Đề bài: Bình giảng bài thơ Lưu biệt khi xuất dương <br />
Bài làm <br />
Sống trong hoàn cảnh đất nước bị thực dân Pháp xâm lược, các chí sĩ và thanh niên yêu <br />
nước luôn nung nấu quyết tâm tìm ra con đường giải phóng dân tộc khỏi ách áp bức. Và <br />
tiêu biểu trong số đó phải kể đến nhà cách mạng Phan Bội Châu. Ông đã thể hiện ý chí, <br />
khát vọng ra đi tìm đường cứu nước của mình qua bài thơ "Lưu biệt khi xuất dương".<br />
Bài thơ này được ông sáng tác năm 1905 nhằm mục đích chia tay, từ giã bạn bè, đồng chí <br />
trước lúc sang Nhật Bản. Phan Bội Châu là người lãnh đạo phong trào Đông du, xuất <br />
dương sang Nhật Bản để các thanh niên Việt Nam có cơ hội được học tập và cũng là thời <br />
gian chờ đợi thời cơ để tổ chức lực lượng giành lại chủ quyền dân tộc.<br />
Mở đầu tác phẩm, Phan Bội Châu đã đưa ra quan niệm riêng về chí làm trai của mình:<br />
"Sinh vi nam tử yếu hi kỳ,<br />
Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di".<br />
(Làm trai phải lạ ở trên đời<br />
Há để càn khôn tự chuyển dời)<br />
Chí làm trai đã được nhắc đến trong chiều dài của lịch sử văn học từ văn học dân gian <br />
đến văn học trung đại. Ta không thể không biết đến câu thơ của Nguyễn Công Trứ:<br />
"Đã mang tiếng ở trong trời đất<br />
Phải có danh gì với núi sông"<br />
Hay câu ca dao:<br />
"Làm trai cho đáng nên trai<br />
Phú Xuân đã trải, Đồng Nai đã từng"<br />
Là một nam nhi ở đời thì phải có chí khí, không quản ngại khó khăn, thử thách để lập <br />
được công danh, lưu tên muôn đời trong sử sách. Đối với Phan Bội Châu, ông cho rằng để <br />
khẳng định được phận nam nhi thì phải "lạ", phải làm được những điều phi thường, khác <br />
người. Có như vậy mới tạo ra sự riêng biệt, không trộn lẫn với bất kì ai. Việc "lạ" mà <br />
ông nhắc đến ở đây chính là việc xoay chuyển càn khôn, tạo hóa. Đó như một lời thách <br />
thức với vũ trụ, ông không muốn bậc nam nhi thụ động chịu sự chi phối của trời đất, <br />
hoàn cảnh mà bậc nam nhi phải chủ động nắm bắt, chi phối lại hoàn cảnh, không thể để <br />
"càn khôn tự chuyển dời". Phải chăng câu thơ này ngụ ý việc thực dân Pháp xâm lược <br />
nước ta, nam nhi không thể dửng dưng với vận mệnh dân tộc, để mặc cho bước chân <br />
thực dân sang thôn tính mà phải tìm ra con đường mới để đưa đất nước thoát khỏi hiện <br />
thực đen tối, tự mình xoay chuyển cục diện thời đại?<br />
Người nam nhi phải có trách nhiệm với thời cuộc mình đang sống, phải khẳng định được <br />
vai trò của mình đối với đất nước:<br />
"Ư bách niên trung tu hữu ngã,<br />
Khởi thiên tải hậu cánh vô thùy"<br />
(Trong khoảng trăm năm cần có tớ<br />
Sau này muôn thuở, há không ai?)<br />
Cuộc đời con người là hữu hạn, vậy nên trong một trăm năm ngắn ngủi ấy ta phải khắc <br />
ghi tên mình trong lịch sử, phải đánh dấu sự tồn tại của mình bằng những hành động có <br />
ích cho đất nước. Bậc nam nhi đại trượng phu không thể tồn tại như một hạt cát vô danh <br />
giữa sa mạc mà phải tạo được dấu ấn, công lao, cống hiến sức mình vào con đường cứu <br />
