Các tranh luận về kế toán giá trị hợp lý
lượt xem 1
download
Bài viết "Các tranh luận về kế toán giá trị hợp lý" cung cấp lịch sử định giá các thành phần báo cáo tài chính và xác định các vấn đề liên quan. Hơn nữa, tác giả xem xét những chỉ trích đối với các hành động đƣợc thực hiện bởi các cơ quan quản lý trong nỗ lực chuẩn hóa và nâng cao các thông lệ kế toán. Đặc biệt, tác giả tập trung vào sự phát triển của các phép đo giá trị hợp lý. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Các tranh luận về kế toán giá trị hợp lý
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC KẾ TOÁN XANH TRONG XU THẾ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG CÁC TRANH LUẬN VỀ KẾ TOÁN GIÁ TRỊ H P LÝ TS. Phạm Đỗ Dũng1*, TS. Đồng Trung Chính2, ThS. Đỗ Tiến Dũng3 1 Trường Đại học Lao động - Xã hội; * phamdodung@gmail.com 2 Trường Cao đẳng Kinh tế Công nghiệp Hà Nội 3 Trường Cao đẳng Kinh tế Công nghiệp Hà Nội Tóm tắt Trong lịch sử, đã có nhiều tranh cãi trong lĩnh vực báo cáo tài chính doanh nghiệp. Tuy nhiên, một trong những vấn đề chính gây bất đồng giữa nhà quản lý và nhà nghiên cứu là việc định giá các thành phần báo cáo tài chính (BCTC) mà trọng tâm là việc thúc đẩy và chống lại phƣơng pháp giá trị hợp lý (GTHL). Mục đích của bài viết này là kiểm tra quá trình hình thành và phát triển của phƣơng pháp định giá các yếu tố quan trọng nhất trong BCTC. Tác giả cung cấp lịch sử định giá các thành phần BCTC và xác định các vấn đề liên quan. Hơn nữa, tác giả xem xét những chỉ trích đối với các hành động đƣợc thực hiện bởi các cơ quan quản lý trong nỗ lực chuẩn hóa và nâng cao các thông lệ kế toán. Đặc biệt, tác giả tập trung vào sự phát triển của các phép đo GTHL. Từ khóa: Báo cáo tài chính; Định giá; Giá trị hợp lý. Abstract Historically, there have been many controversies in the field of corporate financial statements. However, one of the main points of contention between managers and researchers is the valuation of the financial statement components with a focus on promoting and opposing the fair value approach. The purpose of this article is to examine the formation and development of the method of pricing the most important elements in financial statements. The author provides a history of pricing the financial statement components and identifies the issues involved. Furthermore, the author examines criticisms of actions taken by regulators to standardize and improve accounting practices. In particular, the author focuses on the development of fair value measures. Keywords: Financial Reporting; Valuation; Fair value. 1. GIỚI THIỆU Hiện nay, kế toán theo GTHL với mục đích lập BCTC đang là vấn đề nổi cộm không chỉ ở Việt Nam mà còn ở nhiều quốc gia trên thế giới. Hội đồng Chuẩn mực Kế toán Tài chính (FASB) và Hội đồng Chuẩn mực Kế toán Quốc tế (IASB) đang xúc tiến các quy tắc làm tăng việc sử dụng các phép đo GTHL. Nhiều quốc gia đã và đang áp dụng tốt nguyên tắc GTHL trong kế toán, tuy nhiên cũng phát sinh một số bất cập. Ví dụ, sự sụp đổ của ngân hàng và sự sụp đổ của thị trƣờng dƣới chuẩn đƣợc quy cho kế toán GTHL (King, 2009). Năm 2008, Hiệp hội Ngân hàng Hoa Kỳ tuyên bố rằng cuộc khủng hoảng trên thị trƣờng tài chính ngày nay đã trở nên trầm trọng hơn do việc thực hiện kế toán GTHL (Hiệp hội Ngân hàng Hoa Kỳ, 2008). Quốc hội Hoa Kỳ thậm chí đã ra lệnh cho Ủy ban giao dịch và chứng khoán Hoa Kỳ (SEC) nghiên cứu xem kế toán theo giá thị trƣờng (hay còn gọi là GTHL) có giúp đẩy nhanh sự sụp đổ của hệ thống tài chính Hoa Kỳ hay không? Kể từ khi Pacioli hệ thống hóa sổ sách kế toán kép vào năm 1494, các kế toán viên và những ngƣời khác đã quan tâm đến các vấn đề xung quanh việc định giá các 358
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC KẾ TOÁN XANH TRONG XU THẾ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG thành phần BCTC. Pacioli đã hỗ trợ các thế hệ tƣơng lai bằng cách phát triển một hệ thống dành cho các thƣơng nhân Venice theo dõi và đánh giá các hoạt động của họ một cách tƣơng đối chính xác. Đó là những lựa chọn vốn có phải đƣợc thực hiện khi sử dụng mô hình kế toán của Pacioli gây tiếng vang trong cuộc tranh luận hiện nay. Bối cảnh đầu tƣ đã thay đổi khi thị trƣờng vốn đƣợc mở cửa cho đông đảo dân chúng sau Thế chiến thứ nhất. Đây là thời đại khai thác không giới hạn bất cứ thứ gì có khả năng bị khai thác. Do đó, không có gì đáng ngạc nhiên khi việc thao túng thị trƣờng vốn đã góp phần gây ra vụ sụp đổ khét tiếng thị trƣờng chứng khoán năm 1929. Cũng không có gì đáng ngạc nhiên khi các nhà đầu tƣ và chủ nợ liên tục cố gắng duy trì niềm tin vào thị trƣờng vốn. Bài báo này ngoài phần tóm tắt và giới thiệu, tác giả đi sâu nghiên cứu các vấn đề nhƣ: những quy định đầu tiên về kế toán; Khái niệm về định giá; Cơ sở lý luận về kế toán GTHL; Những phản đối về kế toán GTHL và Kết luận. 2. NỘI DUNG 2.1. Quy định đầu tiên về kế toán Sau sự sụp đổ của thị trƣờng chứng khoán vào năm 1929, Sở giao dịch chứng khoán New York đã tiếp cận Viện Kế toán Hoa Kỳ (AIA) để tìm kiếm sự hỗ trợ trong việc xây dựng các tiêu chuẩn mà các công ty niêm yết trên sàn giao dịch phải tuân thủ. Các nguyên tắc đƣợc điều chỉnh từ các khuyến nghị của công ty Bảo hiểm AIA sau này trở thành các Nguyên tắc kế toán đƣợc chấp nhận chung (GAAP) ở Hoa Kỳ. Một hậu quả khác của sự thất bại của thị trƣờng chứng khoán là việc thành lập Ủy ban Chứng khoán và Hối đoái (SEC). Việc thành lập cơ quan này vào năm 1934 đã khởi xƣớng sự giám sát và kiểm soát của chính phủ đối với thị trƣờng vốn. Mặc dù Quốc hội đã trao cho SEC trách nhiệm và quyền điều chỉnh bất kỳ và tất cả các khía cạnh kế toán cho các công ty niêm yết, nhƣng cơ quan này thƣờng miễn cƣỡng làm nhƣ vậy; Thay vào đó, SEC cho phép kế toán tự điều chỉnh. Các kế toán viên đáp ứng trách nhiệm tự quản đƣợc giao bằng cách thành lập một ủy ban: Ủy ban về Thủ tục Kế toán (CAP). Trong vài năm sau khi đƣợc thành lập, CAP đã làm rất ít để giải quyết các vấn đề về hình thành lý thuyết BCTC và tiêu chuẩn hóa BCTC. Năm 1938, SEC nhanh chóng nhận ra bất ổn này và đã đƣa ra tuyên bố yêu cầu tất cả các hồ sơ chính thức phải có ―sự hỗ trợ có thẩm quyền đáng kể‖. Tuyên bố này đã thúc đẩy CAP hành động. Họ sớm bắt đầu ban hành hƣớng dẫn dƣới dạng Bản tin Nghiên cứu Kế toán (ARB). Bởi vì ARB đƣợc ban hành trên cơ sở đặc biệt, nên chúng không giải quyết đƣợc nhiều vấn đề cơ bản (ví dụ: chiến lƣợc định giá tài sản nhƣng chƣa có hƣớng dẫn cụ thể). Trong trƣờng hợp không có một lý thuyết toàn diện để làm cơ sở cho chính sách, số lƣợng các phƣơng pháp đƣợc chấp nhận đã tăng lên với tốc độ đáng kể và cuối cùng cung cấp một số phƣơng tiện có thể chấp nhận đƣợc để giải quyết hầu hết các vấn đề. Điều này gây ra sự thiếu khả năng so sánh giữa các công ty do sự đa dạng của các phƣơng pháp xử lý kế toán có thể. CAP tiếp tục tồn tại trong hai mƣơi năm cho đến khi không thể duy trì hiện trạng này nữa. Do đó, vào năm 1959, Viện Kế toán Công chứng Hoa Kỳ (AICPA) đã giải tán CAP và thay thế bằng hai tổ chức riêng biệt: Ban Nguyên tắc Kế toán (APB) và Phòng Nghiên cứu Kế toán (ARD). Các tổ chức này chịu trách nhiệm giảm số 359
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC KẾ TOÁN XANH TRONG XU THẾ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG lƣợng các hoạt động kế toán đƣợc phép theo GAAP, mã hóa GAAP và cung cấp các giải pháp chủ động cho các vấn đề mới nổi. ARB và APD tiếp cận nhiệm vụ của họ bằng một chiến lƣợc gồm hai phần. Đầu tiên, họ sẽ phát triển một lý thuyết toàn diện về kế toán, tiếp theo là áp dụng một số nguyên tắc dựa trên lý thuyết đó. Đây là một kế hoạch xuất sắc về lý thuyết. Đến năm 1961, giai đoạn đầu tiên đã hoàn thành, bằng chứng là việc ban hành Nghiên cứu Kế toán (ARS) số 1, cung cấp một tập hợp các định đề sẽ tạo thành nền tảng cho các nguyên tắc kế toán tiếp theo. Những định đề này tƣơng đối tốt, không gây tranh cãi và phản ánh một quan điểm chung về tình trạng chính trị, kinh tế và xã hội học của kế toán. Tuy nhiên, khi ARD công bố nghiên cứu đồng hành với các định đề lý thuyết, nhiều phản ứng đã xảy ra. Việc phát hành ARS 3 vào năm 1962 có thể đƣợc coi là sự ra đời của kỷ nguyên kế toán hiện đại. Ngày nay, các nguyên tắc chứa đựng trong đó dƣờng nhƣ không đặc biệt cấp tiến, nhƣng nghiên cứu có chứa các điều khoản đặt câu hỏi về tính ƣu việt của chi phí lịch sử đối với việc định giá tài sản. Cụ thể, nghiên cứu khuyến nghị rằng bất kỳ thay đổi nào về giá trị của tài sản có thể đƣợc ―xác định một cách khách quan‖ đều phải đƣợc ghi nhận (Ban Nguyên tắc Kế toán, 1962). Các loại thay đổi bao gồm thay đổi về mức giá, thay đổi về chi phí thay thế và thay đổi do các nguyên nhân khác. Đã có phản ứng tiêu cực đối với đề xuất của ARD. Ngay cả cơ quan mẹ của nó, AICPA, đã phản hồi chính thức chỉ vài tháng sau khi ARS 3 đƣợc phát hành. Trong phản hồi của mình, hội đồng quản trị đã tuyên bố rằng ―mặc dù những nghiên cứu này là một đóng góp có giá trị cho