Cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực quản lý tài chính công nhằm<br />
hướng tới GFMIS hiệu quả, hiện đại<br />
<br />
Trần Xuân Long,<br />
Phó Vụ trưởng Vụ Pháp chế, Bộ Tài chính.<br />
<br />
I. Đặt vấn đề<br />
Thủ tục hành chính trong lĩnh vực quản lý tài chính công là những yêu cầu<br />
về trình tự, hồ sơ, điều kiện do cơ quan, người có thẩm quyền ban hành trong các<br />
văn bản quy phạm pháp luật để điều hành hoạt động, cân đối thu, chi quỹ tài chính<br />
công, bảo đảm nguồn kinh phí thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, an<br />
ninh quốc phòng và an sinh xã hội, của các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã<br />
hội cũng như bảo đảm quyền lợi và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân đối với các nội<br />
dung tài chính công với cốt lõi là ngân sách nhà nước.<br />
Cải cách thủ tục hành chính không chỉ là việc rà soát, sửa đổi các thủ tục<br />
hành chính, quy định hành chính mà còn bao gồm việc tổ chức thực hiện các thủ<br />
tục, quy định hành chính tốt hơn. Trong đó, ứng dụng CNTT vào quản lý tài chính<br />
công vừa là biện pháp vừa là mục tiêu quan trọng dưới giác độ cải cách hành chính,<br />
thủ tục hành chính.<br />
Cải cách thủ tục hành chính có mối liên hệ chặt chẽ với đổi mới cơ chế,<br />
chính sách trong quản lý tài chính công. Với tư cách là quy định nội dung, cơ chế,<br />
chính sách trong quản lý tài chính công có vai trò chi phối, điều chỉnh và quyết<br />
định việc quy định thủ tục hành chính. Vì vậy, cải cách thủ tục hành chính trong<br />
lĩnh vực tài chính công là quá trình liên tục, lâu dài gắn với quá trình xây dựng<br />
pháp luật để thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với<br />
công tác quản lý tài chính công.<br />
Với phạm vi rộng, bám sát nhu cầu quản lý tài chính công, thủ tục hành<br />
chính là một trong những công cụ để quản lý NSNN cùng với những công cụ quản<br />
lý nhà nước khác như thanh tra, kiểm tra… trong toàn bộ quá trình ngân sách từ<br />
giai đoạn lập dự toán NSNN, chấp hành NSNN và quyết toán NSNN1.<br />
<br />
<br />
1<br />
Theo quy định tại hệ thống VBQPPL: Luật NSNN số 01/2002/QH11; Nghị định số 60/2003/NĐ-CP; Nghị định số<br />
43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006; Nghị định 130/2005/NĐ-CP, Luật quản lý thuế sửa đổi năm 2013, các luật chuyên<br />
ngành có liên quan và các văn bản QPPL quy định chi tiết hướng dẫn thi hành… Trong đó, mỗi giai đoạn của quá<br />
trình ngân sách đều có những quy định TTHC, chẳng hạn ở giai đoạn lập dự toán ngân sách có thủ tục lập dự toán ở<br />
địa phương (mã số trên CSDLQG về thủ tục hành chính 1: B-BTC-047119-TT) và thủ tục lập dự toán ngân sách đối<br />
với các cơ quan đơn vị ở trung ương (mã số B-BTC-047250-TT), Thủ tục phân bổ ngân sách ở trung ương (B-BTC-<br />
047230-TT)… Theo số liệu thống kê, tính đến tháng 7 lĩnh vực Hải quan có 168 TTHC, lĩnh vực Thuế: 330 TTHC,<br />
lĩnh vực Kho bạc: 59 TTHC, lĩnh vực Tài chính chung: 145 TTHC.<br />
Giai đoạn lập dự toán NSNN, là giai đoạn thực hiện việc xây dựng và quyết<br />
định dự toán ngân sách nhà nước hàng năm theo Luật NSNN số 01/2002/QH11 và<br />
hệ thống văn bản pháp quy hướng dẫn như: Nghị định số 60/2003/NĐ-CP, Thông<br />
