intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Các ngày lễ kỷ niệm trong năm

Chia sẻ: Thái Duy Hùng Hùng | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:30

489
lượt xem
80
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Với tài liệu này, các bạn sẽ nắm rõ hơn những ngày lễ, ngày kỷ niệm lớn trong năm của Việt Nam, qua đó hiểu rõ hơn về lịch sử, truyền thống và văn hóa của con người Việt Nam

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Các ngày lễ kỷ niệm trong năm

  1. Các ngày Lễ, kỷ niệm trong năm THÁNG 1 06/01/1946 TỔNG TUYỂN CỬ  BẦU QUỐC HỘI  ĐẦU TIÊN CỦA NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ  CỘNG   HOÀ. Cách mạng tháng Tám thành công, mặc dù phải đối phó với nhiều âm mưu và hành động của   thù trong giặc ngoài để bảo vệ chính quyền non trẻ, Đảng ta vẫn chăm lo xây dựng nền dân chủ nhân   dân. Cuộc tổng tuyển cử đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà được tiến hành trên phạm vi  cả nước vào ngày 06/01/1946. Lần đầu tiên mọi người dân Việt Nam từ 18 tuổi trở lên không phân biệt   nam, nữ, giàu nghèo, dân tộc, tín ngưỡng được hưởng quyền bầu cử và ứng cử, theo nguyên tắc phổ   thông, trực tiếp, bình đẳng, bỏ phiếu kín. Tình hình trong nước lúc ấy rất phức tạp nhưng 90% tổng số  cử tri đã đi bỏ phiếu. Mặt trận Việt Minh đã giành thắng lợi với 230 ghế, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trúng   cử với số phiếu cao nhất. Lần đầu tiên trong lịch sử nước ta, cũng là lần đầu tiên trong lịch sử các nước Châu  Á  có  một   Quốc Hội dân chủ, tiến bộ. Quốc hội khoá I đã lập ra Chính phủ đầu tiên của nước ta, bảo vệ và củng   cố nền dân chủ nhân dân, thông qua Hiến pháp  đầu tiên và  dẫn dắt nhân dân ta kháng chiến thắng  lợi, tiến hành cách mạng ruộng đất, xây dựng nền kinh tế dân chủ nhân dân, xây dựng  đời sống mới   độc lập tự do hạnh phúc. 09/01/1950 NGÀY TRUYỀN THỐNG HỌC SINH, SINH VIÊN VIỆT NAM. Từ giữa năm 1949 đến đầu năm 1950 phong trào đấu tranh của thanh niên học sinh, sinh viên chống  chủ  nghĩa thực dân Pháp xâm lược và  can thiệp Mỹ, chúng “  độc lập” giả  hiệu, chống khủng bố   đàn   áp, đòi đảm bảo an ninh cho học sinh, đòi được học tiếng mẹ đẻ… đã diễn ra rầm rộ, liên tục và rộng  khắp từ  Nam chí  Bắc. Tại Saì  Gòn, các tầng lớp  đồng bào cũng tích cực hưởng  ứng dưới nhiều hình   thức : biểu tình chống sưu thuế, chống bắt lính, đòi công  ăn việc làm. Học sinh, sinh viên bãi trường,   bãi khóa liên miên. Ngày 09/01/1950,  Đoàn Thanh Niên cứu quốc và   Đoàn học sinh Sài Gòn ­ Chợ  Lớn  đã  vận   động và  tổ  chức cho hơn 2.000 học sinh , sinh viên các trường Pétrus Ký, Gia Long, Nguyễn Văn  Khuê, Huỳnh Khương Ninh, trường  Đại học Y Dược, Pháp Lý, các trường chuyên nghiệp vô  tuyến  điện, công chính, kỹ thuật, khoa học,… cùng nhiều giáo viên và  7.000 nhân dân Sài Gòn ­ Chợ  Lớn   biểu tình  đòi bảo  đảm an ninh cho học sinh, sinh viên học tập và trả  tự do cho những học sinh, sinh   viên bị bắt – trong  đó có Ban lãnh  đaọ học sinh cứu quốc Saì Gòn. Đoàn biểu tình kéo đến Nha học   chính và Dinh thủ hiến bù nhìn đưa yêu sách. Bọn cảnh sát và lính lê dương ra đàn áp dã man đoàn   biểu tình. Thái độ đó đã làm đám đông phẫn nộ, bùng nổ cuộc xung đột. Những người biểu tình dùng   mọi thứ  vũ  khí  có  trong tay chống trả  quyết liệt với lính Pháp, lính  Âu Phi và  công an Bình Xuyên.  Trần Văn Ơn, người thanh niên tiêu biểu cho lòng yêu nước và ý chí đấu tranh bất khuất của học sinh,   sinh viên đã bị bọn chúng giết hại trong cuộc xung đột đó. Tại Sài Gòn, ngày 12/01/1950  đám tang anh Trần Văn Ơn đã biến thành cuộc biểu tình thị uy   của trên 5 vạn người  đứng trên các hè phố tiễn  đưa anh. Lễ tang anh Trần Văn Ơn cũng đã được cử 
  2. hành trên khắp các tỉnh thành trong cả nước. Hàng triệu lượt học sinh, sinh viên và đồng bào các giới  đã   đeo băng tang truy  điệu với lòng thương tiếc và  xuống  đường tuần hành bày tỏ   ý  chí  căm thù.   Bài  điếu văn trong buổi lễ  tang có  câu :“ Ai chết vinh buồn chăng ? Ai sống nhục thẹn chăng ?”   Những câu hỏi đó cứ vang mãi trong những tháng năm đen tối của đất nước, thúc giục bao thế hệ trẻ   noi gương Trần Văn Ơn, quên mình xông lên phía trước. Đại hội Liên đoàn Thanh niên Việt Nam tháng 2/1950 tại căn cứ địa Việt Bắc đã lấy ngày 09/01  làm ngày truyền thống hàng năm của học sinh, sinh viên Việt Nam. Truyền thống vẻ vang đó đã được   các thế  hệ  học sinh, sinh viên kế  thừa oanh liệt trong cuộc kháng chiến chống Mỹ  cứu nước và  trở  thành bất diệt. 27/01/1973 KÝ HIỆP ĐỊNH PARI CHẤM DỨT CHIẾN TRANH, LẬP LẠI HOÀ BÌNH Ở VIỆT NAM Ngày 27/01/1973, tại Pari, Bộ trưởng ngoại giao Cách mạng lâm thời Cộng hoà Miền Nam Việt  Nam cùng với các bộ trưởng ngoại giao Chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, Chính phủ Hoa Kỳ  và  Chính quyền Sài Gòn  đã  ký  hiệp  định về  “ Chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình  ở  Việt Nam và   các nghị định thư kèm theo”. Nội dung chủ yếu của hiệp định đó là : ­Hoa Kỳ cùng các nước cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ   của nước Việt Nam ­Hoa Kỳ  rút hết quân viễn chinh và  quân chư  hầu, phá  hết các căn cứ  quân sự  Mỹ, cam kết   không tiếp tục dính líu  đến quân sự  hoặc can thiệp vào công việc nội bộ  của miền nam Việt Nam. ­Các bên  để  cho nhân dân Miền Nam Việt Nam tự  quyết  định tương lai chính trị  của họ  thông qua  tổng tuyển cử tự do. ­Các bên công nhận thức tế  miền Nam Việt Nam có  2 chính quyền, hai quân  đội, hai vùng  kiểm soát và ba lực lượng chính trị. ­Các bên ngừng bắn tại chỗ, trao trả cho nhau tù binh và dân thường bị bắt. Hiệp định Pari về Việt Nam là kết quả của cuộc đấu tranh kiên cường bất khuất cuả nhân dân   ta trên cả  hai miền  đất nước, mở  ra bước ngoặc mới của cuộc kháng chiến chống Mỹ  cưú  nước của  nhân dân ta, cũng là  thắng lợi to lớn của các lực lượng hoà  bình,  độc lập dân tộc, dân chủ  và  chủ  nghĩa xã hội trên thế giới. THÁNG 2  03/02/1930 NGÀY THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM Sau khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, nhân dân trên mọi miền  đất nước  đã  liên tiếp  đứng   lên chống giặc. Tuy nhiên, các phong trào đó đều lần lượt thất bại do chưa tìm ra một con đường cứu   nước  đúng  đắn, chưa có  một lực lượng xã  hội, một giai cấp tiên tiến và  một tổ  chức cách mạng chặt  chẽ   đủ  sức lãnh  đạo phong trào. Cách mạng Việt Nam  đứng trước sự  bế  tắc và  khủng hoảng về  đường lối cứu nước. Ngày 1/5/1929, Đại hội toàn quốc Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội họp ở Hương  Cảng, đoàn đại biểu Bắc Kỳ vơí đại biểu xuất sắc nhất là đồng chí Ngô Gia Tự ra đề nghị giải tán Việt 
  3. Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội, thành lập  Đông Dương Cộng sản Đảng.  Đề nghị  đó không   được  Đại hội chấp nhận nên  đoàn  đại biểu Bắc Kỳ  bỏ  hội nghị  ra về.  Đến ngày 17/6/1929  Đông   Dương Cộng sản Đảng được thành lập. Tháng 10/1929, Kỳ  bộ  Việt Nam thanh niên cách mạng  đồng chí  hội taị  Nam Kỳ  họp  Đại hội  tuyên bố  giải tán Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng  Đồng Chí  Hội và  thành lập An Nam Cộng Sản  Đảng. Tháng 1/1930, thành lập Đông Dương Cộng Sản Đảng Liên Đoàn. Trong vòng nửa năm 3 tổ  chức cộng sản  đảng  đã  liên tiếp ra  đời. Nhận  được tin có  3 tổ chức   cộng sản  ở  Việt Nam, Quốc tế  cộng sản  đã  gửi thư  kêu gọi các nhóm cộng sản này thống nhất lại.  Đồng chí Nguyễn Ái Quốc, ủy viên bộ phương Đông, phụ trách Cục phương Nam đã thay mặt quốc tế   Cộng   sản   Đảng   triệu   tập   cuộc   họp   để   hợp   nhất   các   tổ   chức   cộng   sản   Việt   Nam. Ngày 3/2/1930 hội nghị hợp nhất họp ở Cửu Long ( cạnh Hương Cảng ) do đồng chí Nguyễn Ái Quốc   chủ trì, có 2 đại biểu Đông Dương Cộng sản Đảng, 2 đại biểu của An Nam Cộng sản Đảng tham dự.  