intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Các yếu tố thuận lợi và khó khăn khi triển khai kế hoạch kiểm định chất lượng giáo dục đại học giai đoạn 2017-2020

Chia sẻ: Comam1902 Comam1902 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:10

465
lượt xem
20
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết này phân tích các yếu tố thuận lợi và khó khăn đối với hệ thống đảm bảo và kiểm định chất lượng giáo dục đại học Việt Nam khi thực hiện Kế hoạch số 118/KHBGDĐT ngày 23/02/2017 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về triển khai công tác kiểm định chất lượng giáo dục đối với cơ sở giáo dục đại học, trường cao đẳng sư phạm và trung cấp sư phạm năm 2017. Từ đó, bài viết đề xuất một số giải pháp để thực hiện kế hoạch này một cách hiệu quả.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Các yếu tố thuận lợi và khó khăn khi triển khai kế hoạch kiểm định chất lượng giáo dục đại học giai đoạn 2017-2020

HNUE JOURNAL OF SCIENCE<br /> Educational Sciences, 2018, Vol. 63, Iss. 2, pp. 17-26<br /> This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn<br /> <br /> DOI: 10.18173/2354-1075.2018-0002<br /> <br /> CÁC YẾU TỐ THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN KHI TRIỂN KHAI KẾ HOẠCH KIỂM<br /> ĐỊNH CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC ĐẠI HỌC GIAI ĐOẠN 2017-2020<br /> <br /> Nguyễn Hữu Cương<br /> Khoa Giáo dục, Trường Đại học New South Wales, Australia<br /> Tóm tắt. Bài viết này phân tích các yếu tố thuận lợi và khó khăn đối với hệ thống đảm bảo<br /> và kiểm định chất lượng giáo dục đại học Việt Nam khi thực hiện Kế hoạch số 118/KHBGDĐT ngày 23/02/2017 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về triển khai công tác kiểm định chất<br /> lượng giáo dục đối với cơ sở giáo dục đại học, trường cao đẳng sư phạm và trung cấp sư<br /> phạm năm 2017. Từ đó, bài viết đề xuất một số giải pháp để thực hiện kế hoạch này một<br /> cách hiệu quả.<br /> Từ khóa: Kiểm định chất lượng, giáo dục đại học, kế hoạch, thuận lợi, khó khăn, giải pháp.<br /> <br /> 1. Mở đầu<br /> Ngày 23/02/2017, Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Kế hoạch về triển khai công tác kiểm<br /> định chất lượng giáo dục đối với cơ sở giáo dục đại học, trường cao đẳng sư phạm và trung cấp<br /> sư phạm năm 2017 (Kế hoạch số 118/KH-BGDĐT ngày 23/02/2017) [4]. Ngay sau khi kế hoạch<br /> này được công bố, đã có nhiều ý kiến băn khoăn về tính khả thi, lộ trình và tiến độ thực hiện Kế<br /> hoạch, đặc biệt là mục tiêu cho đến hết năm 2020 sẽ kiểm định xong tất cả các trường đại học đủ<br /> điều kiện (đã có 01 khóa người học tốt nghiệp) và 10% chương trình đào tạo. Đây là một trong ba<br /> mục tiêu cụ thể của Kế hoạch kiểm định. Bài viết này sẽ phân tích các yếu tố thuận lợi và khó<br /> khăn của hệ thống kiểm định chất lượng giáo dục đại học Việt Nam liên quan đến Kế hoạch kiểm<br /> định chất lượng 2017. Từ đó, bài viết đề xuất một số giải pháp để thực hiện mục tiêu quan trọng này.