tƣ duy kế toán, nhƣng chúng quá khác so với GAAP hiện tại để đƣợc chấp nhận vào thời điểm này‖ (Viện Kế toán Công chứng Hoa Kỳ, 1962). Việc gần nhƣ nhất trí bác bỏ các nguyên tắc đƣợc đề xuất, kết hợp với những sai lầm chính trị đã làm giảm đáng kể tầm quan trọng của APB và ARB. 2.2. Khái niệm về định giá Philips (1963) đã đƣa ra một quan điểm mới về định giá. Ông đã xem xét vấn đề xác định thu nhập và xác định năm phƣơng pháp riêng biệt để xác định thu nhập. Đƣợc trình bày dƣới dạng liên tục với tính khách quan và độ tin cậy ngày càng tăng, đồng thời giảm tính hợp lý của khái niệm mức độ liên quan, các khái niệm đƣợc liệt kê bao gồm (Philips 1963, 14): 1. Thu nhập tinh thần – Hoàn toàn chủ quan. Thu nhập là những gì cá nhân cảm nhận đƣợc. 2. Giá trị kinh tế hiện tại gia tăng – Giá trị hiện tại đã chiết khấu của các dòng tiền trong tƣơng lai. 3. Thu nhập bồi đắp – Sự gia tăng sức mạnh kinh tế đƣợc đo bằng những thay đổi trong giá trị thị trƣờng của tài sản. Đây là kế toán GTHL, còn đƣợc gọi là kế toán phù hợp với giá trị. 4. Thu nhập dồn tích – Thu nhập đƣợc xác định theo giao dịch. Ghi nhận doanh thu khi kiếm đƣợc và chi phí khi phát sinh để hỗ trợ doanh thu - Mô hình kế toán truyền thống. 5. Thu nhập tiền mặt – Khách quan nghiêm ngặt. Thu nhập đƣợc xác định bởi dòng tiền vào và dòng tiền ra. 360
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC KẾ TOÁN XANH TRONG XU THẾ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Phiên bản tiếp theo của lý thuyết kế toán đƣợc cung cấp bởi Hiệp hội Kế toán Hoa Kỳ (AAA). Năm 1964, AAA thành lập một ủy ban có nhiệm vụ phát triển ―một tuyên bố tích hợp về lý thuyết kế toán cơ bản.‖ Đƣợc phát hành hai năm sau đó, A Statement of Basic Accounting Theory (ASOBAT) thể hiện sự khác biệt đáng kể so với tƣ duy kế toán truyền thống ở một số cấp độ (Hiệp hội Kế toán Hoa Kỳ, 1966), bao gồm: 1. Nhấn mạnh truyền thông là mục đích chính của thông tin tài chính, 2. Nhấn mạnh tầm quan trọng của ngƣời sử dụng thông tin tài chính và cách thức sử dụng thông tin đƣợc cung cấp để đƣa ra quyết định, 3. Thừa nhận tầm quan trọng của kế toán và nhiệm vụ giám sát đƣợc giao cho kế toán do vai trò của họ trong việc duy trì hồ sơ và báo cáo kết quả của hoạt động kinh tế. 4. Thừa nhận vai trò kinh tế vĩ mô của kế toán đối với xã hội. Báo cáo của AAA khuyến nghị rằng bốn tiêu chuẩn đƣợc thông qua và tuân thủ khi phổ biến thông tin kế toán (Hiệp hội Kế toán Hoa Kỳ, 1966): tính phù hợp, tính có thể kiểm chứng, không thiên vị và tính định lƣợng. Mức độ liên quan cao nhất đƣợc xác định là mối liên hệ vốn có của nó với ngƣời sử dụng BCTC. Nhấn mạnh tính phù hợp là đặc điểm quan trọng nhất của thông tin kế toán, tính hữu ích của thông tin kế toán liên quan trực tiếp đến tính phù hợp của nó. Khả năng xác minh đƣợc đặt ở trạng thái thấp hơn ngụ ý rằng việc xác định mục tiêu số dƣ ít phù hợp với ngƣời dùng hơn so với mức độ phù hợp của các số dƣ đó. ASOBAT cực kỳ phù hợp với bất kỳ cuộc thảo luận nào về báo cáo GTHL, cả thông qua việc nhấn mạnh vào mức độ liên quan cũng nhƣ thông qua việc đƣa vào một đề xuất cho phép các thực thể cung cấp nhiều biện pháp đo lƣờng thông tin giao dịch. Đề xuất ―báo cáo kép‖ này đƣợc coi là một nỗ lực để chuyển đổi từ chi phí lịch sử sang thƣớc đo GTHL phù hợp hơn. Một số lo ngại đã đƣợc nêu ra liên quan đến ASOBAT, bao gồm cả những lời chỉ trích về giả định rằng những ngƣời lập BCTC trong ngành biết và hiểu những thông tin mà ngƣời dùng cần. Một lần nữa, sự phản đối gay gắt nhất tập trung vào việc sử dụng GTHL nhƣ một phƣơng pháp định giá tài sản. APB xung đột với SEC vào khoảng thời gian này. Điều này làm suy yếu nghiêm trọng khả năng thực hiện nhiệm vụ của APB. Những lo ngại lớn về BCTC nói chung và việc thiếu khuôn khổ rõ ràng để làm cơ sở cho chính sách đã góp phần vào việc thành lập hai ủy ban mới vào năm 1971: Ủy ban Trueblood và Ủy ban Wheat. Các ủy ban này đƣợc giao nhiệm vụ kép là thực hiện đánh giá toàn diện chính sách kế toán và đánh giá quy trình thiết lập các chuẩn mực. Ủy ban Trueblood, do Robert Trueblood làm chủ tịch, đã đƣa ra một báo cáo vào năm 1973 định lƣợng các mục tiêu cần đạt đƣợc trong BCTC. Phản ánh ASOBAT theo nhiều cách, báo cáo nhấn mạnh tính ƣu việt của việc cung cấp ―thông tin hữu ích cho ngƣời dùng trong việc đƣa ra các quyết định kinh tế‖ (Viện Kế toán Công chứng Hoa Kỳ, 1973, 281). Báo cáo trực tiếp đề cập đến vấn đề định giá tài sản, xác định rằng các mục tiêu trong báo cáo ―không thể đạt đƣợc bằng cách sử dụng một cơ sở định giá duy nhất nhƣ giá gốc‖. Ủy ban Wheat, dƣới sự hƣớng dẫn của Frances Wheat, đã phát triển hệ thống thiết lập tiêu chuẩn hiện tại bằng cách khuyến nghị rằng nên tạo ra một cấu trúc ba bên 361