Đông Dương Cộng sản Đảng Liên Đoàn không kịp cử đại biểu đến dự. Tổng số các đảng viên lúc này  có 211 ngươì . Sau 5 ngày (từ mồng 3 đến mồng 7 tháng 2) hội nghị đã nhất trí thành lập một đảng thống nhất   lấy tên là  Đảng Cộng Sản Việt Nam, thông qua các văn kiện: chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt   và điều lệ tóm tắt của các đoàn thể quần chúng. Hội nghị hợp nhất có giá trị lịch sử như Đại hội thành  lập  Đảng, chấm dứt tình trạng phân tán của phong trào cộng sản, làm cho sức mạnh của hạt nhân   lãnh  đạo phong trào cách mạng tăng lên gấp bội và  từ  ngày 3/2/1930  Đảng Cộng Sản Việt Nam  đã   thực sự là ngưởi lãnh đạo và tổ chức mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. 14/2 NGÀY VALENTINE – NGÀY TÌNH YÊU ( chi la ngay danh cho cac căp tinh nhân thôi cac ban  ̉̀ ̀ ̀ ́ ̣̀ ́ ̣ nhe!) ́ Có rất nhiều ý kiến tranh luận xung quanh nguồn gốc của ngày tình yêu. Sau đây là một truyền   thuyết được biết đến nhiều nhất. Dưới sự  trị  vì  của Hoàng  đế  Claudius  đệ  nhị,  đế  chế  La Mã  tham gia nhiều cuộc chinh phạt   đẫm máu và không được người dân ủng hộ. Claudius bạo chúa gặp phải khó khăn khi động viên các   chàng trai trẻ gia nhập vào đội chiến binh của ông ta. Claudius bạo chúa cho rằng nguyên nhân chính   là đàn ông La Mã không muốn rời xa gia đình hay người yêu của mình. Bởi vậy, Claudius ra lệnh cấm   tất cả  các  đám cưới hoặc lễ   đính hôn  ở  thành La Mã. Thánh Valentine tốt bụng là  một linh mục  ở  thành La Mã dưới thời Claudius đệ nhị. Ông cùng Thánh Marius đã giúp đỡ những người Cơ Đốc giáo  phải chịu cảnh  đoạ  đày và cho những cặp vợ chồng bí mật cưới nhau. Vì hành động nhân ái này mà   thánh đã bị giam và bị lê trước mặt tên thái thú thành La Mã. Hắn đã xử Thánh Valentine phải bị đánh   bằng gậy cho đến chết và sau đó phải bị chặt đầu. Valentine phải chịu cuộc hành hình vào đúng ngày   14 tháng 2 vào khoảng năm 270 sau Công Nguyên. Truyền thuyết cũng kể  rằng thánh Valentine  đã   để lại một bức thư ngắn để tạm biệt con gái của người cai ngục mà trước đó đã trở thành bạn của ông.  Bức thư ký tên ông và đề bên dưới “ Valentine của em”. Vào thơì gian này đang diễn ra một phong tục   của ngươì dân La Mã, thực ra đó là một lễ hội rất cổ xưa được tổ chức vào tháng 2, lễ hội Lupercalia,  lễ  hội  để nhớ  đến một vị  thần của người La Mã. Vào dịp này, trong số nhiều nghi lễ thì  có  một lễ rút  
  4. thăm một cách ngẫu nhiên tên của các cô  gái trẻ  trong những chiếc bình như  là  một trò may rủi của  tình yêu. Bởi lễ hội Lupercalia bắt đầu vào giữa tháng 2, có vẻ như các linh mục đã chọn ngày Thánh   Valentine làm ngày kỷ niệm cho lễ hội mới này. Như vậy, phong tục các chàng trai trẻ chọn các thiếu  nữ là ngươì yêu của mình ( trong dịp Valentine) cũng phát sinh từ đây. Người ta kỷ niệm ngày này bằng cách gửi cho nhau những bài thơ và những món quà như hoa   và kẹo. Thông thường, người ta cũng tổ chức một cuộc gặp gỡ mang tính chất bạn bè hoặc một buổi   khiêu vũ. Ở Mỹ, cô Esther Howland được coi là người gửi những chiếc thiệp Valentine đầu tiên và các   bưu thiếp Valentine mang tính chất thương mại  đã   được giới thiệu từ  những năm 1800 và  hiện nay   ngày lễ  này  được thương mại hóa rất nhiều. Thành phố  Loveland, bang Colorado là  nơi kinh doanh  các dịch vụ  bưu  điện cho ngày 14 tháng 2. Sự  cuốn hút của cái  đẹp của Thánh Valentine vẫn  được   duy trì khi ngươì ta gửi bưu thiếp cùng với những chiếc thiệp Valentine ở trường học. 27/2/1955 NGÀY THẦY THUỐC VIỆT NAM Ngày 27/2/1955, nhân dịp tổ chức hội nghị cán bộ y tế, Bác Hồ đã gửi thư cho Hội nghị căn dặn  ba điều : ­“Trước hết là  phải thật thà   đoàn kết –  Đoàn kết là  sức mạnh của chúng ta.  Đoàn kết thì  vượt  được mọi khó khăn, giành được nhiều thành tích. Đoàn kết giữa cán bộ cũ và cán bộ mới. Đoàn kết giữa tất cả những người trong ngành y tế, từ   các bộ trưởng, thứ trưởng, bác sỹ, dược sỹ cho đến các anh chị em giúp việc. Bởi vì công việc và địa   vị tuy có khác nhau, nhưng người nào cũng là một bộ phận cần thiết trong ngành y tế, trong việc phục  vụ nhân dân. ­Thương yêu người bệnh – Người bệnh phó thác tính mạng của họ nơi các cô các chú.   Chính phủ phó thác cho các cô các chú việc chữa bệnh tật và giữ gìn sức khoẻ cho  đồng bào. Đó là   nhiệm vụ rất vẻ vang. Vì vậy , cán bộ cần phải thương yêu, săn sóc người bệnh như anh em ruột thịt của mình, coi họ  đau   đớn   cũng   như   mình   đau   đớn.“   Lương   y   phải   như   từ   mẫu”,   câu   nói   ấy   rất   đúng. ­Xây dựng một nền y học của ta – Trong những năm nước ta bị  nô  lệ  thì  y học cũng như  các ngành  khác đều bị kìm hãm. Nay chúng ta đã độc lập tự do, cán bộ cần giúp đồng bào, giúp chính phủ xây   dựng một nền y tế thích hợp vơí nhu cầu của nhân dân ta.  Y học cần phải dựa trên nguyên tắc: khoa học dân tộc và đại chúng. Ông cha ta ngày trước có nhiều kinh nghiệm quí báu về cách chữa bệnh bằng thuốc ta, thuốc   bắc. Để mở rộng phạm vi y học, các cô, các chú cũng nên chú trọng nghiên cưú và phối hợp thuốc “  Đông” và thuốc “ Tây”. ( Theo Báo Nhân Dân, số  362, ngày 27/2/1955) Do  đó   ý  nghĩa sâu sắc của bức thư  này, từ  năm 1985, ngày 27 tháng 2 được chọn là Ngày thầy thuốc Việt Nam.  THÁNG 3  08/03/1910   NGÀY QUỐC TẾ PHỤ NỮ  Cuối thế  kỷ  19,  ở  Hoa Kỳ, nền kỹ  nghệ  phát triển  đã  thu hút  đông  đảo phụ  nữ  và  trẻ  em vào   làm việc trong các nhà máy, nhưng bọn tư bản chỉ trả lương rẻ mạc. Ngày 8/3/1899, căm phẫn trước 
  5. sự  bóc lột cùng cực của chủ  nghĩa tư  bản, phụ  nữ  công nhân ngành dệt, ngành may tại thành phố   Chicago và  New York ( Hoa Kỳ)  đã  đứng lên  đấu tranh đòi tăng lương, giảm giờ làm. Mặc dù bọn tư   bản đã thẳng tay đàn áp và đuổi việc một số chị em nhưng mọi người vẫn đoàn kết, bền bỉ đấu tranh   buộc bọn chủ phải khoan nhượng. Cuộc  đấu tranh của phụ  nữ   ở  Chicago  đã  cổ  vũ  mạnh mẽ  phong trào của phụ  nữ  lao  động  ở  Đức, với sự  xuất hiện hai nữ  chiến sĩ  lỗi lạc là  Cơlơva Gétkin (người  Đức) và  bà  Rôgia Lúcxămbua   ( người Ba Lan). Hai bà  đã phối hợp với bà  Krúpxcaia (vợ  Lênin) vận  động thành lập Ban thư  ký  Hội  phụ nữ quốc tế để lãnh đạo phong trào phụ nữ. Năm 1910, Hội nghị quốc tế phụ nữ có 17 nước tham dự, họp tại Côpenhagơ ­ thủ đô nước Đan   Mạch đã quyết định lấy ngày 8/3 làm ngày quốc tế phụ nữ, ngày đoàn kết đấu tranh của lao động nữ  trên Thế giới với khẩu hiệu:  * Ngày làm 8 giờ * Việc làm ngang nhau, tiền lương ngang nhau * Bảo vệ người mẹ và trẻ em Từ đó, ngày 8/3 hàng năm trở thành ngày hội của phụ nữ lao động trên toàn thế giới, đoàn kết  đấu tranh để tự giải phóng và thực hiện quyền nam, nữ bình đẳng. Ở Việt Nam ngay từ khi thành lập, Đảng ta đã lãnh đạo phụ nữ tổ chức kỷ niệm ngày 8/3, ngày  hội của phụ nữ lao động trên Thế giới đấu tranh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, giaỉ phóng phụ nữ. THÁNG 03/04 (Tháng 2 năm Canh Tý)  KHỞI NGHĨA HAI BÀ TRƯNG  Hai Bà Trưng là con gái Lạc tướng ở huyện Mê Linh ( ngoại thành Hà Nội), thuộc dòng dõi vua  Hùng. Cha mất sớm, mẹ  là  bà  Man Thiệu, một phụ  nữ   đảm  đang, mưu lược một tay nuôi dạy con   khôn lớn. Chồng bà  Trưng Trắc là  Thi Sách, con trai Lạc Tướng huyện Chu Diên (miền sông  Đáy, Hà   Tây), một người có chí khí quật cường, nhiệt thành với việc cứu dân cứu nước. Vào những năm đầu của thế kỷ thứ nhất, bộ máy thống trị của nhà Đông Hán đè nặng lên nhân  dân ta. Năm 34, nhà Đông Hán cử Tô Định ­ một kẻ tham lam tàn bạo – làm thứ sử kiêm thái thú quận   Giao Chỉ. Không chỉ  bóc lột tàn tệ  nhan dân ta về  kinh tế, nhà  Hán còn  áp bức về  chính trị. Chúng   đào tạo quan lại và tay sai, bắt dân ta phải theo mọi phong tục, tập lệ của chúng, nhằm thực hiện mưu  đồ   đồng hoá. Trước tình hình  đó, nhân dân ta quyết tâm  đứng dậy chống lại chúng. Việc chuẩn bị   khởi nghĩa giao cho Thi Sách. Các tướng sĩ  cùng bà  Man Triệu đã vận  động tổ  chức  đông  đảo quân  ngũ dưới ngọn cờ cứu nước. Mùa xuân năm 40, khí thế khởi nghĩa đang sục sôi trong cả nước thì Tô Định đã giết Thi Sách.   Hành động tàn bạo của Tô Định và lòng căm thù cao độ làm cho bà Trưng Trắc quyết tâm khởi nghĩa   để  trả  thù  nhà,  đền nợ  nước. Tháng 3 năm Canh Tý, Trưng Trắc cùng em là  Trưng Nhị  tập hợp các   Lạc Hầu, Lạc Tướng kêu gọi quân dân đứng lên chống lại quân Đông Hán. Hai Bà dựng cờ khởi nghĩa  ở cửa sông Đáy, Phúc Thọ. Khi phát động khởi nghĩa, Bà tuyên thệ bốn điều:  * Một xin rửa sạch nước thù * Hai xin đem lại nghiệp xưa họ Hùng * Ba kẻo oan ức lòng chồng
  6. * Bốn xin vẻn vẹn sở công lênh này. Trước sự tiến công ồ ạt của nghĩa quân, quân Đông Hán đã bị thất bại. Bà lên ngôi vua phong  quan tước cho các thủ lĩnh, tướng sĩ. Sau đó vua Quang Võ nhà Hán sai Mã Viện, Lưu Long và Đoàn  Chí  sang xâm lược lần nữa. Bà  cùng toàn quân toàn dân kiên quyết kháng chiến. Nhưng thế  yếu,   quân ta  đã  thua nhiều trận lớn. Hai Bà   đã  gieo mình xuống dòng sông Hát tử  tiết,  để  lại  đời sau một  tấm gương quật cường của ngươì phụ nữ Việt Nam. o MỒNG 10 THÁNG 3 ( ÂM LỊCH )  o NGÀY GIỖ TỔ HÙNG VƯƠNG  “Dù ai đi ngược về xuôi Nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng ba” Theo sử cũ và truyền thuyết để laị, nước Văn Lang lúc bấy giờ có 15 bộ lạc Lạc Việt sinh sống  chủ  yếu  ở  miền trung du và   đồng bằng châu thổ  sông Hồng. Hàng chục bộ  lạc  Âu Việt sinh sống  ở   vùng Việt Bắc. Do nhu cầu trị thủy chống giặc ngoại xâm và do việc trao đổi kinh tế văn hóa ngày càng được   đầy mạnh, giữa các bộ  lạc gần gũi nhau về  dòng máu có  xu hướng tập hợp và  thống nhất nhau.   Trong số các bộ lạc Lạc Việt, có bộ lạc Văn Lang là hùng mạnh hơn cả, lãnh thổ của bộ lạc này trải   dài từ chân núi Ba Vì tới sườn Tam Đảo. Thủ lĩnh cũa bộ lạc Văn Lang đã đóng vai trò lịch sử là người   đứng ra thống nhất các bộ  lạc Lạc Việt, dựng nên nước Văn Lang.  Ông xưng Vua. Sử  gọi là  Hùng   Vương và con cháu ông sau này nhiều đời cũng mang danh hiệu đó : 7. Kinh Dương Vương Lộc Tục, tôn dâng miếu hiệu là Hùng Vương  8. Lạc Long Quân Sùng Lãm, thụy hiệu Hùng Hiền.  9. Hùng Lân  10. Hùng Việp  11. Hùng Hi  12. Hùng Huy  13. Hùng Chiêu  14. Hùng Vĩ  15. Hùng Định  16. Hùng Hi  17. Hùng Trinh  18. Hùng Võ  19. Hùng Việt  20. Hùng Anh  21. Hùng Triều  22. Hùng Tạo  23. Hùng Nghị  24. Hùng Duệ  Hùng Vương là thủ lĩnh của Việt Nam thơì kỳ bắt đầu dựng nước. Lãnh thổ sinh trưởng đầu tiên  của tổ tiên là miền Bắc Việt Nam. Đất không rộng lắm, có đủ sức sinh tồn và phát triển. Những nhóm  dân cư quan trọng nhất là ngươì Việt cổ. Ban đầu họ sống thành từng công xã, ràng buộc với nhau bởi  
  7. mối quan hệ máu mủ. Họ đoàn kết tương thân tương ái trong công việc làm ăn và giữ nước. Con người   Việt Nam ở thời Hùng Vương vừa mới cố sức vươn lên khỏi cuộc sống tự nhiên đầy khó khăn gian khổ,   rừng rậm, đầm lầy, thú dữ, giông bão, lụt lội… đã phải đương đầu với kẻ thù xâm lược. Thánh Gióng là   thiên thần thoại lịch sử rất đẹp, ca ngợi tinh thần chiến đấu bất khuất chống ngoại xâm của dân tộc ta.   Những truyền thống tốt đẹp đó được duy trì rất lâu trong lịch sử Việt Nam. Thờ kỳ Hùng Vương là một giai đoạn rất quan trọng trong lịch sử dân tộc. Chính thơì kỳ này đã   xây dựng nên một nền tảng của dân tộc Việt Nam, nền tảng văn hoá  Việt Nam và  truyền thống yêu   nước. Ngày nay nhân dân ta lấy ngày mồng 10 tháng 3  âm lịch hàng năm làm ngày giỗ  Tổ  và  cùng   nhau về thăm đền Hùng để tưởng nhớ đến cội nguồn, tổ tiên của dân tộc Việt Nam. 19/03/1950  NGÀY TOÀN QUỐC CHỐNG MỸ  Năm 1950, tình hình quốc tế có nhiều chuyển biến quan trọng. Ở Châu Âu, tiếp sau việc thành   lập một số nước dân chủ nhân dân ở Đông Âu và Trung Âu, ngày 7/10/1949, nước Cộng hòa dân chủ   Đức ra đời, đánh dấu một thắng lợi lớn của giai cấp công nhân và nhân dân Đức, giáng một đòn mạnh  vào  âm mưu của bè  lũ   đế  quốc.  Ở  Châu  Á, ngày 1/10/1949, nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa  thành lập, làm thay đổi sự sắp xếp và so sánh lực lượng có lợi cho cách mạng. Sự phát triển về kinh tế   và quốc phòng của Liên Xô làm chỗ dựa vững chắc cho phong trào đấu tranh giành độc lập, dân chủ,  hòa bình và tiến bộ xã hội trên toàn thế giới. Phong trào giải phóng dân tộc và bảo vệ hòa bình ngày   càng phát triển mạnh mẽ, sâu rộng. Về phía chủ nghĩa đế quốc, chúng vẫn ráo riết xúc tiến âm mưu   gây chiến và áp bức nô dịch các dân tộc nhỏ yếu, đặc biệt là đế quốc Mỹ. Đối với cuộc chiến ở Đông   Dương, Mỹ  nhúng tay can thiệp mạnh mẽ  và  trực tiếp hơn. Hàng loạt họat  động về  chính trị, ngoại   giao, kinh tế, quân sự   được Mỹ  tiến hành ráo riết  để  chi phối trực tiếp hơn nữa các chính sách của   Pháp đối với Đông Dương, biến Pháp và ngụy quyền tay sai thành “lính đánh thuê” cho quyền lợi của  mỹ  ở  Đông Dương. Trong khi  đó,  đế  quốc Pháp  đang quẫn bách tiến  đến kho cạn về tài chính ; một  mặt, nhân dân Pháp và thuộc địa phản chiến ngày một quyết liệt thêm. Ngày 30/6/1950, chuyến tàu Mỹ   đầu tiên chở  thẳng vũ  khí  sang  Đông Dương  đã  cập bến Sài  Gòn và  đổ xuống Cảng 56 máy bay chiến  đấu và vận tải, 36 tàu  đổ bộ loại nhỏ và một số vũ khí  đủ   trang bị cho 12 tiểu đoàn quân Ngụy. Từ đầu năm 1950, phong trào đấu tranh của đồng bào ta ở một số đô thị lớn lại bùng lên mạnh   mẽ. Ngày 9/01, một cuộc biểu tình lớn nổ  ra tại Sài Gòn. Hơn hai nghìn học sinh cùng  đại biểu các   giáo sư và gia đình học sinh kéo đến Dinh thủ hiến Nam phần, đòi ngụy quyền phải thực hiện lời hứa  trả lại tự do cho 12 học sinh bị bắt trong một cuộc bãi khoá vưà xảy ra trước đó. Cuộc biểu tình được   hàng vạn  đồng bào các giới nhanh chóng hưởng  ứng. Cuộc biểu tình  đã  bị  bọn ngụy quyền  đàn  áp  hết sức dã man, học sinh Trần Văn Ơn bị sát hại. Cuộc biểu tình ngày 9/01 của học sinh và đồng bào   Sài Gòn ­ Chợ  Lớn  đã  châm ngòi cho hàng loạt các cuộc  đấu tranh tiếp theo và  có  tiếng vang lớn   trong toàn quốc. Ngày 9/01/1950  đã   đi vào lịch sử  và  chính thức trở  thành ngày  đấu tranh của học   sinh, sinh viên Việt Nam. Giữa những ngày sục sôi khí thế chiến đấu ấy của đồng bào ta, đại sứ Mỹ Gơ­ríp­phin (Griffins)   đến Sài Gòn. Hai tàu diệt ngư  lôi loại lớn của Mỹ  là  Stích_cơn ( Stickon) và  An­đớt­sơn (Anderson)  cập bến cảng Thanh phố. Một tàu sân bay chở  70 máy bay chiến  đấu Mỹ  cũng tiến vào thả  neo  ở 
  8. ngoài khơi  Đà Nẵng. Vẫn với thói quen dùng máy bay, tàu chiến  để  doạ  người, Mỹ  dự   định mở cuộc   thao diễn lớn của không quân và hải quân, phô trương lực lượng hòng trấn áp tinh thần đấu tranh của  đồng bào ta, đồng thời nâng đỡ tinh thần cho lũ tay sai. Trong những ngày này, để kịp thơì tỏ rõ ý chí cuả nhân dân ta chống Mỹ can thiệp, Khu ủy Sài  Gòn ­ Chợ Lớn chủ trương tiến hành một cuộc đấu tranh lớn. Đi đôi với các hoạt động đấu tranh chính   trị, quân và dân ta  đã  lên tiếng cảnh báo bọn can thiệp Mỹ bằng cả  những hoạt  động quân sự  . Biệt   động ném lưụ   đạn vào khách sạn Công­ty­năng­tan (Continental) làm  đại sứ  Gơ­ríp­phin suýt bỏ   mạng. Ngày 19/3, hơn 300.000 đồng bào Sài Gòn xuống đường tiến hành một cuộc biểu tình khổng lồ   đấu tranh trực diện với  đế  quốc Mỹ. Sau khi tập hợp  đội ngũ  tại khu vực chợ  Bến Thành,  đoàn biểu   tình trương cờ  đỏ sao vàng và biểu ngữ chia làm nhiều cánh diễu hành qua các phố lớn tiến về phía   cảng. Đồng bào vừa đi vừa hô vang các khẩu hiệu chống Mỹ. Địch dùng hơi cay đàn áp. Đồng bào ta  siết chặt hàng ngũ và hành động quyết liệt hơn. Gần chợ Bến Thành quần chúng đốt cháy xe quân sự  Pháp. Trước toà  thị  chính, một sỹ  quan Pháp hung hăng giật xé  cờ   đỏ  sao vàng  đã  bị  giết chết. Cờ  Pháp, cờ  Mỹ và cờ Ngụy  ở các công sở  dọc đường bị hạ, ảnh Bảo  Đại bị xé nát.  Đoàn biểu tình tiếp  tục đến cảng định tiếp tục đốt phá tàu mỹ. Hai chiếc tàu diệt ngư lôi Mỹ hốt hoảng kéo còi báo động,  thả  khói mù  và  vội vã  hạ  cờ. Thấy  đã   đạt  được tháng lợi, ban lãnh  đạo cuộc biểu tình chủ   động cho   kết thúc cuộc  đấu tranh. Thế  là  ngay trong cuộc  đọ  sức  đầu tiên với nhân dân ta,  đế  quốc Mỹ   đã  bị   giáng một  đòn. Kế  hoạch phô  trương thanh thế  của chúng  đã  phải huỷ  bỏ. Ngay chiều hôm  đó, các  tàu Mỹ phải nhổ neo lặng lẽ rút lui. Thắng lợi của cuộc biểu tình chống Mỹ ngày 19/3/1950 của đồng bào Sài Gòn ­ Chợ Lớn đã cổ  vũ mạnh mẽ tinh thần chiến đấu cuả nhân dân ta, được dư luận trong và ngoài nước đồng tình, khâm  phục và   đánh giá  cao. Nó  chứng tỏ  sức mạnh và  khả  năng  đấu tranh chính trị  của nhân dân ta nói   chung và  cuả   đồng bào  đô  thị  nói riêng là  rất to lớn. Nó  cũng biểu thị  quyết tâm của nhân dân ta   chống bất cứ kẻ thù nào để bảo vệ độc lập tự do của Tổ quốc, không một kẻ thù hung hãn nào dù là   đế  quốc Mỹ  có  thể   đe dọa, khuất phục nổi nhân dân ta. Ngày 19/3/1950 chính thức trở  thành Ngày   toàn quốc chống Mỹ. 26/03/1931  THÀNH LẬP ĐOÀN THANH NIÊN CỘNG SẢN HỒ CHÍ MINH  Vào mùa xuân năm 1931,  ở  thời  điểm từ  ngày 20  đến 26/3/1931, khi tiến hành hội nghị  ban  chấp hành Trung Ương Đảng lần thứ hai, cuộc họp đã dành một phần quan trọng trong chương trình   làm việc để bàn về công tác thanh niên và đi đến những quyết định có ý nghĩa đặc biệt, như các cấp  bộ Đảng từ Trung Ương đến địa phương phải cử ngay các ủy viện của Đảng phụ trách công tác Đoàn.   Trước sự phát triển và lớn mạnh của phong trào Đoàn trên cả 3 miền Bắc, Trung, Nam, ở nước ta xuất   hiện nhiều tổ chức  đoàn cơ sở với khoảng hơn 1.500 đoàn viên và một số  địa phương  đã hình thành  hệ thống tổ chức  Đoàn xã, huyện lên đến tỉnh. Đến cuối năm 1931, số lượng đoàn viện trên cả nước   lên đến hơn 2.500 đồng chí, chứng tỏ sự tác động tích cực của hội nghị trung ương lần thứ hai (tháng   3/1931). Sự ra đời của Đoàn Thanh niên Cộng sản Đông Dương đã  đáp  ứng kịp thời những đòi hỏi cấp  bách của phong trào thanh niên nước ta bấy giờ. Được Bộ chính Trị Trung ương Đảng và Bác Hồ cho   phép thể theo  đề nghị của Ban thường vụ  Trung ương  Đoàn Thanh Niên lao  động Việt Nam,  Đại hội 
  9. Đoàn toàn quốc lần thứ bai họp từ ngày 22 – 25/3/1961,  đã quyết định lấy ngày 26/3/1931( một ngày   trong thời gian cuối của hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 2 đã dành để bàn bạc và quyết định những   vấn đề quan trọng đối với công tác vận động thanh niên) làm ngày thành lập Đoàn hàng năm. Từ ngày 26/3/1931 đến nay, để phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ của từng thời kỳ cách mạng,  Đoàn đã đổi tên nhiều lần : o Từ 1931 – 1936 :  Đoàn Thanh niên Cộng sản Việt Nam,  Đoàn Thanh Niên Cộng Sản  Đông   Dương  o Từ 1937 – 1939 : Đoàn Thanh niên Dân chủ Đông Dương.  o Tháng 11/1939 – 1941 : Đoàn Thanh niên phản đế Đông Dương  o Từ 5/1941 – 1956 : Đoàn Thanh niên cứu quốc Việt Nam o Từ 25/10/1956 – 1970 : Đoàn Thanh niên Lao Động Việt Nam  o Từ 3/2/1970 – 1976 : Đoàn Thanh Niên Lao Động Hồ Chí Minh.  o Từ 12/1976 đến nay : Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh.  Những thế hệ thanh niên kế tiếp nhau đã chiến đấu anh dũng vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì   chủ nghĩa xã hội. Đó là lớp thanh niên cảm tử cho tổ quốc quyết sinh mà tiêu biều là Võ Thị Sáu, Trần  Văn  Ơn, Cù  Chính Lan, Bế  Văn  Đàn, Phan  Đình Giót.  Đó  là  thế  hệ  thanh niên anh hùng trong cuộc  kháng chiến chống Mỹ cứu nước với những người con ưu tú như Nguyễn Văn Trỗi, Nguyễn Viết Xuân,  Thái Văn A… Với các phong trào “ Thanh niên xung phong tình nguyện”, “ Ba sẵn sàng”, “ Năm xung kích”,   “Thanh niên kiên cường thắng Mỹ” , “Quyết thắng”. Thế  hệ  thứ  ba này có  mặt trong cuộc tổng tiến  công và  nổi dậy thần tốc mùa xuân 1975 giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất  đất nước. Trong công cuộc xây dựng chủ  nghĩa xã  hội, hàng chục triệu  đoàn viên  đã  hăng hái dấy lên phong   trào: Ba xung kích làm chủ  tập thể” , “Thanh niên lao  động sáng tạo”  đẩy mạnh thi  đua sản xuất và  tiết kiệm, thể hiện ý chí tiến công của tuổi trẻ dưới lá cờ vẻ vang của Đảng. Trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh đã động   viên tổ chức thế hệ trẻ tham gia tích cực các phong trào: “Thanh niên nông thôn sản xuất kinh doanh  giỏi”, phong trào CKT ( chất lượng, kiểu dáng, tiết kiệm) trong thanh niên công nhân, phong trào “  Xứng danh bộ   đội cụ  Hồ” trong thanh niên quân  đội, phong trào “Tuổi trẻ  công an hành  động cách  mạng theo 6  điều Bác Hồ  dạy, xây dựng  đơn vị  vững mạnh toàn diện”, “Cuộc vận  động 3 mục tiêu   dân số ­ sức khoẻ ­ môi trường”. Các phong trào này bước đầu gây được nhiều ấn tượng tốt đẹp trong  nhân dân, khẳng định vai trò quan trọng chiến lược của thanh niên trong tình hình mới. Từ ngày thành lập đến nay Đoàn ta đã tổ chức 7 lần Đại Hội : o Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ I của Đoàn khai mạc vào ngày 7/02/1950 tại huyện Đại Từ,   tỉnh Thái Nguyên với hơn 400 đại biểu. Đại hội bầu Ban chấp hành Trung  ương do đồng chí Nguyễn   Lam làm Bí thư.  o  Đại hội  đại biểu toàn quốc lần thứ  II của  Đoàn họp từ  25/10  đến 04/11/1956 tại thủ   đô  Hà  Nội, có 479 đại biểu. Đại hội bầu 30 đồng chí vào ban chấp hành Trung ương, đồng chí Nguyễn Lam  được bầu làm Bí thư thứ nhất.  o  Đại hội  đại biểu toàn quốc lần thứ  III họp từ  23  đến 25/3/1961 tại thủ   đô  Hà  Nội có  677  đại  biểu. Đại hội bầu 71 uỷ viên Ban chấp hành Trung ương,  đồng chí Nguyễn Lam được bầu làm bí thư  
  10. thứ  nhất. Sau  đó   đồng chí  Nguyễn Lam chuyển công tác khác của  Đảng,  đồng chí  Vũ  Quang  được   bầu làm Bí thư thứ nhất.  o  Đại hội  đại biểu toàn quốc lần thứ  IV họp từ  20  đến 22/11/1980 tại Hà  Nội có  623  đại biểu.  Đại hội bầu Ban Chấp hành Trung  ương và Ban bí thư gồm 13  đồng chí.  Đồng chí   Đặng Quốc Bảo,   uỷ viên Ban chấp hành Trung ương Đảng được bầu làm bí thư thứ nhất. Sau đó đồng chí Đặng Quốc   Bảo nhận công tác khác, đồng chí Vũ Mão được bầu làm bí thư thứ nhất.  o Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V họp từ 27 đến 30/11/1987 tại Hà Nội có 750 đại biểu. Đại  hội bầu 150 uỷ  viên Ban chấp hành Trung  ương. Ban chấp hành  đã  bầu Ban thường vụ  Trung  ương  Đoàn   gồm   23   đồng   chí.   Đồng   chí   Hà   Quang   Dự   được   bầu   làm   bí   thư   thứ   nhất.   o  Đại hội  đại biểu toàn quốc lần thứ  VI họp từ  15  đến 18/10/1992 có  797  đại biểu.  Đại hội bầu 91   đồng chí uỷ viên Ban chấp hành Trung ương. Ban chấp hành Trung ương bầu 14 thường vụ. Đồng chí  Hồ Đức Việt được bầu làm bí thư thứ nhất  o Đại hội toàn quốc lần thứ VII họp từ 26  đến 27/11/1997 có 899 đại biểu. Đại hội bầu 125 uỷ  viên Ban chấp hành Trung ương, Ban chấp hành bầu Ban Bí thư gồm 5 đồng chí. Đồng chí Vũ Trọng   Kim được bầu làm bí thư thứ nhất.  THÁNG 4 30/4/1975  NGÀY GIẢI PHÓNG SÀI GÒN THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC  Sau một tháng tiến công và  nổi dậy, quân dân ta  đã  dành phần thắng trong 2 chiến dịch Tây  Nguyên và Huế ­ Đà Nẵng, giải phóng hơn nửa đất đai và nửa số dân trong toàn miền Nam, chiếm giữ  một khối lượng lớn vật chất trang bị  phương tiện chiến tranh. Các lực lượng vũ  trang của ta trưởng  thành nhanh chóng. Nghị  quyết của bộ  chính trị  ngày 25/3/1975  đã  quyết  định chuẩn bị  chiến dịch giải phóng Sài  Gòn mang tên chiến dịch Hồ Chí Minh. Ngày 9/4 quân ta tiến công Xuân Lộc, 1 căn cứ phòng thủ trọng yếu của địch bảo vệ Sài Gòn   từ phía Đông. Tại đây đã diễn ra những trận chiến đấu ác liệt. Ngày 16/4 quân ta phá vỡ tuyến phòng  thủ  của  địch  ở  Phan Rang. Ngày 21/4 toàn bộ  quân  địch  ở  Xuân Lộc tháo chạy. Cũng ngày này  Nguyễn Văn Thiệu đã tuyên bố từ chức tổng thống. 17h ngày 26/4 quân ta được lệnh nổ súng mở đầu chiến dịch. Tất cả 5 cánh quân từ các hướng  vượt   qua   tuyến   phòng   thủ   vòng   ngoài   của   địch   tiến   vào   Sài   Gòn. Đêm 28 rạng sáng 29/4 tất cả  các cánh quân của ta  được lệnh  đồng loạt tổng công kích vào trung   tâm   thành   phố,   đánh   chiếm   tất   cả   các   cơ   quan   đầu   não   của   địch. 9h30 ngày 30/4 Dương Văn Minh vừa lên làm tổng thống  đã  kêu gọi “ngừng bắn  để   điều  đình giao   chính quyền” nhằm cứu quân nguỵ khỏi sụp đổ. 10h45 ngày 30/4 xe tăng của ta tiến thẳng vào dinh tổng thống ngụy ( dinh Độc Lâp ), bắt sống   toàn bộ ngụy quyền Trung  Ương. Dương Văn Minh tuyên bố  đầu hàng không  điều kiện. 11h30 cùng   ngày, lá cờ cách mạng tung bay trên nóc phủ tổng thống ngụy, báo hiệu sự toàn thắngcủa chiến dịch  Hồ  Chí  Minh lịch sử. Miền Nam  được giải phóng,  đất nước hoàn toàn  độc lập, non sông thu về  một   mối. 