<br /> <br /> 2. Nội dung nghiên cứu<br /> 2.1. Khát quát về hệ thống kiểm định chất lượng giáo dục đại học Việt Nam<br /> Kiểm định chất lượng giáo dục đại học Việt Nam được chính thức triển khai ở cấp hệ thống<br /> vào năm 2003 khi Cục Khảo thí và Kiểm định chất lượng giáo dục (hiện nay là Cục Quản lí chất<br /> lượng), đơn vị thực hiện chức năng quản lí nhà nước về công tác đảm bảo và kiểm định chất<br /> lượng giáo dục thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo được thành lập. Sau những năm đầu thí điểm, hệ<br /> thống kiểm định chất lượng giáo dục đại học Việt Nam đã được thiết lập, bao gồm: cơ quan quản<br /> lí nhà nước về kiểm định chất lượng (Cục Quản lí chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo), các<br /> trung tâm kiểm định chất lượng và các cơ sở giáo dục đại học. Theo quy định, kiểm định chất<br /> Ngày nhận bài: 05/10/2017. Ngày chỉnh sửa: 07/11/2017. Ngày nhận đăng: 12/11/2017.<br /> Tác giả liên hệ: Nguyễn Hữu Cương, e-mail: cuongnh29@gmail.com<br /> <br /> 17<br /> <br /> Nguyễn Hữu Cương<br /> <br /> lượng ở Việt Nam là bắt buộc đối với tất cả các cơ sở giáo dục đại học và chương trình đào tạo.<br /> Hiện tại, Quy trình và chu kỳ kiểm định chất lượng trường đại học được thực hiện theo Thông<br /> tư số 62/2012/TT-BGDĐT ngày 28/12/2012 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo. Quy trình<br /> kiểm định chất lượng gồm 4 bước chính như sau: 1) Cơ sở giáo dục tiến hành tự đánh giá; 2) Cơ<br /> sở giáo dục đăng ký đánh giá ngoài với một tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục và đề nghị xem<br /> xét công nhận đạt tiêu chuẩn chất lượng giáo dục; 3) Tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục tiến<br /> hành đánh giá ngoài; 4) Tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục thẩm định, công nhận hoặc không<br /> công nhận cơ sở giáo dục đạt tiêu chuẩn chất lượng giáo dục [1]. Bộ tiêu chuẩn hiện hành để<br /> kiểm định chất lượng trường đại học gồm 10 tiêu chuẩn và 61 tiêu chí được ban hành theo Quyết<br /> định số 65/2007/QĐ-BGDĐT ngày 01/11/2007 và Thông tư số 37/2012/TT-BGDĐT ngày<br /> 30/11/2012 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo) [3]. Mỗi tiêu chí trong bộ tiêu chuẩn này sẽ<br /> được đánh giá là “Đạt” hoặc “Chưa đạt”. Để được công nhận đạt tiêu chuẩn chất lượng, cơ sở<br /> giáo dục phải có ít nhất 80% số tiêu chí đạt yêu cầu, trong đó mỗi tiêu chuẩn có ít nhất một tiêu<br /> chí đạt yêu cầu. Tuy nhiên, ngày 19/5/2017, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành một<br /> bộ tiêu chuẩn đánh giá chất lượng cơ sở giáo dục đại học mới với 25 tiêu chuẩn và 111 tiêu chí<br /> (Thông tư số 12/2017/TT-BGDĐT ban hành Quy định về kiểm định chất lượng cơ sở giáo dục<br /> đại học). Việc kiểm định chất lượng các trường đại học Việt Nam từ năm 2018 sẽ được thực hiện<br /> theo quy định này [4,5]. Sự thay đổi này có thể sẽ gây ra một số khó khăn bước đầu cho các<br /> trường và các trung tâm kiểm định chất lượng. Vấn đề này sẽ được thảo luận chi tiết ở phần sau.<br /> Đối với kiểm định chất lượng chương trình đào tạo, quy trình thực hiện được quy định tại<br /> Thông tư số 38/2013/TT-BGDĐT ngày 29/11/2013 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo và<br /> cũng gồm 4 bước như đối với quy trình kiểm định cơ sở giáo dục đại học. Để được công nhận đạt<br /> tiêu chuẩn chất lượng thì chương trình đào tạo phải có ít nhất 80% số tiêu chí trong bộ tiêu chuẩn<br /> đánh giá chất lượng chương trình đạt yêu cầu, trong đó mỗi tiêu chuẩn có ít nhất 50% số tiêu chí<br /> đạt yêu cầu [2]. Cho đến tháng 11 năm 2017, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành được 5 bộ tiêu<br /> chuẩn đánh giá chất lượng chương trình đào tạo. Cụ thể là một bộ tiêu chuẩn dùng chung để đánh<br /> giá chất lượng chương trình đào tạo các trình độ của giáo dục đại học, một bộ tiêu chuẩn đánh giá<br /> chất lượng chương trình đào tạo giáo viên tiểu học trình độ cao đẳng, một bộ tiêu chuẩn đánh giá<br /> chất lượng chương trình đào tạo giáo viên THPT trình độ đại học, một bộ tiêu chuẩn để đánh giá<br /> chất lượng chương trình giáo dục sư phạm kĩ thuật công nghiệp trình độ đại học và một bộ tiêu<br /> chuẩn để đánh giá chất lượng chương trình đào tạo điều dưỡng trình độ đại học, cao đẳng [9].<br /> Về kết quả kiểm định chất lượng, cho đến hết tháng 11 năm 2017, đã có 213 trường đại học<br /> hoàn thành báo cáo tự đánh giá, 78 trường đã được đánh giá ngoài (chiếm khoảng 35% trong<br /> tổng số các trường đại học), trong đó 50 trường đã được công nhận đạt tiêu chuẩn chất lượng.<br /> Ngoài ra có 6 trường đại học được đánh giá bởi các tổ chức kiểm định nước ngoài [7]. Đối với<br /> kiểm định chương trình đào tạo theo các bộ tiêu chuẩn đánh giá chất lượng do Bộ Giáo dục và<br /> Đào tạo ban hành, ngoài 18 chương trình đào tạo giáo viên (4 chương trình đào tạo giáo viên tiểu<br /> học, 12 chương trình đào tạo giáo viên THPT và 2 chương trình sư phạm kĩ thuật công nghiệp)<br /> được đánh giá ngoài trước năm 2013 theo các dự án của Bộ Giáo dục và Đào tạo, cho đến hết<br /> tháng 11 năm 2017 chỉ có 7 chương trình đào tạo được đánh giá ngoài và được công nhận đạt tiêu<br /> chuẩn chất lượng. Ngoài ra, cho đến ngày 30/11/2017 đã có 92 chương trình của 20 cơ sở đào tạo<br /> đã được các tổ chức kiểm định của khu vực và quốc tế đánh giá và công nhận đạt tiêu chuẩn chất<br /> lượng [8,9].<br /> 18<br /> <br /> Các yếu tố thuận lợi và khó khăn khi triển khai kế hoạch kiểm định chất lượng giáo dục đại học…<br /> <br /> 2.2. Kế hoạch kiểm định chất lượng giáo dục đại học giai đoạn 2017-2020<br /> Như đã trình bày ở trên, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Kế hoạch số 118/KH-BGDĐT<br /> ngày 23/02/2017 về triển khai công tác kiểm định chất lượng giáo dục đối với cơ sở giáo dục đại<br /> học, trường cao đẳng sư phạm và trung cấp sư phạm năm 2017. Kế hoạch này đã nêu ra ba mục<br /> tiêu cụ thể và năm nhóm nhiệm vụ và giải pháp chính. Các mục tiêu cụ thể bao gồm:<br /> Mục tiêu thứ 1: Hoàn thiện hệ thống văn bản để có đủ hành lang pháp lí cho việc triển khai<br /> công tác kiểm định chất lượng giáo dục theo hướng tiếp cận với khu vực và quốc tế.<br /> Mục tiêu thứ 2: Phát triển hệ thống kiểm định chất lượng giáo dục, tăng cường năng lực cho<br /> cơ quan quản lí nhà nước về đảm bảo và kiểm định chất lượng giáo dục, các tổ chức kiểm định<br /> chất lượng giáo dục, các đơn vị chuyên trách làm công tác đảm bảo chất lượng của các cơ sở đào<br /> tạo, đội ngũ đánh giá viên, kiểm định viên.<br /> Mục tiêu thứ 3: Đẩy nhanh tiến độ kiểm định chất lượng giáo dục, bao gồm cả cơ sở giáo dục<br /> và chương trình đào tạo, khuyến khích việc đánh giá theo chuẩn quốc tế. Đến hết năm 2017, có<br /> 35% số cơ sở giáo dục đại học và 10% số trường cao đẳng sư phạm được kiểm định. Đến hết năm<br /> 2020 đánh giá ngoài xong vòng 1 đối với các cơ sở đào tạo, khoảng 10% số chương trình đào tạo<br /> được đánh giá trong nước và quốc tế… .<br /> Các nhóm nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu bao gồm: (1) Tiếp tục rà soát, hoàn thiện hệ thống<br /> văn bản về kiểm định chất lượng giáo dục; (2) Tăng cường năng lực của các tổ chức kiểm định<br /> chất lượng giáo dục, phát triển đội ngũ kiểm định viên; (3) Tăng cường năng lực của các đơn vị<br /> chuyên trách làm công tác đảm bảo chất lượng bên trong cơ sở đào tạo; (4) Đẩy mạnh hoạt động<br /> đánh giá và công nhận đạt tiêu chuẩn chất lượng giáo dục; và (5) Tăng cường truyền thông về<br /> đảm bảo và kiểm định chất lượng giáo dục.<br /> Trong các nhóm nhiệm vụ này thì nhóm nhiệm vụ thứ 4 đặt ra một số chỉ tiêu cụ thể đối với<br /> việc đánh giá và kiểm định chất lượng cơ sở giáo dục đại học và chương trình đào tạo. Cụ thể là<br /> đến hết năm 2017, có 35% số trường đại học được kiểm định theo bộ tiêu chuẩn hiện hành (các<br /> trường này phải đăng ký đánh giá ngoài với tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục muộn nhất<br /> ngày 30/6/2017), và đến hết năm 2020 tất cả các trường đại học phải được kiểm định chất lượng.<br /> Việc kiểm định chất lượng chương trình đào tạo sẽ được triển khai theo bộ tiêu chuẩn dùng<br /> chung để đánh giá chất lượng chương trình đào tạo các trình độ của giáo dục đại học được ban<br /> hành kèm theo Thông tư số 04/2016/TT-BGDĐT của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo. Đến<br /> hết năm 2020, 10% chương trình đào tạo được kiểm định chất lượng bởi các tổ chức kiểm định<br /> chất lượng trong nước hoặc quốc tế. Trong đó có 100% các chương trình có yếu tố quốc tế<br /> (chương trình tiên tiến, chương trình POHE, chương trình đào tạo kĩ sư chất lượng cao - PFIEV,<br /> chương trình đào tạo chất lượng cao,…) được kiểm định.<br /> Để thực hiện các nhiệm vụ và mục tiêu nêu trên, Kế hoạch đã đưa ra một bảng phân công<br /> công việc cho các đơn vị liên quan của Bộ Giáo dục và Đào tạo, các trung tâm kiểm định chất<br /> lượng và các cơ sở giáo dục đại học [4].<br /> <br /> 2.3. Các yếu tố thuận lợi để thực hiện kế hoạch kiểm định<br /> Trong phần này, tác giả trình bày một số yếu tố thuận lợi để thực hiện nhiệm vụ kiểm định<br /> chất lượng cơ sở giáo dục đại học và chương trình đào tạo theo Kế hoạch kiểm định 2017.<br /> 2.3.1. Hệ thống văn bản chỉ đạo và hướng dẫn đã tương đối đầy đủ<br /> 19<br /> <br /> Nguyễn Hữu Cương<br /> <br /> Một trong những điểm thuận lợi để thực hiện Kế hoạch kiểm định 2017 nói chung và mục tiêu<br /> kiểm định chất lượng cơ sở giáo dục đại học và chương trình đào tạo nói riêng là hệ thống văn<br /> bản quy phạm pháp luật và tài liệu hướng dẫn về đảm bảo và kiểm định chất lượng giáo dục đã<br /> tương đối đầy đủ. Những quy định về kiểm định chất lượng giáo dục đại học đã được đưa vào<br /> Luật của Quốc hội, Nghị định của Chính phủ, Thông tư của Bộ Giáo dục và Đào tạo, và hướng<br /> dẫn của Cục Quản lí chất lượng. Như đã trình bày ở trên, việc kiểm định chất lượng trường đại<br /> học được thực hiện theo Thông tư số 62/2012/TT-BGDĐT ngày 28/12/2012 của Bộ trưởng Bộ<br /> Giáo dục và Đào tạo ban hành Quy định về quy trình và chu kỳ kiểm định chất lượng giáo dục<br /> trường đại học, cao đẳng và trung cấp chuyên nghiệp, Quyết định số 65/2007/QĐ-BGDĐT ngày<br /> 01/11/2007 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Quy định về tiêu chuẩn đánh giá<br /> chất lượng giáo dục trường đại học (đã được sửa đổi, bổ sung tại Thông tư số 37/2012/TTBGDĐT). Việc kiểm định chương trình đào tạo được thực hiện theo Thông tư số 38/2013/TTBGDĐT ngày 29/11/2013 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Quy định về quy<br /> trình và chu kỳ kiểm định chất lượng chương trình