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC KẾ TOÁN XANH TRONG XU THẾ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG để tạo ra và thực hiện các tiêu chuẩn tài chính. Tác nhân chính trong cấu trúc này là Hội đồng Tiêu chuẩn Kế toán Tài chính (FASB) đƣợc thành lập vào tháng 7 năm 1973 và APB đã bị giải tán. Cuộc tranh luận về định giá tài sản vẫn tiếp tục dƣới thời FASB, bắt đầu với việc ban hành Tuyên bố về Khái niệm Kế toán Tài chính (SFAC) số 5 vào năm 1984. Tuyên bố này, có tựa đề ―Ghi nhận và Đo lƣờng trong BCTC của Doanh nghiệp Kinh doanh‖ đã cung cấp hƣớng dẫn về cả hai tiêu chí ghi nhận và cách thức mà các mặt hàng nên đƣợc định giá. SFAC 5 đã liệt kê năm phƣơng pháp định giá thay thế (FASB, 1984): (1) giá gốc, (2) giá hiện tại, (3) giá trị thị trƣờng hiện tại, (4) giá trị thuần có thể thực hiện đƣợc và (5) giá trị hiện tại (giá trị thời gian của tiền). FASB không bày tỏ ƣu tiên cụ thể nào đối với bất kỳ phƣơng án thay thế sẵn có nào để định giá với niềm tin rằng mỗi phƣơng pháp đều phù hợp tùy thuộc vào hoàn cảnh. Thay vì đƣa ra những thay đổi cơ bản vào mô hình kế toán, FASB đã chọn đƣa ra tuyên bố trong khi tránh thực hiện ngay lập tức các khái niệm có trong đó. SFAC 5 là một trong những tập hợp các tuyên bố đƣợc thiết kế để tạo ra nền tảng khái niệm mong muốn từ lâu mà tất cả các chính sách trong tƣơng lai có thể dựa vào đó. Việc đƣa các biện pháp đánh giá khác nhau vào khuôn khổ khái niệm này đã cung cấp cho tổ chức phƣơng tiện và sự biện minh cho các hành động sau này của mình trong lĩnh vực kế toán tài chính gây tranh cãi này. FASB đã nhiều lần quay lại chủ đề định giá tài sản, cụ thể là trong các Báo cáo Chuẩn mực Kế toán Tài chính (SFAS) số 87, 105, 107, 115, 119, 121, 123, 123R, 133, 157 và 159. Trong các báo cáo này, các tiêu chuẩn tài chính đã nâng cao dần dần và có hệ thống. Việc sử dụng các phƣơng pháp định giá cung cấp thƣớc đo giá trị phù hợp hơn so với phƣơng pháp đƣợc cung cấp bởi giá gốc. Những thay đổi này đã không xảy ra một cách tự nhiên và tổ chức đã phải chịu nhiều chỉ trích khi các vấn đề đã đƣợc tranh luận và thực hiện. 2.3. Cơ sở lý luận về kế toán giá trị hợp lý Điểm mấu chốt của ―kế toán GTHL‖ bao gồm: (1) ghi nhận tài sản và nợ phải trả, (2) coi thu nhập là phần còn lại và (3) kỳ vọng giá trị trên bảng cân đối kế toán tổng hợp đƣợc ghi nhận theo giá trị thị trƣờng. Cần lƣu ý rằng kế toán chi phí lịch sử không đối lập với kế toán GTHL. Jones (1988) phân tích các vấn đề liên quan đến giá gốc so với GTHL trong kế toán các công cụ tài chính. Jones nói rằng sự đa dạng của các công cụ tài chính đã tăng lên đáng kể trong những năm trƣớc và cùng với sự tăng trƣởng đó là các vấn đề về định giá. Ông chỉ ra rằng chi phí lịch sử không còn nữa (Jones, 1988, 56). Ông gợi ý hai vấn đề cơ bản phổ biến đối với nhiều giao dịch công cụ tài chính khác nhau (Jones, 1988, 58): (1) liệu các giao dịch có nên đƣợc xử lý bằng kỹ thuật kế toán bán hàng hay không hoặc liệu cách xử lý đi vay có phù hợp hơn khi tài sản tài chính đƣợc chuyển đổi thành tiền mặt và (2) liệu một số khoản nợ tài chính nhất định có nên đƣợc coi là đã thanh toán hoặc xóa bỏ trong một số trƣờng hợp nhất định hay không. Khi xử lý các tài sản tài chính, mô hình hiện tại vào thời điểm đó đã mang lại cho các công ty cơ hội cấu trúc và hạch toán các giao dịch theo cách có thể dễ dàng quản lý thu nhập mà vẫn tuân thủ GAAP. Ví dụ: các giao dịch tƣơng tự có thể đƣợc 362
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC KẾ TOÁN XANH TRONG XU THẾ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG báo cáo là một khoản vay nếu kế toán bán hàng cho thấy lỗ, nhƣng đƣợc báo cáo là bán hàng nếu nó dẫn đến lãi (hoặc nếu đã có khoản nợ quá mức đƣợc báo cáo trên bảng cân đối kế toán). Kế toán GTHL có thể loại bỏ một số động lực của các nhà quản lý, những ngƣời có thể lợi dụng những điểm không nhất quán này. Một số vấn đề liên quan trực tiếp đến báo cáo GTHL, bao gồm sự công nhận, mức độ liên quan và đo lƣờng. Liên quan đến sự ghi nhận, sự phát triển của thị trƣờng vốn giúp các công ty có thể ghi nhận các sự kiện kinh tế (nghĩa là GTHL liên quan đến các công cụ tài chính) trong BCTC của họ. Vấn đề liên quan nên