  11. THÁNG 5  1/5/1886  NGÀY QUỐC TẾ LAO ĐỘNG  Khi quốc tế cộng sản thành lập năm 1864, Các Mác đã nói nhiều đến vấn đề rút ngắn thời gian  lao  động trong ngày.  Đại hội lần thứ  1 Quốc Tế  Cộng Sản họp  ở  Genéve tháng 4/1864  đã  coi việc   đấu tranh ngày làm 8h là  nhiệm vụ  trước mắt. Tại  đại hội quốc tế  họp  ở  Luân  Đôn,  ông  Ơ­giê   Đuy­ pông người thay mặt cho Các Mác đã đưa ra một dự án ngày làm 8h. Những công nhân nước Anh đi di cư sang Mỹ làm ăn đã mang sang nước này phong trào đấu  tranh  đòi ngày chỉ  làm việc 8h, từ   đó  phong trào phát triển mạnh  ở  Mỹ. Năm 1868, chính quyền Mỹ  buộc phải thông qua  đạo luật ngày làm việc 8h trong các cơ quan xí nghiệp thuộc chính phủ, nhưng  các xí nghiệp tư bản vẫn làm 11 – 12h/1 ngày. Tháng 01/1884, tại thành phố  công nghiệp lớn Chicago (Mỹ),  Đại Hội liên  đoàn lao  động Mỹ  thông qua nghị  quyết: từ  ngày 01/05/1886, ngày lao  động của tất cả  công nhân sẽ  là  8h, hằng năm  chọn ngày  ấy  để  làm hợp  đồng mới giữa chủ  và  thợ. Ngày 1/5/1886 khắp nơi công nhân  đều mang  biểu ngữ  : "Từ  nay trở   đi không người thợ  nào làm việc quá  8 giời 1 ngày”. Phải thực hiện 8 giờ  làm   việc, 8 giờ nghỉ ngơi và 8 giờ học tập. 5.000 cuộc bãi công của công nhân với khoảng 340.000 người  tham gia khắp nước Mỹ, sau  đó  12 vạn rưỡi công nhân  đã  giành  được quyền ngày làm việc 8 giờ. Từ   đó  ngày 1/5 hàng năm  đã  trở  thành ngày  đấu tranh của công nhân các nước, ngày hội của công  nhân và lao động trên toàn thế giới.  07/05/1954  CHIẾN THẮNG ĐIỆN BIÊN PHỦ  Điện Biên Phủ là một thung lũng lòng chảo rộng lớn ớ phía Tây vùng rừng núi phía Bắc. Đây là   một   căn   cứ   quân   sự   rất   thuận   lợi.   Thực   dân   pháp   đã   lấy   căn   cứ   này   chiến   lược   cơ   động. Trong chiến dịch Thu Đông năm 1953 – 1954, lực lượng địch tại tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ bao   gồm 17 tiểu đoàn bộ binh và lính dù, 3 tiểu đoàn công binh, 1  đại đội xe tăng, 1 đại đội xe vận tải có  khoảng 200 chiếc và  một phi  đội không quân thường trực 14 chiếc. Số  quân lính  địch là  16.200 tên,   chúng bố  trí  49 cứ   điểm thành 8 cụm, mỗi cụm là  một hệ  thống hoả  lực nhiều tầng. 8 cụm cứ   điểm  chia làm 3 phân khu, phân khu trung tâm gồm 2/3 lực lương  ở  ngay giữa Mườn Thanh. Sau 5 ngày  chiến đấu ta đã tiêu diệt gọn 2 cứ điểm kiên cố vào bậc nhất là Him Lam va Độc Lập, sau đó làm tan   rã  thêm 1 tiểu  đoàn  địch và  tiêu diệt tiểu  đoàn Bản Kéo, ta diệt và  bắt sống 2.000 tên  địch, 26 máy   bay bị  phá  huỷ, mở  thông cửa vào trung tâm tập  đoàn cứ   điểm, uy hiếp sân bay Mường Thanh. 17h30 ngày 30/04/1954, ta mở đợt tấn công thứ 2. Cuộc chiến trên đồi A1 diễn ra hết sức gay go, ác   liệt.   Hai   bên   giằng   co   từng   tất   đất.   Đến   ngày   04/04   mỗi   bên   chiếm   giữ   1   nửa   đồi   A1. Đánh vào khu  Đông ta diệt 2.500 tên  địch, chiếm lĩnh phần lớn các cao  điểm. Quân  đội viễn chinh   Pháp đã tập trung hầu hết máy bay chiến đấu, máy bay vận tải ở Đông Dương cho mặt trận. Đế quốc  Mỹ Chi viện cho thực dân Pháp gần 100 máy bay oanh tạc chiến đấu và gần 50 máy bay vận tải đồng  thời tổ chức diễn tập “đổ bộ ào ạt vào Đông Dương “.
  12. Đêm 01/05/1954 ta mở đợt tấn công thứ 3, quân ta đánh chiếm các cứ điểm còn lại phía Đông   và phía Tây, bẻ  gãy cuộc phản kích của  địch. Đêm 3/5/1954, bộ  đội ta chỉ cách sở chỉ  huy của  địch  300m. 17h30 ngày 7/5/1954 , những trận pháo kích của bộ   đội ta nhắm thẳng vào sở  chỉ  huy  địch.   Tướng Đờ­cat­tơ­ri và toàn bộ tham mưu tập đoàn cứ điểm của địch bị bắt sống. Gần 1 vạn quân địch   nhảy ra  khỏi hầm xin  hàng.  Đêm  đó  ta tấn  công bắt sống  toàn  bộ  quân   địch  ở  phân  khu  Nam. Sau 56 ngày đêm chiến đấu cực kỳ anh dũng, chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ đã toàn thắng. Ta tiêu   diệt và  bắt sống 16.200 tên  địch, bắn rơi và phá huỷ  62 máy bay, thu toàn bộ  vũ  khí, kho xăng,  đạn   dược, quân trang quân dụng. Chiến thắng  Điện Biên Phủ  kết thúc thắng lợi 9 năm kháng chiến chống Pháp xâm lược. “Đã   được ghi vào lịch sử như một Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa ở thế kỷ 20 và đi vào lịch sử thế giới như  một chiến công chói lọi, đột phá thành trì của hệ thống nô dịch thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc” (Lê  Duẩn). Nhà thơ Tố Hữu cũng đã viết những câu thơ mô tả sinh động những ngày chiến dịch Điện Biên  Phủ gian khổ nhưng hào hùng: Hoan hô chiến sĩ Điện Biên chiến sĩ anh hùng đầu nung lửa sắt 56 ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm,cơm vắt Máu trộn bùn non Gan không núng Chí không mòn! những đồng chí, thân chôn làm giá súng Dầu bịt lỗ châu mai Băng mình qua núi thép gai Ào ào vũ bão những đồng chí chèn lưng cứu pháo nát thân, nhắm mắt còn ôm những bàn tay xẻ núi lăn bom nhất định mở đường cho xe ta lên chiến trường tiếp viện.. (hoan hô chiến sĩ Điện Biên) 15/05/1941  THÀNH LẬP ĐỘI THIẾU NIÊN TIỀN PHONG HỒ CHÍ MINH  Từ  năm 1925, sau khi sáng lập ra Việt Nam Thanh Niên cách mạng  đồng chí  hội ­ tiền thân   của  Đảng, Bác Hồ   đã  chỉ  thị  về  nước, lựa chọn 1 số  thanh niên  ưu tú   đưa ra nước ngoài  đào tạo.   Trong số 8 thanh thiếu niên lúc đó được Bác Hồ đích thân dạy dỗ có Lý Tự Trọng. Sau này anh đã hi  sinh vì  sự  nghiệp cách mạng. Khi sáng lập ra tổ  chức  Đoàn,  Đảng  đã  giao trách nhiệm lịch sử  cho  Đoàn trực tiếp phụ trách chỉ đạo các tổ chức thiếu niên, nhi đồng. Nghị quyết đại hội Đảng Cộng Sản Đông Dương lần I (1/1935) ghi rõ: “Đoàn phụ trách tổ chức  Hồng nhi  đoàn, chỗ  nào có  chi bộ,  Đoàn phải lập ra Hồng nhi  đoàn, những  đoàn viên dưới 16 tuổi  nhất luận phải đưa qua Hồng nhi đoàn”.
  13. Ngày 8/2/1941 sau nhiều năm bôn ba ở nước ngoài, Bác Hồ đã về nước trực tiếp lãnh đạo cách   mạng Việt Nam. Tháng 5/1941 hội nghị Ban chấp hành Trung Ương Đảng lần thứ 8 đã họp và ra nghị  quyết quan trọng  đến vận mệnh nước nhà. Hội nghị   đã  chủ  trương thành lập Mặt trận Việt Nam  độc   lập   đồng   minh   gọi   tắt   là   Việt   Minh   bao   gồm   nhiều   tổ   chức   yêu   nước. Ngày 15/5/1942, theo chỉ   đạo của  Đảng, tổ  chức  Đội Thiếu Niên Tiền Phong và   Đội Nhi  Đồng cứu  quốc  đã   được thành lập tại vùng Pắc Pó  (Cao Bằng) do  Đoàn Thanh Niên Cứu Quốc ( nay là   Đoàn  Thanh Niên Cộng Sản Hồ  Chí  Minh) trực tiếp phụ  trách. Ngày 15/5/1941  đã   được ban chấp hành   Trung Ương Đảng đồng ý lấy ngày chính thức thành lập đội. Từ ngày thành lập đến nay, đội đã qua nhiều lần đổi tên. Sự kiện đổi tên có ý nghĩa nhất là sau   khi Chủ  Tịch Hồ  Chí  Minh qua  đời, thiếu nhi cả  nước, ban chấp hành Trung  Ương  Đảng trong phiên   họp   ngày   30/1/1970   đã   cho   phép   đoàn   thanh   niên,   đội   thiếu   niên   được   mang   tên   Bác. o 19/05/1890 NGÀY SINH CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH  Chủ  tịch Hồ  Chí  Minh sinh ngày 19/05/1890 trong một gia  đình trí  thức yêu nước, nguồn gốc  nông dân  ở làng Kim Liên, huyện Nam  Đàn, tỉnh Nghệ An, nơi có truyền thống đấu tranh kiên cường  chống  ách thống trị  nặng nề  của thực dân phong kiến. Hoàn cảnh xã  hội và  giáo dục  đã   ảnh hưởng   sâu sắc đến Hồ Chủ Tịch ngay từ thời niên thiếu. Với tinh thần yêu nước nồng nàn, với sự  sáng suốt về  chính trị, Người  đã bắt  đầu suy nghĩ  về   những nguyên nhân thành bại của các phong trào yêu nước hồi bấy giời và  quyết tâm  đi tìm con  đường đúng đắn để cứu dân, cứu nước. Tháng 6/1911, Người ra nước ngoài,  đi  đến nước Pháp và  nhiều nước Châu  Âu,  Á, Phi, Mỹ.  Người hoà mình với những công nhân và những người dân thuộc địa, vừa lao động vừa sống, vừa học   tập, nghiên cứu các học thuyết cách mạng. Năm 1917, thắng lợi vang dội của cách mạng tháng mười   Nga  đã   đưa Hồ  Chủ  Tịch  đến với chủ  nghĩa Mac­LêNin. Ra sức nghiên cứu chủ  nghĩa Mac­LêNin,   Người   đã   nhận   ra   đường   lối   duy   nhất   đúng   đắn   để   giải   phóng   dân   tộc   và   giải   phóng   xã   hội. Cùng năm ấy, Người thành lập Hội những người Việt Nam yêu nước để tập hợp Việt kiều ở Pháp. Năm   1919, Người gia nhập  Đảng Xã  Hội của Pháp và  hoạt  động trong phong trào công nhân Pháp.  Đầu  năm  đó, Người gửi  đến hội nghị  Vec­Xây (Pháp) “Bản yêu sách của nhân dân Việt Nam”,  đòi chính   phủ   Pháp   phải   thừa   nhận   các   quyền   tự   do   và   bình   đẳng   của   dân   tộc   Việt   Nam. Tháng 12/1920, trong  đại hội lần thứ  18 của  Đảng Xã  Hội Pháp, Người bỏ  phiếu tán thành gia nhập   Quốc Tế  Cộng Sản và  tham gia thành lập  Đảng Cộng Sản Pháp. Sự  kiện trên  đây  đánh dấu bước  ngoặt trong  đời hoạt  động cách mạng của Người, bước ngoặt từ  chủ  nghĩa yêu nước  đến chủ  nghĩa  Cộng Sản. Năm 1921, Người tham gia thành lập hội liên hiệp các dân tộc và thuộc địa và năm 1922 xuất  bản báo “Người Cùng Khổ” ở Pháp. Tháng 6/1923, Người từ Pháp  đi Liên Xô, nước xã hội chủ nghĩa   đầu tiên trên thế giới, tiếp tục nghiên cứu chủ nghĩa Mác­LêNin và tham gia Quốc tế Cộng Sản. Cùng  năm đó, Người được bầu vào đoàn chủ tịch Quốc Tế Nông Dân. Năm 1924, Người dự đại hội lần thứ 5  Quốc Tế Cộng Sản và được cử làm Uỷ viên bộ Phương Đông, phụ trách cục Phương Nam, hướng dận  và  xây dựng phong trào cách mạng và  phong trào Cộng Sản  ở  các nước  Đông Nam  Á. Năm 1925,   Người thành lập hội liên hiệp các nước bị áp bức ở Á Đông.
  14. Tháng 6/1925, Người tổ chức Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội, mà hạt nhân là Cộng Sản  Đoàn, đồng thời ra báo Thanh Niên và mở lớp huấn luyện đào tạo hàng trăm cán bộ đưa vể nước hoạt   động. Ngày 3/2/1930, Người triệu tập hội nghị  hợp nhất tại Cửu Long (Hương Cảng)  để  thống nhất  các nhóm tại Cộng Sản trong nước thành Đảng Cộng Sản Việt Nam. Trong thời gian từ  1930  đến 1940, Người  ở nước ngoài tham gia công tác của Quốc Tế  Cộng   Sản,  đồng thời theo dõi sát phong trào cách mạng trong nước và  có  những chỉ  thị  quý  báu cho ban   chấp hành Trung ương Đảng ta. Năm 1941, sau 30 năm hoạt động ở nước ngoài Người về nước triệu tập hội nghị lần thứ 8 của   Ban chấp hành trung ương Đảng, quyết định đường lối đánh Pháp, đuổi Nhật, thành lập Mặt trận dân  tộc thống nhất lấy tên là  Việt Nam  độc lập  đồng minh (Việt Minh), gấp rút xây dựng lực lượng,  đẩy   mạnh phong trào đấu tranh cách mạng của quần chúng cả nước. Ngày 22/12/1944, Người chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, tiền thân  của   quân   đội   nhân   dân   Việt   Nam   ngày   nay   và   xây   dựng   căn   cứ   địa   cách   mạng. Tháng 8/1945, trong không khí  sục sôi cách mạng của thời kỳ  tiền khởi nghĩa, Người cùng Trung  Ương triệu tập đại hội quốc dân ở Tân Trào. Đại hội đã cử Người làm chủ tịch nước chính phủ lâm thời   của nước Việt Nam dân chủ  cộng hoà. Người  đã  phát lệnh tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong   cả nước. Ngày 2/9/1945, Người đọc bản tuyên ngôn độc lập trước nhân dân cả nước và nhân dân toàn   thế  giới tuyên bố  thành lập nước Việt Nam dân chủ  cộng hoà, nhà  nuớc công nông  đầu tiên  ở   Đông  Nam Á. Trong những ngày  đầu cách mạng, nước ta có  nhiều khó  khăn chồng chất và  bị  bao vây bốn   phía. Nạn đói do Phát Xít Nhật – Pháp gây ra đã giệt hại hơn hai triệu người Việt Nam. Tháng 9/1945,   cấu kết với các đế quốc Mỹ, Anh và bọn phản động quốc dân Đảng Trung Quốc, thực dân Pháp trở lại   xâm   lược   nước   ta   một   lần   nữa,   âm   mưu   xoá   bỏ   mọi   thành   quả   của   cách   mạng   tháng   tám. Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng ban chấp hành Trung Ương Đảng lãnh đạo toàn dân ta vừa đánh trả bọn  thực dân Pháp xâm lược ở miền Nam, vừa đối phó với bọn phản động Tưởng Giới Thạch ở miền Bắc. Hiệp  định sơ  bộ  ngày 6/3/1946  được ký  kết giữa Việt Nam dân chủ  cộng hoà  và  Pháp. Quân Tưởng   Giới Thạch rút khỏi miền Bắc Việt Nam. Quân đội Pháp mở rộng đánh chiếm miền Nam, kéo ra miền   Bắc và lấn dần từng bước ở miền Bắc, âm mưu tiến tời xoá bỏ nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.  Trước tình hình ấy, tháng 12/1946, chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi toàn quốc kháng chiến và cùng ban   chấp hành Trung  Ương  Đảng lãnh  đạo cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện và  lâu dài chống thực  dân Pháp đến thắng lợi lịch sử Điện Biên Phủ. Tháng 7/1954, hiệp định Genéve được ký kết. Miền Bắc Việt Nam được giải phóng. Nhưng một  nửa nước ở miền Nam bị đế quốc Mỹ biến thành thuộc địa kiểu mới của chúng. Người cùng với Trung   Ương  Đảng lãnh  đạo nhân dân cả  nước  đồng thời thực hiện hai nhiệm vụ  chiến lược: cách mạng xã  hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Tháng 9/1960,  đại hội lần thứ III của  Đảng  đã họp, thông qua nghị quyết về 2 nhiệm vụ chiến   lược và  bầu  đồng chí  Hồ  Chí  Minh làm chủ  tịch ban chấp hành Trung  Ương Đảng. Dưới sự lãnh đạo   của Người và của ban chấp hành Trung Ương  Đảng, nhân dân ta vừa đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng  chủ  nghĩa xã  hội  ở  miền Bắc, vừa tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước  để  bảo vệ  miền 
  15. Bắc,   giải   phóng   miền   Nam   thống   nhất   nước   nhà   và   đưa   nước   tiến   lên   chủ   nghĩa   xã   hội Ngày 2/9/1969 Người từ trần, hưởng thọ 79 tuổi. Cuộc  đời của chủ  tịch Hồ  Chí  Minh là  một cuộc  đời trong sáng cao  đẹp của một người Cộng   Sản vĩ đại, một anh hùng dân tộc kiệt xuất, một chiến sĩ quốc tế lỗi lạc, đã  đấu tranh không mệt mỏi   và hiến dâng cả đời mình vì Tổ Quốc, vì nhân dân, vì lý tưởng Cộng Sản chủ nghĩa, vì độc lập, tự do   của các dân tộc, vì hoà bình và công lý trên thế giới. Cuộc họp lần thứ  24, năm 1987 tổ  chức giáo dục, khoa học và  văn hoá  của liên hợp quốc   (UNESCO), ra nghị quyết về kỷ niệm 100 năm ngày sinh chủ tịch Hồ Chí Minh “Anh hùng giải phóng   dân tộc Việt Nam và  là  một nhà  văn hoá  lớn” (Hồ  Chí  Minh Vietnamese hero of National Liberation   And Great Man Of Culture) vào năm 1990.  THÁNG 6  01/06/1949  NGÀY QUỐC TẾ THIẾU NHI  Điên cuồng trước  âm mưu mở cuộc tiến công phía Nam mặt trận Xô ­  Đức hòng tiêu diệt Liên   Xô, 11h  đêm ngày 9/6/1942, trong khi mọi người đang ngủ thì  phát xít Hitle sụt vào làng Liđixe ­ một  làng phía Bắc thu  đô  Praha (Tiệp Khắc). Chúng bắt dân làng tập trung lại rồi xả  súng bắn giết dã  man, sau  đó  cho vào lò thiêu. Nhà  cửa của cải của dân làng bị cướp bóc,  đốt phá. Chỉ trong 1 ngày   10/6/1942, chúng đã giết 92 người trong đó có 88 trẻ em. Hai năm sau, ngày 10/6/1944, sau khi bị đánh bật ra ngoài biên giới Liên Xô, tại Ôđrađua, một   thị  trấn nhỏ  bên bờ  sông Gơlani  ở  miền Trung nước Pháp, bọn phát xít Hítle lại gây ra những tội  ác   mới. Chúng bao vây  Ôrađua, gí  súng  đẩy từng người một vào nhà  thờ  rồi tưới xăng thiêu chết 1.400   người, trong đó có 200 trẻ em. Cái chết thê  thảm của dân làng Liđixe và   Ôrađua  đã  thúc giục nhân dân Châu  Âu  đứng lên   cùng Hồng quân Liên Xô   đánh thắng chủ  nghĩa phát xít.  Để  khắc sâu căm thù   đối với những cuộc  thảm sát do bọn phát xít Đức gây ra trong những ngày tháng 6 và để biểu dương ý chí của các bà mẹ,   của những người quan tâm tới trẻ con, quyết phấn đấu cho tương lai, hoà bình và hạnh phúc của con  em mình, tháng 1/1949, liên  đoàn phụ  nữ  dân chủ  thế  giới họp  ở  Matxcơva (Liên Xô)  đã  quyết  định   lấy ngày 1/6 hàng năm làm này Quốc Tế  thiếu nhi. Tiếp theo  đó, tháng 4/1952 tại Viên  đã  có  cuộc   họp quốc tế bảo vệ thiếu nhi. Hội nghị này đã yêu cầu tất cả chính phủ các nước đặt ra những pháp   luật cho nước mình nhằm bảo  đảm hạnh phúc cho các bà  mẹ  và  trẻ  em,  đòi cấm những phát minh   khoa học vào mục đích chiến tranh. Đến năm 1955,  đại hội các bà  mẹ  hầu hết các nước trên thế  giới họp tại Matxcơva  đã  tố  cáo  bọn  đế  quốc  âm mưu gây lai chiến tranh và  kêu gọi các bà  mẹ  khắp năm châu siết chặt thêm hàng   ngũ đấu tranh cho một nền hoà bình bền vững trên đất nước. Từ   đó   đến nay, những tổ  chức phụ  nữ, thanh niên  ở  các nước lấy ngày 1/6 làm ngày biểu  dương lực lượng đấu tranh chống các thế lục gây chiến tranh để bảo vệ hạnh phúc cho các bà mẹ và  trẻ em trên thế giới. Ở nước ta, từ sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, ngày 1/6 đã   được tổ  chức hàng năm và  trở  thành ngày hội chăm sóc và  bồi dưỡng thế  hệ  măng non tổ  cho tổ  
  16. quốc. Nhà  nước ta cũng ban hành pháp lệnh về  chăm sóc và  bảo vệ  thiếu niên, nhi  đồng, coi trách   nhiệm vẻ  vang  ấy là  của toàn dân. Việt Nam là  nuớc  đầu tiên  ở  Châu  Á  và  thứ  2 trên thế  giới phê  chuẩn công  ước về quyền trẻ em – văn kiện pháp lý quốc tế đề cập toàn diện đến các quyền trẻ em  dựa trên nguyên tắc trẻ em có quyền được chăm sóc, bảo vệ giúp đỡ đặc biệt. 21/6/1925  NGÀY BÁO CHÍ VIỆT NAM  Ngày 21/6/1925, tờ báo thanh niên do chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập ra số đầu tiên, đánh dấu   sự ra đời của báo chí cách mạng Việt Nam. Để ghi nhớ công ơn của chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập ra   nền báo chí  cách mạng Việt Nam, ban Bí  Thư  Trung  Ương  Đảng quyết  định lấy ngày 21/6 là  Ngày  Báo Chí  Việt Nam nhằm phát huy truyền thống tốt  đẹp của báo chí  cách mạng và  nêu cao trách   nhiệm của báo chí, của nhà  báo trước xã  hội. Với tinh thần  đó, ngày 21/6/1985 là  ngày báo chí  Việt   Nam được tổ chức lần đầu tiên ở nước ta. Suốt trong những chặng đường cách mạng, báo chí Việt Nam và đội ngũ nhà báo đã có những  cống hiến to lớn  đối với sự  nghiệp cách mạng của nhân dân ta và  “Xứng  đáng với một trong những   nền báo chí cách mạng trên thế giới”. 28/06  NGÀY GIA ĐÌNH VIỆT NAM  Ngày 28/6/2001  được chọn là  ngày gia  đình Việt Nam  đầu tiên theo chỉ  thị số 55/BCT của bộ   chính   trị   và   quyết   định   72/2001/QĐ­TTg   của   thủ   tướng   chính   phủ   ký   ngày   4/5/2001. Theo quyết  định 72 của thủ  tướng chính phủ, việc chọn ngày 28/6 hàng năm là  ngày gia  đình Việt  Nam là nhằm đề cao trách nhiệm lãnh đạo các ngành, các cấp, các đoàn thể và tổ chức xã hội cùng   toàn thể  các gia  đình thường xuyên quan tâm xây dựng gia  đình no  ấm, bình  đẳng, tiến bộ  và  hạnh  phúc,  đẩy mạnh công tác bảo vệ, chăm sóc giáo dục trẻ  em, góp phần vào sự  nghiệp xây dựng và   bảo vệ  tổ  quốc.  Đồng thời, vận  động nhân dân tích cực tham gia phong trào “Xây dựng gia  đình no   ấm, bình đẳng, tiến bộ và hạnh phúc” Ngày gia đình Việt Nam là mốc thời gian quan trọng để cho những con người đất Việt hướng về  cội nguồn, về người thân, qua đó nuôi dưỡng những tình cảm đẹp, những giá trị văn hoá cao quý của  dân tộc. Cho dù  có   đi  đâu, làm gì, gia  đình vẫn là  nơi  để  nhớ,  để  yêu thương và   để  quay trở  về. THÁNG 7 15/7/1950  NGÀY TRUYỀN THỐNG THANH NIÊN XUNG PHONG  “Thanh niên xung phong là một biểu tượng sáng ngời của thanh niên Việt Nam trong sự nghiệp  cách mạng mở đầu cuộc cách mạng tháng tám vĩ đại năm 1945. Trong 2 cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, lực lượng thanh niên xung phong nêu cao tinh  thần quyết chiến quyết thắng,  đã  góp phần cống hiến quý  báo vào thắng lợi huy hoàng, hoàn thành  độc   lập   dân   tộc,   thống   nhất   tổ   quốc,   thực   hiện   ước   mơ   của   bao   thế   hệ   người   Việt   Nam”. (Phạm Văn Đồng – trích trong tập sách “Thanh niên xung phong­ những trang oanh liệt”­NXB,Thanh   niên,1996)
  17. Ngày 15/7/1950, thực hiện chỉ đạo của Trung Ương Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Đoàn  thanh vận Trung Ương quyết định thành lập đội thanh niên xung phong công tác Trung Ương đầu tiên   phục vụ chiến dịch Biên Giới. Ban chỉ huy lâm thời của đội gồm 5 đồng chí, do đồng chí Vương Bích   Vượng, uỷ  viên ban chấp hành  Đoàn thanh niên cứu quốc là   đội trưởng và  bí  thư  chi bộ.  Đội có  225   đội viên đầu tiên, được tổ chức thành 3 liên đội. Qua từng thời kỳ, để đáp ứng nhu cầu thực tế của tình hình đất nước, lực lượng thanh niên xung  phong đã nhiều lần đổi tên: o Đội thanh niên xung phong công tác Trung Ương (15/7/1950)  o Đội thanh niên xung phong (26/3/1953)  o Đoàn thanh niên xung phong Trung Ương (12/1963)  o Đội thanh niên xung phong chống Mỹ cứu nước (21/6/1965)  o Lực lượng thanh niên xung phong giải phóng miền Nam (20/4/1964)  o Ban thanh niên xung phong – Lao động trẻ (3/1986)  “ Trong sự nghiệp chống nghèo nàn, lạc hậu, tiến lên thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá   đất nước. Lực lượng thanh niên xung phong  đã  phát huy sức mạnh vô  song, với những hoài bão và  bản lĩnh của tuổi trẻ, đi đầu trong việc ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ vào công  cuộc phát triển kinh tế  ­ xã  hội như  tham gia vào các chương trình, dự   án: phủ  xanh  đất trồng trọt,   nước sạch cho nông thôn, sử dụng mắt nước, bãi bồi ven biển, ánh sáng văn hoá, dạy nghề, giới thiệu  việc làm…. với  ý  chí  và  nghị  lực, thực hiện lời dạy của Bác Hồ: không có  việc gì  khó, chỉ  sợ  lòng  không bền, đào núi và lấp biển, quyết chí ắc làm nên.”(Phạm Văn Đồng). Thể theo nguyện vọng của đông đảo cán bộ, đội viên thanh niên xung phong các thế hệ, theo   đề  nghị của Uỷ  Ban Thanh niên Cộng Sản Hồ Chí  Minh, ngày 30/6/1995, thủ  tướng chính phủ   đã  ra  quyết định số 382/TTG quy  định lấy ngày 15/5 hàng năm làm ngày truyền thống của lực lượng thanh   niên xung phong Việt Nam. Nhân dịp này, ban chấp hành Trung Ương Đảng đã tặng lực lượng thanh niên xung phong bức   trướng mang dòng chữ: “Thanh niên xung phong ­ Chiến  đấu dũng cảm – Lao  động sáng tạo ­ Lập  công xuất sắc”. 27/7/1947(sinh nhật của Uno,xin thề,xin hứa,xin đảm bảo).hehe.   NGÀY THƯƠNG BINH LIỆT SĨ  Cách mạng tháng tám 1945 thành công, nước Việt Nam dân chủ  cộng hòa ra  đời chưa  được  bao lâu thì thực dân Pháp âm mưu trở lại xâm lược nước ta. Núp sau quân Anh ­ Ấn, chúng trắng trợn   gây nên những vụ  xung  đột vũ trang  ở nhiều nơi thuộc Nam Bộ, Trung Bộ. Tiếp  đó, khi vào thay thế  quân đội Tưởng Giới Thạch ở Bắc Bộ, thực dân Pháp gây ra những vụ bắn phá giết hại dân ta ở Hải   Phòng, Hà Nội….. mở đường cho việc xâm lược cả nước ta. Kiên quyết bảo vệ  thành quả  cách mạng, giữ  gìn  độc lập, tự  do, quân và  dân ta  ở  những nơi  thực dân Pháp gây hấn đã chiến đấu anh dũng, chặn bàn tay đẫm máu của thực dân xâm lược. Trong  cuộc chiến  đấu này, một số  chiến sĩ,  đồng bào ta bị  thương và  hi sinh. Dưới sự  lãnh  đạo của  Đảng,   nhân dân ta  đã  dành tình yêu thương của mình, góp phần chăm sóc các gia  đình liệt sĩ, anh em   thương binh, bênh binh một cách tận tình chu đáo.
  18. Đầu năm 1946, “Hội giúp binh sĩ tử nạn” sau đổi tên “Hội giúp binh sĩ bị thương” được thành lập   ở Thuận Hoá (Bình Trị Thiên) ở Hà Nội và một số nơi khác. Hồ Chủ tịch là hội trưởng danh dự của hội. Ngày 28/5/1946, “hội giúp binh sĩ  bị nạn” tổ chức một cuộc nói chuyện quan trọng tại nhà hát   thành phố Hà Nội và Hồ chủ tịch đã đến dự. Ngày 7/11/1946, cũng tại nhà hát thành phố Hà Nội, buổi   quyên góp  ủng hộ  quần  áo giày mũ  cho chiến sĩ  ngoài mặt trận  đã   được tổ  chức, mở   đầu cuộc vận   động “Mùa đông chiến sĩ”, tại đây Hồ chủ tịch đã cởi chiếc áo rét của Người đang mặc để tặng binh sĩ. Ngày 19/12/1946, kháng chiến toàn quốc bùng nổ, chiến tranh lan rộng ra nhiều vùng. Số  người bị  thương, hy sinh tăng lên.  Đời sống của chiến sĩ, nhất là  những chiến sĩ  bị thương gặp nhiều  khó khăn, thiếu thốn. Trong tình hình  ấy, Đảng và nhà nước ta đã quyết  định nhiều chính sách quan   trọng về công tác thương binh liệt sĩ, góp phần ổn định đời sống tinh thần và vật chất của thương binh,   gia   đình   liệt   sĩ   trong   thời   kỳ   đầu   của   cuốc   kháng   chiến   chống   thực   dân   Pháp   xâm   lược. Tháng 6/1947,  đại biểu của tổng bộ  Việt Minh, Trung  Ương hội phụ  nữ  cứu quốc, Trung  Ương  đoàn  thanh niên cứu quốc, cục Chính Trị  Quân  Đội quốc gia Việt Nam, nhà thông tin tuyên truyền và một   số địa phương đã họp tại Đại Từ (Bắc Thái) để bàn về công tác thương binh liệt sĩ và thực hiện chỉ thị   của Hồ chủ tịch chọn một ngày nào đó làm ngày Thương binh liệt sĩ. Sau khi cân nhắc nhiều mặt, hội  nghị  nhất trí   đề  nghị  Trung  Ương lấy ngày 27/7/1947 làm ngày thương binh liệt sĩ  – ngày toàn dân  cùng thể hiện đạo lý Uống Nước Nhớ Nguồn. 28/7/1929  NGÀY THÀNH LẬP TỔNG LIÊN ĐOÀN LAO ĐỘNG VIỆT NAM  Cuối năm 1924, đầu năm 1925, tại Quảng Châu, đồng chí Nguyễn Ái Quốc, lãnh tụ vĩ đại của   giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam, Người đặt cơ sở lý luận cho công đoàn Việt Nam đã đề ra   tôn chỉ  mục  đích hoạt  động của Công Hội,  đào tạo hàng loạt cán bộ   ưu tú  trong tổ  chức thanh niên   cách mạng đồng chí hội mà nòng cốt là Cộng Sản Đoàn Người cũng đề ra việc “vô sản hoá” – đi vào   các   xí   nghiệp   hầm   mỏ,   đồn   điền   để   vận   động   giáo   dục   công   nhân   vào   tổ   chức   Công   Hội. Cuối năm 1928,  đầu năm 1929, nhiều tổ  chức Công hội  đỏ   được thành lập  ở  các xí  nghiệp vá  phát   triển, dần dần được thống nhất thành tổng Công Hội đỏ cấp tỉnh, thành phố (Hà Nội, Hải Phòng, Nam   Định, Hòn Gai). Ngày 28/7/1929, tại số nhà 15 phố Hàng Nón, Hà Nội, đại hội thành lập tổng Công Hội đỏ miền  Bắc  đã  khai mạc.  Đại hội thông qua các nhiệm vụ  đấu tranh và   điều lệ tóm tắt, quyết  định ra tờ báo   Lao động và tạp chí Công Hội Đỏ, bầu ban chấp hành. Tiếp  đó, các tổng Công Hội  đỏ   ở  miển Trung, miền Nam,  được thành lập. từ  năm 1930, tổng   Công Hội đỏ đã được hoạt động khắp cả nước. Trải qua các thời kỳ cách mạng, dưới sự lãnh đạo của   Đảng, Công Đoàn Việt Nam có nhiều tên gọi khác nhau để phù hợp với nhiệm vụ cam từng giai đoạn: o Công Hội đỏ (1929 – 1935)  o Nghiệp đoàn Ái Hữu (1936 – 1939)  o Công nhân Phản Đế (1939 – 1941)  o Công nhân cứu quốc (1941 – 1945)  o Tổng liên đoàn lao động Việt Nam (1946 – 1961)  o Tổng Công Đoàn Việt Nam (1961 – 1988)  o Tổng liên đoàn lao động Việt Nam (1961 đến nay) 
  19. Bộ  chính trị  ban chấp hành Trung  Ương  Đảng Cộng Sản Việt Nam  đã  quyết  định lấy ngày   28/7/1929, ngày họp  đại hội thành lập tổng Công Hội  đỏ   đầu tiên  ở  miền Bắc Việt Nam, làm ngày   thành lập Công Đoàn Việt Nam. Đại hội đại biểu Công Đoàn toàn quốc lần V (tháng 11/1983) họp tại   thủ đô Hà Nội đã nhất trí thông qua nghị quyết lấy ngày 28/7/1929 làm ngày thành lập tổng liên đoàn   lao động Việt Nam. 28/7/1995  NGÀY VIỆT NAM GIA NHẬP ASEAN  Đông Nam Á là một khu vực địa lý – lịch sử, kinh tế, văn hoá, chính trị nằm ở phần Đông Nam  của Châu  Á, bao gồm bán  đảo Trung  Ấn và  vùng hải  đảo, có  mười nước với tổng diện tích hơn 4,5  triệu km2 và dân số hơn 460triệu người, gồm: Brunei, Campuchia, Singapo, Inđônêsia, Lào, Thái Lan,   Việt Nam, Malixia, Philippines. Tên tiếng Anh: The Association Of Southeast Asia Nations – ASEAN. ASEAN tuyên bố thành lập ngày 8/8/1967 với 7 mục tiêu: thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã  hội và phát triển văn hoá trong khu vực thông qua các nỗ lực chung trên tinh thần bình đẳng hợp tác,   nhằm tăng cường cơ  sở  cho một cộng  đồng các nước  Đông Nam  Á  hoà  bình thịnh vượng; thúc  đẩy  hòa bình và ổn định khu vực bằng việc tôn trọng công lý và nguyên tắc pháp luật trong quan hệ giữa   các nước trong vùng và  tuân thủ  cácc nguyên tắc của hiến chương liên hợp quốc; thúc  đẩy sự  cộng   tác tích cực và giúp đỡ lẫn nhau trong các vấn đề cùng quan tâm trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn  hoá, khoa học – kỹ thuật và hành chính; giúp đỡ nhau dưới nhiều hình thức đào tạo và cung cấp các  phương tiện nghiên cứu trong các lĩnh vực giáo dục, chuyên môn, kỹ thuật và hành chính; cộng tác có   hiệu quả hơn để sử dụng tốt hơn nền nông nghiệp và các ngành công nghiệp của nhau,  ở rộng mậu   dịch kể  cả  việc nghiên cứu các vấn  đề  về  buôn bán hàng hoá  giữa các nước, cải thiện các phương  tiện giao thông, liên lạc và nâng cao mức sống của nhân dân; thúc đẩy việc nghiên cứu về Đông Nam   Á; duy trì  sự hợp tác chặt chẽ cùng có lợi với các tổ chức quốc tế và khu vực có tôn chỉ và mục đích   tương tự và tìm kiếm các cách thức nhằm đạt được một sự hợp tác chắt chẽ hơn nữa giữa các tổ chức   này. Và  6 nguyên tác hoạt  động chính: cùng tôn trọng  độc lập, chủ  quyền,bình  đẳng, toàn vẹn lãnh   thổ và bản sắc dân tộc của tất cả cá dân tộc; quyền của mọi quốc gia  được lãnh  đạo hoạt  động của   dân tộc mình mà  không có  sự  can thiệp vào công việc nội bộ  của nhau; giải quyết bất  đồng hoặc   tranh chấp bằng các biện pháp hoà  bình, không  đe doạ  hoặc sử  dụng vũ  lực; hợp tác với nhau một   cách hiệu quả. Ngày 28 tháng 7 năm 1995, tại thủ đô Bandar Seri Begawan của đất nước Brunei Darussalam   tươi  đẹp, trong tiếng Quốc ca hùng tráng, Quốc Kỳ  Việt Nam  đã  tung bay phấp phới cùng cờ  của 6   thành viên ASEAN khác, mở ra một trang sử mới của khu vực: Việt Nam chính thức là thành viên thứ   7 của ASEAN. Sự kiện này là một dấu son trên con đường hội nhập khu vực và thế giới, đưa nước ta   tiến lên con  đường phía trước trên con  đường xây dựng nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã  hội   công bằng, dân chủ, văn minh.  Đây cũng là  nguyện vọng của những người sáng lập ra ASEAN và  nhân dân trong khu vực về một hiệp hội bao gồm 10 nước trong khu vực, một ASEAN của Đông Nam   Á, do  Đông Nam  Á, và  vì   Đông Nam  Á, trong  đó  các quốc gia thành viên cùng nhau hợp tác vì  hoà  bình, ổn định, phát triển, phồn vinh, góp phần vào sự nghiệp hoà bình và phát triển ở khu vực và trên  thế giới.
  20. 6 năm là một thời gian ngắn ngủi trên con đường phát triển của dân tộc ta, nhưng trong những   tháng năm đó, ta đã đạt được nhiều thành tựu: góp phần củng cố môi trườing hoà bình, an ninh thuận   lợi hơn cho sự phát triển, bổ sung cho quan hệ song phương bằng quan hệ đa phương thâm hữu trong   ASEAN, tham gia có hiệu quả vào quá trình liên kết kinh tế khu vực thông qua việc thực hiện AFTA,   khu vực đầu tư ASEAN, tạo thuận lợi cho buôn bán trong khu vực, nối mạng đường bộ, các mạng lưới   điện, khí đốt, hợp tác trong các lĩnh vực nông – lâm – ngư nghiệp, giao thông vận tải, văn hoá, thông   tin, giáo dục, phát triển xã hội, xoá đói giảm nghèo, phòng chống tội phạm, bện tất…. điều không kém   phần quan trọng là chúng ta xây dựng được mối quan hệ láng giềng tốt, hợp tác và giúp đỡ nhau trên   tinh thần tôn trọng, bình đẳng, cùng có lợi, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Đạt được   những kết quả đó là do chúng ta đã nỗ lực thực hiện tốt đường lối ngoại giao đúng đắn trên tinh thần  Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển theo hướng   đa dạng hoá quan hệ, chủ động hội nhập khu vực và thế giới.  THÁNG 8 19/08/1945  Cách mạng tháng tám, tổng khởi nghĩa giành chính quyền.  Đầu năm 1945, quân đội Xô Viết liên tiếp giành thắng lợi trên chiến trường Châu Âu, giải phóng  hàng loạt nước và  tiến thẳng vào sào huyệt của phát xít  Đức  ở  Béclin. Ngày 8/5/1945, phát xít  Đức   đầu hàng vô điều kiện. Ngày 8/8/1945, Liên Xô tuyên chiến với phát xít Nhật, đẩy quân phiệt Nhật vào  tình thế  thất bại. Ngày 13/8/1945, Hội nghị  toàn quốc của  Đảng họp  ở  Tân Trào, nhận  định thời cơ  khởi nghĩa giành chính quyền đã tới, những điều kiện khởi nghĩa ở Đông Dương đã chín muồi. Uỷ ban  khởi   nghĩa   gửi   quân   lệnh   số   1   cho   đồng   bào   và   cho   chiến   sĩ   cả   nước   ngay   trong   đêm   ấy. Ngày 16/8/1945,  đại hội họp ở Tân Trào đã thông qua “10 Chính sách lớn của Việt Minh”, thông qua  “lệnh tổng khởi nghĩa” quyết  định Quốc Kỳ  nền đỏ, sao vàng, chọn bài tiến quân ca làm Quốc ca và  bầu ra uỷ  ban dân tộc giải phóng Trung  Ương, tức chính phủ  lâm thời do  đồng chí  Hồ  Chí Minh làm   chủ tịch. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra lời kêu gọi: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn   thể đồng bào ta hãy đứng dậy đem sức ta mà giải phóng cho ta”. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, hơn 20  triệu nhân dân ta từ  Bắc  đến Nam  đã  tiến hành cuốc tổng khởi nghĩa cách mạng tháng tám thành   công. Cuộc khởi nghĩa bắt đầu từ 14/8, một ngày sau khi Hội nghị toàn quốc của Đảng khai mạc. Từ   ngày 14 đến 18, tổng khởi nghĩa giành được thắng lợi ở nông thôn đồng bằng miền Bắc, đại bộ phận  miền   Trung,   một   phần   miền   Nam   và   các   thị   xã   Bắc   Giang,   Hải   Phòng,   Hà   Tĩnh,   Hội   An. Ngày 17/8, ở Hà Nội, tổng hội viên chức chính quyền bù nhìn tổ chức một cuộc mittinh lớn tại Quảng  trường nhà hát thành phố, có hàng vạn người tham gia để ủng hộ chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim.   Trong mittinh này, dưới sự lãnh đạo của xứ Uỷ Bắc Kỳ và thành Uỷ Hà Nội, quần chúng cách mạng đã  giương cao lá cờ đỏ sao vàng, chiếm lấy diễn đàn cuộc mittinh, cán bộ Việt Minh đã diễn thuyết báo   tin cho  đồng bào biết quân phiệt Nhật  đã   đầu hàng và  giới thiệu chủ  trương  đường lối cứu nước của  Việt Minh, kêu gọi nhân dân đánh đổ chính quyền bù nhìn thân Nhật. Cuộc mittinh đã tiến thành cuộc   biểu tình, tuần hành thị  uy, bắt  đầu từ  quảng trường nhà  hát thành phố  và  lan khắp nơi trên phố 
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2