tư số 59/2003/TT-BTC, Thông tư số 60/2003/TT-BTC… cùng các hệ thống luật hỗ<br />
trợ như luật: thuế, xây dựng, đầu tư…<br />
Giai đoạn chấp hành NSNN, là giai đoạn thực hiện dự toán ngân sách nhà<br />
nước đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định. Giai đoạn này thực hiện<br />
các chỉ tiêu thu, chi NSNN. Trong giai đoạn này, có sự hỗ trợ của hệ thống<br />
TABMIS đã đi vào hoạt động đầy đủ cung cấp các chức năng chấp hành ngân sách,<br />
kế toán và báo cáo ở các cấp ngân sách.<br />
Giai đoạn quyết toán NSNN, là giai đoạn cuối cùng, thực hiện tổng kết, đánh<br />
giá việc thực hiện ngân sách. Cơ quan có thẩm quyền phê duyệt quyết toán quản lý<br />
giải quyết các thủ tục.<br />
Để chuyển đổi mô hình quản lý tài chính công từ truyền thống sang mô hình<br />
hiện đại, các quốc gia trên thế giới cũng như Việt Nam đã và đang tiếp cận theo<br />
hướng thiết lập hệ thống thông tin quản lý tài chính quốc gia (GFMIS). Theo chức<br />
năng, nhiệm vụ Cục TH&TK Bộ Tài chính đã nghiên cứu, làm rõ mô hình GFMIS<br />
ở Việt Nam là sự kết hợp giữa hệ thống thông tin ngân sách, kho bạc và các hệ<br />
thống thông tin quản lý tài chính khác của Chính phủ (quản lý nợ công, mua sắm<br />
đấu thầu, công sản, thu ngân sách), trong đó, hệ thống quản lý ngân sách và kho<br />
bạc có vai trò quyết định, cốt lõi.<br />
Bên cạnh đó, các chuyên gia quốc tế GFMIS2 cũng khuyến nghị bên cạnh<br />
hướng đi tích hợp các hệ thống thông tin hiện tại cần chú trọng cải thiện quy trình<br />
quản lý tài chính công gắn với rà soát các văn bản quy phạm pháp luật trước khi<br />
quyết định về phương án triển khai, làm cho dự án GFMIS trở nên khả thi hơn.<br />
II. Cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực quản lý tài chính công<br />
Trong quản lý tài chính công, đối tượng thực hiện thủ tục hành chính phải<br />
tuân thủ các yêu cầu về thành phần hồ sơ, điều kiện, thời hạn thực hiện theo quy<br />
định của cơ quan thuế, hải quan, kho bạc nhà nước; trong nhiệm vụ lập ngân sách,<br />
các đơn vị dự toán phải tuân thủ các quy định, định mức, hướng dẫn và thời hạn<br />
của cơ quan tài chính. Đối với các cơ quan hải quan, thuế, kho bạc, quản lý ngân<br />
sách việc giải quyết các thủ tục hành chính phải đảm bảo đúng quy trình, trình tự<br />
theo quy định pháp luật. Hai vấn đề này có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, nếu giảm<br />
quy trình, trình tự giải quyết TTHC tức là cải cách bên trong cơ quan giải quyết thủ<br />
<br />
2<br />
Theo biên bản ghi nhớ của Đoàn công tác tư vấn về GFMIS tháng 4/2014.<br />
<br />
2<br />
tục hành chính sẽ dẫn tới cải cách bên ngoài (giảm thành phần hồ sơ, yêu cầu điều<br />
kiện hoặc thực hiện giải quyết liên thông thủ tục) đối với đối tượng thực hiện thủ<br />
tục và ngược lại nếu giảm sự rườm rà của thủ tục, thành phần hồ sơ, tiêu chí kê<br />
khai cho các đối tượng thực hiện thủ tục thì sẽ dẫn tới nhu cầu cải cách quy trình<br />
giải quyết thủ tục của cơ quan quản lý. Như vậy, cải cách thủ tục hành chính, bao<br />
gồm việc áp dụng hệ thống quản lý chất lượng (HTQLCL) theo tiêu chuẩn TCVN<br />
ISO 9001:2008 để nâng cao hiệu quả, chất lượng hoạt động của cơ quan giải quyết<br />
thủ tục hành chính, chính là tạo “sức đẩy” để hướng tới ứng dụng CNTT mà giải<br />
