Các phương thức nuôi bào ngư
lượt xem 54
download
Do các lồng nuôi lỗ hình vuông có kích thước 60 x 40 x 10 cm, có nắp đậy xếp chồng lên nhau mà thành, mật độ nuôi 50 con là chính (thông thường mật độ thả nuôi có giới hạn là không quá 30 con).
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Các phương thức nuôi bào ngư
- Các phương thức nuôi bào ngư Nguồn: vietlinh.com.vn 1. Nuôi theo kiểu lập thể ở trên đất liền 1.1 Lồng nuôi : Do các lồng nuôi lỗ hình vuông có kích thước 60 x 40 x 10 cm, có nắp đậy xếp chồng lên nhau mà thành, mật độ nuôi 50 con là chính (thông thường mật độ thả nuôi có giới hạn là không quá 30 con). Do trong quá trình nuôi trước hết phải tách các lồng nuôi ra để thức ăn vào không những gây bất tiện, mà còn rất lãng phí sức người và thời gian. Sau khi nghiên cứu cải tiến, ở một mặt bên của lồng nuôi có làm một nắp cửa, làm cho dễ đóng mở và làm cửa cho thức ăn. Do đó, khi cho ăn có thể bớt việc phải tách riêng lồng, tiết kiệm nhiều thời gian, qua nhiều lần cải tiến, trong lồng có thể tăng thêm nhiều không gian sống, làm giảm tỷ lệ chết do bị tách rời gây nên. Qua cải tiến vào năm 1997, sau khi tạo ra lồng nuôi lỗ tròn 80 x 50 x 10cm, ở một bên lồng đặt cửa tự động, dễ đóng mở, đồng thời tiện cho ăn, nhưng tuỳ theo sự sinh trưởng của cá thể, phải kịp thời giảm mật độ để tiện cho việc nuôi; sau cải tiến mật độ nuôi của mỗi lồng bình quân có thể đạt tới 80 con, mật độ nuôi theo kiểu nuôi truyền thống là 50 con. Sau khi so sánh tỷ lệ lớn ở các tầng nuôi theo kiểu lập thể, phát hiện tỷ lệ lớn ở tầng thấp nhất là tốt, số tầng nuôi thông thường có thể đạt 12 tầng, tỷ lệ lớn ở các tầng cũng có sự khác nhau chút ít, hiệu quả nuôi của tầng càng thấp càng tốt, có một số bể nuôi đặt ngoài nhà do chiếu sáng tốt, đồng thời cũng cung cấp không ít thức ăn tự nhiên, nên tỷ lệ lớn ở tầng đỉnh cũng tương đối cao. Từ đó cho thấy khi mà tỷ lên sống của phương thức nuôi lập thể đạt tới 70 - 80%, tức là có thể thu được lợi nhuận nhưng khi gỡ ra để đo, thường có thể làm bào ngư bị thương nhưng do nhân tố con người gây nên mà
- không phải là nuôi không thoả đáng hoặc chất nước khác không tốt gây nên, nguyên nhân tỷ lệ sống của bào ngư khi nuôi theo phương thức lập thể không cao, thường thường là do thiếu ôxy gây lên. 1.2 Nuôi lớn Trong thời gian nuôi cứ mỗi tuần cho ăn một lần, người cung ứng thức ăn (rong câu) sau khi vận chuyển đến chỗ nuôi, đổ vào trong bể xi măng để rửa sạch bằng nước, chờ để cho vào lồng nuôi, tiếp đó tháo cạn nước ở bể nuôi, lại dùng vòi nước phun rửa. Bể nuôi rửa xong, sau khi mở nắp lồng nuôi để cho thức ăn, tiếp đó cho đậy nắp lồng, chờ lần lượt bỏ hết rồi hãy cấp nước. Nếu có dư bể