đào tạo của các trường đại học, cao đẳng và<br /> trung cấp chuyên nghiệp và Thông tư số 04/2016/TT-BGDĐT ngày 14/3/2016 của Bộ trưởng Bộ<br /> Giáo dục và Đào tạo ban hành Quy định về tiêu chuẩn đánh giá chất lượng chương trình đào tạo<br /> các trình độ của giáo dục đại học. Ngoài ra, còn có các văn bản quy định về kiểm định viên và tổ<br /> chức kiểm định chất lượng. Những văn bản này là cơ sở pháp lí quan trọng để các cơ sở giáo dục<br /> đại học, các trung tâm kiểm định chất lượng, các tổ chức và cá nhân thực hiện các hoạt động<br /> kiểm định chất lượng.<br /> 2.3.2. Các trung tâm kiểm định chất lượng đã được thành lập và đi vào hoạt động<br /> Các trung tâm kiểm định chất lượng đóng vai trò quan trọng trong quy trình kiểm định chất<br /> lượng. Ở đây cần lưu ý rằng trong khoảng thời gian 10 năm (từ 2004 đến năm 2015) đã không có<br /> cơ sở giáo dục đại học nào được công nhận đạt tiêu chuẩn chất lượng do chưa thành lập được tổ<br /> chức kiểm định. Theo quy định thì trung tâm kiểm định chất lượng sẽ thực hiện đánh giá ngoài và<br /> công nhận cơ sở giáo dục đại học hoặc chương trình đào tạo đạt tiêu chuẩn chất lượng [13]. Cho<br /> đến thời điểm hiện tại, Việt Nam đã có 5 tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục, bao gồm: Trung<br /> tâm kiểm định chất lượng giáo dục - Đại học quốc gia Hà Nội, Trung tâm kiểm định chất lượng<br /> giáo dục - Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Trung tâm kiểm định chất lượng giáo dục Đại học Đà Nẵng, Trung tâm kiểm định chất lượng giáo dục - Hiệp hội các trường đại học, cao<br /> đẳng Việt Nam và Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục - Trường Đại học Vinh. Có 4 trung<br /> tâm kiểm định (trừ Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục - Trường Đại học Vinh) đã được<br /> cấp phép hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục với đối tượng là các cơ sở giáo dục đại học,<br /> các trường trung cấp chuyên nghiệp; các chương trình đào tạo giáo dục đại học trình độ cao đẳng,<br /> đại học, thạc sĩ, tiến sĩ và các chương trình trung cấp chuyên nghiệp [6,11,13].<br /> 2.3.3. Hoạt động đảm bảo và kiểm định chất lượng đã được nhiều trường đại học quan tâm<br /> Một số trường đại học của Việt Nam đã quan tâm đến công tác đảm bảo và kiểm định chất<br /> lượng từ khá sớm, và đặc biệt trong những năm gần đây nhiều trường đã chú trọng đầu tư cả nhân<br /> lực và vật lực cho các hoạt động này. Cho đến thời điểm hiện tại, hầu hết các trường đại học đều<br /> thành lập một đơn vị chuyên trách về đảm bảo chất lượng. Những đơn vị này là đầu mối để thực<br /> hiện các hoạt động tự đánh giá cơ sở giáo dục và chương trình đào tạo, cũng như chuẩn bị các<br /> điều kiện để đón đoàn chuyên gia đánh giá ngoài. Ngoài ra, nhiều trường đại học đã cử cán bộ đi<br /> học thạc sĩ, tiến sĩ với các chuyên ngành gần với đảm bảo và kiểm định chất lượng (ví dụ như<br /> 20<br /> <br /> Các yếu tố thuận lợi và khó khăn khi triển khai kế hoạch kiểm định chất lượng giáo dục đại học…<br /> <br /> thạc sĩ đo lường và đánh giá trong giáo dục) ở trong nước hoặc nước ngoài, hoặc tham gia<br /> chương trình đào tạo kiểm định viên [11]. Công tác tự đánh giá cơ sở giáo dục đã được hầu hết<br /> các trường đại học thực hiện. Như đã thảo luận ở phần trên, cho đến ngày 30/11/2017, đã có trên<br /> 95% số trường đại học hoàn thành báo cáo tự đánh giá, đánh dấu bước đầu trong quy trình kiểm<br /> định chất lượng. Có thể nói sự nhận thức và quan tâm của các trường đại học là điều kiện tiên<br /> quyết để thực hiện kế hoạch kiểm định chất lượng.