nước. Giọng thơ có chút ngạo nghễ nhưng đó là cái ngạo nghễ của một con người có chí <br />
hướng và quyết tâm thực hiện chí hướng ấy. Đồng thời Phan Bội Châu cũng thể hiện <br />
niềm tin vào hậu thế, họ cũng sẽ để lại tên tuổi trong sử sách muôn thuở về sau. Bởi ông <br />
tin tưởng vào thế hệ những người ông đưa sang Nhật Bản trong phong trào Đông du sẽ <br />
giúp ích được cho dân tộc.<br />
Một triều đình vì cuộc sống của nhân dân, tương lai của dân tộc sẽ có các chính sách <br />
chiêu mộ nhân tài bằng con đường khoa cử. Đây cũng là con đường mà các bậc nam nhi <br />
theo đuổi để lập thân xưa nay nhưng khi đất nước rơi vào tay giặc, triều đình chỉ là tay <br />
sai, bù nhìn cho kẻ thù thì con đường khoa cử không còn phù hợp:<br />
"Giang sơn tử hĩ sinh đồ nhuế,<br />
Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si"!<br />
(Non sông đã chết, sống thêm nhục,<br />
Hiền thánh còn đâu, học cũng hoài!)<br />
Non sông, hiền thánh không còn nữa, vậy học hành, thi cử còn có ý nghĩa gì? Hành động <br />
thiết thực nhất trong hoàn cảnh bấy giờ là tìm ra con đường cứu nước đúng đắn để đưa <br />
đất nước thoát khỏi ách áp bức, bóc lột của thực dân. Sống dưới sự thống trị của quân <br />
xâm lược, nhân dân ta nói chung và những trí thức nói riêng đều cảm thấy đó là điều nhục <br />
nhã, có đỗ đạt cũng hoài phí, uổng công bởi không được trọng dụng để xây dựng nước <br />
nhà phát triển.<br />
Bởi vậy, trách nhiệm cao cả của người chí sĩ, bậc nam nhi là giải phóng dân tộc:<br />
"Nguyện trục trường phong Đông hải khứ,<br />
Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi".<br />
(Muốn vượt bể Đông theo cánh gió,<br />
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.)<br />
Hình ảnh "trường phong", "Đông hải", "thiên trùng bạch lãng" là những hình ảnh mang <br />
đậm màu sắc lãng mạn, thể hiện tâm hồn bay bổng của Phan Bội Châu. Ông muốn vượt <br />
qua bể Đông, bay lên cùng ngàn đợt sóng bạc để thực hiện khát vọng lớn lao là cứu dân <br />
cứu nước. Đó không phải con đường bằng phẳng, dễ đi mà là một con đường đầy rẫy <br />
những chông gai, khó khăn và cả sự mạo hiểm bởi Phan Bội Châu là một trong những <br />
người đầu tiên nuôi ý tưởng đi tìm con đường cứu nước mới, đó là dựa vào sự trợ giúp <br />
của nước ngoài mà cụ thể ở đây là Nhật Bản. Tuy rằng con đường ấy không đạt được <br />
cái đích như ông mong muốn nhưng ông đã sống và làm tròn bổn phận của một đấng nam <br />
nhi, hoàn thành được chí làm trai của mình. Khát vọng của ông là khát vọng sánh ngang <br />
với vũ trụ, càn khôn, khát vọng vượt lên bóng đêm đen tối bao trùm lên cuộc sống nô lệ <br />
để vươn tới ánh sáng.<br />
"Lưu biệt khi xuất dương" là bài thơ viết để Phan Bội Châu từ giã bạn bè trước khi sang <br />
nước ngoài nhưng giọng điệu và lời thơ hết sức hào hùng, sục sôi khí thế, quyết tâm tìm <br />
con đường mới để cứu nước. Tác phẩm không chỉ thể hiện chí khí của ông mà còn có ý <br />
nghĩa thức tỉnh, kêu gọi các chí sĩ yêu nước đấu tranh vì nền độc lập của dân tộc.<br />