nuôi, có thể quản lý bằng một loại phương pháp khác. Tức là trước hết rửa sạch bể trống, sau khi cấp nước sẽ dùng palăng móc kéo lồng nuôi đã xếp thành khối lên và lần lượt cho thức ăn rong câu, rồi móc kéo đưa vào bể nuôi dự bị. Chờ sau khi giải quyết xong toàn bộ, thì có thể tháo cạn nước ở bể nuôi, rồi phun rửa, dự phòng để chuyển đặt lồng nuôi của bể khác. Cách này có thể tránh cho bào ngư vì thời gian rời khỏi mặt nước quá dài mà ảnh hưởng đến độ lớn. Tỷ lệ nuôi sống đạt 80 - 95%. Thời gian nuôi bình quân mỗi tháng cỡ loại thu hoạch đạt được 60 -70 con/kg, hằng năm mỗi tsưbô (đơn vị đo diện tích của Nhật Bản, bằng 3,3m2. H.T) có thể sản xuất được 54 cân Ðài Loan, ước đạt từ 5 -6 lần nuôi đơn tầng mặt phẳng. Khi tiến hành nuôi trên đất liền, nước biển được ống hút hút trực tiếp từ ngoài biển vào, nhưng nên có ao trữ nước, rồi lại dùng ống hút hút nước từ ao trữ nước ra, chờ sau khi dẫn nước vào bể nuôi, rồi để cho nước biển qua các kênh dẫn đưa nước vào các bể nhánh, nếu khoảng cách tương đối xa, khi lưu lượng nước lớn có thể dùng máy bơm và van khống chế để điều tiết lưu lượng nước, ngoài ra để tránh việc bơm vào vi sinh vật hoặc động vật tạp trong nước biển, thì trước hết cũng có thể tiến hành sử lý nước ban đầu.
- Rau câu nuôi bào ngư non cần phải rửa sạch và thái nhỏ, tránh gây nên chất nước không tốt, rồi mới cho rau câu đã thái nhỏ vào bể nuôi. 2. Nuôi ở dải giữa triều Nuôi ở dải giữa triều là sự lợi dụng độ chênh giữa đường triều cường và đường triều cạn bờ đá, tức là lập ao bể nuôi ở nơi triều có sóng va đập. Cấu tạo của ao bể nuôi là dùng máy móc đào các phiến đá ở dải giữa triều xong, bốn xung quanh xây bao bằng xi măng tạo nên, thông thường mạn giáp biển của bờ ao bể nuôi có lỗ thoát nước để thay đổi nước biển khi triều lên, xuống và sóng biển vỡ bờ, đồng thời tăng thêm ôxy và gặp khi nhiệt độ cao, mỗi ao bể cần tăng cường sục khí để tăng hàm lượng ôxy. Ðộ sâu của ao nuôi được quyết định bởi độ cao của đường triều, thông thường độ sâu từ 2 - 3m khi triều cường bờ ao bể nuôi cao hơn mặt nước 1m, khi triều cạn mức nước sâu trong ao bể nuôi giữ ở mức 2m là thích hợp. Bề dày của bờ ao bể nuôi khoảng 1,5 - 2m. Ðáy ao bể nuôi trải lớp đá củ đậu hoặc đá phiến để làm chỗ cho bào ngư bám. Việc nuôi bào ngư ở dải giữa triều thông thường hàng năm tu sửa ao bể nuôi từ tháng 3 đến tháng 6. Khi tu sửa trước hết phải bịt kín lỗ nước vào. Sau khi hút cạn nước bể trong ao nuôi, chỗ tích nước vãi vôi sống và phơi nắng đáy ao khoảng một tuần lễ, đề phòng trong thời gian nuôi ao nuôi bị lão hoá, sinh ra các loại bệnh. Do đó chỉ cần sau khi tu sửa ao là có thể thả giống nuôi, thông thường một tsưbô mật độ thả nuôi là 1.000 - 1.200 con giống. Trong thời gian nuôi, vì tốc độ lớn không đồng nhất, nên phải tiến hành lựa chọn trong khoảng từ tháng 10 đến tháng 12, sau khi chọn lại thả bổ sung giống nhằm bảo đảm sản lượng ổn định. Cách nuôi này, mỗi tuần lễ cho ăn hai lần, mỗi lần mỗi tsưbô ném cho ăn 5 kg rau câu. Khi bắt, dùng thợ lặn xuống đáy ao để bắt. 3. Nuôi theo cách căng dây ở biển
- Tìm nơi nuôi ở ngoài biển một cách thích hợp thả dây nổi, cho bào ngư giống cỡ 3 cm vào lồng nuôi, sau đó treo trên dây nổi, nuôi ở nơi nước sâu từ 7 - 10m, tầng nước nuôi 9m là tốt nhất, môi trường nuôi đòi hỏi hơi nước chảy thuận tiện, độ trong tương đối lớn là thích hợp, đồng thời còn cần thích nghi điều kiện ánh sáng yếu. Cách quản lý nuôi giống như nuôi ở dải giữa triều, công việc chủ yếu là định giờ cho ăn, cọ rửa lồng nuôi, loại bỏ bào ngư bị bệnh, bị chết và địch hại tự nhiên. Do bào ngư là loài nhuyễn thể có vỏ thuộc tính tiêu tốn ôxy, trong quá trình nuôi bào ngư cần kịp thời điều chỉnh mật độ nuôi, lấy ví dụ cách nuôi theo kiểu dây nổi của Trung Quốc, trong trường hợp tốc độ dòng chảy thông thường là 30 -40 m3/giây, mật độ thả nuôi bào ngư giống loại 2 -3cm là 300 con/m2 loại 3 -4 cm là 150 con/m2, loại 4 -5 cm là 120 con/m2 là tương đối hợp lý, nếu có thể tăng cường quản lý mùa thu thì tỷ lệ còn sống qua mùa đông có thể cao đến 97,3%, do không có cách nào để tập trung quản lý theo cách thủ công, cho nên hiệu quả thấp, vì vậy, hiện nay ài Loan chưa nuôi theo cách này. Nuôi bào ngư theo kiểu này cũng có thể dùng để nuôi trai ngọc. 4. Nuôi bằng lồng lưới Ðài Loan chưa áp dụng lồng lưới để nuôi bào ngư, ưu điểm của nuôi bằng lồng lưới là tiết kiệm chi phí, giảm giá thành và đề phòng việc phát sinh bệnh tật, nhưng thời gian nuôi tương đối dài, về kỹ thuật nuôi không có vấn đề, vì cách nuôi loại này giá thành thấp là phương pháp nuôi lớn vừa kinh tế lại vừa thuận tiện. Phải lựa chọn vùng nước chảy thuận tiện, hình thức và quy mô lồng lưới lại không cố định, có thể dùng lưới ny lông, thép không rỉ hoặc giỏ chất dẻo làm thành từng tầng cho bào ngư sống về mặt quản lý định giờ cho ăn hoặc thức ăn nhân tạo, và định kỳ làm vệ sinh vật bám trên lồng đối với bào ngư chết trong lồng, chất thải và thức ăn thừa, đều phải định kỳ quét dọn, bảo đảm nước chảy thông suốt, nơi nhiều bão gió phải đặc biệt chống gió bão, chống sóng, đảm bảo an toàn. Ngoài ra công tác quản lý phải tránh bị bắt trộm. 5. Nuôi bằng lồng chìm
- Cáchnuôi bằng lồng chìm thích hợp với vùng rạn đá, đặt lồngchìm ở vùng triều thấp dải giữa triều, khi triều lên hoặc triều xuống, lồng chìm có thể lộ ra hoặc lộ ra một phần,đồng thời tiện cho việc quản lý hằng ngày. Khi triều lên, mức nước sâu trên 2,5m trở lên, ở dải rạn đá lồi lõm khôngphẳng, trước tiên có thể dùng đá vụn san bằng phần đáy, rồi chuyển vào lồng chìm. Bào ngư ở trong lồng lưới sắplớp trong lồng chìm, cũng có thể xếp chồng lên nhau, ở giữa và xung quanh lồng có khoảng không gian nhất định đểtiện cho ăn và sự di chuyển của bào ngư, khi cần thiết ở trên lỗ của nắp đậy và xung quanh lồng chìm dùng đá miếngđè chặt, làm cho lồng chìm càng vững chắc. Ðồng thời với việc quản lý phải dọn sạch thức ăn thừa, hải miên vàsinh vật bám. Nuôibằng lồng chìm có thể chia làm hai loại, một loại là lồngchìm lưới vây lấy khung lồng, một loại là lồng chìm vây lưới xếp đá. Loại lồng chìm lưới vây lấy khung lồng dùng vậtliệu kim loại tạo thành khung lồng hình hộp chữ nhật diện tích 2 -4m2, cao 0,8m,xung quanh lắp ráp áo lưới, trong lồng thả đá rạn cho bào ngư bám và cố định lồng chìm, mặt trên để cửa cho ăn, lồngchìm đặt ở phía dưới đường thấp tiều của cao triều, nước sâu 0,5 -0,6m. Ðặt lồng chìmvây lưới xếp đá ở nơi thấp triều của khu vực biển córạn đá, dùng đá xếp thành khối chữ nhật dài 6 - 8m, rộng 2,5m, cao 0,8m, xung quanh và trên mặt vây che bằngáo lưới kim loại, lấy đá rạn làm thành rạn bào ngư, áo lưới kim loại có thể chống địch hại xâm nhập và việc chạytrốn khỏi lồng của bào ngư. Ðầu tư cho công trình nuôi bào ngư bằng lồng chìm tương đối ít, rất linh hoạt, quy mô cũngcó thể tự điều chỉnh, tiện quản lý, tỷ lệ sống cao, hiệu quả cao, có thể phát triển một cách vừa phải ở vùngbiển có điều kiện tốt.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Một số vấn đề cần chú ý trong bảo quản khoai tây giống và quản lý kho lạnh
3 p | 633 | 126
-
Chương 7: Nhân giống vật nuôi
13 p | 712 | 99
-
Đặc điểm và phương pháp nuôi trăn
4 p | 557 | 78
-
Kỹ thuật nuôi treo bào ngư trên biển
5 p | 270 | 54
-
Kỹ thuật chăn nuôi bò thịt chất lượng cao
4 p | 221 | 46
-
Các phương pháp ủ phân chuồng
7 p | 236 | 32
-
Phương pháp Sản xuất giống vật nuôi thủy sản: Phần 2
68 p | 123 | 31
-
Bệnh Gumboro ở gà (Infectious Bursal Disease)
3 p | 189 | 26
-
Nghiên cứu lai gà Lương Phượng với gà Ri
2 p | 169 | 19
-
KHU BẢO TỒN BIỂN MỤC ĐÍCH CỦA VIỆC THIẾT LẬP KHU BẢO TỒN BIỂN
12 p | 151 | 19
-
Phương pháp bảo quản hoa tươi lâu sau thu hoạch
7 p | 165 | 19
-
Xây dựng chuồng trại và vệ sinh thú y trong chăn nuôi ngan Pháp
4 p | 197 | 18
-
Bệnh dịch tả vịt (duck plague)
3 p | 88 | 13
-
Các thời kỳ phát triển của tế bào sinh dục cái ở cá
3 p | 154 | 12
-
Kinh nghiệm nuôi cá rô phi vằn
3 p | 90 | 9
-
Phương pháp và kỹ thuật nuôi cá lồng biển (Tập 2): Phần 1
87 p | 47 | 7
-
Hướng dẫn kỹ thuật nuôi thủy sản: Phần 1
69 p | 55 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn