình theo hướng “Kinh hóa”, “bê

tông hóa” là vì họ chưa có những định hướng cụ thể để có thể quy hoạch một

cách bài bản, có hệ thống và hơn hết là họ chưa thật sự nhận thức rõ được vai

trò của nhà sàn trong đời sống hiện đại. Bởi vậy, chính quyền các cấp cần có

những phương hướng, biện pháp cụ thể để cho người dân thấy rõ được vai trò

của nhà sàn. Nhà sàn không những là không gian thực hành, nuôi dưỡng, trao

truyền những giá trị văn hóa tộc người mà nó còn là hồn cốt, là linh hồn của

buôn làng ÊĐê mà họ đang sinh sống. Nếu không có nhà sàn, điều gì có thể

làm nên nét đặc biệt cho buôn làng? Điều gì có thể khiến cho người khác

nhận ra đó là một buôn làng ÊĐê?

Kể những câu chuyện về buôn làng, người trước kể cho người sau, cha

mẹ kể cho con, ông bà kể cho cháu, người dân làng cùng kể cho nhau nghe và

động viên nhau giữ nhà sàn, giữ lấy hồn cốt của người ÊĐê cũng là cách để

các thế hệ trước có thể truyền lửa, tiếp sức cho thế hệ sau cùng lưu giữ bản

sắc văn hóa của dân tộc mình. Giống như ông Khăm Phết chia sẻ: “Bảo tồn

những nét đẹp văn hóa luôn được ông quan tâm, nhất là những ngôi nhà dài -

nét đẹp văn hóa người của buôn làng Tây Nguyên. Trong ngôi nhà dài thường

có chiếc ghế K’pan là chiếc ghế dài. Nó được để về bên phía mặt trời lặn vì

theo quan niệm của người Tây Nguyên, ghế K’pan thường để dùng trong các

dịp lễ, đám để mọi người ngồi đánh và thường để về phía mặt trời lặn…Còn

chiếc xưn K’pan là ghế ngắn thì được đặt về phía mặt trời mọc có ý nghĩa

thường để gia chủ nằm hoặc ngồi đón nhận những điều tốt đẹp từ phía mặt

58

trời hy vọng cuộc sống có những tương lai rực rỡ đẹp như lúc buổi sáng…

Chọn gỗ để làm ghế K’pan không đơn giản. Muốn lấy gỗ làm thì phải lên

rừng chọn làm lễ cúng thần Rừng sau đó lấy rìu bập vào cây, hai ba ngày sau

lên nếu thấy rìu còn dính trên cây thì mới được làm. Nếu rìu rơi xuống đất có

nghĩa là thần chưa cho làm thì không được lấy gỗ về. Vì vậy mà ghế K’pan và

xưn K’pan rất thiêng… Từ xa xưa đến sau này, nhà sàn của người Tây

Nguyên thường được làm bằng tranh tre nứa, lá, gỗ ván rất ấm cúng…” Qua

những câu chuyện như vậy, người dân sẽ thấy yêu và hiểu hơn về dân tộc

mình, văn hóa truyền thống của đồng bào mình và càng có thêm niềm tin tốt

đẹp để cùng nhau bảo vệ những nét đẹp truyền thống vốn có trong văn hóa

buôn làng của mình.

Bên cạnh đó, những người già làng gắn bó với buôn làng cũng luôn có

mong muốn truyền lại những giá trị văn hóa tốt đẹp cho thế hệ sau và đang

từng bước hiện thực hóa mong muốn ấy. Ông Ama Thu ở buôn Êa Bông đã

ngoài 70 tuổi nhưng hàng ngày vẫn mở lớp, kêu gọi và miệt mài dạy cho trẻ

em trong buôn học chơi các nhạc cụ truyền thống ở nhà sinh hoạt cộng đồng.

Chính quyền cũng nên có biện pháp kêu gọi người dân hưởng ứng và cho con

em tham gia vào các lớp học như thế để có thể lưu truyền lại những giá trị văn

hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc mình.

3.3.2. Nâng cao nhận thức về phát triển du lịch cộng đồng tại buôn

Tây Nguyên có trên 30% dân số là người dân tộc thiểu số. Kinh tế nhìn

chung chậm phát triển hơn so với các khu vực khác. Cơ cấu kinh tế chủ yếu

vẫn là nông nghiệp, thậm chí một số nơi vẫn còn hình thức sản xuất nông

nghiệp lạc hậu gắn với tập quán canh tác cổ truyền của nhân dân thuộc nhóm

dân tộc thiểu số. Xét từ khía cạnh du lịch, Tây Nguyên hoàn toàn có đầy đủ

khả năng để triển khai mô hình du lịch cộng đồng một cách rộng rãi. Vì vậy,

việc nâng cao nhận thức về phát triển du lịch cộng đồng tại buôn là một trong

59

những việc làm cần thiết để góp phần bảo tồn không gian cư trú truyền thống.