<br /> 2.3.4. Sự hỗ trợ và tham gia của các tổ chức kiểm định quốc tế và khu vực<br /> Trong những năm gần đây, hoạt động đánh giá và kiểm định chất lượng giáo dục Việt Nam đã<br /> nhận được sự hỗ trợ và tham gia của nhiều tổ chức kiểm định quốc tế và khu vực. Cho đến hết<br /> tháng 11 năm 2017 đã có 92 chương trình của 20 cơ sở đào tạo đã được đánh giá bởi các tổ chức<br /> có uy tín như Hội đồng Kiểm định kĩ thuật và công nghệ (ABET), Hội đồng Kiểm định các<br /> trường và chương trình đào tạo về kinh doanh (ACBSP), Ủy ban Văn bằng kĩ sư Pháp (CTI) và<br /> Mạng lưới Đảm bảo chất lượng các trường đại học ASEAN (AUN-QA) [7]. Ngoài ra, có 4 trường<br /> đại học được đánh giá ngoài và được công nhận kết quả kiểm định theo tiêu chuẩn đánh giá cơ sở<br /> giáo dục của Hội đồng Cấp cao về Đánh giá nghiên cứu và giáo dục đại học Pháp (HCERES) và 2<br /> trường được đánh giá ngoài bởi AUN-QA. Đặc biệt, bộ tiêu chuẩn đánh giá chất lượng chương<br /> trình đào tạo các trình độ của giáo dục đại học và bộ tiêu chuẩn đánh giá chất lượng cơ sở giáo<br /> dục đại học cũng được xây dựng dựa trên các bộ tiêu chuẩn của AUN-QA. Trong thời gian tới<br /> chắc chắn sẽ càng có nhiều chương trình đào tạo và cơ sở đào tạo giáo dục đại học Việt Nam<br /> được các tổ chức kiểm định khu vực và quốc tế đánh giá.<br /> <br /> 2.4. Những khó khăn ảnh hưởng đến việc thực hiện kế hoạch kiểm định<br /> Mặc dù có những thuận lợi như vừa nêu trên, có nhiều thách thức khó khăn ảnh hưởng đến<br /> việc hoàn thành mục tiêu kiểm định như Kế hoạch số 118/KH-BGDĐT đã đề ra. Những khó<br /> khăn đó đến từ cả phía cơ quan quản lí nhà nước, các trung tâm kiểm định chất lượng và các<br /> trường đại học.<br /> 2.4.1. Cơ chế, chính sách về kiểm định chất lượng chưa thực sự hoàn thiện<br /> Như đã thảo luận ở phần trên, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về kiểm định chất lượng<br /> đã được ban hành tương đối đầy đủ. Tuy nhiên, vẫn còn thiếu một số quy định quan trọng. Hiện<br /> nay nhiều tổ chức và cá nhân quan tâm tới cơ chế thưởng - phạt liên quan đến việc thực hiện<br /> kiểm định chất lượng của các trường. Những quy định đều nêu rõ kiểm định ở Việt Nam là bắt<br /> buộc và kiểm định là nhằm không ngừng nâng cao chất lượng và giải trình với các bên liên quan<br /> về thực trạng chất lượng giáo dục của chương trình đào tạo hoặc cơ sở giáo dục. Tuy nhiên, cụ<br /> thể các trường sẽ nhận được gì nếu thực hiện tốt kiểm định trường và chương trình ngoài giấy<br /> chứng nhận kiểm định. Ngược lại, nếu một trường không thực hiện việc kiểm định chất lượng<br /> theo kế hoạch của cơ quan có thẩm quyền hoặc qua kiểm định nhưng không đạt chất lượng thì sẽ<br /> bị xử phạt thế nào [9,14]. Đây là những câu hỏi vẫn còn bỏ ngỏ và đó cũng là một trong những<br /> nguyên nhân làm chậm tiến độ triển khai kiểm định chất lượng giáo dục đại học ở nước ta trong<br /> hơn một thập kỷ vừa qua.<br /> 2.4.2. Nguồn nhân lực để triển khai hoạt động kiểm định còn quá mỏng<br /> Một trong những thách thức lớn để triển khai kế hoạch kiểm định chất lượng là nguồn nhân<br /> lực. Theo ý kiến của nhiều chuyên gia thì đội ngũ cán bộ tham gia công tác đảm bảo và kiểm<br /> 21<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2