TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 26 (51) - Thaùng 03/2017<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Cái tôi trữ tình và sứ mệnh gieo hạt cho thơ Việt Nam<br />
hiện đại từ Thơ Mới 1932-1945<br />
The appearance of “the self” in New Poetry (1932 - 1945) and its role as starter for<br />
Vietnamese Later Poetry<br />
<br />
TS. Hoàng Sỹ Nguyên<br />
Phân hiệu Trường Đại học Nội vụ Hà Nội tại Quảng Nam<br />
<br />
Hoang Sy Nguyen, Ph.D.<br />
Hanoi University of Home Affairs – Quang Nam campus<br />
<br />
<br />
Tóm tắt<br />
Vào những năm đầu của thế kỷ XX, ảnh hưởng của văn học phương Tây, văn học Việt Nam chứng kiến<br />
sự ra đời và trưởng thành nhanh chóng của cái tôi trữ tình. Cái tôi trữ tình này không những đã làm nên<br />
thành tựu Thơ Mới 1932-1945, tạo bước nhảy ngoạn mục từ thơ trung đại sang thơ hiện đại; nó còn<br />
xứng đáng là những người tiên phong làm sứ mệnh gieo hạt cho thơ Việt Nam hiện đại từ đó về sau, để<br />
thơ Việt đã, đang và sẽ có nhiều mùa gặt bội thu, theo kịp thơ hiện đại, hậu hiện đại thế giới.<br />
Từ khóa: Thơ Mới, cái tôi, bước nhảy, sứ mệnh, gieo hạt.<br />
Abstract<br />
In the early twentieth century, Vietnamese literature, influenced by Western literature, gave birth to and<br />
nurtured the concept of “poetic self”. Not only did “poetic self” help to create the remarkable New<br />
Poetry movement during the period 1932-1945, marking a spectacular leap from medieval poetry to<br />
modern poetry, but it provided the seeds for abundantly fruity seasons of modern Vietnamese poetry<br />
from then on, enabling Vietnamese poetry to keep up with modern and postmodern poetry of the world.<br />
Keywords: New Poetry, self, leap, seeds.<br />
<br />
<br />
<br />
1. Đặt vấn đề hướng văn học thời đại. Sự ra đời của<br />
Triết học Mác-Lê Nin coi cái tôi là cái tôi trữ tình đó trong Thơ Mới 1932 -<br />
sự tự ý thức về cá nhân trong tồn tại tự 1945 không những đã làm thay đổi diện<br />
nhiên và hoạt động xã hội. Là sự tự ý mạo thơ nước ta của một thời mà còn<br />
thức nhưng con người không phải sống tạo ra cuộc cách tân và đặt nền móng<br />
riêng lẽ nên cái tôi luôn bị chi phối bởi quan trọng cho tiến trình thơ của nhiều<br />
các điều kiện lịch sử xã hội, văn hóa, thời. Tìm hiểu nguồn gốc sự ra đời của<br />
nhu cầu thẩm mỹ thời đại. Do vậy, gọi cái tôi trữ tình, nhận diện sứ mệnh gieo<br />
là cái tôi, nhưng cái tôi lại có đặc điểm hạt của các thi sĩ là để góp thêm tiếng<br />
chung của một thế hệ, một thời đại, ứng nói tiếp nhận giá trị của Thơ Mới, đồng<br />
với phương pháp sáng tác, khuynh thời khẳng định nguồn mạch và thành<br />
<br />
26<br />
HOÀNG SỸ NGUYÊN<br />
<br />
<br />
tựu thơ hôm nay của nước ta trong dòng thế giới. Có được điều này, một trong<br />
chảy chung của thơ hiện đại, hậu hiện những yếu tố cơ bản nhất chính là sự<br />
đại thế giới. hình thành cái tôi trữ tình theo ý thức cá<br />
2. Sự ra đời của cái tôi trữ tình nhân tư sản phương Tây.<br />
Thơ Mới 1932-1945 Sự hình thành ý thức cá nhân tư sản<br />
Cái tôi là sự biểu hiện của ý thức cá gắn liền với quá trình đô thị hóa. Xã hội<br />
nhân, nó đã có trong văn học trung đại. Tây Âu từ cuối thế kỷ XIII, quá trình đô<br />
A.Guêvích nói: “Trở về thời trung cổ thị hóa đã diễn ra mạnh mẽ. Các thành<br />
trước hết cần thấy rằng, chính trong thị trung đại được phục hưng hoặc mới<br />
thời đại này khái niệm cá nhân đã được nảy sinh đều theo hướng tách hẳn nông<br />
hình thành một cách trọn vẹn”(10). Ở thôn, nông nghiệp, xây dựng mô hình<br />
nước ta, thời trung đại, trong sáng tác theo sự phát triển của kinh tế hàng hóa.<br />
của Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Thành thị là công xã tự do của người<br />
Dương Khuê, Tản Đà,... các thi nhân đã sản xuất hàng hoá nên lực lượng sáng<br />
“tự ý thức về mình hơn người trên các tác, thưởng thức văn học cũng mang<br />
phương diện: tài, tình, chơi, hưởng thụ, tính phân công lao đông chuyên nghiệp.<br />
kinh luân... và họ thường biểu lộ thái độ Ngược lại, ở nước ta, từ thế kỷ XVII về<br />
tự do phóng túng. Họ tự nhận mình là trước, sự giao lưu ra thế giới, ngoài<br />
người tài tử và muốn lập một sự nghiệp Trung Quốc, và ít nhiều với Ấn Độ,<br />
lẫy lừng để trổ tài, để làm điều khác Nhật Bản, còn hầu như “đóng băng”.<br />
thường trong thiên hạ (yêu vi thiên hạ Một đất nước có bờ biển dài từ Bắc chí<br />
kỳ) để “đâu đấy tỏ”(...). Đó là từ ý thức Nam nhưng chưa hướng ra biển. Thời<br />
về mình, vì mình, xuất phát điểm là bản nhà Nguyễn, cơ hội đến nhưng không<br />
thân mình, lấy cá nhân mình làm trung tận dụng, mà chủ trương “bế quan tỏa<br />
tâm chứ không phải ý thức về nghĩa vụ cảng”. Một số đô thị xuất hiện sớm như<br />
với cộng đồng, với quân vương”(10). Thăng Long, Phố Hiến (ở Đàng Ngoài),<br />
Tuy vậy, ý thức cá nhân này mới chỉ Hội An, Huế, Sài Gòn (ở Đàng Trong)<br />
dừng lại ở “kiểu người tự giải phóng nửa nhưng phạm vi ảnh hưởng không lớn.<br />
vời của thành thị phong kiến - người tài Hơn nữa, đô thị nước ta thời trước, trừ<br />
tử, trong sự kiềm tỏa của thể chế chuyên Hội An là đô thị đặc biệt do người Nhật<br />
chế, của lễ giáo luân thường Nho và người Trung Quốc xây dựng, làng<br />
giáo...”(10). Điều này chứng tỏ văn học quê và thành thị kết hợp với nhau, thành<br />
Việt Nam thời kỳ trung đại đã có lúc vận thị hòa tan trong nông thôn. Các thị trấn<br />
động theo xu hướng đổi mới nhưng chưa ở huyện lỵ cũng chỉ mang tính chính trị,<br />
thể chuyển sang văn học hiện đại. Đến hành chính chứ không phải là kết quả<br />
những năm đầu thế kỷ XX, cùng với sự của quá trình phân công lao động xã<br />
đổi thay nhanh chóng của lịch sử, kinh hội. Ngay cả các trung tâm hành chính<br />
tế - xã hội, văn hóa, văn học mới cách trung ương như Thăng Long, Huế, sự<br />
tân để hòa nhập cùng văn học hiện đại hình thành cũng do chọn địa điểm thuận<br />
<br />
27<br />
CÁI TÔI TRỮ TÌNH VÀ SỨ M NH GIEO HẠT CHO THƠ VI T NAM HI N ĐẠI TỪ THƠ MỚI…<br />
<br />
<br />
lợi về giao thông vận tải, quốc phòng, phương Tây ở nước ta. "Trong các<br />
phát triển nông nghiệp, còn sự phát trường học, thanh niên học sinh bắt đầu<br />
triển công thương nghiệp không được say sưa với văn học Pháp"(6). Những tác<br />
coi là tiêu chí chủ yếu như đô thị động đó đã đưa đến cho người thanh<br />
phương Tây. Do vậy, văn hóa thành thị niên tiểu tư sản thành thị cảm xúc mới.<br />
bị chính quyền phong kiến và ý thức hệ Đó là cảm xúc “thành thật” của con<br />
Nho giáo chi phối, chủ yếu là văn hóa người cá nhân, thích sống tự do, buông<br />
cung đình, cổ truyền. Lực lượng sáng thả. Những ràng buộc của gia đình, tộc<br />
tác văn học là Nho sĩ, quan lại nên sản họ, hương ước khe khắt của làng, xã sau<br />
phẩm của nó là thơ chứ không phải tiểu luỹ tre xanh không còn ý nghĩa. Quan<br />
thuyết, kịch nói kiểu phương Tây. Mà niệm về cái đẹp đổi thay. Giá trị tình<br />
sáng tác thơ là để tỏ chí, chở đạo. Cách yêu, hôn nhân không chỉ bó hẹp trong<br />
“phát hành” là đọc cho nhau nghe, chúc phạm trù đạo đức theo sự áp đặt của ý<br />
tụng, khắc bia, đề tặng chứ không phải thức Nho giáo.<br />
theo thị hiếu, nhu cầu của quy luật sản Như vậy, cái tân kỳ, tiện lợi của<br />
xuất hàng hóa; hình thức thơ theo lối văn minh vật chất, văn hóa, văn học<br />
quy phạm của thơ Đường luật. Thế kỷ phương Tây có sức mạnh lôi kéo dần cư<br />
XVII, XVIII, sự giao lưu với phương dân thành thị. Nhưng, “cái quan trọng là<br />
Tây đã có nhưng còn yếu ớt. Phải từ sau đồng thời với sự đổi thay trong cuộc<br />
đại chiến thế giới lần thứ nhất, với cuộc sống bình thường đó là sự đổi thay của<br />
khai thác thuộc địa mạnh mẽ của thực cả cuộc sống tinh thần, cả tâm lý, cách<br />
dân Pháp, các thành thị lớn gắn liền với suy nghĩ, thị hiếu...”, “Sự thay đổi đó<br />
việc buôn bán phát triển, tầng lớp thị tạo ra những con người khác trước,<br />
dân mới ra đời. những đề tài văn học khác trước, những<br />
Sự phát triển nhanh chóng của đô nhân vật khác trước và cả những thể<br />
thị tách dần nông nghiệp, nông thôn cổ loại văn học khác trước”(5). Đó là tiền<br />
truyền đến những năm đầu thế kỷ XX đề quan trọng đưa đến cuộc cách tân<br />
đã ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tinh văn học đầu thế kỷ XX.<br />
thần một bộ phận lớn dân số thành thị. Ở phương Tây, từ văn học phục hưng<br />
Các tác phẩm văn học Pháp cả nguyên với Bôcatxiô, Sêcxpia, Xecvantec..., các<br />
tiếng Pháp hoặc dịch bằng chữ quốc giá trị về con người cá nhân được đề<br />
ngữ bày bán rộng rãi, giá cả rẻ. Báo chí cao, nó trở thành sự vận động không<br />
phát triển mạnh mẽ đã làm cầu nối tích ngừng cho toàn bộ cái tôi trữ tình trong<br />
cực cho sự giao lưu và cách tân văn văn học. Ở Việt Nam, sau cuộc khai<br />
học. Theo Phan Cự Đệ, trong và sau thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân<br />
Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, Các Pháp, cơ cấu xã hội biến đổi sâu sắc, đô<br />
báo, tạp chí Nam Phong, Trung Bắc tân thị mọc lên, nhiều tầng lớp xã hội mới<br />
văn, Nhà xuất bản Âu Tây tư tưởng... xuất hiện (đặc biệt tư sản, tiểu tư sản...),<br />
đã dịch và giới thiệu rộng rãi văn học nhu cầu văn hóa thẩm mỹ kiểu phương<br />
<br />
28<br />
HOÀNG SỸ NGUYÊN<br />
<br />
<br />
Tây tràn vào. Ngoài cảm hứng canh tân thức và cảm xúc thế giới, con người<br />
của các phong trào Duy Tân, Đông Du, thông qua việc tổ chức các phương tiện<br />
Đông Kinh nghĩa thục và nội dung của thơ trữ tình. Trong Thi nhân Việt<br />
chính trị mới mẻ của một số Chí sĩ cách Nam, Hoài Thanh gọi thời đại Thơ Mới<br />
mạng, là sự khẳng định ngày càng là “thời đại chữ tôi”. Sau này, Giáo sư<br />
mạnh mẽ những hồn thơ phóng túng, Phan Cư Đệ nhận xét: “Thơ mới khẳng<br />
tràn đầy tình cảm, cảm xúc của cái tôi định cái tôi như một bản lĩnh tích cực<br />
cá nhân “vượt thoát” ra khỏi hệ thống trong cuộc sống, như một chủ thể sáng<br />
ước lệ khe khắt của cái tôi trữ tình thời tạo độc đáo trong nghệ thuật”(7).<br />
phong kiến. Đến những năm 1930, cái Sự ra đời của cái tôi trữ tình Thơ<br />
tôi cá nhân đã có “chỗ đứng” vững chắc mới là bước ngoặt lớn trong lịch sử tiến<br />
trong văn chương. Nó đã mạnh dạn bày trình thơ ca, làm nên diện mạo và giá trị<br />
tỏ đặc điểm nhân cách của nó. Những lớn của Thơ Mới. Thành tựu của nó<br />
cảm xúc trong Thơ Mới không chỉ riêng không chỉ là dấu ấn khắc đậm sự biến<br />
của Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Hàn cải to lớn của thơ ca một thời mà còn<br />
Mặc Tử, Bích Khê... mà là sự hòa đặt nền móng, tạo đà cho thơ phát triển.<br />
quyện cả phần cá nhân với bóng dáng Những quan niệm về thơ của các nhà<br />
thời đại. Thơ mới, đặc biệt của các nhà thơ giai<br />
Đó là cội nguồn cơ bản của việc đoạn cuối như Chế Lan Viên, Hàn Mặc<br />
hình thành cái tôi trữ tình trong văn học Tử, Bích Khê,… chính là những hạt<br />
thời kỳ này nói chung, Thơ Mới nói giống cho quan niệm thơ Việt Nam hiện<br />
riêng. Hoài Thanh đã luận giải: “Cái đại, để từ đó thơ Việt hôm nay tiếp tục<br />
ngày người lái buôn phương Tây thứ đơm hoa kết trái.<br />
nhất đặt chân lên xứ ta, người ấy đã đem 3. Tính chất gieo hạt cho thơ<br />
theo cùng với hàng hoá phương Tây, cái Việt Nam hiện đại<br />
mầm sau này sẽ nẩy thành Thơ mới”(12). Trong Thơ Mới, thời kỳ đầu, cái tôi<br />
Theo Vũ Tuấn Anh “Sự biến đổi, phát trữ tình cá nhân ra đời với những tư<br />
triển, thay thế, phân hóa... của cái tôi trữ tưởng, tình cảm mới đã thể hiện nhu<br />
tình là cốt lõi của vận động thơ”(1). cầu bức thiết đổi mới hình thức thơ.<br />
Cái tôi trữ tình được tồn tại trong Giai đoạn cuối, các nhà thơ thường đắm<br />
thơ qua hình thức thơ, bao gồm hình mình trong những lời thở than, xuất<br />
thức ngôn ngữ và hình thức thể thơ, hình hiện những định nghĩa khác lạ về thơ và<br />
dạng bài thơ. Ở góc độ thể loại, cái tôi danh hiệu người thi sĩ. “Cái cực đoan,<br />
trữ tình là một kiểu cảm nhận đời sống một mặt có thể giúp nhà thơ khoan<br />
của chủ thể, là một cách nhìn nghệ thuật được những mũi đất sâu vào một tầng<br />
của chủ thể; nó mang cá tính sáng tạo nào đó trong cuộc sống, mặt khác dễ<br />
trong việc lựa chọn, sử dụng, sắp xếp thể đẩy chính nhà thơ đi ra ngoài phạm vi<br />
thơ, câu thơ, ngôn ngữ thơ; nó là sự thể nghệ thuật”(3). Hàn Mặc Tử viết:<br />