pháp tối ưu chính là thiết lập GFMIS và ngược lại triển khai hệ thống GFMIS phải<br />
tiếp tục tạo động lực “sức kéo” thực hiện cải cách thủ tục hành chính.<br />
1. Cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực quản lý tài chính công và ứng<br />
dụng CNTT (thiết lập GFMIS) là những hoạt động có tính chất chi phối, tác động<br />
trực tiếp qua lại với nhau.<br />
Bộ Tài chính đã có một số kết quả cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực<br />
tài chính công phù hợp với phạm vi ứng dụng của GFMIS như đã nêu ở phần I, tiêu<br />
biểu là phương án cải cách thủ tục hành chính theo Đề án cải cách thủ tục hành<br />
chính giai đoạn 2008-2010 của Chính phủ (Đề án 30)3. Trong đó, đối với lĩnh vực<br />
nộp thuế đã bãi bỏ thủ tục về nộp thuế, phí lệ phí vào tài khoản tạm thu, tạm giữ<br />
của cơ quan thu tại Kho bạc Nhà nước (tên, mã thủ tục) theo Thông tư số<br />
85/2011/TT-BTC ngày 17/06/2011 hướng dẫn quy trình tổ chức phối hợp thu ngân<br />
sách nhà nước giữa Kho bạc Nhà nước – Tổng cục Thuế - Tổng cục Hải quan và<br />
các Ngân hàng thương mại.<br />
Để đơn giản hóa thủ tục hành chính kiểm soát chi tại kho bạc, Bộ Tài chính<br />
đã ban hành Thông tư số 161/2012/TT-BTC nhằm thực hiện cải cách công tác kiểm<br />
soát chi NSNN qua KBNN theo hướng kiểm soát theo ngưỡng chi, theo độ rủi ro<br />
của từng khoản chi, cụ thể như:<br />
- Loại bỏ toàn bộ các thủ tục liên quan đến dự toán quý, nhu cầu chi quý để<br />
đảm bảo phù hợp với thực tế thực hiện và phù hợp với các Thông tư hướng dẫn<br />
điều hành ngân sách nhà nước hàng năm của Bộ Tài chính;<br />
- Đơn vị lập và gửi KBNN bảng kê chứng từ thanh toán không phải nộp hợp<br />
đồng, hóa đơn, chứng từ liên quan đến khoản mua sắm cho KBNN, tăng trách<br />
nhiệm của Thủ trưởng chịu trách nhiệm về quyết định chi và tính chính xác của các<br />
nội dung chi trên bảng kê chứng từ đơn vị sử dụng NSNN4;<br />
3<br />
Theo thống kê năm 2009, Bộ thủ tục hành chính thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Tài chính có 769 TTHC<br />
và kiến nghị đơn giản hóa 661/708 TTHC (đạt tỷ lệ 93%) theo yêu cầu tại Nghị quyết số 25/NQ-CP và Nghị quyết số<br />
68/NQ-CP của Chính phủ.<br />
4<br />
Đối với các khoản mua sắm nhỏ lẻ của các đơn vị sử dụng NSNN có giá trị dưới 20.000.000 đồng<br />
<br />
3<br />
- Cải cách thủ tục đối với khoản chi thanh toán theo hình thức thanh toán<br />
không dùng tiền mặt theo hình thức thẻ “tín dụng mua hàng”5. Đơn vị giao dịch<br />
không phải gửi các hóa đơn mua hàng được in tại các điểm chấp nhận thẻ (POS) đến<br />
KBNN; đồng thời, đơn vị giao dịch phải tự chịu trách nhiệm về tính chính xác của nội<br />
dung các khoản chi ghi trên bảng kê chứng từ thanh toán gửi KBNN.<br />
Việc nâng cao chất lượng giải quyết thủ tục kiểm soát chi tại kho bạc cũng là<br />
một nội dung quan trọng, các KBNN tỉnh, thành phố đã tổ chức triển khai quy trình<br />
kiểm soát chi “1 cửa”, thực hiện theo nguyên tắc: mỗi giao dịch viên là “1 cửa”, trừ<br />
trường hợp có thanh toán bằng tiền mặt; người tiếp nhận hồ sơ cũng chính là người<br />
xử lý công việc cho đơn vị giao dịch; Qua đó, đã từng bước thống nhất đầu mối và<br />
quy trình kiểm soát chi NSNN. Bên cạnh đó, KBNN đã bước đầu thống nhất đầu mối<br />
thực hiện kiểm soát chi đầu tư và chi các Chương trình mục tiêu quốc gia về một đầu<br />
mối (phòng/bộ phận kiểm soát chi NSNN).<br />
Bên cạnh đó, Luật Quản lý thuế sửa đổi có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2013 có<br />
nội dung thúc đẩy công tác hiện đại hoá hệ thống thuế, hải quan theo hướng thực<br />
hiện cơ chế quản lý rủi ro, đẩy mạnh quản lý thuế điện tử 6, tăng cường vai trò của<br />
tổ chức, cá nhân có liên quan; đáp ứng yêu cầu hội nhập và đồng bộ với các cam<br />
kết quốc tế; tăng cường các biện pháp quản lý kiểm tra, giám sát, hoạt động hậu<br />
kiểm để nâng cao tính hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý hành chính thuế.<br />
Việc thực hiện đúng yêu cầu cải cách thủ tục hành chính lĩnh vực thuế nhằm<br />
nâng cao năng lực cạnh tranh theo Nghị quyết số 19/NQ-CP của Chính phủ cũng<br />
tạo thuận lợi cho việc thiết lập GFMIS, cụ thể như: Bộ Tài chính đã ban hành<br />
Thông tư số 119/2014/TT-BTC giảm thời gian thực hiện các thủ tục hành chính kê<br />
khai thuế thông qua các biện pháp sửa đổi, giảm các tiêu chí kê khai trong các mẫu<br />
tờ khai thuế, mẫu kê khai quyết toán, giấy nộp tiền vào NSNN; không yêu cầu nộp<br />
chứng từ, hóa đơn; giảm các đối tượng phải nộp tờ khai thuế… và điều chỉnh một<br />
số chính sách thuế khác.<br />
Những cải cách thủ tục hành chính nêu trên sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho<br />
đơn vị sử dụng NSNN và giảm tải cho công tác kiểm soát chi của KBNN, hiện đại<br />
<br />
<br />
5<br />
Đối với các khoản mua sắm Thanh toán bằng hình thức thẻ “tín dụng mua hàng” theo quy định tại Điều 8 Thông tư<br />
số 164/2011/TT-BTC ngày 17/11/2011 của Bộ Tài chính quy định quản lý thu - chi tiền mặt qua hệ thống KBNN:<br />
đơn vị lập 2 liên bảng kê chứng từ thanh toán (theo mẫu đính kèm Thông tư này) kèm theo giấy rút dự toán ngân sách nhà<br />
nước gửi tới KBNN để làm thủ tục kiểm soát chi ngân sách nhà nước theo quy định của Bộ Tài chính.<br />
6<br />
Nếu người nộp thuế là tổ chức kinh doanh tại địa bàn có cơ sở hạ tầng về công nghệ thông tin phải thực hiện kê<br />
khai, nộp thuế, giao dịch với cơ quan quản lý thuế thông qua phương tiện điện tử theo quy định của pháp luật về giao<br />
dịch điện tử.<br />
<br />
<br />
4<br />
hóa quản lý thuế đồng thời giảm thông tin đầu vào cũng như thời gian thực hiện thủ<br />
tục, từ đó làm giảm độ phức tạp xử lý các nghiệp vụ trong GFMIS.<br />
2. Hiện đại hóa công tác quản lý thu, chi NSNN là hoạt động quan trọng, mà<br />
cốt lõi là hệ thống kế toán của Chính phủ - TABMIS - nhằm hoàn chỉnh những cấu<br />
phần của GFMIS.<br />
Để tiếp tục hiện đại hóa quá trình thu NSNN, Bộ Tài chính đã ban hành các quy<br />
định về thu NSNN qua Kho bạc nhà nước (KBNN) và phối hợp thu NSNN, triển khai<br />
thực hiện quy trình thu NSNN theo dự án Hiện đại hoá thu NSNN nhằm cải cách quy<br />
trình thu NSNN theo hướng đơn giản về thủ tục hành chính, giảm thiểu thời gian và<br />
thủ tục nộp tiền cho người nộp thuế; đồng thời, ứng dụng có hiệu quả công nghệ thông<br />
tin điện tử tiên tiến vào quy trình quản lý thu NSNN7.<br />
Cùng với việc triển khai hệ thống TABMIS thì quy trình nghiệp vụ về kiểm soát<br />
chi thường xuyên và chi đầu tư cũng dần được đồng bộ, thống nhất; việc xây dựng kho<br />
dữ liệu thu, chi ngân sách đã tiến hành thu thập và lưu trữ các thông tin về dự toán,<br />
chấp hành và quyết toán NSNN trong nhiều năm; đồng bộ dữ liệu từ cơ sở dữ liệu dự<br />
phòng của hệ thống TABMIS sang CSDL thu chi ngân sách theo cách tự động để<br />
giảm tải cho hệ thống tác nghiệp. Việc triển khai kho dữ liệu thu, chi NSNN sẽ giúp<br />
các nhà quản lý và cán bộ tài chính có thể khai thác thông tin theo nhiều chiều, trong<br />
khoảng thời gian nhiều năm để có cái nhìn tổng quát và đưa ra những phân tích, dự<br />
báo, quyết định điều hành tài chính – ngân sách chính xác phù hợp với tình hình thực<br />
tế theo hướng công khai, minh bạch và phù hợp với các thông lệ và chuẩn mực<br />
quốc tế; ngăn chặn nợ đọng trong thanh toán; phục vụ quản lý chi tiêu ngân sách<br />
trung hạn.<br />
Ngoài ra, trong cải cách tài chính công, việc đổi mới cơ chế, chính sách quản<br />
lý tài chính công, cụ thể như cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với cơ quan<br />
hành chính nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập; và thực hiện xã hội hoá dịch vụ<br />
công8 hướng tới mục tiêu chất lượng, công bằng và hiệu quả trong quản lý nhà<br />
nước, cung cấp dịch vụ công phù hợp với lộ trình cải cách hành chính nhà nước và<br />
<br />
7<br />
Dự án đã tiến hành xong việc nâng cấp theo mô hình tập trung tại tất cả các địa phương trên cả nước và công tác<br />
phối hợp thu NSNN đã được triển khai tại 61 tỉnh, thành phố với khoảng hơn 640 đơn vị KBNN quận, huyện; đồng<br />
thời, triển khai với các NHTM nhà nước (ngân hàng mà KBNN có mở tài khoản) và Ngân hàng Thương mại cổ phần<br />
(ngân hàng mà KBNN không mở tài khoản).<br />
8<br />
Nghị định số 130/2005/NĐ-CP; Nghị định số 117/2013/NĐ-CP của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của<br />
Nghị định số 130/2005/NĐ-CP Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 của Chính phủ quy định quyền tự chủ,<br />
tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập)<br />
và Nghị định 69/2008/NĐ-CP.<br />
<br />
5<br />
điều kiện thực tế của nước ta là hết sức cần thiết. Hiện nay, việc nghiên cứu, sửa<br />
đổi các cơ chế, chính sách này vẫn đang được thực hiện theo Nghị quyết số<br />
30c/NQ-CP ngày 08/11/2011 của Chính phủ ban hành chương trình tổng thể cải<br />
cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2020. Trong đó, các cơ chế, chính sách<br />
này với tư cách là quy định nội dung khi được đổi mới sẽ chi phối, điều chỉnh các<br />
quy định thủ tục hành chính cũng như nghiệp vụ quản lý tài chính công từ đó tiếp<br />
tục có tác động đến quá trình hiện đại hóa, ứng dụng CNTT.<br />
3. Mặc dù đã có một số kết quả tích cực, tuy nhiên việc thực hiện cải cách<br />
thủ tục hành chính lĩnh vực tài chính công vẫn còn chậm, chưa dành nguồn lực phù<br />
hợp, cụ thể:<br />
Trong việc thực hiện cải cách thủ tục hành chính, các cơ quan đơn vị còn<br />
chưa dành nguồn lực để rà soát, xây dựng phương án đơn giản hóa cho các thủ tục<br />
trong giai đoạn lập dự toán ngân sách như: thủ tục lập dự toán ngân sách tại các<br />
cấp, thủ tục thẩm tra phân bổ dự toán của các cơ quan theo quy định tại Luật NSNN<br />
và các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn Luật. Các thủ tục, quy trình lập dự<br />
toán NSNN được quy định rất chặt chẽ, phức tạp9 có sự tham gia của nhiều cơ quan<br />
ở các cấp khác nhau. Theo Báo cáo tóm tắt kết quả nghiên cứu mô hình và xây<br />
dựng lộ trình Hệ thống GFMIS, nhận định về “tính khả thi” việc ứng dụng CNTT<br />
trong việc lập kế hoạch ngân sách còn phụ thuộc vào kết quả sửa đổi Luật NSNN10,<br />
do cơ cấu ngân sách phức tạp và chưa thể khắc phục tính “lồng ghép” của NSNN.<br />
Chưa có kế hoạch rà soát theo chuyên đề, trọng tâm để cải cách những thủ<br />
tục hành chính, quy định hành chính có tác động trực tiếp đến hệ thống GFMIS.<br />
Trong báo cáo nghiên cứu về GFMIS việc xác định các nội dung cải cách thủ tục<br />
hành chính mới chỉ tập trung ở các thủ tục lĩnh vực hải quan, thuế và quản lý nợ.<br />
Đây là một nhiệm vụ quan trọng, cần được thực hiện song song thậm chí đi trước<br />
một bước đối với việc xác định các nghiệp vụ liên quan tới thiết lập hệ thống<br />
GFMIS.<br />
9<br />
- Dự toán NSNN được Quốc hội xem xét, quyết định theo Nghị quyết tại Kỳ họp cuối năm (tháng 10, 11 hàng<br />
năm). Sau đó, cuối tháng 5 hàng năm Thủ tướng Chính phủ ban hành chỉ thị về việc xây dựng kế hoạch phát triển<br />
kinh tế - xã hội và dự toán NSNN năm sau. Căn cứ vào hệ thống pháp luật hiện hành và chỉ thị của Thủ tướng Chính<br />
phủ, Bộ Tài chính ban hành Thông tư hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ này. Trên cơ sở văn bản của Trung ương, các<br />
sở tài chính có công văn cụ thể hoá văn bản của Trung ương, hướng dẫn việc lập dự toán NSNN tại địa phương.<br />
- Căn cứ vào hướng dẫn của cấp trên; kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi; chính<br />
sách, chế độ thu; định mức phân bổ, định mức, chế độ chi tiêu; số kiểm tra về dự toán thu, chi NSNN; tình hình thực<br />
hiện dự toán năm trước và một số năm liền kề; cơ quan dự toán cấp dưới chủ động lập dự toán gửi lên cấp trên sau<br />
đó cấp trên tổ chức thảo luận dự toán với cấp dưới.<br />
- Sau khi dự toán NSNN được Quốc hội phê duyệt, Thủ tướng Chính phủ ra quyết định giao dự toán NSNN cho các<br />
bộ và cơ quan trung ương thuộc ngân sách trung ương và các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; căn cứ vào nghị<br />
quyết của HĐND các cấp, UBND các cấp ra quyết định giao dự toán NSNN cho các đơn vị trực thuộc ngân sách cấp<br />
mình quản lý và ngân sách cấp dưới.<br />
10<br />
Trang 6 Báo cáo tóm tắt kết quả nghiên cứu mô hình và xây dựng lộ trình Hệ thống GFMIS.<br />
<br />
6<br />
Việc ứng dụng CNTT trong thực hiện thủ tục hành chính đối với các hoạt<br />
động quản lý ngân sách, kế toán nhằm thực hiện các thủ tục thanh toán trực tuyến,<br />
kiểm soát chi một cửa, phê duyệt cam kết chi còn chậm hơn so với dự kiến.<br />
III. Một số kinh nghiệm trong cải cách thủ tục hành chính để hướng tới<br />
hệ thống GFMIS<br />
1. Cải cách thủ tục hành chính phải gắn với cải cách hành chính và việc đổi<br />
mới cơ chế, chính sách để thu được hiệu quả tích cực, triệt để nhất. Điều này thể<br />
hiện qua việc ban hành Thông tư số 119/2014/TT-BTC thực hiện các giải pháp<br />
thuộc thẩm quyền của Bộ Tài chính nhằm thực thi Nghị quyết số 19/NQ-CP để<br />
giảm giờ thực hiện các thủ tục thuế, hải quan. Trong đó, bên cạnh việc sửa đổi các<br />