Cụ thể là cần cho người dân thấy và hiểu được những đặc thù của Tây

Nguyên cho phép phát triển lịch cộng đồng, chẳng hạn như:

Đối với khu vực có nhiều cộng đồng dân tộc thiểu số sinh sống, đặc

biệt là các buôn của người ÊĐê, phát triển du lịch cộng đồng sẽ dựa trên cơ sở

sự khác biệt văn hóa khi so sánh các nền văn hóa lớn là văn hóa Việt và các

tiểu văn hóa khác. Tây Nguyên có thể tham khảo các mô hình du lịch cộng

đồng tại các tỉnh miền núi phía Bắc và áp dụng những mô hình sinh hoạt cộng

đồng trong nhà sàn dài với văn hóa cồng chiêng và văn nghệ truyền thống tại

các buôn ÊĐê.

Đối với khu vực có nhiều xã, thôn thuộc diện nghèo, kinh nghiệm của

các tổ chức phi chính phủ là hỗ trợ ban đầu cho hoạt động du lịch từ đó kích

thích phát triển kinh tế, nâng cao thu nhập và tạo việc làm cho người dân địa

phương. Chính sách này cũng khuyến khích người dân chủ động tham gia

nhiều hơn vào việc xây dựng chính sách, phát triển sản phẩm du lịch, trực tiếp

tham gia vào lực lượng lao động từ đó khẳng định được vị thế của mình trong

một xã hội rộng lớn hơn. Sau đó, từ những thu nhập từ du lịch, nguồn vốn

được hình thành và tái đầu tư vào cơ sở hạ tầng nhằm thỏa mãn yêu cầu phát

triển bền vững. Du lịch cộng đồng có thể đáp ứng được nhiều mục tiêu khác

nhau trong cùng một giai đoạn như mục tiêu xóa đói giảm nghèo, nâng cao

chất lượng đời sống văn hóa - tinh thần của người dân, bảo tồn nền văn hóa

truyền thống, tạo việc làm tại chỗ, tăng nguồn lưu thông tiền mặt và xuất khẩu

tại chỗ các sản vật địa phương.

Không chỉ vậy, Tây Nguyên còn là khu vực có khung cảnh thiên nhiên

còn tương đối nguyên sơ, có vùng núi cao, cao nguyên và rừng nhiệt đới. Cho

dù hiện nay tình trạng phá rừng, hoạt động lạm dụng khai thác tài nguyên

đang đi đến tình trạng báo động nhưng về cơ bản Tây Nguyên vẫn còn những

60

cánh rừng nguyên sinh độc đáo luôn tạo ra sự hấp dẫn đối với khách du lịch

thuộc nhóm du lịch cộng đồng. Yếu tố môi trường nguyên sơ, trong lành khi

đặt cùng nguồn tài nguyên du lịch văn hóa (các làng bản người dân tộc thiểu

số, phong tục, tập quán, trang phục, nề nếp sinh hoạt) tạo ra một thế mạnh rất

cạnh tranh dành khu vực này so với những khu vực khác. Có thể nói, du lịch

cộng đồng không nên chỉ được xác định là một loại hình du lịch có triển vọng

mà còn phải được coi là sản phẩm du lịch đặc thù trong chiến lược phát triển

du lịch.

Để phát triển du lịch cộng đồng đúng hướng, khai thác tốt hệ thống tài

nguyên du lịch phong phú tại đây, tác giả xin đưa ra một số đề xuất nhằm đưa

loại hình du lịch cộng đồng trở thành một điểm sáng, có đóng góp lớn về mặt

kinh tế - xã hội của khu vực và quan trọng nhất là sự phát triển đó phải luôn

gắn với mục tiêu phát triển bền vững.

Trước hết, theo nhà văn Nguyên Ngọc, văn hóa Tây Nguyên gắn bó

chặt chẽ với không gian - môi trường tự nhiên đã tồn tại từ ngàn đời tại đây -

đó là môi trường rừng. Hiện nay, có một số xu hướng biến đổi văn hóa tiêu

cực gây ảnh hưởng đến văn hóa truyền thống đặc sắc của đồng bào bản địa và

xu hướng biến đổi này có nguyên nhân trực tiếp đến từ việc phá rừng, phá vỡ

môi trường cho lối sống cộng đồng của các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên.

Việc bảo vệ rừng nguyên sinh ngoài những khu bảo tồn cần được đặc biệt

quan tâm để gìn giữ môi trường phát triển văn hóa cho người dân bản địa.

Trong tình trạng ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu toàn cầu ngày nay,

nhu cầu bảo vệ rừng càng cần được quan tâm nhiều hơn bởi tác động của việc

phá rừng ngày càng lớn và ảnh hưởng ở phạm vi rộng hơn địa bàn Tây

Nguyên rất nhiều.

Thứ hai, có cơ chế và khuyến khích người dân bản địa tham gia nhiều

hơn vào công tác lập quy hoạch phát triển du lịch, tổ chức xây dựng sản phẩm

61

du lịch và trực tiếp phục vụ khách du lịch nhằm phân phối lợi ích nghiêng về

phía cộng đồng. Có như vậy, du lịch cộng đồng tại Tây Nguyên mới thỏa mãn

yêu cầu xóa đói giảm nghèo, tạo công việc, thu nhập và nâng cao cao đời

sống người dân như mục tiêu của các chương trình về nông thôn của Đảng,

Nhà nước ta đang thực hiện.

Thứ ba, nâng cao trình độ và năng lực của người dân bản địa thông qua

tổ chức những khóa đào tạo ngắn hạn về kỹ năng, nghiệp vụ du lịch…

Thứ tư, liên kết giữa các công ty lữ hành trong và ngoài tỉnh với đại

diện chương trình phát triển du lịch cộng đồng tại cơ sở. Bước đầu UBND xã,

huyện có thể làm trung gian giữa bản làng với công ty lữ hành, sau đó chuyển

giao công việc lại cho những người, nhóm người đại diện trong buôn.

Thứ năm, tổ chức các sự kiện riêng của Tây Nguyên như Lễ hội trái

cây, Lễ hội cồng chiêng… Những lễ hội truyền thống có thể gắn với lễ hội

của từng dân tộc cụ thể nhằm giới thiệu văn hóa truyền thống đặc sắc và

không khí mới lạ cho du khách. Những sự kiện hiện đại cần tập trung vào tính

đa dạng văn hóa và tinh thần chinh phục - khai phá thiên nhiên của các dân

tộc bản địa. Việc tổ chức các sự kiện nhằm mục đích quảng bá du lịch và văn

hóa, thu hút khách du lịch đến với Tây Nguyên nhiều hơn…

3.3.3. Một số khuyến nghị về quy hoạch và bảo tồn

Như đã nói ở trên, không gian cư trú truyền thống của buôn làng ÊĐê ở

Buôn Ma Thuột đang tồn tại hai xu hướng chính: Xu hướng bảo tồn kết hợp

hiện đại hóa và xu hướng giải thể. Đặc trưng của xu hướng bảo tồn là giữ lại

những yếu tố cũ, cải tạo chúng hoặc kết hợp giữa những yếu tố cũ và yếu tố

mới để giữ lại được không gian tổng thể, mang những yếu tố và giá trị truyền

thống cơ bản. Xu hướng giải thể thì tạo nên sự xáo trộn trong không gian văn

hóa buôn làng, những yếu tố truyền thống đứng trước nguy cơ bị mai một và

bị xóa bỏ hẳn. Bởi vậy, khi đưa ra các khuyến nghị về quy hoạch và bảo tồn,

62

tác giả muốn bám sát hai xu hướng chính này để tìm ra những biện pháp phù

hợp nhất cho việc bảo tồn không gian văn hóa truyền thống của người Ê Đê.

Đối với những buôn thuộc xu hướng bảo tồn kết hợp hiện đại, chúng ta

cần hiện thực hóa suy nghĩ và định hướng của người dân bằng những phương

án và kế hoạch cụ thể để người dân có thể tiến hành chính sách bảo tồn một

cách có hệ thống và hiệu quả nhất.

Một là khảo sát và tập hợp các cá nhân, nhóm người dân có xu hướng

bảo tồn trong từng buôn lại, sau đó quy hoạch các buôn đó lại với nhau. Từ

đó, liên kết họ thành một cộng đồng người có chung mục đích, đưa ra những

phương án phát triển du lịch cộng đồng, hỗ trợ họ xây dựng các điểm du lịch

cộng đồng và liên kết các điểm du lịch đó thành một tuyến du lịch như một

điểm nhấn trong các tuyến du lịch dành cho du khách trong và ngoài nước khi

đến với Buôn Ma Thuột.

Hai là tổ chức các lớp tập huấn về du lịch để người dân có thêm kiến

thức và hiểu biết về du lịch cộng đồng. Chẳng hạn như giới thiệu đến người

dân những mô hình du lịch cộng đồng mà các vùng dân tộc thiểu số khác

đang áp dụng và thực hiện. Đưa người dân đến các vùng du lịch cộng đồng để

trải nghiệm và học hỏi cách làm du lịch cộng đồng. Từ đó, người dân các

buôn có thể có thêm kiến thức, chọn lọc được mô hình du lịch phù hợp với tài

nguyên du lịch vốn có của buôn làng mình.

Ba là đưa ra những biện pháp cụ thể để hỗ trợ người dân trong việc bảo

tồn không gian cư trú buôn làng. Ví dụ như:

Đối với những gia đình có xu hướng bảo tồn nhưng không đủ điều kiện

kinh tế, nhà nước có thể tạo điều kiện hỗ trợ về nguyên vật liệu để người dân

có thể sửa chữa và trùng tu nhà cửa bằng cách giúp đỡ người dân tiếp cận với

nguồn gỗ để họ có điều kiện sửa chữa nhà. Bên cạnh việc cho phép khai thác

gỗ rừng tự nhiên trong một mức độ cho phép dưới sự giám sát của kiểm lâm,

63

nhà nước cũng có thể có phương án xử lý phù hợp với nguồn gỗ rừng khai

thác trái phép mà cơ quan chức năng đang tạm giữ để người dân có điều kiện

thuận lợi nhất để tu sửa nhà cửa, duy trì được không gian cư trú truyền thống.

Duy trì không gian sinh hoạt cộng đồng và tâm linh cho người dân

bằng cách cấp sổ đỏ chứng nhận quyền sở hữu đất của cộng đồng đối với

những khu vực sinh hoạt chung của buôn như đất rừng, bến nước và nghĩa

địa. Tình trạng xâm lấn đất rừng đã và đang diễn ra ở một số buôn của người

ÊĐê, vì vậy đây cũng là một biện pháp thiết thực để người dân yên tâm trong

việc bảo tồn.

Đối với những buôn thuộc xu hướng giải thể, việc cân bằng quỹ đất và

thay đổi về quyền sở hữu đất là một việc làm không thể thiếu. Trên địa bàn

thành phố, hiện nay có rất nhiều công ty đang sử dụng quỹ đất mà trước đây

là đất của buôn làng như công ty cao su Đắk Lắk, công ty Cà phê Buôn Mê

Thuột, Công ty Cà Phê Việt Thắng… Mặc dù là những công ty nông nghiệp,

sử dụng quỹ đất nhằm mục đích phát triển kinh tế của vùng nhưng một số

công ty lại đang sử dụng thiếu hiệu quả quỹ đất đó. Vì vậy, việc nghiên cứu

biện pháp thu hồi đất của các công ty để cấp lại cho những hộ gia đình thiếu

đất ở khu vực quanh đó là hoàn toàn xác đáng và có thể đem lại nhiều lợi ích

cho người dân nói riêng cũng như công tác bảo tồn giá trị truyền thống và

phát triển kinh tế nói chung. Chính sách hỗ trợ đất ở này đã diễn ra ở Buôn

Mê Thuột nhưng chưa thật sự hiệu quả, vì vậy các cơ quan chức năng cần đẩy

mạnh và thực hiện triệt để hơn nữa.

Mặc dù thực tế có thể thấy rõ lợi ích từ việc cấp đất cho người dân,

nhưng đây không phải là một biện pháp thật sự khả thi. Trong trường hợp

không thể thu hồi đất từ các công ty, chính quyền cần có những biện pháp để

cân bằng lợi ích giữa các buôn thiếu đất và các công ty du lịch, chẳng hạn như

cho áp dụng những mô hình sản xuất liên kết giữa người dân với các doanh

64

nghiệp. Cụ thể là các doanh nghiệp sẽ cung cấp giống cây trồng, vật tư, hỗ trợ

về kỹ thuật và đảm bảo đầu ra cho các sản phẩm nông nghiệp thu được từ quá

trình sản xuất của người dân, hai bên có thể phân chia quyền lợi dưới sự

thống nhất của cả hai bên. Mô hình sản xuất này đã được áp dụng bởi công ty

cao su Đắk Lắk và mang lại lợi ích không nhỏ cho các hộ ÊĐê trong quá trình

tham gia.

Bên cạnh các biện pháp cụ thể với từng xu hướng riêng của các buôn,

những giải pháp chung để ổn định về mặt đời sống, an sinh xã hội từ đó hiện

thực hóa mục đích quy hoạch và bảo tồn cũng là yếu tố không thể thiếu. Cụ

thể là:

Đào tạo nghề cho phụ nữ và thanh niên trong làng bằng cách khôi phục

và phát triển các nghề thủ công truyền thống như dệt thổ cẩm, nấu rượu cần,

làm nhạc cụ dân tộc… Cách này sẽ tạo nên sự đa dạng hóa nghề nghiệp cho

người dân trong buôn làng, để cuộc sống của họ không cần phụ thuộc hoàn

toàn vào nông nghiệp, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế sang thủ công

nghiệp.

Tạo điều kiện để các hộ gia đình có thể vay vốn ngân hàng với mức lãi

suất thấp, thời gian hoàn trả vốn dài hơn để có thể đầu tư phát triển sản xuất,

cải tạo nhà cửa hay có điều kiện hơn để đầu tư cho con cái được học hành đầy

đủ hơn. Đặc biệt là tạo thêm nhiều ưu đãi như vay không mất lãi cho những

hộ nghèo, những hộ gia đình có hoàn cảnh có khăn để họ có cơ hội cải thiện

cuộc sống.

Mở rộng chức năng của nhà cộng đồng hay nhà văn hóa của các buôn.

Hiện nay các buôn đều có nhà sinh hoạt cộng đồng là nhà sàn hoặc nhà mang

hình thức của nhà sàn truyền thống. Tuy nhiên, nhà cộng đồng đó vẫn chưa

thực sự phát huy được hết vai trò vốn có của nó. Thay vì chỉ gói gọn trong các

chức năng hành chính như hội họp, kỉ niệm, chính quyền có thể xem xét mở

65

rộng thêm các chức năng dân sự khác như tạo thêm sân chơi tại nhà sinh hoạt

cộng đồng cho người dân, mang lại quyền tự quản cho họ để họ có cảm giác

gắn bó từ đó thêm hiểu và yêu hơn giá trị tốt đẹp trong truyền thống văn hóa

của chính họ.

Quá trình biến đổi không gian cư trú buôn làng đặt ra nhiều vấn đề

đáng suy ngẫm, đòi hỏi người dân và chính quyền cần chung tay lại, cùng

nhau tìm ra các biện pháp trước mắt và lâu dài để giải quyết các vấn đề cấp

bách được đặt ra. Chính quyền các cấp cần nhìn nhận một cách nghiêm túc và

thấu đáo hơn về tầm quan trọng của vấn đề bảo tồn không gian cư trú buôn

làng và du lịch cộng đồng đối với việc bảo tồn giá trị văn hóa truyền thống.

Cùng với đó, nhà nước cũng cần có những chương trình nghiên cứu, khảo sát

để phân loại các xu hướng biến đổi của các buôn làng dân tộc tại chỗ, cụ thể

là xu hướng bảo tồn kết hợp hiện đại hóa và xu hướng giải thể, từ đó đưa ra

các chính sách, dự án bảo tồn phù hợp đối với từng xu hướng để việc thực

hiện quá trình bảo tồn đạt được hiệu quả cao nhất. Bên cạnh đó, người dân

cũng cần nghiêm túc thực hiện các chính sách và nghị quyết của nhà nước,

nâng cao tinh thần và ý thức cộng đồng, tuyên truyền đến những người quanh

mình để cùng nhau đi theo các chủ trương của nhà nước, cùng nhau bảo tồn

và lưu giữ không gian văn hóa truyền thống đáng quý của dân tộc mình, của

vùng miền mình.

66

KẾT LUẬN

1. Trong bối cảnh có nhiều biến động về kinh tế - chính trị - xã hội từ

sau 1975 đến nay, diện mạo của vùng Tây Nguyên nói chung cũng như không

gian cư trú buôn làng của người ÊĐê ở Buôn Mê Thuột nói riêng đã có những

thay đổi sâu sắc, đặt ra nhiều vấn đề cần được nghiêm túc nhìn nhận và giải

quyết. Trong nghiên cứu này, tác giả sử dụng khái niệm không gian cư trú

buôn làng để khảo sát về các khía cạnh xoay quanh nó, bao gồm nhà ở, loại

hình gia đình (gia đình mẫu hệ mở rộng và gia đình hạt nhân) để làm rõ sự

biến đổi từ 1975 đến nay. Trải qua quá trình định canh, định cư, không gian

cư trú đã có nhiều biến đổi lớn theo xu hướng hiện đại hóa, có sự giao thoa về

nhiều mặt như kiến trúc nhà ở, loại hình gia đình, văn hóa và thói quen giữa

người Kinh và người ÊĐê. Qua việc khảo sát và phân tích sự biến đổi, tác giả

sẽ tìm ra vấn đề và đưa ra những phương hướng để giải quyết vấn đề được đặt

ra từ quá trình biến đổi.

2. Với vị trí là thành phố trung tâm của Tây Nguyên, Buôn Mê Thuột

trở thành đối tượng được nhà nước quan tâm về nhiều mặt. Những chính sách

thay đổi về kinh tế - chính trị - xã hội đều hướng đến mục tiêu phát triển

thành phố, tạo nên những tác động không nhỏ dẫn đến sự thay đổi về không

gian cư trú buôn làng. Các chính sách phát triển kinh tế như quốc hữu hóa tài

nguyên đất rừng, tập thể hóa và giải thể hợp tác xã nông nghiệp, phát triển

cây công nghiệp tạo nên cho Buôn Mê Thuột diện mạo của một thành phố

kinh tế trẻ, năng động. Về mặt hành chính, nhà nước cũng có những chính

sách mở rộng đô thị, phát triển Buôn Mê Thuột thành một thành phố công

nghiệp hóa, hiện đại hóa trong thời kỳ Đổi Mới, thay đổi cả về chiều rộng lẫn

chiều sâu. Phát triển kinh tế - chính trị dẫn đến những thay đổi về mặt xã hội.

Buôn Mê Thuột từ một thị xã nhỏ bé nhanh chóng trở thành một thủ phủ hành

chính của toàn vùng, mang trên mình một diện mạo hoàn toàn mới, không

67

gian văn hóa, không gian cư trú chung của người dân tộc tại chỗ cùng từ đó

mà thay đổi theo với sự nâng cấp về hệ thống điện, đường, trường trạm và đặc

biệt là sự thay đổi về kiến trúc không gian cư trú tổng thể của các buôn làng

khu vực trung tâm và cận trung tâm thành phố.

3. Trước sự tác động về nhiều mặt, không gian cư trú của người ÊĐê ở

Buôn Mê Thuột có sự biến đổi phức tạp theo nhiều chiều cạnh khác nhau. Cơ

cấu tộc người chuyển từ chế độ đơn tộc sang chế độ đa tộc với sự giao thoa

văn hóa giữa các tộc người, đặc biệt là sự giao thoa văn hóa Kinh – ÊĐê. Nhà

sàn dài truyền thống cũng được nâng cấp, tu sửa hoặc thay thế bằng những

ngôi nhà xây, nhà cấp bốn hiện đại dẫn đến tổng thể không gian kiến trúc

truyền thống bị phá vỡ. Gia đình mẫu hệ mở rộng đặc trưng của người ÊĐê

cũng dần được tách ra, chia nhỏ thành những gia đình hạt nhân, đề cao tính

độc lập, tự chủ, tư hữu cá nhân. Những yếu tố làm nên đặc trưng cho buôn

làng Ê Đê như rừng thiêng, bến nước đang đứng trước nguy cơ bị mai một,

không còn phát huy được chức năng cố hữu vốn có. Các không gian sinh hoạt

cộng đồng truyền thống cũng mất dần và được chuyển hóa thành không gian

văn hóa, thực hiện các chức năng hành chính cơ bản. Hình ảnh một thành phố

của núi rừng Tây Nguyên với nét đặc trưng là văn hóa cộng đồng dân tộc

thiểu số với nhà sàn dài được bao quanh là rừng đã và đang dần trở lên xa lạ

trước mắt của những du khách và của cả những con người Tây Nguyên đang

sống trên mảnh đất quen thuộc của chính họ.

4. Không gian cư trú buôn làng ÊĐê đang đi theo hai xu hướng chính là

xu hướng bảo tồn kết hợp hiện đại hóa và xu hướng giải thể. Một số buôn

làng vẫn còn giữ lại được nhà sàn và mong muốn giữ lại nhà sàn như giữ lại

một phần văn hóa của dân tộc mình, giữ lại một mảnh kí ức cho con cháu

mình và cho các thế hệ sau. Một số khác thì mong muốn thay đổi, dỡ bỏ

những ngôi nhà sàn đã quá cũ để thay thế bằng những ngôi nhà xây khang

68

trang và hiện đại hơn. Trên cơ sở đó, tổng thể không gian kiến trúc của tộc

người Ê Đê đang dần bị phá vỡ và đứng trước nguy cơ biến mất hoàn toàn,

đòi hỏi phải có những chính sách kịp thời và hợp lý để bảo tồn, lưu giữ lại

những giá trị truyền thống của dân tộc. Và an sinh xã hội, ổn định đời sống

của người dân là biện pháp đi đầu. Việc tạo công ăn việc làm cho người dân

bằng cách khôi phục lại những nghề thủ công đã bị mai một, hỗ trợ người dân

tu sửa lại nhà cửa, giúp đỡ họ tiếp cận với nguồn vay vốn ngân hàng lãi suất

hợp lý hay thúc đẩy phát triển du lịch cộng đồng chính là những biện pháp để

cải thiện và nâng cao đời sống cho người dân. Khi có một cuộc sống ổn định,

người dân sẽ có niềm tin vào các chính sách của Đảng nhà nước. Từ đó, chính

quyền các cấp có thể dễ dàng triển khai các chính sách bảo tồn đến người dân,

việc thực hiện quy hoạch đất đai và khôi phục không gian cư trú cũng dễ dàng

được hưởng ứng và thực hiện có hiệu quả theo hướng tích cực – bền vững.

69

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu tiếng Việt

1. Trương Bi (2010), Nghi lễ - lễ hội Ê Đê , Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.

2. Trương Bi – Bùi Minh Vũ (2009), Bảo tồn, phát huy di sản văn hóa các tộc

người Ê Đê – M’nông, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.

3. Trần Văn Bính (2004), Văn hóa Dân tộc Tây Nguyên: thực trạng và những

vấn đề đặt ra, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

4. Ngô Văn Doanh (1995), Lễ hội bỏ mả (Pơ thi) các dân tộc Bắc Tây

Nguyên: Dân tộc Gia Rai – Ba Na, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

5. Jacques Dournes (2003), Miền đất huyền ảo (Các dân tộc miền núi Nam

Đông Dương) (Nguyên Ngọc dịch), Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

6. Bùi Minh Đạo (2010), Tổ chức và hoạt động buôn làng trong phát triển

bền vững vùng Tây Nguyên, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

7. Nguyễn Tấn Đắc (2005), Văn hóa Xã hội và con người Tây Nguyên, Nxb

Khoa học Xã hội, Hà Nội.

8. Bế Viết Đẳng (1982), Đại cương các dân tộc Ê Đê, M’nông ở Đắk Lắk,

Nxb Khoa học Xã Hội, Hà Nội.

9. Đặng Hoàng Giang (2015), Biến đổi không gian văn hóa buôn làng Ê Đê ở

Buôn Mê Thuột từ 1975 đến nay, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

10. Nguyễn Thị Hạnh (2004), Mẫu hệ, phụ nữ Ê Đê và kinh tế hộ gia đình,

Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.

11. Anna De Hautecloque-Howe (2004), Người Ê Đê – một xã hội Mẫu

quyền, (Nguyên Ngọc và Phùng Ngọc Cửu dịch), Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà

Nội.

12. Nguyễn Thị Hòa (1999), Nhà ở và sinh hoạt trong nhà của người Ê Đê ở

Việt Nam, Luận án Tiến sĩ dân tộc học, Hà Nội.

70

13. Nguyễn Ngọc Hòa (2002), Văn hóa Ê Đê: Truyền thống và biến đổi, Luận

án Tiến sĩ Lịch sử, Hà Nội.

14. Lưu Hùng (1996), Văn hóa cổ truyền Tây Nguyên, Nxb Văn hóa Dân tộc,

Hà Nội.

15. Đỗ Hồng Kỳ (2012), Văn hóa cổ truyền ở Tây Nguyên trong phát triển

bền vững, Nxb Từ điển Bách Khoa, Hà Nội.

16. Nguyên Ngọc (2009), Tuyển tập (tập 2), Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

17. Nguyên Ngọc (2013), Các bạn tôi ở trên ấy, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí

Minh.

18. Thu Nhung Mlô Duôn Du (2001), Người phụ nữ Ê Đê trong đời sống xã

hội tộc người, Luận án Tiến sĩ Lịch sử, Hà Nội.

19. Tuyết Nhung Buôn Krông (2010), Văn hóa ẩm thực của người Ê Đê, Nxb

Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.

20. Tuyết Nhung Buôn Krông (2012), Văn hóa mẫu hệ qua sử thi Ê Đê, Nxb

Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.

21. Mai Thanh Sơn (2011), Chính sách đất đai và văn hóa tộc người (Nghiên

cứu trường hợp tại Đắk Lắk), Nxb Thế giới, Hà Nội.

22. Nguyễn Văn Sửu (2014), Công nghiệp hóa, đô thị hóa và biến đổi sinh kế

ở ven đô Hà Nội, Nxb Tri thức, Hà Nội.

23. Trần Ngọc Thêm (1996), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam: cái nhìn hệ

thống – loại hình, Nxb Tp.Hồ Chí Minh, Tp.Hồ Chí Minh.

24. Ngô Đức Thịnh (1993), Văn hóa Vùng và phân vùng văn hóa ở Việt Nam,

Nxb Khoa học Xã Hội, Hà Nội.

25. Ngô Đức Thịnh (2007), Những mảng màu văn hóa Tây Nguyên, Nxb Trẻ,

Tp.Hồ Chí Minh.

71

Tài liệu Internet

26. Nguyên Bình (21/11/2013), Nhà văn hóa cộng đồng ở Tây Nguyên: xây

xong đóng cửa bỏ hoang, Nguồn: anninhthudo.vn.

27. Philemon, Chi hội Tin lành buôn Alê A, chặng đường 80 năm hình thành

và phát triển, nguồn: hoithanh.com

28. Nguyễn Công Thảo (2013), Một cách tiếp cận về làng Việt đương đại,

Tạp chí khoa học xã hội Việt Nam, Nguồn: http://vssr.vass.gov.vn

29. Nguyễn Thị Phương Thảo (2017), Tác động của đô thị hóa đến văn hóa

nhà dài của người Ê Đê, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật số 400, Nguồn:

vhnt.org.vn

30. Tấn Vịnh (19/06/2011), Cần bảo tồn kiến trúc nhà ở truyền thống của

đồng bào Tây Nguyên, Nguồn: baodaklak.vn

Tài liệu tiếng Anh

31. Birdwell-Pheasant, D. & D. Lawrence-Zuniga (1999). House life: space,

place and family in Europe. Oxford: Berg.

32. Bourdieu, P. (1976), Marriage strategies as strategies of social

reproduction. In Family and society (eds) R. Forster & O. Ranum, 117-44.

Baltimore: Johns Hopkins University Press.

33. Carsten (2003), After kinship. Cambridge: University Press.

34. Morgan, L.H. 1981 (1881), Houses and house-life of the American

aborigines. Chicago: University Press.

35. Gudeman, S. & A. Rivera (1990), Conversations in Colombia.

Cambridge: Cambridge University Press.

36. Levi-Strauss, C. (1983), The way of the masks. London: Jonathan Cape.

37. Sahlins, M. (1972), Stone age economics. Chicago: Aldine & Atherton.

72

PHỤ LỤC ẢNH

Nhà sàn mới xây dựng ở Ale A

Nguồn: Vũ Thị Kim Chung, 7/2020

Nhà sàn còn lại ở Ale A

Nguồn: Vũ Thị Kim Chung, 7/2020

73

Bến nước sắp được phục dựng ở buôn Alê A

Nguồn: Vũ Thị Kim Chung, 7/2020

Rừng thông buôn Alê A

Nguồn: Vũ Thị Kim Chung, 7/2020

74

Quang cảnh buôn Alê A

Nguồn: Vũ Thị Kim Chung, 7/2020

Trường mẫu giáo buôn Alê A

Nguồn: Vũ Thị Kim Chung, 7/202

75

Nhà sàn của trưởng buôn Ea Bông

Nguồn: Vũ Thị Kim Chung, 7/2020

Nhà sàn cũ ở Ea Bông

Nguồn: Vũ Thị Kim Chung, 7/2020

76

Nhà sàn truyền thống ở Ea Bông

Nguồn: Vũ Thị Kim Chung, 7/2020

Nhà sàn truyền thống ở Ea Bông

Nguồn: Vũ Thị Kim Chung, 7/2020

77

Nhà sàn đã bán, đang tháo dỡ ở Ea Bông

Nguồn: Vũ Thị Kim Chung, 7/2020

Nhà sàn cũ, dùng để chứa đồ ở Ea Bông

Nguồn: Vũ Thị Kim Chung, 7/2020

78

Nhà sàn của cô E’Nuol ở Ea Bông

Nguồn: Vũ Thị Kim Chung, 7/2020

Khung cảnh buôn Ea Bông

Nguồn: Vũ Thị Kim Chung, 7/2020

79

Các nghệ nhân biểu diễn nhạc cụ truyền thống

Nguồn: Vũ Thị Kim Chung, 7/2020

Nghệ nhân biểu diễn khèn

Nguồn: Vũ Thị Kim Chung, 7/2020

80

Nghệ nhân hát then và thổi khèn

Nguồn: Vũ Thị Kim Chung, 7/2020

Các nghệ nhân biểu diễn chiêng trống

Nguồn: Vũ Thị Kim Chung, 7/2020

81

82