hiện bản chất cá nhân trong việc nhận “không rên xiết là thơ vô nghĩa lý”. Vào<br />
<br />
29<br />
CÁI TÔI TRỮ TÌNH VÀ SỨ M NH GIEO HẠT CHO THƠ VI T NAM HI N ĐẠI TỪ THƠ MỚI…<br />
<br />
<br />
giai đoạn cuối, Chế Lan Viên, Hàn Mặc vận dụng tương ứng các giác quan khi<br />
Tử và nhóm Xuân thu nhã tập, Dạ Đài cảm nhận và thể hiện thế giới với<br />
đã có những tuyên bố về quan niệm thơ những cảm xúc, cảm hứng dâng trào:<br />
khá đặc biệt, dẫn đường cho sự vận “Ta muốn hồn ta trào ra đầu ngọn bút/<br />
động đổi thay của thơ - họ xứng đáng là Mỗi vần thơ đều dính não cân ta/ Bao<br />
những người làm nên sứ mệnh gieo hạt nét chữ quay cuồng như máu vọt/ Cho<br />
cho thơ Việt Nam hiện đại. mê man chết điếng cả làn da” (Rớm<br />
Ở lời tựa tập Điêu tàn, Chế Lan máu). Quan niệm trên đã thúc đẩy thơ<br />
Viên viết: “Thi sĩ không phải là người. Hàn Mặc Tử đi sâu vào khám phá<br />
Nó là người Mơ, người Say, người những miền tối của tiềm thức, vô thức<br />
Điên. Nó là Tiên, là Ma, là Quỷ, là hay nói đúng hơn đã giải thoát ông khỏi<br />
Tinh, là Yêu. Nó thoát hiện tại. Nó xáo những toan tính của ý thức sáng tỏ để<br />
trộn dĩ vãng. Nó ôm trùm tương lai. thả mình cho cái tiềm thức, vô thức lôi<br />
Người ta hãi nó vì nó nói nhiều cái vô đi, bước chân vào “đền siêu thực”.<br />
nghĩa, tuy rằng những cái vô nghĩa hợp Quan niệm của nhóm Xuân thu nhã<br />
lý. Nhưng thường nó không nói, nó gào, tập bổ sung thêm sự vận động cựa quậy<br />
nó thét, nó khóc, nó cười, cái gì nó cũng đòi vượt thoát của Thơ Mới những năm<br />
tột cùng”(3). Theo Chế Lan Viên, thi sĩ cuối. Theo họ, trong cái tôi cá nhân của<br />
phải biết làm biến đổi trạng thái của độc Thơ Mới hiện có và cần có thêm những<br />
giả, làm lây lan đến họ nỗi buồn, chán, tín điều huyền diệu, linh thiêng, khó<br />
hãi hùng, tiêu biểu như bài thơ Trên nắm bắt, có màu sắc siêu nhiên. Họ cho<br />
đường về: “Đây, những Tháp gầy mòn rằng “Thơ chỉ hình dung cái bản ngã<br />
vì mong đợi/ Những đền xưa đổ nát thuần túy, cái bản ngã cuối cùng của thi<br />
dười Thời Gian/ Những sông vắng lê sĩ hay sự vật. Thơ chỉ là một sự nhớ lại,<br />
mình trong bóng tối/ Những tượng một cuộc trở về, cuộc trở về của thi sĩ<br />
Chàm lở lói rỉ rên than…”. Chính quan trong cái tôi của mình nằm trong sự<br />
niệm trên đây đã chi phối triệt để toàn vật”(8). Cái “bản ngã” này là cái tôi đã<br />
diện thơ ông, đưa những sáng tác “sừng thoát khỏi cái tôi trần thế thông thường,<br />
sững như tháp chàm” đến chỗ “lẻ loi” là cái tôi linh thiêng với những nội dung<br />
và “bí hiểm”. không xác thực của nó. Họ lập luận:<br />
Thế giới thơ Hàn Mặc Tử càng đặc “Là bài thơ nếu bài văn chương (dù ở<br />
biệt với nhiều nét khác lạ khiến cho thể nào, loại nào) có chất thơ, hàm súc<br />
những độc giả bình thường cảm thấy cái rung động siêu thoát, phảng phất cái<br />
băn khoăn, khó hiểu. Nó là một “cõi đời hương vị tuyệt vời... và giá trị của nó<br />
cách biệt” đầy nhạc, đầy hương và lênh định ở cái lượng hàm súc cùng cái<br />
lang một màu trắng phi thực có khả phảng phất kia, truyền dẫn nhịp nhàng<br />
năng đồng hóa tuyệt đối mọi sự vật hữu trên cánh nhạc, bồng tới chỗ Trong,<br />
hình lẫn vô hình, có trọng lượng lẫn vô Đẹp, Thật = Đạo trong nghệ thuật.<br />
trọng lượng. Hàn Mặc Tử đã triệt để (.......) Bài thơ theo nghĩa chặt chẽ (kết<br />
<br />
30<br />
HOÀNG SỸ NGUYÊN<br />
<br />
<br />
bằng những câu có vần điệu, hay theo “Bích Khê đã thực thi một đoạn tuyệt<br />
những niêm luật rõ rệt hay tiềm tàng) cao hơn thời đại mình với thơ cũ và mọi<br />
có được trọn vẹn cái lượng và cái phẩm thách đố dáng sợ hơn với thơ đương<br />
nói trên kia”(8). Quan niệm này đã đưa đại”(11). Làm được điều đó, bởi vì “Có<br />
thơ vào địa hạt siêu hình. Trong số những nhà thơ làm thơ, có những nhà<br />
những người gieo hạt đó, có lẽ Bích thơ vừa làm thơ vừa đẩy lịch sử thơ ca<br />
Khê là thi sĩ có nhiều dấu ấn hơn cả. duy tân thêm một bước, có những nhà<br />
Trong thơ Bích Khê, cái tôi siêu thơ đem đến một mùa lương thực. Lại<br />
hình của con người tâm linh đa chiều có nhà thơ cầm một dúm hạt giống mới<br />
kích được phân li thành muôn mảnh để trên tay. Khê thuộc hạng thứ hai”(9).<br />
làm cuộc viễn du tinh thần, soi sáng bao Những quan niệm thơ khác nhau từ Thế<br />
niềm bí ẩn của con người như cõi vô Lữ, Xuân Diệu đến Chế Lan Viên, Hàn<br />
thức, tiềm thức: “… Hồn sao không Mặc Tử qua nhóm Xuân thu nhã tập,<br />
động mà say/ Chà! Đôi chim khướu nó Đinh Hùng,… đặc biệt Bích Khê thể<br />
bay tung trời…/ Nhạc đâu bỗng vót hiện sự vận động không ngừng, biểu<br />
từng khơi,/ Hồn theo với nhạc, hồn ơi là thị khát vọng thay đổi và phát triển của<br />
hồn!/ Buồn thôi như rượu thấm dồn/ thơ Việt Nam hiện đại. Để rồi, sau<br />
Lên men nồng khướt, xoay tròn trên những năm dài quan niệm văn thơ chi<br />
không” (Cuối thu). phối theo các cuộc kháng chiến giữ<br />
Bích Khê là nhà thơ tượng trưng. nước thần thánh của dân tộc, ngày nay,<br />
Nhiều thi sĩ Thơ mới đã chịu ảnh hưởng khi “cái ta cộng đồng” lắng xuống, cái<br />
tượng trưng Pháp của Baudelaire, tôi cá nhân trở lại ý thức sâu sắc sự hiện<br />
Rimbaud, Verlaine, Mallarme, Valery,… hữu của chính mình trong xã hội mới<br />
Bích Khê là người chịu ảnh hưởng đầy thì những quan niệm thơ như thế, ở mặt<br />
đủ nhất nhưng lại không theo một mẫu mẫn cảm và ôn hòa, nó lại tươi nguyên<br />
âm nào cả. Lê Huy Oanh nhận xét: giá trị, gặt hái nhiều mùa vàng bội thu.<br />
“Những tính chất tượng trưng đã phát 4. Kết luận<br />
hiện đầy đủ trong tập thơ Tinh huyết Sự xuất hiện con người cá nhân<br />
của Bích Khê. Vì vậy, muốn tìm hiểu trong xã hội Việt Nam những năm đầu<br />
ảnh hưởng thơ tượng trưng Pháp trong thế kỷ XX và những biến động lớn của<br />
thơ Tiền chiến không gì hơn là dùng tập xã hội đã đưa đến những đổi thay trong<br />
Tinh huyết làm tài liệu tiêu biểu cho thơ, tạo nên cái tôi trữ tình Thơ Mới.<br />
việc nghiên cứu”(2). Quan niệm về tính Cái tôi trữ tình đó chủ yếu biểu thị quan<br />
thẩm mỹ, thuyết tương giao, tính biểu niệm cá nhân của tầng lớp tiểu tư sản,<br />
tượng, tính nhạc; quan niệm về cái đẹp, tập trung bản chất và nhu cầu thời đại<br />