đƣợc xem xét trong bối cảnh của ý định quản lý. Ví dụ: nếu ban quản lý nắm giữ các công cụ tài chính vì lợi tức của chúng, thì chi phí khấu hao là phù hợp nhất. Tuy nhiên, nếu mục đích của ban quản lý là nắm giữ các công cụ tài chính để tăng giá trị tiềm năng, thì GTHL sẽ phù hợp nhất. Khả năng đo lƣờng trở thành một vấn đề lớn, đặc biệt khi định giá các mặt hàng không đƣợc giao dịch hoặc báo giá tích cực trên bất kỳ sàn giao dịch nào. Việc định giá nhƣ vậy có thể tạo ra những khó khăn về tính nhất quán giữa các loại tài sản khác nhau. 2.4. Sáng kiến FASB liên quan đến kế toán giá trị hợp lý Nhiều dự đoán của Jones (1988) cuối cùng đã đƣợc thực hiện với việc FASB ban hành SFAS 115, Kế toán cho một số khoản đầu tƣ vào nợ và chứng khoán vốn. Đƣợc xây dựng và ban hành với nghĩa hẹp, tuyên bố cung cấp hƣớng dẫn về việc định giá ―các khoản đầu tƣ vào chứng khoán vốn có GTHL có thể dễ dàng xác định và cho tất cả các khoản đầu tƣ vào chứng khoán nợ‖ (FASB, 1993). FASB đã nhận thức đƣợc mối quan hệ giữa định giá và ý định quản lý, bằng chứng là các công ty phải tuyên bố ý định của họ đối với các công cụ đầu tƣ. Sự khác biệt này cung cấp phƣơng tiện để phân biệt giữa các phƣơng pháp định giá. Theo yêu cầu của SFAS 115, các chứng khoán nợ đƣợc ―giữ đến ngày đáo hạn‖ phải đƣợc báo cáo theo giá khấu hao. Các khoản đầu tƣ nợ và vốn chủ sở hữu với giá trị thị trƣờng có thể xác định dễ dàng đƣợc chỉ định là "giao dịch", đƣợc báo cáo theo GTHL và mọi khoản lãi hoặc lỗ không đƣợc ghi nhận đều đƣợc tính vào thu nhập. Những khoản đầu tƣ không đƣợc chỉ định vào một trong các danh mục đƣợc liệt kê ở trên đƣợc coi là ―sẵn sàng để bán‖. Các khoản đầu tƣ thuộc loại này cũng đƣợc báo cáo theo GTHL, nhƣng bất kỳ khoản lãi hoặc lỗ nào không đƣợc ghi nhận đều đƣợc báo cáo nhƣ một thành phần riêng biệt của vốn cổ đông. Bởi vì FASB nhận thức đƣợc khả năng quản lý thu nhập và thao túng mức độ rủi ro mà nhà đầu tƣ nhận thức đƣợc trong danh mục đầu tƣ của công ty, nên tuyên bố yêu cầu công ty phải có khả năng và ý định tích cực để nắm giữ khoản đầu tƣ đến hạn trƣớc khi nó có thể đƣợc chỉ định nhƣ vậy. Bất kỳ chuyển nhƣợng nào giữa các danh mục sẽ đƣợc hạch toán là bán và mua lại theo GTHL. Tuyên bố cũng đƣa ra hƣớng dẫn cụ thể về việc xác định các ý định tích cực. Phản ứng với SFAS 115 là hai chiều. Những ngƣời ủng hộ định giá theo chi phí lịch sử đã thất vọng vì sự khác biệt so với truyền thống, trong khi những ngƣời ủng hộ GTHL thất vọng vì tuyên bố này không đi đủ xa. Tuy nhiên, nói chung, SFAS 115 đã đƣợc nhìn thấy đúng với bản chất của nó; một câu trả lời chính thức cho mối quan tâm thực sự về cách chứng khoán đƣợc định giá và báo cáo. Một số câu hỏi chƣa đƣợc giải 363
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC KẾ TOÁN XANH TRONG XU THẾ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG quyết, ch ng hạn nhƣ việc báo cáo một số hoặc tất cả các khoản nợ phải trả theo GTHL và các nghĩa vụ ngoại bảng. Tuy nhiên, đây là cách tiếp cận gia tăng ƣa thích của FASB để thực hiện báo cáo GTHL. Theo gợi ý của Parks (1993, 52), SFAS 115 ―rõ ràng là một sự thỏa hiệp và tiến hóa hơn là cách mạng.‖ Vào giữa những năm 1990, FASB đã ban hành một số tuyên bố liên quan đến cuộc thảo luận này, bao gồm: SFAS 119 (Tiết lộ về Công cụ Tài chính Phái sinh và GTHL của Công cụ Tài chính); 121 (Kế toán suy giảm giá trị tài sản dài hạn và tài sản dài hạn đƣợc thanh lý); và 123 (Kế toán bồi thƣờng dựa trên cổ phiếu). SFAS 119 và SFAS 121 đã đƣợc thay thế và SFAS 123 đã đƣợc sửa đổi đáng kể khi FASB tiếp tục tinh chỉnh các ý định của mình. Sự tiến bộ tƣơng đối nhanh chóng của các phƣơng pháp GTHL và việc ban hành hƣớng dẫn chính thức, kết hợp với tốc độ sửa đổi và chuyển nhƣợng nhanh không kém, là dấu hiệu cho thấy cƣờng độ của cuộc tranh luận trong khung thời gian này. Barth và Landsman (1995) đã góp phần vào cuộc tranh luận này bằng cách trả lời Biên bản thảo luận của FASB về "Việc ghi nhận và đo lƣờng các công cụ tài chính" và "Phân biệt giữa các công cụ nợ và công cụ vốn chủ sở hữu" và đề cập đến một số vấn đề cơ bản xung quanh chủ đề GTHL. Họ, ―giả định rằng các GTHL có liên quan về mặt khái niệm đối với ngƣời sử dụng BCTC trong việc đánh giá giá trị công ty và xác định một khoản mục BCTC có liên quan đến giá trị nếu thông tin mà nó phản ánh giúp ngƣời sử dụng BCTC đánh giá giá trị công ty.