intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Bước đầu ứng dụng kỹ thuật PCR định lượng đánh giá tồn lưu tế bào ác tính tổ hợp GEN TEL-AML1 tại Bệnh viện Truyền máu Huyết học

Chia sẻ: Hạnh Thơm | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:6

61
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nội dung bài viết nhằm nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật PCR định lượng (RQ‐PCR) trong đánh giá tồn lưu tế bào ác tính (TLTBAT) trên bệnh nhân bạch cầu cấp dòng lympho (BCCDL) có mang tổ hợp gen TEL‐AML1. Nghiên cứu trên 13 bệnh nhân được chẩn đoán BCCDL‐B có biểu hiện TEL‐AML1 bằng RT‐PCR và FISH được khảo sát TLTBAT lúc chẩn đoán và trong quá trình theo dõi điều trị bằng kỹ thuật RQ‐PCR sử dụng Taqman Probe.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Bước đầu ứng dụng kỹ thuật PCR định lượng đánh giá tồn lưu tế bào ác tính tổ hợp GEN TEL-AML1 tại Bệnh viện Truyền máu Huyết học

Nghiên cứu Y học <br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 5 * 2013<br /> <br /> BƯỚC ĐẦU ỨNG DỤNG KỸ THUẬT PCR ĐỊNH LƯỢNG  <br /> ĐÁNH GIÁ TỒN LƯU TẾ BÀO ÁC TÍNH TỔ HỢP GEN TEL‐AML1  <br /> TẠI BỆNH VIỆN TRUYỀN MÁU HUYẾT HỌC <br /> Nguyễn Thị Minh Yên*, Phan Thị Xinh** <br /> <br /> TÓM TẮT <br /> Mục tiêu: Ứng dụng kỹ thuật PCR định lượng (RQ‐PCR) trong đánh giá tồn lưu tế bào ác tính (TLTBAT) <br /> trên bệnh nhân (BN) bạch cầu cấp dòng lympho (BCCDL) có mang tổ hợp gen TEL‐AML1. <br /> Đối tượng và phương pháp: 13 BN được chẩn đoán BCCDL‐B có biểu hiện TEL‐AML1 bằng RT‐PCR và <br /> FISH được khảo sát TLTBAT lúc chẩn đoán và trong quá trình theo dõi điều trị bằng kỹ thuật RQ‐PCR sử dụng <br /> Taqman Probe. <br /> Kết  quả  nghiên  cứu:  Trước điều trị, hầu hết các BN đều có biểu hiện TEL‐AML1 ở mức độ cao với kỹ <br /> thuật RQ‐PCR, RT‐PCR và FISH. Sau khi hoàn tất giai đoạn tấn công, có 5 trong 13 BN (38,46%) thì vẫn còn <br /> biểu hiện TEL‐AML1 ở mức thấp từ 0,03% đến 0,28 % trong khi FISH và RT‐PCR đều âm tính. Đối với BN <br /> ALL‐10, kết quả khảo sát bằng kỹ thuật RQ‐PCR cho thấy mức độ biểu hiện tổ hợp gen TEL‐AML1 trước điều <br /> trị là 75,82%, giảm còn 0,29% (gần 3 log) sau điều trị tấn công và không còn sự hiện diện của tổ hợp gen TEL‐<br /> AML1 sau điều trị tăng cường. BN ALL‐13 với mức độ biểu hiện TEL‐AML1 là 31,18% so với ABL, sau điều <br /> trị xong giai đoạn tấn công, TLTBAT là 0,16% (giảm khoảng 2 log) và 0,10% sau đó 2 tháng. Tuy nhiên, tỷ lệ <br /> TLTBAT bắt đầu tăng lên ở các lần gửi mẫu tiếp theo lần lượt là 0,36% và 2,42% cho thấy xuất hiện lại dòng tế <br /> bào ác tính. <br /> Kết  luận:  Bước đầu sử dụng  kỹ thuật RQ‐PCR đánh giá TLTBAT trong BCCDL‐B cho thấy có ý nghĩa <br /> trong đánh giá lui bệnh và dự đoán nguy cơ tái phát trong quá trình điều trị cho BN có mang tổ hợp gen TEL‐<br /> AML1. <br /> Từ khóa: TEL‐AML1, tồn lưu tế bào ác tính, PCR định lượng. <br /> <br /> ABSTRACT <br /> DEVELOPMENT OF REAL‐TIME QUANTITATIVE PCR  <br /> TO MONITOR MINIMAL RESIDUAL DISEASE IN TEL/AML1 POSITIVE PATIENTS  <br /> AT BLOOD TRANSFUSION AND HEMATOLOGY HOSPITAL <br /> Nguyen Thi Minh Yen, Phan Thi Xinh * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ No 5 ‐ 2013: 184 ‐ 189 <br /> Object:  Using  Real  Time  Quatitative  ‐  PCR  (RQ‐PCR)  to  assess  minimal  residual  disease  (MRD)  in <br /> patients with TEL/AML1 positive acute lymphoblastic leukemia (ALL).  <br /> Methods:  13  B‐ALL  patients  detected  TEL/AML1  positive  by  FISH  and  RT‐PCR  methods  before <br /> chemotherapy are monitored MRD by RQ‐PCR with Taqman Probe.  <br /> Results:  Before chemotherapy, most of patients express TEL‐AML1 at high levels by RQ‐PCR, RT‐PCR <br /> and FISH. At the end of the induction therapy, 5 in13 cases (38.46%) are still detected MRD at the very low <br /> levels, from 0.03% to 0.28 %; while both FISH and RT‐PCR indicate the negative result. To patient ALL‐10, the <br /> result of RQ‐PCR shows the TEL‐AML1 high positive level at diagnosis time, standing at 75.82%, declining <br /> * Khoa Di Truyền Học Phân Tử ‐ Bệnh viện Truyền Máu Huyết Học TP Hồ Chí Minh <br /> ** Bộ môn Huyết Học ‐ Đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh <br /> Tác giả liên lạc: TS. BS. Phan Thị Xinh   ĐT: 093.2728.115   Email: phanthixinh@yahoo.com <br /> <br /> 184<br /> <br /> Chuyên Đề Truyền Máu – Huyết Học  <br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 5 * 2013 <br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br /> sharply to 0.29% (approximately 3 logs) after induction therapy and then vanishing after intensification therapy. <br /> Patient ALL‐13 shows positive TEL‐AML1/ABL level at 31.18%; after induction therapy, MRD occupies 0.16% <br /> (decrease over 2 logs) and declining to 0.10% after 2 months. However, there is a significant increasing in MRD <br /> levels of the next 2 times, 0.36% and 2.42%, respectively. <br /> Conclusions: The first step applying RQ‐PCR method to assess MRD in TEL‐AML1 positive ALL patients <br /> shows the important value of monitoring remission and predicts a relapse risk in treatment duration. <br /> Key words: TEL‐AML1, minimal residual disease, Real Time Quatitative PCR.  <br /> hành  khảo  sát  TLTBAT  trên  BN  có  biểu  hiện <br />  ĐẶT VẤN ĐỀ <br /> TEL/AML1 ở các giai đoạn sau điều trị, đặc biệt <br /> Đánh giá tồn lưu tế bào ác tính (TLTBAT) là <br /> sau giai đoạn tấn công. <br /> một  yếu  tố  dự  đoán  nguy  cơ  tái  phát  rất  quan <br /> ĐỐI    TƯỢNG  –  PHƯƠNG    PHÁP    NGHIÊN  <br /> trọng ở bệnh nhân (BN) bệnh bạch cầu cấp dòng <br /> CỨU <br /> lympho (BCCDL)(1,6,9). Trong hầu hết các nghiên <br /> cứu, tỷ lệ TLTBAT lớn hơn 0,01% là tỷ lệ thuận <br /> Đối tượng <br /> với  nguy  cơ  tái  phát(2).  Hiện  nay,  việc  đánh  giá <br /> BN được  chẩn  đoán  BCCDL‐B  dựa  vào  tủy <br /> TLTBAT  trong  BCCDL  có  thể  sử  dụng  các  kỹ <br /> đồ  và  dấu  ấn  bề  mặt  tế  bào  tại  BVTMHH  từ <br /> thuật  như  Flow  Cytometry  (FCM),  PCR  định <br /> tháng 06/2010 đến tháng 03/2013. Các BN này có <br /> lượng  (RQ‐PCR)  các  tái  sắp  xếp  gen <br /> kết quả RT‐PCR dương tính với tổ hợp gen TEL‐<br /> imunoglobullin  và  T‐cell  receptor  và  RQ‐PCR <br /> AML1 trước khi bắt đầu điều trị và có gửi mẫu <br /> các tổ hợp gen thường gặp(9,2,7). Trong đó, hai kỹ <br /> theo dõi sau điều trị.  <br /> thuật đầu tiên có khả năng là theo dõi khoảng 80 <br /> Phương pháp nghiên cứu <br /> ‐ 95% các BN(8,9). Đối với những BN BCCDL‐B có <br /> biểu hiện tổ hợp gen như TEL/AML1, BCR/ABL, <br /> Thiết kế nghiên cứu <br /> E2A/PBX1 và MLL/AF4 thì RQ‐PCR khảo sát các <br /> Mô tả loạt ca. <br /> tổ  hợp  gen  trên  được  lựa  chọn  ưu  tiên  vì  đặc <br /> Phương pháp tiến hành <br /> hiệu cho dòng tế bào ung thư(2,3,6,8) và có thể theo <br /> Xử lý mẫu và ly trích RNA <br /> dõi được khoảng 30 ‐35% trường hợp. <br /> Lấy  2  mL  mẫu  tủy  trong  chống  đông <br /> Tổ  hợp  gen  TEL/AML1  được  tạo  thành  do <br /> EDTA, ly giải hồng cầu bằng dung dịch ly giải <br /> chuyển  vị  t(12;21)(p13;q22)  gặp  trong  khoảng <br /> chứa  1M  MgCl2,  5M  NaCl  và  1M  Tris‐HCl. <br /> 20–25% BN BCCDL‐B và là yếu tố tiên lượng tốt <br /> Rửa tế bào bằng dung dịch đệm PBS và lấy 1 x <br /> (8). Theo báo cáo của một số nghiên cứu, sau đợt <br /> 107  tế  bào  trộn  đều  với  1  mL  Trizol  (Life <br /> điều trị tấn công, kết quả đánh giá TLTBAT cho <br /> Technologies, Mỹ).  <br /> thấy có khoảng 40‐50% bệnh nhân vẫn còn biểu <br /> hiện  tổ  hợp  gen  TEL‐AML1(2,5).  TLTBAT  được <br /> chứng  minh  là  liên  quan  đến  nguy  cơ  tái  phát <br /> sau  này.  Trong  những  nghiên  cứu  về  vấn  đề <br /> này,  các  tác  giả  đã  đưa  ra  kết  quả  chung  rằng <br /> những  BN  không  phát  hiện  TLTBAT  vẫn  chưa <br /> thấy  bị  tái  phát,  tuy  nhiên,  đối  với  những  BN <br /> vẫn  còn  TLTBAT,  một  số  trường  hợp  đã  bị  tái <br /> phát(4,8,11). <br /> Huyết học (BVTMHH) TP. HCM, sau khi đã <br /> thiết lập thành công điều kiện của kỹ thuật RQ‐<br /> PCR cho tổ hợp gen TEL/AML1(12), chúng tôi tiến <br /> <br /> Chuyên Đề Truyền Máu – Huyết Học <br /> <br /> RNA được ly trích từ mẫu tế bào lưu trữ với <br /> Trizol  theo  qui  trình  kỹ  thuật  do  công  ty  cung <br /> cấp.  Sau  đó,  đo  nồng  độ  RNA  bằng  máy <br /> Ultrospec  5300  pro  (GE  Heathcare,  Anh).  Mẫu <br /> đạt chất lượng khi có tỉ lệ OD260/OD280 = 1,8 – <br /> 2,0.  Lấy  đúng  1g  RNA  để  tổng  hợp  cDNA <br /> nhằm  đảm  bảo  sự  đồng  nhất  đầu  vào  của  các <br /> mẫu cần định lượng. Lượng RNA  còn  lại  được <br /> lưu trữ ở nhiệt độ ‐80oC. <br /> Tổng hợp cDNA <br /> <br /> 185<br /> <br /> Nghiên cứu Y học <br /> Tổng hợp cDNA sử dụng bộ kít Transcriptor <br /> First  Strand  cDNA  Synthesis  Kit  (Roche,  Thụy <br /> Sĩ) theo hướng dẫn của nhà sản xuất. Hỗn hợp <br /> RNA và men sao chép ngược trên được ủ bằng <br /> máy  luân  nhiệt  iCycler  (Biorad,  Mỹ)  theo  chu <br /> trình  luân  nhiệt  là  25oC  trong  10  phút,  55oC <br /> trong 30 phút, và 85oC trong 5 phút. Mẫu cDNA <br /> được  pha  loãng  để  điều  chỉnh  về  nồng  độ  50 <br /> ng/3L và được lưu trữ ở ‐20oC đến khi sử dụng. <br /> Thực hiện RQ‐PCR <br /> Tiến  hành  chạy  RQ‐PCR  đồng  thời  mẫu <br /> bệnh nhân, mẫu chuẩn và chứng nội tại ở cùng <br /> điều kiện theo mô tả Thanh TTT và cộng sự(12) trên <br /> máy CFX 96 của (Biorad, Mỹ). Mẫu chuẩn trong <br /> nghiên  cứu  này  được  chuẩn  bị  theo  mô  tả  của <br /> Thanh  TTT  và  cộng  sự(12)  với  Taqman  Probe  có <br /> đầu  5’  được  đánh  dấu  bằng  FAM,  và  đầu  3’ <br /> được đánh dấu bằng TAMRA và chứng nội tại <br /> được  lựa  chọn  sử  dụng  là  gen  ABL.  Chu  trình <br /> luân nhiệt cho phản ứng RQ‐PCR như sau: 50oC <br /> trong 2 phút; 95oC trong 10 phút; 50 chu kỳ với <br /> 95oC trong 10 giây, 60oC trong 30 giây. Phân tích <br /> kết  quả  trực  tiếp  trên  máy  mà  không  cần  qua <br /> bước điện di. <br /> Phân tích kết quả <br /> ‐  Kiểm  tra  các  thông  số  của  đường  khuếch <br /> đại và đường chuẩn để đánh giá tính chính xác, <br /> hiệu suất phản ứng, và độ tin cậy của phản ứng.  <br /> ‐ Tính tỉ lệ phần trăm tổ hợp gen quan tâm <br /> so với chứng nội tại, thể hiện kết quả dưới dạng <br /> biểu đồ để dễ dàng đánh giá được mức độ tồn <br /> lưu tế bào ác tính. <br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 5 * 2013<br /> thuật RQ‐PCR, RT‐PCR và FISH (Bảng 1), ngoại <br /> trừ ALL‐11 và ALL‐13.  <br /> Bảng 1: Kết quả TEL‐AML1 với kỹ thuật RQ‐PCR, <br /> RT‐PCR và FISH lúc chẩn đoán. <br /> STT<br /> <br /> MÃ BN<br /> <br /> 1<br /> <br /> ALL-01<br /> <br /> 116,90<br /> <br /> (+)<br /> <br /> 89,00<br /> <br /> 2<br /> <br /> ALL-02<br /> <br /> 158,69<br /> <br /> (+)<br /> <br /> 96,05<br /> <br /> 3<br /> <br /> ALL-03<br /> <br /> 105,01<br /> <br /> (+)<br /> <br /> 91,50<br /> <br /> 4<br /> <br /> ALL-04<br /> <br /> 114,20<br /> <br /> (+)<br /> <br /> 98,00<br /> <br /> 5<br /> <br /> ALL-05<br /> <br /> 422,01<br /> <br /> (+)<br /> <br /> 98,00<br /> <br /> 6<br /> <br /> ALL-06<br /> <br /> 71,78<br /> <br /> (+)<br /> <br /> 97,00<br /> <br /> 7<br /> <br /> ALL-07<br /> <br /> 234,15<br /> <br /> (+)<br /> <br /> 97,50<br /> <br /> 8<br /> <br /> ALL-08<br /> <br /> 115,38<br /> <br /> (+)<br /> <br /> 97,00<br /> <br /> 9<br /> <br /> ALL-09<br /> <br /> 204,32<br /> <br /> (+)<br /> <br /> 81,50<br /> <br /> 10<br /> <br /> ALL-10<br /> <br /> 75,82<br /> <br /> (+)<br /> <br /> 90,00<br /> <br /> 11<br /> <br /> ALL-11<br /> <br /> 0,35<br /> <br /> (+)<br /> <br /> 15,00<br /> <br /> 12<br /> <br /> ALL-12<br /> <br /> 56,92<br /> <br /> (+)<br /> <br /> 78,05<br /> <br /> 13<br /> <br /> ALL-13<br /> <br /> 31,18<br /> <br /> (+)<br /> <br /> 64,45<br /> <br /> Đến  lần  gửi  mẫu  thứ  hai  sau  khi  hoàn  tất <br /> giai  đoạn  tấn  công,  những  BN  này  không  phát <br /> hiện  thấy  TLTBAT  bằng  kỹ  thuật  RT‐PCR  và <br /> FISH. Tuy nhiên, 5 trong 13 BN (38,46%) vẫn còn <br /> biểu  hiện  TEL‐AML1  ở  mức  thấp  từ  0,03%  đến <br /> 0,28 % với kỹ thuật RQ‐PCR (Bảng 2).  <br /> Bảng  2:  Kết  quả  của  BN  còn  biểu  hiện  TEL‐<br /> AML1 sau hoàn tất giai đoạn tấn công. <br /> <br /> 186<br /> <br /> RQ-PCR<br /> RT-PCR<br /> FISH<br /> TELTEL-AML1 t(12;21)<br /> AML1/ABL<br /> (%)<br /> (%)<br /> (%)<br /> <br /> STT<br /> <br /> MÃ BN<br /> <br /> 1<br /> <br /> ALL-05<br /> <br /> 0,28<br /> <br /> (-)<br /> <br /> 0,00<br /> <br /> 2<br /> <br /> ALL-07<br /> <br /> 0,03<br /> <br /> (-)<br /> <br /> 0,00<br /> <br /> 3<br /> <br /> ALL-09<br /> <br /> 0,04<br /> <br /> (-)<br /> <br /> 0,00<br /> <br /> 4<br /> <br /> ALL-10<br /> <br /> 0,29<br /> <br /> (-)<br /> <br /> Không làm<br /> <br /> 5<br /> <br /> ALL-13<br /> <br /> 0,16<br /> <br /> (-)<br /> <br /> 0,00<br /> <br /> KẾT QUẢ  <br /> Trong thời gian thực hiện nghiên cứu, chúng <br /> tôi đã thu thập được 13 BN chẩn đoán BCCDL‐<br /> B, thỏa mãn tiêu chuẩn chọn mẫu và được khảo <br /> sát biểu hiện tổ hợp gen TEL‐AML1 qua các giai <br /> đoạn  điều  trị  bằng  kỹ  thuật  RQ‐PCR,  trong  đó <br /> có 12 BN (ALL‐01 đến ALL‐12) là mới chẩn đoán <br /> và 1 BN (ALL‐13) là tái phát tủy lần 2. Ở lần gửi <br /> mẫu đầu tiên trước điều trị, hầu hết các BN đều <br /> có  biểu  hiện  TEL‐AML1  ở  mức  độ  cao  với  kỹ <br /> <br /> RQ-PCR<br /> RT-PCR<br /> FISH<br /> TELTEL-AML1 t(12;21)<br /> AML1/<br /> (%)<br /> (%)<br /> ABL (%)<br /> <br /> Trong  13  BN  trên,  có  2  BN  đã  tiếp  tục  gửi <br /> mẫu để khảo sát TEL/AML1 sau các đợt hóa trị <br /> liệu.  Kết  quả  mức  độ  biểu  hiện  TEL‐AML1  qua <br /> <br /> Chuyên Đề Truyền Máu – Huyết Học  <br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 5 * 2013 <br /> các giai đoạn điều trị bằng kỹ thuật RQ‐PCR của <br /> từng BN được mô tả như sau: <br /> BN  Châu  Ngọc  K.  L.  là  BN  nữ,  sinh  năm <br /> 2004, mã ALL‐10. Kết quả RQ‐PCR của 3 lần gởi <br /> mẫu theo dõi điều trị của BN ALL‐10 được tóm <br /> tắt theo biểu đồ 1. <br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> BN  ALL‐13  được  chẩn  đoán  là  BCCDL  tái <br /> phát và điều trị theo phác đồ COPRALL 2005. <br /> Theo  biểu  đồ  2,  ở  lần  gửi  mẫu  đầu  tiên  trước <br /> điều trị (ALL‐13‐1),  kết  quả  RQ‐PCR  cho  thấy <br /> mức độ biểu hiện TEL‐AML1 là 31,18% so với <br /> ABL.  Sau  hơn  3  tháng  điều  trị  xong  giai  đoạn <br /> tấn  công,  kết  quả  RQ‐PCR  cho  thấy  mức  độ <br /> biểu hiện TEL‐AML1 giảm khoảng 2 log và vẫn <br /> còn 0,16%. <br /> <br />  <br /> Biểu đồ 1: Kết quả RQ‐PCR theo dõi điều trị của BN <br /> ALL‐10  <br /> Dựa  vào  biểu  đồ  1,  ở  lần  gửi  mẫu  đầu  tiên <br /> (ALL‐10‐1) trước điều trị, kết quả khảo sát bằng <br /> kỹ thuật RQ‐PCR cho thấy mức độ biểu hiện tổ <br /> hợp  gen  TEL‐AML1  là  75,82%.  Ở  lần  gửi  mẫu <br /> thứ hai (ALL‐10‐2) sau khi hoàn tất giai đoạn tấn <br /> công  thì  tỉ  lệ  này  giảm  gần  3  log  và  vẫn  còn <br /> 0,29%. Đến  lần  gửi  mẫu  thứ  ba  (ALL‐10‐3),  khi <br /> hoàn  tất  tăng  cường  1  bằng  phát  đồ  FRALLE <br /> 2000 nhóm A1, kết quả RQ‐PCR cho thấy không <br /> còn sự hiện diện của tổ hợp gen TEL‐AML1. Kết <br /> quả  RQ‐PCR  so  với  kết  quả  RT‐PCR  và  FISH <br /> theo Bảng 3. <br /> Bảng 3: Kết quả RQ‐PCR, RT‐PCR và FISH của ca <br /> ALL‐10 qua các lần gửi mẫu <br /> RQ-PCR<br /> TEL-AML1/ABL<br /> (%)<br /> ALL-10-1<br /> 75,82<br /> ALL-10-2<br /> 0,29<br /> ALL-10-3<br /> 0,00<br /> Mã BN<br /> <br /> RT-PCR<br /> TEL-AML1<br /> <br /> FISH<br /> t(12;21) (%)<br /> <br /> (+)<br /> (-)<br /> (-)<br /> <br /> 90,00<br /> Không làm<br /> 0,00<br /> <br /> BN Phan Chí U là BN nam, sinh năm 2000, <br /> mã ALL‐13, tình trạng bệnh là tái phát tủy lần 2. <br /> Kết quả RQ‐PCR các lần gởi mẫu theo dõi điều <br /> trị của BN ALL‐13 được tóm tắt theo biểu đồ 2. <br /> <br /> Chuyên Đề Truyền Máu – Huyết Học <br /> <br />  <br /> Biểu đồ 2: Kết quả RQ‐PCR theo dõi điều trị của BN <br /> ALL‐12 <br /> Sau đó 2 tháng, sau khi hoàn tất BLOCK R1 <br /> R2,  RQ‐PCR  cho  thấy  TLTBAT  chỉ  còn  0,10% <br /> (Bảng 4). Đến lần gửi mẫu thứ  4  (ALL‐13‐4)  và <br /> thứ 5 (ALL‐13‐5), tỷ lệ TLTBAT đã bắt đầu tăng <br /> lên lần lượt là 0,36% và 2,42%. RT‐PCR cho kết <br /> quả dương tính với cả 5 lần gửi mẫu (Bảng 4). <br /> Bảng 4: Kết quả RQ‐PCR, RT‐PCR và FISH của ca <br /> ALL‐12 <br /> Mã BN<br /> ALL-13-1<br /> ALL-13-2<br /> ALL-13-3<br /> ALL-13-4<br /> ALL-13-5<br /> <br /> RQ-PCR<br /> RT-PCR<br /> FISH<br /> TEL-AML1/ABL (%) TEL-AML1 t(12;21 (%)<br /> 31,18<br /> (+)<br /> 64,5<br /> 0,16<br /> (+)<br /> 0,00<br /> 0,1<br /> (+)<br /> Không làm XN<br /> 0,36<br /> (+)<br /> Không làm XN<br /> 2,42<br /> (+)<br /> Không làm XN<br /> <br /> BÀN LUẬN  <br /> Trong  13  BN  khảo  sát  biểu  hiện  TEL‐<br /> AML1/ABL bằng RQ‐PCR trước điều trị, có 2 BN <br /> ALL‐11 và ALL‐13 cho kết quả lần lượt là 0,35% <br /> và  31,18%,  thấp  hơn  nhiều  so  với  các  BN  khác <br /> (Bảng  1).  Đối  với  trường  hợp  ALL‐11,  kỹ  thuật <br /> <br /> 187<br /> <br /> Nghiên cứu Y học <br /> FISH  cho  kết  quả  dương  tính  t(12;21)  ở  mức <br /> thấp  với  15%,  ngoài  ra  còn  có  thêm  1  dòng  tế <br /> bào khác chiếm 80% biểu hiện 4 tín hiệu nhiễm <br /> sắc thể 21. Trường hợp ALL‐13 đã được điều trị <br /> bằng phát đồ đặc hiệu và tái phát lần 1, sau đó <br /> được  điều  trị  bằng  phát  đồ  FRALLE  93  và  tái <br /> phát tủy lần 2, nên TEL‐AML1 không biểu hiện ở <br /> mức  cao.  Những  trường  hợp  mới  được  chẩn <br /> đoán,  chưa  trải  qua  quá  trình  điều  trị  thì  tỉ  lệ <br /> TEL‐AML1/ABL rất cao như ALL‐2, ALL‐5, ALL‐<br /> 7,  ALL‐9,..  với  tỉ  lệ  >100%  (Bảng  1),  cao  hơn  so <br /> với tỉ lệ tế bào có t(12;21) khảo sát bằng kỹ thuật <br /> FISH,  cho  thấy  dòng  tế  bào  ung  thư  có  t(12;21) <br /> biểu hiện bản sao TEL‐AML1 rất mạnh.  <br /> Tổ  hợp  gen  TEL‐AML1  xuất  hiện  ở  trẻ  em <br /> mắc bệnh BCCDL‐B cho tiên lượng tốt  (5, 8). Sau <br /> khi hoàn tất điều trị tấn công, kết quả kiểm tra <br /> bằng FISH và RT‐PCR là âm tính hay  kết  quả <br /> RQ‐PCR cho TLTBAT ở mức thấp hoặc không <br /> phát hiện đã thể hiện khả năng đáp ứng điều <br /> trị tốt của các BN BCCDL‐B dương tính tổ hợp <br /> gen TEL‐AML1. Tuy nhiên, 38,46% BN vẫn còn <br /> TLTBAT ở mức rất thấp (  0,01%  và  4  BN  có  TLTBAT <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
35=>2