intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng

Chia sẻ: Sdfcdxgvf Sdfcdxgvf | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:90

540
lượt xem
93
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Thiệt hại ngoài hợp đồng là những thiệt hại gây ra không phải do vi phạm nghĩa vụ có thoả thuận trong hợp đồng mà là do vi phạm pháp luật, do tội phạm.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng

  1. Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng 1
  2. Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Thiệt hại ngoài hợp đồng là những thiệt hại gây ra không phải do vi phạm nghĩa vụ có thoả thuận trong hợp đồng mà là do vi phạm pháp luật, do tội phạm. Vd. Do xâm phạm sức khoẻ, tính mạng, do gây tai nạn gây ra, … Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là thực hiện trách nhiệm dân sự. Bồi hoàn thiệt hại ngoài hợp đồng theo nguyên tắc (Điều 610 - Bộ luật dân sự): a. Toàn bộ và kịp thời: Các bên có thể thỏa thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc, về phương thức bồi thường, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. b. Người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường, nếu do lỗi vô ý mà gây thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của mình. c. Khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế thì người bị thiệt hại hoặc người gây thiệt hại có quyền yêu cầu toà án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác thay đổi mức bồi thường. Vd khi vết thương tái phát, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khoẻ, thì người bị thiệt hại có thể yêu cầu bồi thường thêm. Ngược lại, nếu phải bồi thường vì người bị thiệt hại mất hoàn toàn khả năng lao động nhưng sau đó người này lại lao động được thì người gây hại có thể yêu cầu toà án có thể thay đổi mức bồi thường. Khoản 1 Điều 773 BLDS quy định : "Việc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được xác định theo pháp luật của nước nơi xảy hành vi gây thiệt hại hoặc nơi phát sinh hậu quả thực tế của hành vi gây thiệt hại". Vậy tại sao: - PLVN lại chọn cả hai nơi để xác định việc bồi thường thiệt hại? Hai nơi đó có gì khác nhau? - PL các nước khác có quy định giống như vậy ko? Hay chỉ chọn một trong hai? Vì sao? Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được pháp luật quy định như thế nào? Trả lời Xuất phát từ những quy định, những nguyên tắc của pháp luật nói chung và luật dân sự nói riêng, trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi có điều kiện sau: - Có thiệt hại xảy ra: Thiệt hại là những tổn thất thực tế được tính thành tiền, do việc xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, uy tín, tài sản của cá nhân, tổ chức. + Thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ làm phát sinh thiệt hại về vật chất bao gồm chi phí cứu chữa, bồi thường, chăm sóc, phục hồi chức năng bị mất, thu nhập thực tế bị mất, bị giảm sút do thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ. + Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm uy tín bị xâm hại bao gồm chi phí hợp lý để ngăn chặn, khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất, bị giảm sút do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm hại. + Thiệt hại do bị tổn thất về tinh thần. Bộ luật Dân sự quy định: Toà án có thể buộc người xâm 2
  3. hại "bồi thường một khoản tiền để bù đắp tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt hại, người thân thích gần gũi của nạn nhân". Những quy định này chỉ định hướng nhưng chưa có tính định lượng trong việc bồi thường thiệt hại. Bởi vậy, Toà án là người phải xác định trong trường hợp nào được bồi thường, bồi thường bao nhiêu, bồi thường cho ai... Ví dụ: Thiệt hại về tài sản, biểu hiện cụ thể là mất tài sản, giảm sút tài sản, những chi phí để ngăn chặn, hạn chế, sửa chữa thay thế, những lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác công dụng của tài sản. Đây là những thiệt hại vật chất của người bị thiệt hại. - Hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật: Quyền được bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, danh dự, uy tín, tài sản là một quyền tuyệt đối của mọi công dân, tổ chức. Mọi người đều phải tôn trọng những quyền đó của chủ thể khác, không được thực hiện bất cứ hành vi nào "xâm phạm" đến các quyền đó. Bởi vậy, Điều 609 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định về thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm. Việc "xâm phạm" mà gây thiệt hại có thể là hành vi vi phạm pháp luật hình sự, hành chính, dân sự, kể cả những hành vi vi phạm đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, vi phạm các quy tắc sinh hoạt trong từng cộng đồng dân cư... - Có lỗi của người gây thiệt hại: Người gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm dân sự khi họ có lỗi. Xét về hình thức lỗi là thái độ tâm lý của người có hành vi gây thiệt hại, lỗi được thể hiện dưới dạng cố ý hay vô ý. Cố ý gây thiệt hại là trường hợp một người nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn hoặc không mong muốn, nhưng để mặc cho thiệt hại xảy ra. Vô ý gây thiệt hại là một người không thấy trước hành vi của mình có khả năng gây ra thiệt hại mặc dù phải biết trước thiệt hại sẽ xảy ra hoặc thấy trước hành vi của mình có khả năng gây ra thiệt hại, nhưng cho rằng thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được. Lỗi là một trong bốn điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói riêng và trách nhiệm dân sự nói chung. Con người phải chịu trách nhiệm khi họ có lỗi, có khả năng nhận thức và làm chủ được hành vi của mình. Bởi vậy, những người không có khả năng nhận thức và làm chủ được hành vi của mình sẽ không có lỗi trong việc thực hiện các hành vi đó. Tuy nhiên, có trường hợp người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường nếu do lỗi vô ý mà gây thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của họ hoặc thiệt hại do lỗi cố ý của người bị thiệt hại, thì không phải bồi thường. - Có mối liên hệ nhân quả giữa thiệt hại và hành vi trái pháp luật: Thiệt hại xảy ra là kết quả của hành vi trái pháp luật hay ngược lại hành vi trái pháp luật là nguyên nhân của thiệt hại xảy ra. Điều này được quy định tại Điều 609 Bộ luật Dân sự dưới dạng: "Người nào... xâm phạm... mà gây thiệt hại... thì phải bồi thường". Ở đây chúng ta có thể thấy hành vi đó. Tuy nhiên, việc xác định mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra trong nhiều trường hợp rất khó khăn. Do đó cần phải xem xét, phân tích, đánh giá tất cả các sự kiện liên quan một cách thận trọng, khách quan và toàn diện. Từ đó mới có thể rút ra được kết luận chính xác về nguyên nhân, xác định đúng trách nhiệm của người gây thiệt hại. KHÁI NIỆM CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI VÀ PHÂN LOẠI TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI 3