biểu mẫu, tờ khai, các nội dung chính sách thuế cũng được kiến nghị sửa đổi, bổ<br />
sung. Đồng thời, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 63/NQ-CP ngày 25/8/2014<br />
của Chính phủ về một số giải pháp về thuế tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, đẩy<br />
mạnh sự phát triển của doanh nghiệp xác định các giải pháp theo thẩm quyền Quốc<br />
hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ tiếp tục sửa đổi, bổ sung trong thời gian tới.<br />
2. Các đơn vị chủ trì soạn thảo VBQPPL có quy định thủ tục hành chính cần<br />
thực hiện đánh giá tác động các thủ tục hành chính trong Dự thảo văn bản quy<br />
phạm pháp luật theo đúng quy định tại Nghị định số 63/2010/NĐ-CP, Nghị định số<br />
48/2013/NĐ-CP và Thông tư số 07/2014/TT-BTP để loại bỏ những thủ tục hành<br />
chính không cần thiết, bảo đảm chỉ ban hành những thủ tục hành chính hợp lý, hợp<br />
pháp cũng như tạo thuận lợi cho việc xác định các nghiệp vụ GFMIS<br />
3. Các Tổ chức pháp chế của các đơn vị thuộc Bộ Tài chính trong quá trình<br />
tham gia ý kiến hoặc thẩm định VBQPPL, đặc biệt là các VBQPPL có liên quan tới<br />
lĩnh vực thuộc phạm vi ứng dụng GFMIS, cần xem xét, đánh giá thủ tục hành chính<br />
để có ý kiến chất lượng với cơ quan chủ trì dự thảo, đưa ra phương án quy định thủ<br />
tục đơn giản, quan tâm tạo điều kiện thuận lợi cho việc thiết lập GMFIS. Áp dụng<br />
các biện pháp cải cách thủ tục hành chính như: đảm bảo nguyên tắc giấy tờ thành<br />
phần hồ sơ chỉ nộp một lần; giảm bớt đối tượng yêu cầu nộp chứng từ, tăng cường<br />
trách nhiệm của các cơ quan sử dụng ngân sách; giảm tiêu chí trong việc kê khai<br />
theo biểu mẫu; xem xét phương án giải quyết liên thông thủ tục.<br />
4. Các đơn vị chủ động nghiên cứu nội dung rà soát các thủ tục hành chính<br />
thuộc phạm vi chức năng nhiệm vụ quản lý nhà nước, đề xuất với Vụ Pháp chế để<br />
tổng hợp chung vào kế hoạch kiểm soát thủ tục hành chính hàng năm của Bộ Tài<br />
chính, trong đó tập trung vào các thủ tục hành chính liên quan đến hệ thống<br />
GFMIS. Tích cực triển khai HTQLCL gắn với việc rà soát quy trình nội bộ đưa ra<br />
phương án cải thiện chất lượng quy trình thủ tục nội bộ.<br />
<br />
7<br />
5. Cơ quan chủ trì triển khai GFMIS hệ thống hóa các VBQPPL liên quan để<br />
có kế hoạch tập trung rà soát các thủ tục hành chính, quy định hành chính là đầu<br />
vào của các hệ thống thông tin bao gồm cả các thành phần khác của hệ thống<br />
GFMIS như quản lý nợ, tài sản trước khi triển khai thiết lập GFMIS một cách tổng<br />
thể. Đồng thời, xác định phạm vi thiết lập GFMIS gắn với VBQPPL thuộc lĩnh vực<br />
có quan hệ với GFMIS để có thông tin tới các cơ quan chủ trì dự thảo VBQPPL,<br />
các tổ chức pháp chế nhằm thực hành tốt các kinh nghiệm nêu tại khoản 2, 3, 4<br />
Mục này.<br />
6. Trong quá trình triển khai GFMIS cũng như các hệ thống thông tin thành<br />
phần, nếu cơ quan chủ trì triển khai phát hiện thủ tục hành chính, quy định hành<br />
chính chưa cần thiết, hợp lý, có thể tiếp tục đơn giản hóa, cơ quan chủ trì triển khai<br />
GFMIS có thể gửi kiến nghị giải pháp cho cơ quan chủ trì xây dựng VBQPPL và<br />
Tổ chức pháp chế để nghiên cứu, tiếp thu sửa đổi.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
8<br />