‖ FASB đã định nghĩa GTHL của một công cụ tài chính là ―số tiền mà công cụ đó có thể đƣợc trao đổi trong một giao dịch hiện tại giữa các bên sẵn sàng, không phải trong một vụ bán bắt buộc hoặc thanh lý‖ (FASB, 1991). Barth và Landsman cho rằng định nghĩa này quá hạn chế, bởi vì GTHL không đƣợc xác định rõ ràng trong các thị trƣờng không hoàn hảo hoặc không đầy đủ. Họ quy định rằng có ba thƣớc đo GTHL chính: (1) giá trị đầu vào - giá mua hoặc nếu mức giá thay đổi, chi phí thay thế của tài sản, (2) Giá trị rút lui- Giá mà tài sản có thể đƣợc bán, và (3) giá trị sử dụng - giá trị gia tăng mà tài sản mang lại cho công ty. Theo Barth và Landsman, quan điểm của FASB nên tập trung vào giá trị thu hồi, bởi vì mối quan tâm chính của họ là ―BCTC về tài sản hiện có của công ty chứ không phải tài sản sẽ đƣợc mua lại‖ (Barth và Lansman, 1995, 103). Vì vậy, định nghĩa của họ về GTHL nên đƣợc giải thích từ quan điểm của ngƣời bán (tức là giá trị thu hồi). Giá trị sử dụng là biểu thị của kỹ năng quản lý và kỹ năng đó có thể đƣợc định lƣợng là sự khác biệt giữa giá trị sử dụng và giá trị thu hồi. Do tính chất chủ quan của giá trị sử dụng, số liệu nhƣ vậy sẽ khó thực hiện do cần phải kết hợp thông tin độc quyền. Vì vậy, việc định giá đầu ra hoặc đầu vào có thể phù hợp, tùy thuộc vào hoàn cảnh. Khả năng xảy ra sai sót đáng kể do sự không chắc chắn hoặc quyền quyết định trọng yếu đƣa ra lập luận phản bác lại kế toán GTHL. Những ngƣời ủng hộ cho rằng kế toán GTHL, theo định nghĩa, làm giảm khả năng quản lý thu nhập của nhà quản lý. Tuy nhiên, việc thao túng các giá trị đƣợc báo cáo, dù cố ý hay bằng cách sử dụng thông tin nội bộ để trục lợi, có thể dẫn đến hậu quả mà kế toán GTHL đƣợc thiết kế để 364
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC KẾ TOÁN XANH TRONG XU THẾ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG loại bỏ. Các nhà quản lý có thể có động lực để ghi nhận các khoản lãi hoặc lỗ trên cơ sở có chọn lọc nhằm thao túng các đánh giá của ngƣời sử dụng BCTC. Landsman (2007) đề cập đến vấn đề thao túng giá trị và lƣu ý rằng yêu cầu dựa vào các ƣớc tính của ban quản lý để định giá tài sản và nợ phải trả dẫn đến vấn đề thông tin bất đối xứng. Thông tin bất đối xứng sẽ phát sinh, ―bất cứ khi nào các nhà quản lý có toàn quyền quyết định về thời gian hoặc mức độ điều chỉnh phi thị trƣờng đối với số tiền phát sinh từ các giao dịch trong quá khứ‖ (Landsman, 2007, 26). Thông tin bất đối xứng nhƣ vậy tạo ra hai vấn đề khác biệt: rủi ro đạo đức và lựa chọn đối nghịch. Rủi ro đạo đức sẽ xảy ra khi các nhà quản lý kiếm lợi bằng cách sử dụng thông tin cá nhân của họ để thao túng thông tin mà họ tiết lộ. Hơn nữa, lựa chọn bất lợi ngụ ý rằng thị trƣờng sẽ xem các công cụ tƣơng tự đƣợc nắm giữ bởi các thực thể khác nhau, mặc dù giá trị thực tế của chúng khác nhau đáng kể. Mặc dù sự giám sát chặt chẽ mà các công ty phải chịu có tác dụng giữ cho các công ty và các nhà quản lý của họ trung thực. Một biện pháp đối phó hiệu quả đối với vấn đề đo lƣờng ƣớc tính là yêu cầu công khai các giả định cơ bản đƣợc sử dụng khi ƣớc tính GTHL. Barth (2006) đóng góp vào cuộc tranh luận với tƣ cách là thành viên của Ủy ban Chuẩn mực Kế toán Quốc tế (IASB). Barth giải quyết câu hỏi về kế toán GTHL trong bối cảnh các ƣớc tính về dòng tiền trong tƣơng lai trên BCTC của một đơn vị. Barth cho rằng có nhiều thƣớc đo để định giá công cụ tài chính, thừa nhận rằng việc sử dụng nhƣ vậy ―không chỉ không hấp dẫn về mặt khái niệm mà còn gây khó khăn cho ngƣời sử dụng BCTC‖ (Barth, 2006, 274). Sử dụng các biện pháp khác nhau tạo cơ hội cho các sự kiện kinh tế tƣơng tự đƣợc trình bày theo những cách rất khác nhau. Việc sử dụng một thuộc tính đo lƣờng duy nhất làm giảm bớt nhiều khó khăn liên quan đến việc sử dụng nhiều thuộc tính đo lƣờng hiện tại. Barth tuyên bố, ―Kế toán GTHL là cách tiếp cận toàn diện và nhất quán nội bộ duy nhất‖ (Barth, 2006, 274). Việc sử dụng các thƣớc đo GTHL cung cấp các đặc điểm định tính về mức độ phù hợp, khả năng so sánh, tính nhất quán và tính kịp thời cần thiết cho việc lập BCTC. GTHL phản ánh chính xác các điều kiện thị trƣờng hiện tại, là điều kiện mà hầu hết các nhà đầu tƣ sẽ sử dụng thông tin đó. Việc sử dụng GTHL có thể so sánh đƣợc vì giá trị của một công cụ phụ thuộc vào chính công cụ đó, thay vì trong bối cảnh của đơn vị sở hữu nó. GTHL nhất quán vì nó phản ánh cùng một thông tin tƣơng đối từ kỳ này sang kỳ khác. Cuối cùng, GTHL mang tính kịp thời vì nó mô tả chính xác tác động của các sự kiện kinh tế đối với một thực thể theo thời gian. Vào thời điểm 2006-2007, FASB đã phát hành SFASs 157 (Đo lƣờng GTHL) và 159 (Quyền chọn GTHL cho tài sản tài chính và nợ phải trả tài chính). Mục đích của các tiêu chuẩn này là để ―tăng cƣờng tính nhất quán và khả năng so sánh trong các phép đo GTHL và để công bố thông tin mở rộng về các phép đo GTHL‖ (FASB, 2006) và ―để cải thiện BCTC bằng cách giảm sự biến động trong thu nhập đƣợc báo cáo do đo lƣờng các tài sản và nợ phải trả khác nhau‖ (FASB, 2007). Do đó, cả hai báo cáo đều cải thiện tính nhất quán và khả năng so sánh, đồng thời tăng cƣờng sử dụng kế toán GTHL. Việc tăng cƣờng sử dụng báo cáo GTHL phù hợp với các mục tiêu dài hạn 365