  4. Posted on 05/04/2010 by Civillawinfor THS. NGUYỄN MINH OANH – Khoa Pháp luật dân sự, Đại học Luật Hà Nội 1/ Khái quát về quá trình phát triển của Trách nhiệm BTTH Trước khi được hiểu là một loại trách nhiệm pháp lý chịu sự điều chỉnh của Luật tư như hiện nay thì trách nhiệm BTTH đã trải qua một quá trình phát triển với nhiều giai đoạn thể hiện bản chất khác biệt. Có thể khái quát các giai đoạn phát triển cơ bản của trách nhiệm BTTH như sau[1]: Giai đoạn thứ nhất: Trong thời kỳ cổ đại, khi chính quyền trong xã hội còn chưa được tổ chức một cách vững chãi, các cá nhân, mỗi khi bị xâm phạm vào quyền lợi được tự ý trả thù để trừng phạt đối phương, hoặc bắt đối phương làm nô lệ, hay lấy tài sản của họ. Chế độ này còn được gọi là chế độ tư nhân phục thù. Trong giai đoạn thứ hai, người gây ra sự tổn hại có thể nộp một số tiền chuộc hay thục kim cho nạn nhân để tránh trả thù. Chế độ này còn được gọi là chế độ thục kim. Chế độ thục kim đã trải qua hai giai đoạn phát triển: 1) Khi chưa có sự can thiệp của pháp luật, các bên tự thoả thuận với nhau về tiền chuộc, đó là chuộc lỗi tự nguyện; 2) Nhờ sự can thiệp của chính quyền, các bên tranh chấp bắt buộc phải giải quyết tranh chấp bằng cách trả cho nhau số tiền chuộc lỗi theo ngạch giá do pháp luật quy định, đó là chế độ thục kim bắt buộc. Tiền thục kim này có thể coi như vừa là một hình phạt, vừa có tính chất bồi thường thiệt hại. Vào thời kỳ Luật 12 bảng, Cổ luật La Mã mới bắt đầu chuyển từ chế độ tự ý thục kim sang bắt buộc thục kim. Giai đoạn thứ ba, chứng kiến sự phân biệt hai trách nhiệm hình sự và dân sự . Chính quyền, trước hết, can thiệp để trừng phạt những tội phạm chỉ liên quan đến trật tự xã hội, không liên hệ đến cá nhân. Sự can thiệp này rất cần thiết, vì nếu không có sự thanh trừng của xã hội, những vụ phạm pháp này không được chú ý tới vì không làm hại trực tiếp đến quyền lợi của tư nhân. Sự can thiệp của chính quyền dần dần được nới rộng đến sự phạm pháp liên quan đến quyền lợi của các cá nhân như các vụ ẩu đả, trộm cắp. Về phương diện hình sự, cá nhân mất hết quyền phục thù và chỉ còn quyền xin bồi thường tổn hại của mình về dân sự. Tuy trong một số trường hợp, Luật La Mã đã tiến tới sự phân biệt hai trách nhiệm hình sự và dân sự, nhưng nhà làm luật chưa quy định được hẳn một nguyên tắc trách nhiệm tổng quát, bắt buộc người gây ra sự tổn thất phải bồi thường thiệt hại bất luận trường hợp nào. Ở Việt Nam, cổ luật cũng không tách biệt trách nhiệm BTTH là một loại trách nhiệm thuộc luật tư và cũng chỉ giải quyết các vấn đề thuộc trật tự công. Vì vậy, các điều luật trong bộ luật cổ như bộ Quốc triều Hình luật của nhà Lê hay Hoàng Việt Luật lệ của Gia Long đều quy định các điều khoản trách nhiệm về luật hình ví dụ: Điều 582 Quốc triều hình luật đã quy định “Nếu những súc vật và chó đã húc, đá và cắn người mà cách làm hiệu và ràng buộc không đúng phép – (theo đúng phép vật nào hay húc người thì phải cắt hai sừng, đá người thì phải buộc hai chân, cắn người thì phải cắt hai tai)- hay là chó dại mà không giết thì người chủ phải phạt 60 lượng. Nếu vì cớ trên, có người chết hay bị thương thì phải tội quá thất. Nếu cố ý thả ra để làm cho người chết hay bị thương thì phải tội kém tội đánh người bị thương hay đánh chết người một bậc. 4
  5. Người được thuê đến để chữa bệnh cho súc vật, hay là người cố trêu trọc những vật kia, mà bị thương hay chết, thì người chủ không phải tội” Tuy nhiên, trong một vài trường hợp đặc biệt, cổ luật Việt Nam cũng quy định sự bồi thường. Đối với trường hợp đánh người bị thương, điều 468 Quốc triều hình luật đã quy định sự nuôi bảo cô. Thí dụ: đánh bị thương bằng chân tay thì phải nuôi 10 ngày, bằng vật khác thì phải nuôi 20 ngày, bằng thứ có mũi nhọn hay bằng nước sôi, lửa, thì phải nuôi 40 ngày, đánh gãy xương thì phải nuôi 80 ngày…. Nhưng ngoài những trường hợp đặc biệt, Cổ luật Việt Nam không phân biệt rõ rệt hai trách nhiệm hình sự và dân sự và cũng không nêu lên một nguyên tắc tổng quát nào về trách nhiệm dân sự. Ở giai đoạn hiện nay, trách nhiệm BTTH được quy định và điều chỉnh bởi Luật tư và các nguyên tắc tổng quát về trách nhiệm này đã được đặt ra ở tất cả các nước. Ở Việt Nam, BTTH hiện nay được hiểu là một loại trách nhiệm Dân sự theo đó người có hành vi gây ra thiệt hại cho người khác phải bồi thường những tổn thất mà mình gây ra. 2/ Khái niệm Trách nhiệm bồi thường thiệt hại Về mặt lý luận, khi nghiên cứu về trách nhiệm BTTH thì tìm hiểu về khái niệm và những đặc điểm nổi bật của trách nhiệm BTTH là một việc làm cần thiết phải được coi trọng. 2.1. Khái niệm trách nhiệm BTTH Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành thì trách nhiệm BTTH được BLDS 2005 quy định tại Điều 307 về trách nhiệm BTTH nói chung và chương XXI về trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng. Tuy nhiên, trong cả hai phần này đều không nêu rõ khái niệm trách nhiệm BTTH mà chỉ nêu lên căn cứ phát sinh trách nhiệm, nguyên tắc bồi thường, năng lực chịu trách nhiệm, thời hạn hưởng bồi thường… Tiếp cận dưới góc độ khoa học pháp lý chúng ta thấy rằng, mỗi người sống trong xã hội đều phải tôn trọng quy tắc chung của xã hội, không thể vì lợi ích của mình mà xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Khi một người vi phạm nghĩa vụ pháp lý của mình gây tổn hại cho người khác thì chính người đó phải chịu bất lợi do hành vi của mình gây ra. Sự gánh chịu một hậu quả bất lợi bằng việc bù đắp tổn thất cho người khác được hiểu là bồi thường thiệt hại (BTTH). Như vậy, có thể hiểu trách nhiệm BTTH là một loại trách nhiệm Dân sự mà theo đó thì khi một người vi phạm nghĩa vụ pháp lý của mình gây tổn hại cho người khác phải bồi thường những tổn thất mà mình gây ra. 2.2. Đặc điểm của trách nhiệm BTTH Là một loại trách nhiệm pháp lý nên ngoài những đặc điểm của trách nhiệm pháp lý nói chung như do cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng, áp dụng đối với người có hành vi vi phạm pháp luật, luôn mang đến hậu quả bất lợi cho người bị áp dụng, được đảm bảo thực hiện bằng cưỡng chế nhà nước…. thì trách nhiệm BTTH còn có những đặc điểm riêng sau đây: 5
  6. - Về cơ sở pháp lý: Trách nhiệm BTTH là một loại trách nhiệm Dân sự và chịu sự điều chỉnh của pháp luật Dân sự. Khi một người gây ra tổn thất cho người khác thì họ phải bồi thường thiệt hại và bồi thường thiệt hại chính là một quan hệ tài sản do Luật Dân sự điều chỉnh và được quy định trong BLDS ở Điều 307 và Chương XXI và các văn bản hướng dẫn thi hành BLDS. - Về điều kiện phát sinh: trách nhiệm BTTH chỉ đặt ra khi thoả mãn các điều kiện nhất định đó là: Có thiệt hại xảy ra, có hành vi vi phạm nghĩa vụ dân sự (nghĩa vụ theo hợp đồng hoặc ngoài hợp đồng), có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi gây thiệt hại với thiệt hại xảy ra, có lỗi của người gây thiệt hại (không phải là điều kiện bắt buộc). Đây là những điều kiện chung nhất để xác định trách nhiệm của một người phải bồi thường những thiệt hại do mình gây ra. Tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt trách nhiệm BTTH có thể phát sinh khi không có đủ các điều kiện trên điển hình là các trường hợp bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra. - Về hậu quả: trách nhiệm BTTH luôn mang đến một hậu quả bất lợi về tài sản cho người gây thiệt hại. Bởi lẽ, khi một người gây ra tổn thất cho người khác thì tổn thất đó phải tính toán được bằng tiền hoặc phải được pháp luật quy định là một đại lượng vật chất nhất định nếu không sẽ không thể thực hiện được việc bồi thường. Do đó, những thiệt hại về tinh thần mặc dù không thể tính toán được nhưng cũng sẽ được xác định theo quy định của pháp luật để bù đắp lại tổn thất cho người bị thiệt hại. Và cũng chính vì vậy, thực hiện trách nhiệm bồi thường sẽ giúp khôi phục lại thiệt hại cho người bị thiệt hại. - Về chủ thể bị áp dụng trách nhiệm: Ngoài người trực tiếp có hành vi gây thiệt hại thì trách nhiệm BTTH còn được áp dụng cả đối với những chủ thể khác đó là cha, mẹ của người chưa thành niên, người giám hộ của người được giám hộ, pháp nhân đối với người của pháp nhân gây ra thiệt hại, trường học, bệnh viện trong trường hợp người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại hoặc tổ chức khác như cơ sở dạy nghề… 3/ Phân loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại 3.1. Trách nhiệm BTTH theo hợp đồng và trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng Căn cứ vào nguồn gốc phát sinh, trách nhiệm bồi thường thiệt hại được phân thành trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng và trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Đây là cách phân loại cơ bản nhất bởi lẽ xác định cơ sở giải quyết bồi thường theo hợp đồng và ngoài hợp đồng sẽ rất khác nhau. Chính vì vậy, xác định được rõ hai loại trách nhiệm này sẽ giúp cho việc áp dụng pháp luật dân sự một cách đúng đắn. * Trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng là loại trách nhiệm dân sự mà theo đó người có hành vi vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng gây ra thiệt hại cho người khác thì phải chịu trách nhiệm bồi thường những tổn thất mà mình gây ra. Như vậy, cơ sở để phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng bao gồm: 6
  7. - Trách nhiệm BTTH theo hợp đồng bao giờ cũng phải dựa trên cơ sở một hợp đồng có trước tức là giữa người được hưởng bồi thường và người gây ra thiệt hại trước đó phải có một quan hệ hợp đồng. Nếu giữa hai bên không tồn tại một hợp đồng nào thì nếu có thiệt hại xảy ra bao giờ cũng sẽ là những thiệt hại phát sinh ngoài hợp đồng và bên gây thiệt hại chỉ có thể phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Chính vì vậy, BTTH trong trường hợp hợp đồng vô hiệu, hủy bỏ hợp đồng và vi phạm đề nghị giao kết hợp đồng là bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng bởi lẽ hợp đồng chưa được giao kết giữa các bên hoặc được coi là chưa hề tồn tại. - Trách nhiệm BTTH theo hợp đồng chỉ phát sinh khi có hành vi vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng tức là không thực hiện hoặc thực hiện không đúng hợp đồng gây ra. Nếu giữa các bên tồn tại quan hệ hợp đồng nhưng hành vi gây thiệt hại không phải là do vi phạm hợp đồng thì trách nhiệm phát sinh cũng không phải là trách nhiệm theo hợp đồng. Ví dụ, A thuê B đến sơn lại nhà cho mình. Trong quá trình làm việc, B đã ăn trộm chiếc điện thoại của A và đã bán cho người khác. Trong trường hợp này không thể tìm lại chiếc điện thoại thì A chỉ có thể khởi kiện B yêu cầu BTTH ngoài hợp đồng. - Chủ thể gây thiệt hại và người bị thiệt hại chính là các bên trong quan hệ hợp đồng đó. Bồi thường thiệt hại theo hợp đồng được áp dụng khi hành vi gây thiệt hại là hành vi vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng. Hành vi vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng chỉ có thể làm ảnh hưởng đến lợi ích của các bên tham gia trong hợp đồng đó. Do đó, nếu người thứ ba có lỗi để gây ra thiệt hại cho một bên trong hợp đồng hoặc một bên trong hợp đồng gây ra thiệt hại cho người thứ ba thì trách nhiệm dân sự phát sinh chỉ có thể là trách nhiệm ngoài hợp đồng. Trường hợp này không áp dụng đối với hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba bởi lẽ đây là trường hợp ngoại lệ vì người thứ ba cũng là người có quyền lợi liên quan và được đề cập đến trong hợp đồng. * Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được hiểu là một loại trách nhiệm dân sự mà khi người nào có hành vi vi phạm nghĩa vụ do pháp luật quy định ngoài hợp đồng xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác thì phải bồi thường thiệt hại do mình gây ra. Nếu trách nhiệm BTTH theo hợp đồng bao giờ cũng được phát sinh trên cơ sở một hợp đồng có trước thì trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng là một loại trách nhiệm pháp lý do pháp luật quy định đối với người có hành vi trái pháp luật xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Hiện nay, pháp luật Việt Nam quy định chủ yếu về trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng đối với hành vi xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản của các cá nhân và tổ chức khác. So với trách nhiệm BTTH theo hợp đồng thì trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng có một số khác biệt như sau: - Về cơ sở phát sinh trách nhiệm: Trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng là một loại trách nhiệm dân sự phát sinh trên cơ sở do pháp luật quy định. Khác với các loại trách nhiệm pháp lý khác thì trách nhiệm dân sự có thể phát sinh trên cơ sở sự thoả thuận của các bên. Tuy nhiên, trách nhiệm phát sinh trên cơ sở thoả thuận của các bên chỉ có thể là trách nhiệm theo hợp đồng ví dụ như buộc phải thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng, phạt vi phạm và/ hoặc BTTH. 7
  8. - Về điều kiện phát sinh trách nhiệm: Trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng chỉ phát sinh khi có đủ các điều kiện do pháp luật quy định. Các điều kiện đó là: Có thiệt hại xảy ra, có hành vi trái phát luật, có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra, có lỗi. Tuy nhiên, BTTH theo hợp đồng, do cơ sở phát sinh trách nhiệm là do các bên bên thoả thuận nên các bên cũng có thể thoả thuận đặt ra các điều kiện phát sinh có thể không bao gồm đầy đủ những điều kiện trên như bên vi phạm hợp đồng không có lỗi cũng vẫn phải BTTH… - Về chủ thể chịu trách nhiệm: Trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng ngoài việc áp dụng đối với người có hành vi trái pháp luật thì còn áp dụng đối với người khác như cha mẹ của người chưa thành niên, người giám hộ đối với người được giám hộ, pháp nhân đối với người của pháp nhân, trường học, bệnh viện, cơ sở dạy nghề…. Tuy nhiên, trách nhiệm BTTH theo hợp đồng chỉ có thể áp dụng đối với các bên tham gia hợp đồng mà không thể áp dụng đối với người thứ ba. Hay nói các khác, các chủ thể trong hợp đồng không thể thoả thuận bất kỳ ai không tham gia hợp đồng sẽ phải chịu trách nhiệm BTTH mà không được sự đồng ý của họ. - Về mức bồi thường: Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về nguyên tắc là người gây thiệt hại phải bồi thường toàn bộ thiệt hại xảy ra. Thiệt hại chỉ có thể được giảm trong một trường hợp đặc biệt đó là người gây thiệt hại có lỗi vô ý và thiệt hại xảy ra quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của họ. Còn đối với BTTH theo hợp đồng thì các bên có thoả thoả thuận ngay trong hợp đồng về mức bồi thường bằng, thấp hơn hoặc cao hơn mức thiệt hại xảy ra và khi phát sinh trách nhiệm BTTH thì mức bồi thường sẽ áp dụng mức do các bên thoả thuận. Việc phân biệt trách nhiệm BTTH theo hợp đồng và trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng đặc biệt có ý nghĩa trong việc thực hiện nghĩa vụ chứng minh của đương sự. Đối với trách nhiệm BTTH theo hợp đồng nguyên đơn chỉ cần chứng minh thiệt hại là do người gây thiệt hại đã không thực hiện hoặc thực hiện không đúng hợp đồng gây ra còn trong trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng bên bị thiệt hại ngoài việc chứng minh thiệt hại còn phải chứng minh hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật. Một vấn đề được đặt ra là trong trường hợp một bên có nghĩa vụ theo hợp đồng nhưng nghĩa vụ đó cũng được pháp luật quy định thì khi vi phạm những nghĩa vụ đó sẽ phát sinh trách nhiệm theo hợp đồng hay ngoài hợp đồng và người bị thiệt hại có thể lựa chọn một trong hai loại trách nhiệm để kiện yêu cầu bồi thường hay không? Ví dụ bác sỹ chữa bệnh cho bệnh nhân rồi lại vi phạm quy định về mổ xẻ hoặc bảo mật thông tin? Hành khách đi trên phương tiện vận chuyển bị thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ? Chúng ta nhận thấy rằng, trong trường hợp này rõ ràng đã có căn cứ để làm phát sinh trách nhiệm BTTH theo hợp đồng vì bên gây thiệt hại đã có hành vi vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng và như vậy thì bên bị thiệt hại có quyền yêu cầu BTTH theo hợp đồng trên cơ sở thoả thuận của các bên. Theo tác giả, trong trường hợp các chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự đã cụ thể hoá những nghĩa vụ do pháp luật quy định vào trong hợp đồng và thoả thuận đó có thể khác pháp luật thì pháp luật vẫn sẽ tôn trọng sự thoả thuận của họ nếu thoả thuận đó là không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội. Chính vì vậy khi phát sinh trách nhiệm thì các bên cũng chỉ có thể áp dụng một phương thức là kiện yêu cầu BTTH theo hợp đồng chứ không thể tự do lựa chọn phương thức có lợi nhất cho mình. Ví dụ hành khách bị thiệt hại về tính mạng mà theo hợp đồng vận chuyển hành khách các bên có thoả thuận mức bồi thường thấp hơn mức bồi thường do pháp luật quy định về BTTH ngoài hợp đồng trong 8
  9. trường hợp bị xâm phạm về tính mạng thì bên bị thiệt hại cũng chỉ có thể yêu cầu bồi thường theo hợp đồng mà thôi. 3.2. Trách nhiệm BTTH vật chất và trách nhiệm BTTH về tinh thần Căn cứ vào lợi ích bị bị xâm phạm và những thiệt hại xảy ra mà trách nhiệm BTTH được phân thành trách nhiệm BTTH về vật chất và trách nhiệm bù đắp tổn thất về tinh thần. Trách nhiệm BTTH về vật chất là trách nhiệm bồi thường tổn thất vật chất thực tế được tính thành tiền do bên vi phạm gây ra, bao gồm tổn thất về tài sản, chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất hoặc giảm sút. Trách nhiệm BTTH về tinh thần được hiểu là người gây thiệt hại cho người khác do xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín của người đó thì ngoài việc chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công khai còn phải bồi thường một khoản tiền để bù đắp những tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt hại như sự buồn rầu, lòng đau thương… Việc phân biệt hai loại trách nhiệm này có ý nghĩa trong việc xác định nghĩa vụ chứng minh và mức bồi thường: Về nguyên tắc, người bị thiệt hại phải có nghĩa vụ chứng minh thiệt hại xảy ra và mức bồi thường sẽ bằng mức thiệt hại. Tuy nhiên, nguyên tắc này chỉ có thể áp dụng đối với trường hợp đó là trách nhiệm BTTH về vật chất còn trong trường hợp BTTH về tinh thần thì rõ ràng những tổn thất về tinh thần là những tổn thất không thể nhìn thấy, không thể tính toán và không thể chứng minh được. Chính vì vậy, trong trường hợp này pháp luật cần quy định một mức nhất định để cơ quan Nhà nước có thẩm quyền áp dụng trong trường hợp một người có hành vi xâm phạm đến các quyền nhân thân của người khác. 3.3. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi của con người gây ra và trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra Căn cứ vào nguyên nhân gây ra thiệt hại, trách nhiệm BTTH được phân chia thành trách nhiệm BTTH do hành vi của con người gây ra và trách nhiệm BTTH do tài sản gây ra. Trách nhiệm BTTH do hành vi của con người gây ra được hiểu là trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi thiệt hại xảy ra là kết quả tất yếu của hành vi của con người gây ra. Trường hợp này người gây thiệt hại đã thực hiện hành vi dưới dạng hành động hoặc không hành động và hành vi đó chính là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại. Trách nhiệm BTTH do tài sản gây ra là trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi tài sản là nguyên nhân gây ra thiệt hại như hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại, cây cối đổ gẫy gây ra thiệt hại, nhà công trình xây dựng bị sụt, đổ gây thiệt hại, gia súc gây thiệt hại… Việc phân loại hai loại trách nhiệm này có ý nghĩa trong việc xác định căn cứ làm phát sinh trách nhiệm BTTH : Đối với trường hợp BTTH do hành vi gây ra thì một điều kiện không thể thiếu là hành vi gây thiệt hại phải là hành vi trái pháp luật. Trong khi đó, BTTH do tài sản gây ra vì không có hành vi nên điều kiện này không thể được xem xét đến. 9
  10. Ngoài ra, việc phân loại này còn có ý nghĩa trong việc xác định chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường: Về nguyên tắc thì người nào có hành vi trái pháp luật gây ra thiệt hại thì người đó phải BTTH do mình gây ra còn đối với BTTH do tài sản gây ra thì về nguyên tắc trách nhiệm lại thuộc về chủ sở hữu hoặc người được chủ sở hữu giao quản lý tài sản đó chứ không phải thuộc về tất cả mọi người đang chiếm giữ tài sản đó. Hiện nay, BLDS Việt Nam chưa quy định về trường hợp một người chiếm hữu hợp pháp đối với tài sản như chiếm hữu thông qua hợp đồng dân sự (ví dụ thông qua hợp đồng thuê, mượn, gửi giữ …) hoặc chiếm hữu tài sản do pháp luật quy định (chiếm hữu tài sản bị đánh rơi, bỏ quên, gia súc, gia cầm thất lạc…) mà tài sản này gây thiệt hại cho người khác thì ai phải bồi thường thiệt hại. Xét về nguyên tắc theo quy định của pháp luật hiện nay thì chủ sở hữu vẫn phải chịu trách nhiệm bồi thường. Theo tác giả thì quy định như vậy sẽ không phù hợp vì trong trường hợp này chủ sở hữu đã chuyển giao quyền chiếm hữu của mình cho người khác và việc kiểm soát, quản lý tài sản đã nằm ngoài ý chí của chủ sở hữu. Trong trường hợp này, pháp luật cần quy định về người phải chịu trách nhiệm BTTH là người chiếm hữu hợp pháp bởi lẽ tài sản hiện đang thuộc quyền nắm giữ, quản lý và kiểm soát của những người này. 3.4. Trách nhiệm liên đới và trách nhiệm riêng rẽ Căn cứ vào mối liên hệ giữa quyền và nghĩa vụ của các chủ thể, trách nhiệm BTTH được phân loại thành trách nhiệm liên đới và trách nhiệm riêng rẽ. BTTH liên đới được hiểu là trách nhiệm nhiều người mà theo đó thì mỗi người trong số những người có trách nhiệm phải chịu trách nhiệm đối với toàn bộ thiệt hại và mỗi người trong số những người có quyền đều có quyền yêu cầu người gây thiệt hại phải bồi thường toàn bộ cho mình. BTTH riêng rẽ là trách nhiệm nhiều người mà theo đó thì mỗi người có trách nhiệm chỉ phải chịu trách nhiệm đối với phần thiệt hại do mình gây ra và mỗi người trong số những người có quyền cũng chỉ có quyền yêu cầu người gây thiệt hại bồi thường những tổn thất mà mình phải gánh chịu. Việc phân loại này có ý nghĩa trong việc xác định cách thức thực hiện nghĩa vụ, căn cứ phát sinh, chấm dứt nghĩa vụ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên. Đối với trách nhiệm liên đới thì khi một bên thực hiện xong phần nghĩa vụ của mình trách nhiệm vẫn chưa chấm dứt mà họ còn phải chịu trách nhiệm đối với toàn bộ thiệt hại. Khi một người gây thiệt hại đã thực hiện trách nhiệm bồi thường thì sẽ phát sinh nghĩa vụ hoàn lại giữa những người có trách nhiệm khác với người đó và khi một người trong số những người bị thiệt hại đã yêu cầu người gây thiệt hại bồi thường toàn bộ thiệt hại cho mình thì phải hoàn lại phần tương ứng cho những người bị thiệt hại khác. Đối với trách nhiệm riêng rẽ thì khi một người thực hiện xong phần nghĩa vụ của mình hoặc khi một người có quyền yêu cầu đã yêu cầu người có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ đối với mình thì quan hệ nghĩa vụ của họ với người khác sẽ chấm dứt. 3.5. Trách nhiệm hỗn hợp và trách nhiệm độc lập. 10
  11. Căn cứ vào yêú tố lỗi và mức độ lỗi của cả người gây thiệt hại và người bị thiệt hại, trách nhiệm bồi thường thiệt hại có thể được phân thành trách nhiệm hỗn hợp và trách nhiệm độc lập. Trách nhiệm hỗn hợp là trách nhiệm bồi thường thiệt hại mà trong đó cả người gây thiệt hại và người bị thiệt hại đều có lỗi. Trách nhiệm độc lập là trách nhiệm bồi thường thiệt hại mà người bị thiệt hại là người hoàn toàn không có lỗi. Việc phân biệt hai loại trách nhiệm này sẽ có ý nghĩa trong việc xác định trách nhiệm bồi thường và mức thiệt hại vì theo quy định tại Điều 617 BLDS thì khi người bị thiệt hại cũng có lỗi trong việc gây thiệt hại thì người gây thiệt hại chỉ phải bồi thường phần thiệt hại tương ứng với mức độ lỗi của mình; nếu thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của người bị thiệt hại thì người gây thiệt hại không phải bồi thường. 3.6. Trách nhiệm bồi thường của cá nhân, trách nhiệm BTTH của pháp nhân, các tổ chức khác và trách nhiệm bồi thường Nhà nước. Căn cứ vào chủ thể chịu trách nhiệm, trách nhiệm BTTH được phân loại thành trách nhiệm BTTH của cá nhân, trách nhiệm BTTH của pháp nhân, các tổ chức khác và trách nhiệm bồi thường Nhà nước. Trách nhiệm BTTH của cá nhân được hiểu là trách nhiệm dân sự mà theo đó thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại thuộc về cá nhân người gây thiệt hại hoặc đại diện theo pháp luật của người đó như cha mẹ, người giám hộ. Trách nhiệm BTTH pháp nhân và các tổ chức khác được hiểu là trách nhiệm dân sự phát sinh cho pháp nhân hoặc các tổ chức khác trong trường hợp người của pháp nhân và các tổ chức gây thiệt hại trong khi thực hiện nhiệm vụ pháp nhân hoặc tổ chức giao cho. Trách nhiệm bồi thường Nhà nước được hiểu là khi cán bộ, công chức gây thiệt hại thuộc phạm vi bồi thường Nhà nước thì Nhà nước phải bồi thường thiệt hại cho người bị thiệt hại chứ không phải chính cán bộ công chức hay cơ quan quản lý cán bộ công chức phải bồi thường. Việc phân loại này có ý nghĩa trong việc xác định chủ thể phải bồi thường và việc xác định nghĩa vụ hoàn lại: Đối với trường hợp người của pháp nhân hoặc tổ chức gây thiệt hại trong khi thực hiện nhiệm vụ được pháp nhân giao do đó hành vi của họ được hiểu là hành vi của pháp nhân chính vì vậy theo quy định của pháp luật dân sự (Điều 618, 619, 620, 621) thì trách nhiệm trước hết thuộc về pháp nhân, tổ chức. Sau khi người có trách nhiệm bồi thường đã thực hiện xong thì nếu người gây thiệt hại có lỗi sẽ làm phát sinh nghĩa vụ hoàn lại của người có hành vi gây thiệt hại cho pháp nhân, tổ chức đó. Ngoài ra, việc phân loại này còn có ý nghĩa trong việc xác định trách nhiệm bồi thường, trình tự, thủ tục bồi thường… bởi lẽ nếu là trách nhiệm Nhà nước thì sẽ bị giới hạn phạm vi áp dụng do đặc thù Nhà nước là một chủ thể đặc biệt thực hiện việc quản lý Nhà nước, quản lý xã hội; tiền bồi thường thuộc ngân sách Nhà nước do đó việc thực hiện trình tự, thủ tục bồi thường cũng 11
  12. không giống với trách nhiệm bồi thường thiệt hại thông thường. Trong thời gian tới, khi Luật Bồi thường Nhà nước được ban hành sẽ quy định một cách rõ ràng, cụ thể hơn về vấn đề này. Ngoài ra, nếu căn cứ vào lĩnh vực bồi thường thì trách nhiệm BTTH có thể được phân loại thành bồi thường trong lĩnh vực hành chính, hình sự, tố tụng hình sự, sở hữu trí tuệ; căn cứ vào số lượng chủ thể chịu trách nhiệm có thể phân trách nhiệm BTTH thành trách nhiệm một người và trách nhiệm nhiều người; căn cứ vào điều kiện lỗi có thể phân thành trách nhiệm BTTH có yếu tố lỗi và bồi thường thiệt hại không cần có yếu tố lỗi; căn cứ các yếu tố có liên quan đến pháp luật nước ngoài hay không có thể phân trách nhiệm BTTH thành trách nhiệm BTTH trong nước và trách nhiệm BTTH có yếu tố nước ngoài … Tuy nhiên, những cách phân loại này không có nhiều ý nghĩa nên không được đề cập đến trong phạm vi bài viết này./. [1] Vũ Văn Mẫu, Việt Nam Dân luật lược khảo, quyển 2, nghĩa vụ và khế ước, in lần 1, 1963,Bộ quốc gia giáo dục xuất bản, tr. 437 và cuốn Từ điển Bách khoa toàn thư SOURCE: ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI “TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ DO TÀI SẢN GÂY THIỆT HẠI – VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”, MÃ SỐ: LH-08-05/ĐHL. HÀ NỘI NĂM 2009 Ý NGHĨA, ĐẶC ĐIỂM VÀ XÁC ĐỊNH CHỦ THỂ CỦA TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ DO TÀI SẢN GÂY RA Posted on 05/04/2010 by Civillawinfor PGS.TS. ĐINH VĂN THANH – Toà án nhân dân tối cao 1.Ý nghĩa, đặc điểm của trách nhiệm dân sự do tài sản gây ra Theo quy định chung của pháp luật thì công dân và pháp nhân có quyền được bảo vệ tài sản, các lợi ích hợp pháp… Tại Điều 1, Sắc lệnh 97/SL ngày 22.5.1950 đã ghi nhận :"Những quyền dân sự đều được luật bảo vệ khi người ta hành sử nó đúng với quyền lợi của nhân dân". Trong Hiến Pháp 1992 (Đạo luật cơ bản của Nhà nước) đối với tài sản của công dân đã được ghi nhận cụ thể: "Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của công dân”. Như vậy, khi tài sản của pháp nhân, của Nhà nước, hoặc tài sản, tính mệnh, sức khoẻ, danh dự nhân phẩm, uy tín của cá nhân bị xâm hại, Nhà nước sẽ áp dụng những biện pháp cưỡng chế nhất định đối với người có hành vi xâm hại trái pháp luật nhằm mục đích khắc phục những hậu quả xấu về tài sản và tinh thần, khôi phục lại tình trạng vốn có ban đầu cho người bị thiệt hại. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại nói chung, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói riêng là một quan hệ pháp luật dân sự, theo đó người gây ra thiệt hại trong những điều kiện mà pháp luật quy định phải bồi thường toàn bộ thiệt hại do hành vi trái pháp luật của họ gây ra. Trong quan hệ nghĩa vụ này bên bị thiệt hại được coi là người có quyền và có quyền yêu cầu bên gây thiệt hại là người có nghĩa vụ phải bồi thường những thiệt hại đã xảy ra. 12
  13. Trong đời sống thực tế hiện nay bên cạnh những thiệt hại do hành vi của con người gây ra, có nhiều thiệt hại do tài sản là các phương tiện giao thông, máy móc, công trình xây dựng, súc vật gây ra. Vấn đề xác định trách nhiệm dân sự của chủ sở hữu, người sử dụng tài sản, tài sản khi có hành vi vi phạm pháp luật gây thiệt hại cho người khác; hoặc trách nhiệm của chủ sở hữu đối với các thiệt hại do tài sản, tài sản thuộc sở hữu của người đó gây ra cho con người, cho xã hội ngày càng có ý nghĩa thực tế quan trọng. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng pháp luật nhiều vấn đề mới đã xuất hiện và gây khó khăn trong thực thi pháp luật khi phải áp dụng trách nhiệm dân sự. Để đối phó với tình trạng này, từ lâu các luật gia trên thế giới đã bàn luận nhiều về chủ đề: làm sao có thể tạo thêm những điều kiện thuận lợi nhất để bảo vệ nhanh và kịp thời khi các quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể bị xâm hại. Các quy định của pháp luật về bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng để giải quyết các tranh chấp liên quan đến thiệt hại do tài sản gây ra. Theo quy định của pháp luật tố tụng, người có quyền, lợi ích bị xâm phạm có trách nhiệm cung cấp chứng cứ và chứng minh (theo nguyên tắc được quy định tại Điều 6, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004). Trên thực tế, quy định này nhiều khi lại rất khó khăn khi thực hiện. Vì vậy, việc nghiên cứu và đề xuất giảm nhẹ trách nhiệm cung cấp chứng cứ và chứng minh của bên bị thiệt hại là xu thế được các luật gia quan tâm. Ngoài ra, cơ sở của trách nhiệm dân sự nói chung còn được xây dựng trên nguyên tắc lỗi. Theo nguyên lý truyền thống, người bị thiệt hại muốn được bồi thường còn phải dẫn chứng lỗi của người gây thiệt hại; ngoài ra họ còn có trách nhiệm chứng minh sự thiệt hại (những tổn thất thực tế) do người có hành vi vi phạm pháp luật gây ra phải gánh chịu khi do chính lỗi của người đó gây ra. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra đã mở ra một hướng giải quyết tranh chấp, theo đó, khi tài sản gây ra thiệt hại, chủ sở hữu, người đang quản lý tài sản đương nhiên bị coi là có lỗi. Với quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra, quyền lợi của người bị thiệt hại được bảo đảm. Việc xác định trách nhiệm trên nguyên tắc lỗi và trách nhiệm chứng minh của người có quyền, lợi ích bị xâm phạm nhiều khi rất phức tạp và có thể còn có những bất lợi cho người bị thiệt hại. Nhiều trường hợp tai nạn xảy ra do cây đổ, nhà cửa công trình bị sụp đổ hoặc do gia súc gây ra… nhưng không có ai chứng kiến, hoặc thiệt hại thực tế đã xảy ra nhưng không do lỗi của ai cả (do máy móc, cây cối, nhà cửa, gia súc… gây ra). Vì vậy, trong những trường hợp này, nếu bắt buộc người bị thiệt hại phải dẫn chứng lỗi tức là đã gián tiếp hạn chế quyền được đòi bồi thường của họ, nhất là những trường hợp không phải do con người gây ra mà chỉ do tài sản gây ra. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra cũng nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm của chủ sở hữu, người quản lý tài sản. Chủ sở hữu, người quản lý tài sản có nghĩa vụ trông coi, quản lý, không để tài sản của mình gây thiệt hại cho người khác. Để thực hiện nghĩa vụ đó, họ phải tuân thủ các quy tắc trong việc sử dụng, bảo quản, sử dụng…, kịp thời phát hiện nguy cơ tài sản có thể gây thiệt hại cho những người xung quanh để có biện pháp phòng ngừa, khắc phục thích hợp. Khi tài sản gây ra thiệt hại, chủ sở hữu, người quản lý tài sản bị suy đoán là có lỗi, trừ trường hợp họ chứng minh được lỗi thuộc về người khác. 13
  14. Các quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cũng góp phần làm minh thị các quy định pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. * Đặc điểm của trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra - Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra là loại trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng phát sinh khi có sự kiện gây thiệt hại trái pháp luật của tài sản. Trách nhiệm này phát sinh khi tài sản là nguyên nhân gây ra thiệt hại như hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại, cây cối đổ gẫy gây ra thiệt hại, nhà công trình xây dựng bị sụt, đổ gây thiệt hại, gia súc gây thiệt hại… - Trách nhiệm được áp dụng cho chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng tài sản – những người có nghĩa vụ trong việc quản lý tài sản. Đối với những thiệt hại do hành vi của con người gây ra, việc xác định trách nhiệm bồi thường căn cứ vào việc người nào có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại thì phải bồi thường. Còn đối với BTTH do tài sản gây ra thì về nguyên tắc trách nhiệm lại thuộc về chủ sở hữu hoặc người được chủ sở hữu giao quản lý tài sản đó chứ không phải thuộc về tất cả mọi người đang chiếm giữ tài sản đó. - Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra có trường hợp không cần xem xét đến điều kiện lỗi. Trong lịch sử phát triển khoa học pháp lý dân sự đã có nhóm luật gia đề xuất thuyết "trách nhiệm khách quan". Nghĩa là, đã có thiệt hại xảy ra là phải được đền bù, bồi thường một cách ngang bằng, không cần biết người gây ra thiệt hại có lỗi hay không có lỗi. Nói cách khác, thuyết “trách nhiệm khách quan” bãi bỏ và không công nhận điều kiện lỗi. Khi các cá nhân trong hoạt động đã gây ra thiệt hại (kể cả khi gặp rủi ro), làm thiệt hại tính mạng, tài sản cho người khác đều phải có trách nhiệm bồi thường. Trong trường hợp như vậy, người bị thiệt hại có quyền yêu cầu đòi bồi thường mà không cần phải dẫn chứng một lỗi nào của bên gây thiệt hại cả. Người bị thiệt hại chỉ cần dẫn chứng: sự thiệt hại thực tế đúng là kết quả (hậu quả) của chính hành vi do phía bên kia đã gây ra. Người ta cho rằng, mỗi cá nhân đều phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về mọi hành vi của mình. Nếu hành vi đó gây thiệt hại cho người khác thì phải bồi thường toàn bộ thiệt hại không cần biết có lỗi hay không. Điều này rất đúng nếu thiệt hại không phải do con người gây ra mà do máy móc, cây cối, nhà cửa, công trình xây dựng hoặc gia súc gây ra theo nguyên tắc chủ sở hữu phải chịu trách nhiệm bồi thường. Nhưng cùng với sự phát triển của xã hội và luật pháp, người ta thấy như vậy là không công bằng. Các luật gia đã quan tâm tìm kiếm nguyên nhân nội tại của hành vi gây ra thiệt hại và kết luận rằng: Lỗi phải được xem là một trong những cơ sở, là điều kiện của trách nhiệm dân sự, dù rằng lỗi trong trách nhiệm dân sự chỉ là điều kiện suy đoán. Để bảo đảm sự công bằng, thì người gây ra thiệt hại chỉ phải bồi thường thiệt hại khi họ có lỗi. Hiện nay trong khoa học pháp lý ở Việt Nam vẫn tồn tại quan điểm cho rằng: cơ sở phát sinh trách nhiệm pháp lý dân sự là các yếu tố cấu thành vi phạm pháp luật dân sự. Một trong những yếu tố cấu thành đó phải là yếu tố lỗi (được xác định theo trạng thái tâm lý) của người có hành vi vi phạm. Lỗi là một trong các điều kiện bắt buộc để áp dụng trách nhiệm do hành vi vi phạm pháp luật gây ra theo nguyên tắc chung đã phân tích ở phần trên. Chính vì vậy mà quy định về 14
  15. căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại, yếu tố lỗi được đưa vào Điều 604 Bộ luật dân sự; sau đó là các trường hợp ngoại lệ quy định tại khoản 3, Điều 623 Bộ luật dân sự năm 2005. (Lưu ý rằng, vấn đề lỗi quy định tại Điều 604 Bộ luật dân sự áp dụng trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, còn lỗi trong trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ được quy định tại Điều 308 Bộ luật dân sự áp dụng cho việc vi phạm trong các quan hệ hợp đồng. Khoản 1, Điều 308 đã quy định: “Người không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ dân sự thì phải chịu trách nhiệm dân sự khi có lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”). 2. Trách nhiệm dân sự do tài sản gây ra và các điều kiện xác định trách nhiệm. Trong thực tế của đời sống xã hội, có những thiệt hại phát sinh không phải do lỗi trực tiếp từ con người mà là do các tài sản, thậm chí do súc vật gây ra. Ví dụ: tường rào đổ, xe bị hỏng phanh, cây tự nhiên gẫy, ngựa đá, trâu lồng, chó cắn… hay các thiệt hại phát sinh từ việc kinh doanh sản xuất do máy móc gây ra. Vậy, trong những trường hợp như thế, rất khó chính xác và hợp lý khi dựa vào những nguyên tắc có tính chất truyền thống để áp dụng và xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại dân sự thuần túy. Dù rằng một số điều luật tại mục 3, Chương XXI Bộ luật dân sự 2005 đã quy định việc bồi thường thiệt hại trong một số trường hợp cụ thể như: Điều 625 quy định bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra; Điều 626 quy định bồi thường thiệt hại do cây cối gây ra; Điều 627 quy định bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng khác gây ra… Đây được xem là trách nhiệm bồi thường thiệt hại có tính đặc thù riêng. Vì vậy, việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại cũng có những yêu cầu riêng với những đặc trưng riêng. Các thiệt hại phát sinh được nhiều luật gia cho là do lỗi vô ý gián tiếp của chủ sở hữu các tài sản gây thiệt hại đó và việc xác định trách nhiệm dân sự trong các trường hợp này hiện vẫn đang là một trong những vấn đề hết sức phức tạp và chưa đáp ứng được trong thực tiễn yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể trong cuộc sống. Mặc dù pháp luật dân sự coi lỗi là một trong những điều kiện bắt buộc để áp dụng trách nhiệm dân sự nhưng lại không đưa ra định nghĩa rõ ràng về lỗi. Trong một số giáo trình luật dân sự tại các cơ sở đào tạo luật các tác giả định nghĩa lỗi như là căn cứ để xác định trách nhiệm dân sự dựa trên trạng thái tâm lý và mức độ nhận thức của một người đối với hành vi của mình và hậu quả do hành vi đó gây ra. Điều này là đúng, nhưng chưa đủ, vì sẽ khó áp dụng trong trường hợp xác định lỗi của chủ sở hữu do đồ vật thuộc sở hữu của người đó gây ra. Hiện nay, trong khoa học pháp lý dân sự của Việt Nam, khái niệm lỗi được xây dựng trên cơ sở trạng thái tâm lý của chủ thể do ảnh hưởng quan điểm của các luật gia Liên Xô cũ. Các luật gia Liên Xô trước đây xây dựng khái niệm lỗi trên hai phương pháp nghiên cứu sau đây: Thứ nhất, đưa vào khoa học Luật Dân sự những quy định và phương pháp nghiên cứu môn khoa học tâm lý, khoa học Luật Hình sự…là những ngành khoa học có đối tượng và phương pháp nghiên cứu riêng. (Một vấn đề cần được lưu ý là khái niệm về lỗi cố ý, lỗi vô ý theo quy định tại khoản 2, Điều 308 Bộ luật dân sự năm 2005 được xây dựng giống như quy định về cố ý phạm tội và vô ý phạm tội theo quy định tại Điều 9 và Điều 10 Bộ luật hình sự năm 1999). Vì vậy, trong khoa học pháp lý dân sự xuất hiện và chịu ảnh hưởng quan điểm về lỗi như được nói ở trên. Các 15
  16. luật gia của Liên Xô cũ cho rằng, những nguyên tắc cơ bản của triết học về tự do ý chí và sự cần thiết về sự hoạt động tích cực của con người trong sự tác động thay đổi thế giới khách quan là tiền đề tâm lý chung của khái niệm lỗi trong khoa học pháp lý. Thứ hai, quan điểm về trạng thái tâm lý của lỗi trong trách nhiệm dân sự trước đây được xác định trên nền tảng hệ tư tưởng trong xã hội Xô Viết. Khi đó, việc lý giải về mặt tâm lý khái niệm lỗi khẳng định một cách thuyết phục rằng, “lỗi là một khái niệm có tính lịch sử, giai cấp”. Mỗi giai cấp đều có quan niệm của mình về luật pháp, về luân lý… và mỗi giai cấp có một quan niệm riêng của mình về lỗi như là căn cứ pháp lý và là tiêu chí quan trọng của trách nhiệm dân sự. Vì vậy, ý nghĩa của lỗi trong các nước có hệ thống chính trị, hệ thống pháp luật khác nhau là khác nhau. Trên cơ sở phân tích các quan điểm khác nhau cũng như quy định của các hệ thống pháp luật khác nhau chúng ta thấy rằng nếu xây dựng khái niệm lỗi chỉ dựa trên tiêu chí thái độ, trạng thái tâm lý và nhận thức của chủ thể trách nhiệm dân sự đối với hành vi của mình và hậu quả do hành vi đó gây ra thì khó giải thích được rằng: vì sao đồ vật (là vật vô tri, vô giác) mà gây ra thiệt hại thì vẫn phát sinh trách nhiệm dân sự về bồi thường. Trong các trường hợp xác định được chủ thể là cá nhân, pháp nhân thì phải xây dựng khái niệm lỗi dựa trên sự quan tâm, chu đáo của chủ thể trong khi thực hiện nghĩa vụ của mình. Một cá nhân hay pháp nhân, được coi là không có lỗi nếu khi áp dụng tất cả mọi biện pháp khi thực hiện nghĩa vụ đã biểu hiện sự quan tâm chu đáo mà tính chất của nghĩa vụ và điều kiện của đời sống dân sự yêu cầu đối với họ. Trách nhiệm dân sự phát sinh từ các thiệt hại do tài sản (có chủ sở hữu) gây ra cho bên có quyền được coi đó là lỗi vô ý nếu như chủ thể không nhìn thấy trước được những gì mà mọi người chu đáo, cẩn thận có thể nhìn thấy trong hoàn cảnh tương tự. Thiệt hại phát sinh khi chủ sở hữu đã không thực hiện sự quan tâm phải có như khi thể hiện nó trong công việc của mình. Ví dụ, một người là chủ sở hữu cho người khác (không có bằng lái xe) mượn ô tô nhưng không hỏi người này có bằng lái hay chưa. Khi người mượn xe lưu thông trên đường đã gây tai nạn. Trong trường hợp này, người cho mượn xe ô tô được coi là có “lỗi gián tiếp” và đương nhiên theo luật thì người cho mượn xe này phải chịu trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại cùng người mượn xe. Một ví dụ khác, một người đang đi bộ trên vỉa hè bỗng nhiên bức tường rào của ngôi nhà ven đường đổ sập xuống hoặc cây cối trong vườn tự nhiên đổ làm gẫy chân, hư hỏng tài sản khác của người đi bộ đó. Xem xét trách nhiệm của từng bên đối với thiệt hại thực tế đã xảy ra ta thấy rằng: Người đi bộ trên vỉa hè và là người bị thiệt hại đương nhiên không có lỗi (trừ khi có biển cảnh báo nguy hiểm, cấm không được qua lại và vẫn cố tình đi ngang qua). Bức tường rào hoặc cây cối bị đổ cũng không do một lực tác động trực tiếp của một chủ thể nào. Vậy ai sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thường bồi thường cho người bị gẫy chân và tài sản hư hỏng của người đó (nếu có) ? Trong trường hợp này, nếu người chủ sở hữu của bức tường rào hoặc cây cối đã mua bảo hiểm trách nhiệm dân sự, thì việc bồi thường cho người bị thiệt hại sẽ được thực hiện theo hợp đồng bảo hiểm; hoặc trong trường hợp người bị thiệt hại đã mua bảo hiểm thân thể, thì cơ quan bảo hiểm sẽ chịu trách nhiệm bồi thường. Nhưng ở Việt Nam thực tế về bảo hiểm này ít xảy ra. Thông 16
  17. thường người ta chỉ mua bảo hiểm cho tài sản mà có sự bắt buộc phải mua, ví dụ mua bảo hiểm cho xe ô tô (thân xe, vỏ xe, máy…) hoặc mua bảo hiểm trách nhiệm dân sự. Như vậy, thiệt hại xảy ra nhất thiết phải có nguyên nhân xác định mà không thể là tự nhiên. Theo quan điểm của triết học, nguyên nhân và kết quả luôn có mối liên hệ nối tiếp nhau, nguyên nhân bao giờ cũng đi trước, là cái sinh ra kết quả; nhưng một kết quả có thể lại do nhiều nguyên nhân sinh ra hoặc ngươc lại. Vì vậy khi xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại thuộc về ai, cần xem xét thiệt hại đó do các nguyên nhân nào gây ra, các nguyên nhân đó do đâu mà có v.v… Nếu không xác định được mối quan hệ nhân quả, nghĩa là không xác định nguyên nhân gây ra thiệt hại sẽ dễ dẫn đến các sai lầm khi áp dụng trách nhiệm dân sự. Trong trường hợp này, chúng ta nói đến trách nhiệm dân sự của chủ sở hữu bức tường rào hoặc cây cối. Khi người chủ xây bức tường rào hoặc tự trồng cây, đương nhiên sẽ là chủ sở hữu của bức tường rào hoặc cây đó. Người chủ sẽ có đầy đủ các quyền, nghĩa vụ đối với bức tường rào, cây cối. Một trong các nghĩa vụ đó là tuân thủ các quy định chuẩn mực về xây dựng cũng như các quy định về an toàn xây dựng hoặc quy tắc về trồng cây. Sự kiện bức tường rào, cây cối bị đổ, nguyên nhân sẽ là do người chủ đã vi phạm các quy định về an toàn xây dựng hoặc trồng cây, nhưng cũng có thể không có bất kỳ việc vi phạm nào. Sự kiện xảy ra ngoài mong đợi và nằm ngoài ý chí mong muốn của chủ sở hữu. Nói cách khác chủ sở hữu không thể kiểm soát được. Nhưng, chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp này sẽ là người chủ xây dựng bức tường rào hoặc cây cối với tư cách là chủ sở hữu đồ vật. Đối với trường hợp xác định được chủ thể vi phạm, người vi phạm muốn được miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại thì họ phải chứng minh rằng mình không có lỗi hoặc do sự kiện bất khả kháng; hoặc nếu họ chứng minh được rằng thiệt hại xảy ra là do những yếu tố khách quan không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của họ. Các yếu tố miễn trừ trách nhiệm dân sự bồi thường thiệt hại của người có hành vi vi phạm pháp luật thông thường là yếu tố bất khả kháng. * Các điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Gồm có 4 điều kiện sau đây: = > Một là: Có thiệt hại thực tế về tài sản. Trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì việc xác định thiệt hại về tài sản được coi là tiền đề quan trọng phải có trước tiên. Phạm vi của trách nhiệm bồi thường hoàn toàn phụ thuộc vào sự thiệt hại thực tế đã xảy ra. Đó là những tổn thất thực tế, tồn tại khách quan và ai cũng phải thừa nhận. Xác định đúng thiệt hại để ấn định mức bồi thường cụ thể là một vấn đề khó khăn và rất phức tạp. Nguyên tắc của tính toán thiệt hại là: Đó là những thiệt hại về vật chất (thiệt hại về tài sản) hoặc là những chi phí những thu nhập thực tế bị giảm sút hay bị mất do có sự thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ đưa đến. Hoặc là những lợi ích vật chất thực tế khác bị mất đi do người vi phạm đã gây ra cho người bị thiệt hại. Một số luật gia Sài Gòn trước đây và một số luật gia phương tây cho rằng việc xác định thiệt hại phải có đủ ba điều kiện sau đây: - Sự thiệt hại phải là sự đụng chạm đến quyền lợi chính đáng. Tức là quyền lợi đó phải phù hợp với pháp luật, không phi pháp. 17
  18. - Sự thiệt hại phải chắc chắn hoặc có đủ các yếu tố để ước lượng nó là có thật hoặc sẽ có trên một cơ sở khoa học. - Sự thiệt hại phải trực tiếp, vì rằng pháp luật không thể bắt buộc người gây thiệt hại phải gánh chịu tất cả hậu quả của hành vi của mình một cách vô tận (không có giới hạn) mà chỉ là thiệt hại trực tiếp do kết quả của hành vi có lỗi và trái pháp luật. Một số án lệ của Pháp còn xác định thiệt hại thành một số tiền nhất định và người có hành vi động chạm đến các giá trị tinh thần như: tôn giáo, tín ngưỡng phải bồi thường. Tuy nhiên, quan điểm này cũng bị dư luận xã hội chỉ trích nhiều (* Xem thêm: Vũ Văn Mẫu, Dân luật Việt Nam lược khảo, Tủ sách Đại học Sài Gòn 1971). Pháp luật Việt Nam hiện hành coi người có hành vi xâm phạm đến các lợi ích nhân thân như uy tín, danh dự, nhân phẩm… là trái pháp luật. Trước đây, việc bồi thường trong các trường hợp này chưa được quy định cụ thể và cũng chưa được áp dụng trong thực tiễn. Sau khi ban hành Bộ luật dân sự năm 1995, một số bản án đã xét xử coi đây là việc khắc phục tổn thất về tinh thần và buộc người có hành vi vi phạm bồi thường một số tiền nhất định. Điều 608 Bộ luật dân sự năm 2005 xác định thiệt hại do tài sản bị xâm phạm cụ thể bao gồm: Tài sản bị mất; bị huỷ hoại hoặc bị hư hỏng; lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác tài sản; chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế và khắc phục thiệt hại. Các thiệt hại về: sức khoẻ được quy định trong Điều 609 Bộ luật dân sự; thiệt hại về tính mạng bị xâm phạm được quy định trong Điều 610 Bộ luật dân sự; thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm được quy định trong Điều 611 Bộ luật dân sự… Ngoài việc bồi thường cho những đối tượng trực tiếp bị thiệt hại về sức khoẻ, tính mạng, tài sản, còn có những thiệt hại gián tiếp, có những thiệt hại chưa phát sinh ngay mà ảnh hưởng về lâu dài và chủ thể gây thiệt hại phải có trách nhiệm ngăn chặn, khôi phục nguyên trạng: tình trạng như trước khi chưa xảy ra thiệt hại. = > Hai là: Có hành vi gây thiệt hại trái pháp luật. Việc xác định hành vi trái pháp luật trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cũng có những đặc trưng riêng. Xác định “tính trái pháp luật” dựa trên nguyên tắc và cơ sở pháp lý do pháp luật quy định trước. Các bên không biết và cũng không thể có sự thoả thuận về vấn đề này. Theo nguyên tắc chung: mọi hành vi xâm phạm và dưới bất kỳ hình thức nào (có lỗi cố ý, vô ý, vô ý nặng, vô ý nhẹ… thậm chí không có lỗi áp dụng trong trường hợp do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra) nhưng đã xâm phạm đến quyền tuyệt đối của một chủ thể nhất định đều bị coi là hành vi trái pháp luật. Khoản 3, Điều 623 Bộ luật dân sự đã quy định :”Chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại cả khi không có lỗi, trừ các trường hợp sau đây: a) Thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại; 18
  19. b) Thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”. Hành vi gây thiệt = > Ba là: Có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại và hành vi trái pháp luật. Người có gây thiệt hại chỉ phải chịu trách nhiệm dân sự khi nào những thiệt hại về tài sản xảy ra là kết quả của chính hành vi trái pháp luật của người đó. Tức là hành vi trái pháp luật của người gây thiệt hại phải là nguyên nhân gây ra thiệt hại về tài sản cho người bị thiệt hại: nguyên nhân có thể là trực tiếp hoặc gián tiếp. Dưới góc độ triết học, mối quan hệ nhân quả là mối liên hệ phổ biến giữa các sự vật và hiện t- ượng trong tự nhiên và trong xã hội. Phạm trù quan hệ nhân quả là yếu tố khách quan, tồn tại ngoài ý thức của con người. Do vậy, giữa nguyên nhân và kết quả phải có mối liên hệ nội tại, tất yếu. Tính tất yếu thể hiện: sự vận động là nguyên nhân đương nhiên xuất hiện kết quả nhất định: gây ra thiệt hại thực tế. Nguyên nhân và kết quả phải xảy ra trong một không gian xác định, nối tiếp nhau trong một thời gian nhất định và bao giờ nguyên nhân cũng phải xảy ra trước kết quả. Quan hệ nhân quả có ý nghĩa quan trọng trong việc quy kết trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Do vậy, khi xem xét và đánh giá mối quan hệ nhân quả cần phân biệt nguyên nhân với điều kiện, nguyên nhân trực tiếp và nguyên nhân gián tiếp. Chỉ khi nào xác định được rõ ràng rằng hành vi trái pháp luật của người gây thiệt hại có ý nghĩa quyết định trong việc làm phát sinh thiệt hại thực tế, thì người đó mới phải chịu trách nhiệm bồi thường. = > Người gây thiệt hại có lỗi. Theo truyền thống khoa học luật dân sự: lỗi được hiểu là yếu tố chủ quan nói lên thái độ tâm lý của con người có khả năng đánh giá và nhận thức được hành vi của mình là đúng hay sai và hậu quả của hành vi đó. Lỗi là một trong bốn điều kiện của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và có ý nghĩa quan trọng trong việc quyết định mức độ trách nhiệm bồi thường. Dưới góc độ khoa học luật dân sự nói chung khi người có hành vi trái pháp luật, xâm phạm đến quyền tuyệt đối của chủ thể khác sẽ bị suy đoán là có lỗi. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cũng được coi là một trong những công cụ pháp lý có ý nghĩa thực tế quan trọng bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp cho công dân và pháp nhân. Vì vậy, Trong Luật Hình sự lỗi được coi là dấu hiệu của cấu thành tội phạm. Xác định đúng tính chất và mức độ lỗi của tội phạm là một trong những điều kiện cần thiết để định tội danh và quyết định hình phạt. Vì rằng, có những trường hợp cùng có những biểu hiện khách quan về hành vi như nhau, nhưng tính chất và mức độ lỗi khác nhau sẽ có kết luận khác nhau về tội danh và hình phạt. Trong luật dân sự cũng có sự phân biệt tính chất và mức độ lỗi (mức độ lỗi cố ý và vô ý. Trong lỗi vô ý có vô ý nặng và vô ý nhẹ). Sự phân biệt này, tuy nhiên chỉ có ý nghĩa trong một số tr- ường hợp nhất định. Đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng người có hành vi trái pháp luật bị coi là có lỗi khi xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của người khác. 19
  20. Vì vậy, có những trường hợp xảy ra ngoài ý chí mong muốn của người có hành vi trái pháp luật như: bão, lụt do thiên tai hoặc những trở lực khách quan khác mà con người không có khả năng để khắc phục. Do đó, tuỳ từng hoàn cảnh điều kiện cụ thể mà có thể giảm hoặc miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người có hành vi trái pháp luật trên cơ sở xác định lỗi. Theo nguyên lý chung, các điều kiện xác định trách nhiệm dân sự do tài sản gây ra, về cơ bản cũng tương tự như các điều kiện đã phân tích trên đây. Tuy nhiên, các điều kiện xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại chỉ cần ba điều kiện sau đây: - Có thiệt hại thực tế xảy ra; - Có sự kiện gây thiệt hại trái pháp luật; - Có mối quan hệ nhân quả giữa sự kiện gây thiệt hại trái pháp luật và thiệt hại thực tế đã xảy ra. Việc xác định tổn thất trong trường hợp này có thể dựa trên cơ sở thuyết “trách nhiệm khách quan”, mà không cần xét đến yếu tố hành vi gây thiệt hại trái pháp luật và yếu tố lỗi của chủ sở hữu. Sẽ là không hợp lý khi một tài sản gây thiệt hại lại xét đến yếu tố hành vi. Thuật ngữ hành vi gây thiệt hại trái pháp luật chỉ đúng khi thiệt hại do con người – thực thể của quan hệ xã hội và là chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự – gây ra. Vì vậy, trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra chỉ cần xác định đúng sự kiện gây thiệt hại là nguyên nhân trực tiếp làm tổn thất tài sản thực tế, giữa chúng có mối quan hệ nhân – quả, thì chủ sở hữu tài sản phải là người chịu trách nhiệm bồi thường. Trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra không cần xét đến yếu tố lỗi. Theo quan niệm truyền thống yếu tố tố lỗi chỉ được xem xét khi gắn với một chủ thể xác định. Vì vậy, gắn lỗi cho tài sản khi chúng gây thiệt hại là không thể xảy ra. Tuy nhiên, lỗi của chủ sở hữu sẽ phải xét đến trong một số trường hợp nếu chủ sở hữu thông qua tài sản mà có những tác động, quản lý không tốt hoặc không đúng quy trình quản giữ… để tài sản gây thiệt hại. Đối với thiệt hại thường chỉ là tổn thất thực tế, thiệt hại gián tiếp cũng được xét đến nếu thiệt hại xảy ra đối với con người. 3. Vấn đề xác định chủ thể chịu trách nhiệm dân sự do tài sản gây ra. Trong thực tế, nhiều trường hợp sự kiện gây thiệt hại của đồ vật diễn ra trong một quá trình và có thể nói là không liên quan gì đến trạng thái tâm lý hay nhận thức của chủ sở hữu. Nói cách khác sự kiện gây thiệt hại của đồ vật nằm ngoài mong muốn cũng như sự kiểm soát của chủ sở hữu. Để nâng cao trách nhiệm của chủ sở hữu trong chiếm hữu, sử dụng tài sản và theo nguyên tắc công bằng thông thường thì chủ sở hữu đồ vật phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do đồ vạt thuộc sở hữu hoặc quyền quản lý của mình gây ra. Tuy nhiên, có những trường hợp nguyên nhân gây thiệt hại trực tiếp là đồ vật, nhưng ẩn giấu sau đó lại là việc làm có chủ định của con người. Vụ chất thải công nghiệp của Công ty bột ngọt Vedan trên sông Thị Vải gần đây là một ví dụ. Nếu nhìn hiện tượng thì thiệt hại dường như là do 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2