về cách cảm nhận một thế giới mới, những năm 1932-1945 và cơ tầng văn<br />
hình ảnh xã hội mới, hiện đại là những hóa xã hội thời kỳ này. Buổi đầu mới ra<br />
hạt giống đáng quý mà Bích Khê đã đời, cái tôi Thơ mới mang dáng điệu bỡ<br />
gieo. Hoàng Thiệu Khang khẳng đinh: ngỡ, rụt rè. Về sau, từ chỗ chỉ muốn<br />
<br />
31<br />
CÁI TÔI TRỮ TÌNH VÀ SỨ M NH GIEO HẠT CHO THƠ VI T NAM HI N ĐẠI TỪ THƠ MỚI…<br />
<br />
<br />
được bày tỏ, thổ lộ, cái tôi trữ tình Thơ Hội văn học nghệ thuật Quảng Ngãi tổ chức<br />
tháng 2/2006).<br />
Mới đã đi đến khát vọng hòa nhập,<br />
3. Lại Nguyên Ân (1998), “Nói thêm về điểm<br />
hưởng thụ. Giai đoạn cuối, cái tôi trữ khởi đầu phong trào Thơ mới (1932 -1945)”,<br />
tình Thơ Mới có sự phân hóa với những Tạp chí Văn học (2), tr 58 - 62.<br />
Bích Khê, Đinh Hùng, Vũ Hoàng 4. Phan Huy Dũng (1996), “Cái tôi thi nhân<br />
Chương và các nhà thơ nhóm Xuân thu trong Thơ Mới”, Thông báo khoa học của các<br />
trường Đại học, Đại học Sư phạm Vinh,<br />
nhã tập, Dạ Đài… Trong sự vận động tr 36 - 41.<br />
hoàn thiện và tìm đường hướng mới, cái 5. Tôn Thất Dụng (1993), Sự hình thành và vận<br />
tôi thi sĩ Thơ Mới đặc biệt chăm lo động của thể loại Tiểu thuyết văn xuôi tiếng<br />
chuyên môn hóa nghề thi sĩ và không Việt ở Nam Bộ giai đoạn từ cuối thế kỷ XIX<br />
đến 1932, Luận án Phó Tiến sĩ Khoa học Ngữ<br />
ngừng đẽo gọt, thanh chọn cho những văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội I, tr.31.<br />
sản phẩm đặc biệt của mình, tạo ra 6. Phan Cự Đệ (1997), Văn học lãng mạn Việt<br />
những thành tựu lớn. Quá trình đó đã Nam 30 - 45, Nxb Giáo dục, H, tr.26, 27.<br />
tạo bước nhảy đưa thơ Việt Nam từ 7. Huy Cận - Hà Minh Đức (1997), Nhìn lại một<br />
trung đại sang hiện đại. Đặc biệt, cái tôi cuộc cách mạng trong thi ca (60 năm phong<br />
trào Thơ Mới), Nxb Giáo Dục, H, tr.80.<br />
thi sĩ đó đã làm được sứ mênh gieo hạt,<br />
8. Văn Giá (2001), Một khoảng trời Văn học,<br />
đưa thơ Việt Nam theo kịp thơ hiện đại, NXB GD, H, tr.36, 38.<br />
hậu hiện đại thế giới. 9. Bích Khê (1988), Thơ Bích Khê, Sở văn hóa<br />
thông tin Nghĩa Bình, tr.26.<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
10. Nhiều tác giả (2002), Nhìn lại văn học Việt<br />
1. Vũ Tuấn Anh (1996), Sự vận động của cái tôi Nam thế kỷ XX, Nxb Chính trị Quốc gia, H,<br />
trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1945 đến nay, tr.58, 1077, 1080.<br />
Luận án Phó tiến sĩ Ngữ văn, H, tr.22.<br />
11. Nhiều tác giả (2003), 70 năm đọc thơ Bích<br />
2. Theo Trần Hoài Anh, “Bích Khê qua cái nhìn Khê, Nxb Thanh niên, H, tr.137.<br />
của nhà văn, nhà lý luận phê bình văn học ở<br />
đô thị miền Nam 1954-1975”, Kỷ yếu Hội 12. Hoài Thanh - Hoài Chân (TB 2000), Thi nhân<br />
thảo thơ Bích Khê do Hội nhà văn Việt Nam - Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội, tr.13, 14.<br />
<br />
<br />
<br />
Ngày nhận bài: 04/01/2017 Biên tập xong: 15/3/2017 Duyệt đăng: 20/3/2017<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
32<br />