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC KẾ TOÁN XANH TRONG XU THẾ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG của FASB. Với hƣớng dẫn mới này, FASB đã mở rộng danh sách các mục BCTC có thể đƣợc định giá theo GTHL để bao gồm: 1. Các khoản cho vay, phải thu, phải trả 2. Đầu tƣ vào chứng khoán vốn 3. Quyền và nghĩa vụ theo hợp đồng bảo hiểm 4. Quyền và nghĩa vụ liên quan đến hợp đồng bảo hành 5. Công cụ tài chính lƣu trữ tách biệt với các công cụ phái sinh đi kèm 6. Cam kết chắc chắn liên quan đến công cụ tài chính 7. Văn bản cam kết cho vay Cần lƣu ý rằng nhiều lo ngại do Landsman (2007) nêu ra liên quan đến công bố thông tin đã đƣợc giải quyết trong các báo cáo sao cho ―ngƣời sử dụng BCTC sẽ có thể hiểu rõ mức độ sử dụng quyền chọn (GTHL) và cách thức những thay đổi về GTHL đang đƣợc phản ánh trong BCTC‖ (Ratcliffe, 2007, 59). 2.5. Những phản đối gần đây đối với kế toán giá trị hợp lý Bên cạnh những ngƣời ủng hộ việc áp dụng thƣớc đo GTHL, nhiều ngƣời có tầm ảnh hƣởng lớn lại phản đối điều này. Holthausen và Watts (2001) xác định một số vấn đề làm suy yếu các lập luận ủng hộ GTHL. Đầu tiên, họ cho rằng kế toán phù hợp với giá trị không cung cấp khả năng dự đoán và giải thích cần thiết cho thông tin kế toán. Thứ hai, các thƣớc đo liên quan đến giá trị, ―bỏ qua một số yếu tố mà FASB tuyên bố là quan trọng để đánh giá xem thông tin có hữu ích hay không và bao gồm một số yếu tố trái ngƣợc với các tuyên bố của FASB‖ (Holthausen và Watts, 2001, 13). Cuối cùng, họ cho rằng những ngƣời ủng hộ GTHL giả định rằng các nhà đầu tƣ vốn cổ phần là những ngƣời sử dụng BCTC chính và điều này bị các tuyên bố của FASB bác bỏ. Thật vậy, FASB chƣa bao giờ tuyên bố rằng mục đích của kế toán là cung cấp các ƣớc tính trực tiếp về giá trị. McCarthy (2004) gợi ý rằng động lực thúc đẩy kế toán GTHL của FASB dựa trên sự thiên vị cố hữu có lợi cho các công ty kế toán quốc tế. Ông cho rằng phong trào của FASB hƣớng tới các nguyên tắc kế toán GTHL là thiên về mong muốn tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế, qua đó phục vụ Big Four. Ông tin rằng, ―độ tin cậy do BCTC lịch sử mang lại vô cùng có giá trị đối với đại đa số ngƣời sử dụng BCTC so với sự tích lũy tập thể các xác suất thống kê do GTHL mang lại‖ (McCarthy, 2004, 18). Ông gợi ý rằng việc thay thế kế toán giá gốc bằng kế toán GTHL sẽ khiến khái niệm khách quan biến mất trong kế toán. Flegm (2005) tranh luận về việc định giá dựa trên chi phí lịch sử vì tính khách quan vốn có của các phép đo nhƣ vậy. Những gian lận lớn nhất gần đây trong lịch sử quản lý đã đƣợc ―kích hoạt‖ bằng cách chuyển sang kế toán GTHL. Ví dụ, nhiều tuyên bố định giá quá cao của Enron là do ƣớc tính GTHL (Benston, 2006). Flegm lý do rằng một tỷ lệ phần trăm nhất định của nhà quản lý là phi đạo đức và tham lam. Họ sẽ lợi dụng tính chủ quan mà kế toán GTHL mang lại. Cần giảm tính chủ quan trong kế toán để tránh hành vi này. Định giá dựa trên chi phí lịch sử là khách quan, đã vƣợt qua thử thách của thời gian và cung cấp cơ sở vững chắc để kiểm toán viên đƣa ra ý kiến. 3. KẾT LUẬN 366
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC KẾ TOÁN XANH TRONG XU THẾ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Có rất nhiều vấn đề xung quanh kế toán GTHL. Các tập đoàn công nghiệp của Hoa Kỳ đang gây áp lực buộc SEC và FASB phải thay đổi đáng kể hoặc đình chỉ quy tắc kế toán, nói rằng nó đang làm suy yếu nỗ lực trị giá hàng tỷ đô la của chính phủ nhằm ổn định lĩnh vực tài chính của đất nƣớc. Kế toán GTHL đang bị đổ lỗi cho việc buộc các ngân hàng phải ghi giảm hàng tỷ đô la và góp phần vào sự sụp đổ của thị trƣờng vốn. Một tiểu ban Dịch vụ Tài chính của Hạ viện Hoa Kỳ đã tổ chức một phiên điều trần về các quy tắc kế toán theo giá thị trƣờng và kế toán theo GTHL. Kết quả của tiểu ban này là Đạo luật Ổn định Kinh tế Khẩn cấp năm 2009. Sau đó, SEC đã nghiên cứu các tiêu chuẩn kế toán có liên quan và khuyến nghị rằng các yêu cầu về GTHL hiện tại cần đƣợc sửa đổi để cải thiện việc áp dụng và thực hành có liên quan. Đặc biệt, SEC tuyên bố rằng hƣớng dẫn là cần thiết để ―xác định GTHL trong các thị trƣờng kém thanh khoản hoặc không hoạt động‖. FASB đã cung cấp hƣớng dẫn này bằng cách ban hành bốn hƣớng dẫn. Mới nhất là hƣớng dẫn Số FAS 157-4 (FASB, 2009) nêu rõ rằng mục tiêu đo lƣờng GTHL không thay đổi mặc dù thị trƣờng đã chứng kiến khối lƣợng giảm và gián đoạn đáng kể. GTHL là giá của một tài sản hoặc nợ phải trả trong một giao dịch có trật tự. Đây không nhất thiết phải là giá giao dịch mới nhất và không phải là giá trong trƣờng hợp thanh lý bắt buộc hoặc bán tháo. FASB đã đƣa ra quan điểm rằng mục đích của các hành động gần đây của họ là cải thiện tình trạng chung của BCTC; không phải là một phản ứng đối với áp lực chính trị hoặc là một phƣơng tiện để đạt đƣợc một kết quả kế toán cụ thể. Có thể có những lập luận xác đáng đến từ những lập luận phản đối kế toán GTHL, nhƣng thực tế là báo cáo GTHL vẫn tồn tại dƣới hình thức này hay hình thức khác và sẽ đƣợc mở rộng hơn nữa. FASB đang từng bƣớc hƣớng tới giá trị thị trƣờng hợp lý, nếu không vì lý do nào khác ngoài việc nâng cao khả năng so sánh với các tiêu chuẩn quốc tế. Khi sự khác biệt giữa GAAP của Hoa Kỳ và các tiêu chuẩn quốc tế tiếp tục thu hẹp, việc sử dụng GTHL có thể sẽ tiếp tục mở rộng. 4. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Accounting Principles Board (1962). Accounting Research Study (ARS) No. 3: A Tentative Set of Broad Accounting Principles for Business Enterprises. (Accounting Principles Board). 2. American Accounting Association (1966). A Statement of Basic Accounting Theory. Evanston, IL, American Accounting Association. 3. American Institute of Certified Public Accountants (1962). Accounting principles board comments on broad principles, ‟Journal of Accountancy: 113 (5): 9-10. 4. Barth, M. E (2006). Including estimates of the future in today's financial statements. Accounting Horizons 20 (3): 271-285. 5. Flegm, E. H (2005). On solving the problem, not being it. The CPA Journal 75 (2): 12-14. 6. Jones, J. C (1988). Financial instruments: Historical cost v. fair value. The CPA Journal 58 (8): 56-63. 7. King, A. M (2009). Determining fair value. Strategic Finance 90 (7): 27-32. 367
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC KẾ TOÁN XANH TRONG XU THẾ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG 8. Landsman, W. R (2007). Is fair value accounting information relevant and reliable? Evidence from capital market research. Accounting and Business Research 37 (3): 19- 30. 9. McCarthy, P. D (2004). Unnecessary complexity in accounting principles. The CPA Journal 74 (3): 18-19. 10. Parks, J. T (1993). FASB 115: It's back to the future for market value accounting. Journal of Accountancy 176 (3): 49-56. 11. Philips, G. E., (1963). The accretion concept of income. The Accounting Review 38 (1): 14. 368
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI DỊCH VỤ
19 p | 1089 | 360
-
Giảm giá trị về Lợi thế thương mại: Đánh giá theo Chuẩn mực Kế toán HKAS 36 Phần 1
12 p | 185 | 33
-
Giáo trình Luật kinh tế (Nghề: Kế toán doanh nghiệp - Trung cấp) - Trường Cao đẳng Cơ giới (2022)
91 p | 23 | 9
-
Giáo trình Luật kinh tế (Nghề: Kế toán doanh nghiệp - Cao đẳng) - Trường Cao đẳng Cơ giới Ninh Bình (2021)
61 p | 11 | 7
-
Giáo trình về môn Hình thành và phát triển của quá trình kiểm kê kế toán cùng với sự phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần p3
0 p | 82 | 6
-
Giáo trình Luật Kinh tế (Nghề Kế toán doanh nghiệp - Trình độ Trung cấp) - CĐ GTVT Trung ương I
56 p | 31 | 5
-
Giáo trình Luật kinh tế (Nghề: Kế toán doanh nghiệp - Cao đẳng) - Trường Cao đẳng nghề Hà Nam
75 p | 21 | 5
-
Giáo trình Luật Kinh tế (Nghề: Kế toán doanh nghiệp - Trung cấp) - Trường Trung cấp Công nghệ và Du lịch Hà Nội
100 p | 16 | 5
-
Giáo trình Luật kinh tế (Ngành: Kế toán doanh nghiệp - Cao đẳng) - Trường Cao đẳng nghề Ninh Thuận
73 p | 9 | 3
-
Tác động của hiệu quả quản trị và hành chính công tới năng lực cạnh tranh cấp tỉnh – Nghiên cứu đối với các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa
16 p | 6 | 2
-
Trao đổi về ứng dụng Microsoft Excel trong giảng dạy chuyên ngành kế toán
12 p | 5 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn