TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 23 (48) - Thaùng 12/2016<br />
<br />
<br />
<br />
Cảm hứng nhàn tản trong thơ chữ Hán Nguyễn Du<br />
<br />
Relaxed inspiration in Nguyen Du’s poems written in Han (class Chinese)<br />
<br />
PGS.TS. Lê Văn Tấn<br />
Học viện Khoa học Xã hội, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam<br />
Le Van Tan, Assoc.Prof., Ph.D.,<br />
Graduate Academy of Social Sciences, Vietnam Academy of Social Sciences<br />
<br />
TS. Nguyễn Thị Hưởng<br />
Học viện Khoa học Xã hội, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam<br />
Nguyen Thi Huong, Ph.D.,<br />
Graduate Academy of Social Sciences, Vietnam Academy of Social Sciences<br />
<br />
Tóm tắt<br />
Nguyễn Du (1765-1820) là tập đại thành của văn học trung đại Việt Nam. Ngoài tác phẩm bất hủ “Đoạn<br />
trường tân thanh” và một số tác phẩm Nôm khác, ông có để lại 3 tập thơ chữ Hán với tổng số 249 bài. Qua<br />
đây, thi hào đã có dịp thể hiện, gửi gắm và ký thác nhiều tâm sự về thế đạo nhân tâm cũng như thân phận<br />
của một kẻ sĩ tài hoa nhưng cuộc đời nhiều cay đắng, tủi nhục. Trên hành trình ấy, những lúc thân mhỏi,<br />
tâm mệt, Nguyễn Du đã tìm đến với thiên nhiên, cuộc sống thôn dã như một phương thức để giải tỏa<br />
những ưu tư và giữ gìn khí tiết thanh cao. Điều này tạo nên trong thơ chữ Hán của ông cảm hứng về cái<br />
nhàn hay cảm hứng nhàn tản. Đây là nội dung chính được chúng tôi triển khai trong bài viết của mình.<br />
Từ khóa: Nguyễn Du, văn học trung đại, thơ chữ Hán, nhàn tản.<br />
Abstract<br />
Nguyen Du was the greatest writer of Vietnamese medieval literature. In addition to the immortal work<br />
“Doan truong tan thanh” and some works written in Chu Nom (Demotic script), he left three volumes of<br />
poetry with 249 poems written in Han. Through these poems, the poet had a chance of expressing his<br />
thoughts about human mind and the history of a talented artist who had a hard and bitter life. During the<br />
journey, when tired, Nguyen Du came into the nature and enjoyed the rural life, which was regarded as<br />
a means helping him to alleviate his sorrows and keep his noble nature. It brought his poems written in<br />
Han a relaxation or relaxed inspiration. The article is about this content.<br />
Keywords: Nguyen Du, Vietnamese medieval literature, Han poetry, relaxed inspiration.<br />
<br />
<br />
1. Từ sự lựa chọn của kẻ sĩ trong Và ở vào mỗi một giai đoạn lịch sử, một<br />
thời loạn… tình huống hay một số phận, người ta lại<br />
Đại thi hào Nguyễn Du (1765-1820), tìm thấy ở Nguyễn Du những kinh nghiệm<br />
tập đại thành của văn chương trung đại, có ý nghĩa sâu sắc, máu thịt. Nguyễn Du<br />
niềm vinh dự cho bất kỳ một nền văn học cùng với những đứa con tinh thần của ông<br />
dân tộc nào đã cách chúng ta ngót một góc lẽ đó mà đã đi vào đời sống tinh thần người<br />
phần tư của thiên niên kỷ song những giá Việt suốt ngần ấy tháng năm và sẽ còn<br />
trị tình thần mà ông để lại luôn sống mãi. đồng hành suốt chiều dài quê hương, đất<br />
<br />
53<br />
nước tới mai sau. lựa chọn của lịch sử (ý của C.Max), cái<br />
Nguyễn Du sinh ra trong một gia đình khát vọng kinh bang tế thế từng cháy rừng<br />
có truyền thống khoa bảng và văn chương. rực ở những tiền bối (như Nguyễn Phi<br />
Cụ thân sinh Nguyễn Nghiễm (1708-1775) Khanh, Nguyễn Trãi, Phùng Khắc<br />
và người anh trai cùng cha khác mẹ Khoan…) đến thời đại của Nguyễn Du đã<br />
Nguyễn Khản (1734-1786) của nhà văn không còn nữa. Thời thế, sự “va đập” có<br />
đều nổi tiếng về tài năng, trí tuệ cũng như tính định mệnh của xã hội đã đẩy thi hào<br />
phong lưu một thuở. Mẹ Nguyễn Du là bà sang một hướng khác, hướng mà ở đó ông<br />
Trần Thị Tần (1740-1778) thì nổi tiếng đã ghi dấu vĩnh viễn, trường tồn như ngọn<br />
xinh đẹp, đa tình lại có tài xướng ca. Chắc núi Hồng, như dòng sông Lam quê hương<br />
hẳn, tính cách, tố chất ở thi hào đã chịu trong trái tim của độc giả muôn đời.<br />
những ảnh hưởng không nhỏ từ ba con Xin nói thêm, trong thời kỳ trung đại,<br />
người này. Tiếc là cả cha và mẹ đều mất với bất kỳ sĩ hoạn nào, một khi đã theo học<br />
khi Nguyễn Du còn nhỏ khiến những định Nho giáo đều mang trong mình cái khát<br />
hướng ban đầu cho một sự nghiệp ở thi hào vọng được mang tài năng, tâm huyết của<br />
có nhiều dang dở. Đến ở với người anh trai mình để phục vụ triều đại, phục vụ đất<br />
chưa được bao lâu thì xảy ra “Vụ án năm nước, nhân dân. Song đường đi của mỗi<br />
Canh Tý”, Nguyễn Khản bị khép tội mưu người mỗi khác. Có người thành, có người<br />
loạn và bị bắt giam ở nhà Châu Quận công. bại, có người có cơ hội có người lại không,<br />
Nguyễn Du được ông Đoàn Nguyễn Tuấn có người có thể “cháy hết mình”, cũng lại<br />
(một người thân với cụ Nguyễn Nghiễm) có người “nửa đường đứt gánh”, gối mỏi<br />
đón về nuôi dạy ở trấn Sơn Nam Hạ. Sau thân mệt mà dùng dằng, chần chừ… Ở đó<br />
khi Trịnh Sâm mất (1782), kiêu binh phế có cả những nguyên nhân khách quan và<br />
Trịnh Cán, lập Trịnh Tông lên ngôi chúa, có cả những nguyên nhân chủ quan mà<br />
hai người anh của Nguyễn Du được phục không phải lúc nào cũng dễ dàng lý giải<br />
chức (Nguyễn Khản làm Thượng thư bộ cho thấu tình đạt lý. Nhìn vào hành trạng<br />
Lại; Nguyễn Điều làm Trấn thủ Sơn Tây), hoạn lộ của Nguyễn Du, chúng tôi có một<br />
Nguyễn Du bắt đầu tham gia thi cử với cảm nhận dường như với ông, việc theo<br />
khát vọng lập thân, lập danh, cũng là để bắt triều đại nào, nhậm một chức tước nào với<br />
đầu tìm kiếm những cơ hội nhằm hiện thực ông đều khá miễn cưỡng. Năm 1789, khi<br />
hóa mơ ước của kẻ sĩ trung đại. Năm 1783, Nguyễn Huệ ra Bắc đại phá quân Thanh,<br />
Nguyễn Du tham gia thi Hương ở Sơn nhiều kẽ sĩ Bắc Hà khó tính nhất cũng đã<br />
Nam đỗ Tam trường (Tú tài), lấy vợ là con theo Tây Sơn (Ninh Tốn, Ngô Thì Nhậm,<br />
gái Đoàn Nguyễn Thục và được tập ấm Đoàn Nguyễn Tuấn…) thì bản thân<br />
chức “Chánh thủ hiệu hiệu quân Hùng Nguyễn Du lại phiêu dạt về quê vợ ở Thái<br />
hậu” của cha nuôi họ Hà ở Thái Nguyên. Bình. Mùa đông năm 1796, Nguyễn Du<br />
Có thể nói rằng, giá như trong một tình thế trốn vào Gia Định theo chúa Nguyễn Ánh<br />
khác của lịch sử, của thời thế thì với kẻ sĩ nhưng bị Quận công Nguyễn Thận bắt<br />
như Nguyễn Du đây sẽ là sự khởi đầu ít giam ba tháng ở Nghệ An sau khi được tha<br />
nhiều suôn sẻ của một sự nghiệp hành đạo. ông về sống ở Tiên Điền. Trong thời gian<br />
Song rất tiếc, sự lựa chọn của cá nhân bị giam ông có làm thơ “My trung mạn<br />
không phải bao giờ cũng trùng khít với sự hứng” (Cảm hứng trong tù) như sau:<br />
<br />
54<br />
Chung tử viên cầm tháo nam âm, đô thành các triều vua trước/ Đường sá<br />
Trang Tích bệnh trung di Việt ngâm. ngang dọc, lạc mất dấu vết cũ/ Tiếng đàn<br />
Tứ hải phong trần gia quốc lệ, sáo cũng đổi khác, xen lẫn âm thanh mới/<br />
Thập tuần lao ngục tử sinh tâm. Phú quý nghìn xưa vẫn làm cái mồi cho sự<br />
Bình Chương di hận hà thời liễu? tranh đoạt/ Bạn bè hồi trẻ, kẻ mất người<br />
Cô Trúc cao phong bất khả tầm. còn/ Thôi đừng than thở chuyện đời chìm<br />
Ngã hữu thốn tâm vô dữ ngữ, nổi/ Mái tóc mình cũng đã bạc lốm đốm.).2<br />
Hồng Sơn sơn hạ Quế Giang thâm. Có điều là nỗi niềm với cựu triều<br />
(Chung tử gảy đàn theo điệu Nam/ không đưa nhà thơ tới những cực đoan<br />
Trang Tích khi ốm vẫn rên bằng tiếng Việt/ trong nhận thức mặc dù ông vẫn hi vọng<br />
Bốn bể gió bụi, nghĩ tình nhà việc nước mà một sự đổi khác. Ông ý thức được sự hưng<br />
rơi lệ/ Mười tuần lao tù, lòng coi thường phế có tính tất yếu của thế cuộc nhưng vẫn<br />
sống chết/ Bao giờ mới hết mối hận Bình muốn một cục diện khác để có thể thực sự<br />
Chương?/ Khó mà tìm được phong cách hài lòng cống hiến. Đó chính là cái lẽ khiến<br />
cao thượng của con người nước Cô Trúc/ cho ông thản nhiên sau đó ra làm quan cho<br />
Ta có một chút tâm sự không biết tỏ cùng triều Nguyễn, bắt đầu từ năm 1802. Và<br />
ai/ Dưới chân núi Hồng, sông Quế Giang cũng từ thời gian đó cho tới khi mất, tình<br />
sâu thẳm.)1. cảm, thái độ của ông khi tham gia triều<br />
Rõ ràng “mối hận” và “một chút tâm chính có phần chểnh mảng, đâu đó bất đắc<br />
sự” trên đây đã cho thấy ở thi hào ý thức chí, thậm chí đã có những lúc ông nghĩ đến<br />
rất cao về tài năng, nhân cách cũng như cái chết:<br />
những khát vọng của cá nhân ở vào hoàn Xúc ca thanh đoản mạn thanh trường,<br />
cảnh không được như ý. Thật khó để phán Bạch phát tiêu tiêu cổ đạo bang.<br />
xét song rõ ràng, nhận thức cũng như thái Tế giản thủy thanh lưu tích vũ,<br />
độ của Nguyễn Du với Tây Sơn không Bình sa nhân ảnh tại tà dương.<br />
giống như với những nho sĩ khác cùng Quyên ai mạc báo sinh hà bổ,<br />
thời. Ông muốn bánh xe thời gian quay Nhi nữ thành quần tử bất phương.<br />
ngược trở lại hay trông chờ vào một sự Hồi thủ cố hương thu sắc viễn,<br />
thay đổi nào khác? Tâm trạng hoài Lê ở Hoành sơn vân thụ chính thương thương.<br />
ông như các nhà nghiên cứu đi trước đã chỉ (Giang đầu tản bộ, kỳ 2)<br />
ra là có thật: (Hát gấp thì tiếng ngắn, hát thong thả<br />
Cổ thời minh nguyệt chiếu tân thành, thì tiếng dài/ Đầu bạc bơ phờ đi bên con<br />
Do thị Thăng Long cựu đế kinh. đường cổ/ Lạch nhỏ dồn nước mưa tiếng<br />
Cù hạng tứ khai mê cựu tích, chảy reo/ Bóng chiều lúc chiều tà in trên<br />
Quản tuyền nhất biến tạp tân thanh. bãi cát/ Chưa báo đáp được mảy may, sống<br />
Thiên niên phú quý cung trang đoạt, chẳng ích gì/ Trai gái hàng đàn, chết cũng<br />
Tảo tuế thân bằng bán tử sinh. chẳng ngại/ Ngoảnh nhìn về quê nhà, vẻ<br />
Thế sự phù trầm hưu thán tức, thu xa lắc/ Mây và cây cối trên dãy Hoành<br />
Tự gia đầu bạch diệc tinh tinh. sơn một màu xanh biếc - Dạo chơi đầu<br />
(Thăng Long, kỳ 2) sông, bài 2).3<br />
(Mảnh trăng ngày trước soi xuống Trong “Nam trung tạp ngâm” và “Bắc<br />
ngôi thành mới/ Đây vẫn là Thăng Long, hành tạp lục” cho thấy Nguyễn Du đã có<br />
<br />
55<br />
một cái nhìn hiện thực tỉnh táo đối với giai phận cá nhân. Trong thơ chữ Hán, chúng<br />
cấp chính trị lúc bấy giờ. Ông nhìn thấy tôi nhận thấy Nguyễn Du đã có cái nhìn<br />
chốn quan trường chỉ là lợi danh, thoán nhân văn sâu sắc về cuộc đời nói chung.<br />
đoạt; kẻ thực tài, thực tâm thì không được Cái nhìn nhân văn ấy được hướng tới các<br />
dụng. Cùng với những trải nghiệm 10 năm tầng lớp, giai cấp khác nhau trong xã hội,<br />
gió bụi trước đây và thân tâm không phải góp phần quan trọng tạo nên sự phong phú<br />
không có những lúc mỏi mệt, đại thi hào của hệ thống hình tượng thơ chữ Hán<br />
chỉ còn một sự lựa chọn duy nhất là kiên Nguyễn Du.<br />
trinh một tấm lòng trong sạch, không bợn Trước hết, từ sự trải nghiệm cuộc sống<br />
tục lụy. Và đây cũng là lúc ông tìm đến xa hoa của cung vua phủ chúa, cũng như<br />
Đạo giáo, Phật giáo để tự xoa dịu, an ủi, những quan sát thực tế sau này mà Nguyễn<br />
cũng là “điểm tựa” ru lòng mình giữa cõi Du đã có một cái nhìn hiện thực mang tinh<br />
nhân sinh quá nhiều đen tối. thần phê phán đối với quan tham lại nhũng,<br />
Con đường của Nguyễn Du trong một những kẻ áp bức, bóc lột chà đạp lên quyền<br />
thời đại nhiều song gió quả có gập ghềnh sống của con người. Tuy nhiên, cái cách<br />
mà lịch sử đã không chọn ông trong tư cách mà nhà thơ diễn đạt nội dung này lại khá<br />
của một ông quan hành đạo - nhập thế (như nhẹ nhàng, đôi chỗ ẩn ý, gián tiếp. Những<br />
nhiều kẻ sĩ khác cùng thời). Đọc 249 bài lời thơ như thế này thực ra không nhiều<br />
thơ chữ Hán, chúng tôi thấy Nguyễn Du trong thơ chữ Hán Nguyễn Du:<br />
dường như không có một chút hứng thú với Tây Sơn chư thần mãn tọa tận khuynh đảo,<br />
lý tưởng hành đạo mà đáng lẽ ra một kẻ sĩ Triệt dạ truy hoan bất tri bão.<br />
như ông sẽ nhiều ít đề cập tới. Nếu nói ông Tả phao hữu trịch tranh triền đầu,<br />
không có tài cho sự lựa chọn ấy hẳn nhiên Nê thổ kim tiền thù thảo thảo.<br />
là không đúng; và nếu nói “giá như” có một (Long Thành cầm giả ca)<br />
lựa chọn lại cũng là phi biện chứng. Chúng (Các quan Tây Sơn trong tiệc rượu đều<br />
tôi cho rằng, sự lựa chọn cuộc đời của nghiêng ngả/ Mảng vui suốt đêm không<br />
Nguyễn Du tiêu biểu cho một hướng lựa biết chán/ Phía tả phía hữu tranh nhau gieo<br />
chọn của kẻ sĩ trong thời loạn để vị trí, tên thưởng/ Tiền bạc coi rẻ như đất bùn - Bài<br />
tuổi của ông sẽ được nhắc mãi trong một tư ca người gảy đàn ở Long Thành).4<br />
cách khác: tư cách của một nhà nhân văn Trong khi đó, tác giả lại thường nhân<br />
chủ nghĩa vĩ đại với cái nhìn hiện thực phi cảnh hiện tại mà ngẫm đến cảnh xưa, nhìn<br />
lạc quan hóa, từ trong thơ chữ Hán đến cái hoang tàn của hôm nay mà nuối tiếc một<br />
tuyệt tác “Đoạn trường tân thanh”. thời vàng son của quá khứ. Hãy khoan nói<br />
2. … Đến một cái nhìn nhân văn về đến xúc cảm hồi cố cựu triều thì rõ ràng<br />
cuộc đời trong tương quan như thế, lời thơ Nguyễn<br />
Hẳn nhiên, khi mà con đường hành Du toát lên một cách ý nhị âm hưởng phê<br />
đạo, lý tưởng hành đạo vốn đã trở thành phán triều đại đương thời:<br />
thứ “thuộc lòng” của Nho sĩ bấy nay Thiên niên cự thất thành quan đạo,<br />
không còn có cơ hội cháy lên trong trái tim Nhất phiến tân thành một cố cung.<br />
Nguyễn Du thì đó cũng là lúc mà thi hào (Thăng Long, kỳ 1)<br />
hướng sự quan tâm của mình tới những (Những ngôi nhà đồ sộ nghìn xưa, nay<br />
vấn đề khác của xã hội cũng như của thân thành đường cái,<br />
<br />
56<br />
Một dải thành mới làm mất dấu vết cũng chưa có gì là chắc chắn:<br />
cung điện cũ)5 … Nhân tòng đạm bạc tư vi chính,<br />
Nhìn cảnh hoang phế của thành phủ Thiên vị kiềm lê bất phóng nhàn.<br />
mà lòng thi nhân nhuốm nỗi u hoài: Bắc vọng Hồng Sơn khai đức diệu,<br />
Thập tải trần ai ám ngọc trừ, Thiên nhai cử tửu khánh hương quan.<br />
Bách niên thành phủ bán hoang khư. (Tống Ngô Nhữ Sơn công xuất trấn<br />
Yêu ma trùng điểu cao phi tận, Nghệ An)<br />
Trỉ uế càn khôn huyết chiến dư. (Tính ông đạm bạc sẽ thể hiện vào<br />
Tang tử binh tiền thiên lý lệ, chính sự/ Trời vì nhân dân nên chưa cho<br />
Thân bằng đăng hạ sổ hàng thư. ông được nhàn rỗi/ Trông về núi Hồng ở<br />
Ngư long lãnh lạc nhàn thu dạ, phía bắc, thấy ngôi sao nhân đức hiện lên/<br />
Bách chúng u hoài vị nhất sư. Từ phương trời xa, tôi nâng cốc chúc mừng<br />
(Bát muộn) quê hương tôi - Tiễn ông Ngô Nhữ Sơn ra<br />
(Cát bụi che mờ thềm ngọc đã mười làm Hiệp trấn Nghệ An).7<br />
năm/ Thành phủ xây dựng trăm năm nay, Cái nhìn nhân văn của thi hào về cuộc<br />
một nửa đã thành gò hoang/ Những loài đời tiếp tục được thể hiện và thể hiện rõ<br />
chim, sâu nhỏ bé, đều bay hết cá/ Sau cuộc hơn ở cái nhìn cảm thông, chia sẻ đối với<br />
huyết chiến, chỉ còn lại cõi càn khôn nhơ những thân phận, những cảnh đời cơ cực,<br />
nhớp/ Quê nhà trong cơn binh lửa, mình ở các tầng lớp dưới đáy của xã hội. Niềm<br />
xa ngàn dặm, nước mắt tuôn rơi/ Bạn bè, cảm thông, chia sẻ ấy ở Nguyễn Du vượt<br />
bà con chỉ còn lại mấy hàng thư dưới đèn/ biên giới quốc gia dân tộc để đến với con<br />
Đêm thu vắng, cá rồng lặng lẽ/ Trăm mối u người nói chung. Đây là bài thơ thể hiện<br />
hoài chưa dẹp được - Xua nỗi buồn).6 tình cảm của nhà thơ trên đường đi sứ với<br />
Nỗi niềm của Nguyễn Du ở đây khiến một người phu xe bắt gặp trên đường:<br />
chúng tôi chợt nhớ tới những câu thơ của Hà Nam thu bát nguyệt,<br />
Bà Huyện Thanh Quan, những câu thơ Tàn thử vị tiêu dung.<br />
mang mang một nỗi quan hoài với xúc cảm Lộ xuất lương phong ngoại,<br />
nhân văn của thi nhân trước cái đẹp đã vĩnh Nhân hành liệt nhật trung.<br />
viễn tạc vào tâm trí bao kẻ sĩ một thời: Đồ trường tê quyện mã,<br />
Tạo hóa gây chi cuộc hí trường Mục đoạn diệt qui hồng.<br />
Ðến nay thấm thoắt mấy tinh sương Hà xứ thôi xa hán?<br />
Lối xưa xe ngựa thành thu thảo Tương khan lục lục đồng.<br />
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương (Hà Nam đạo trung khốc thử)<br />
Ðá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt (Đến Hà Nam tháng tám giữa mùa thu/<br />
Nước còn cau mặt với tang thương. Hơi nóng tàn chưa tan hết/ Trên đường vẫn<br />
Ngàn năm gương cũ soi kim cổ chưa có gió mát/ Người đi dưới ánh nắng<br />
Cảnh đấy người đây luốn đoạn trường. gay gắt/ Đường dài, ngựa mỏi hí vang/<br />
(Thăng Long thành hoài cổ) Nhìn hết tầm mắt, mất bóng chim hồng bay<br />
Từ đó, Nguyễn Du gửi gắm niềm hi về/ Anh đẩy xe kia ở đâu ta nhỉ?/ Nhìn<br />
vọng của mình về một sự thay đổi nhân nhau, thấy vất vả như nhau - Nắng to trên<br />
tiễn bạn đi nhậm chức, dù bản thân ông đã đường đi Hà Nam).8<br />
tự nhận thấy niềm hi vọng ấy của mình Chứng kiến cảnh người hát rong ở<br />
<br />
57<br />
thành Thái Bình cố hết sức để hát cho Hữu thử cùng nhi nương.<br />
khách mà chỉ được năm sáu đồng tiền; Thùy nhân tả thử đồ,<br />
người trên thuyền rượu thịt thừa thãi đổ cả Trì dĩ phụng quân vương.<br />
xuống sông trong khi cha con người hát (Sở kiến hành)<br />
rong thì bụng đói bước lên bờ, lòng thi (Đồ bỏ không hề tiếc/ Chó hàng xóm<br />
nhân thấy quặn thắt: cũng chán thức ngon/ Không biết trên đường<br />
Khẩu phún bạch mạt, thủ toan xúc, cái quan/ Có mẹ con nhà này cùng cực đến<br />
Khước tọa, liễm huyền, cáo chung khúc. thế!/ Ai vẽ bức tranh này/ Đem dâng lên nhà<br />
Đàn tận tâm lực cơ nhất canh, vua! - Những điều trông thấy).10<br />
Sở đắc đồng tiền cận ngũ lục. Cuối cùng không thể không nhắc đến<br />
… cái nhìn nhân văn của thi nhân đối với chính<br />
Ngã sạ kiến chi, bi thả tân: bản thân mình. Có thể nói rằng, chiếm số<br />
Phàm nhân nguyện tử bất nguyện bần. lượng nhiều nhất trong thơ chữ Hán Nguyễn<br />
Chỉ đạo Trung Hoa tẫn ôn bão, Du chính là những sáng tác thể hiện những<br />
Trung Hoa diệc hữu như thử nhân! trăn trở, suy tư, những trạng thái cung bậc<br />
Quân bất kiến sứ thuyền triêu lai cung tình cảm hết sức đa dạng của nhà thơ về con<br />
đốn lệ, người thân phận. Rất nhiều lần nhà thơ nhắc<br />
Nhất thuyền, nhất thuyền doanh nhục mễ. đến hình ảnh của mình ốm yếu tiều tụy, cô<br />
Hành nhân bão thực tiện khí dư, đơn giữa cuộc đời quá nhiều dâu bể, thân<br />
Tàn hào lãnh phạn trầm giang để. tâm mỏi mệt, tóc bạc trắng bụi thời gian:<br />
(Thái Bình mại giả ca) … Thanh chiên cựu vật khổ trân tích,<br />
(Ông già miệng sùi bọt, tay mỏi rời/ Bạch phát hùng tâm không đốt ta.<br />
Ngồi lại cất đàn, nói là đã hát xong/ Gắng Tái bệnh thượng tu điều nhiếp lực,<br />
hết tâm sức gần một trống canh/ Mà chỉ Bất tri thu tứ đáo thùy gia.<br />
được năm sáu đồng tiền…/ Tôi trong thấy (Khai song)<br />
mà thương xót/ Người ta thà chết còn hơn (Chiếc nệm xanh, vật cũ, khư khư giữ<br />
nghèo/ Thường nghe nói đất Trung Hoa ai mãi/ Tóc bạc rồi, dù có hùng tâm, cũng<br />
cũng no ấm/ (Không ngờ) Trung Hoa cũng ngồi than thở suông mà thôi/ Bệnh trở lại<br />
có người như thế ấy!/ Kìa không thấy lệ phải lo điều dưỡng/ Không biết ý thu đến<br />
cung đốn cho đoàn sứ/ Thuyền này thuyền nhà ai? - Mở cửa sổ).11<br />
kia đều đầy gạo thịt/ Mọi người ăn uống Nỗi cô đơn buồn nản, sự chán chường ở<br />
thỏa thuê, còn thì bỏ/ Cơm thừa canh nguội thi nhân hẳn có những căn nguyên từ ý thức<br />
đổ cả xuống sông! - Người hát rong ở của một con người nhiều tài năng, nhiều khát<br />
thành Thái Bình).9 vọng mà lực bất tòng tâm, biết đấy mà đành<br />
Nhà thơ mong muốn được vẽ lại vậy. Nhất là những lúc ốm đau, Nguyễn Du<br />
những cảnh đời như thế này để dâng lên giãi bày trong lời thơ một nỗi niềm thực sự<br />
cho nhà vua được biết (mặc dù “nhà vua” ở cảm động, hướng đến cái hư không huyễn ảo<br />
đây cũng chỉ được hiểu như là một niềm của kiếp người:<br />
mơ ước mà thôi!): Đa bệnh đa sầu khí bất thư,<br />
Bát khí vô cố tích, Thập tuần khốn ngọa Quế Giang cư.<br />
Lân cẩu yếm cao lương. Lệ thần nhập thất thôn nhân phách,<br />
Bất tri quan đạo thượng, Cơ thử duyên sàng khiết ngã thư.<br />
<br />
58<br />
Vị hữu văn chương sinh nghiệt chướng, thái. Xét ở phương diện triết học, cảm<br />
Bất dung trần cấu tạp thanh hư. hứng hướng về cái nhàn của các nho sĩ<br />
Tam lan song hạ ngâm thanh tuyệt, trung đại có sự ảnh hưởng khá rõ từ phép<br />
Điểm điểm tinh thần du thái sơ. ứng xử linh hoạt của Nho giáo, triết lý vô<br />
(Ngọa bệnh) vi, tiêu dao nhàn tản, giải phóng khỏi<br />
(Lắm bệnh, hay buồn, tâm thần không những ràng buộc xã hội, huyễn hoặc,<br />
được thư thái/ Mười tuần nay nằm co bên hướng tới cái tự nhiên, tự mỹ, sống thuận<br />
bờ Quế Giang/ Thần ôn vào nhà muốn bắt theo tự nhiên, hòa vào thiên nhiên của Đạo<br />
vía người/ Chuột đói leo giường gặm sách gia và phần nào chứa đựng ở đó cả tư<br />
vở của ta/ Chưa từng có chuyện văn tưởng thoát ly cõi tục, gần gũi và hòa nhập<br />
chương sinh ra nghiệt chướng/ Không để với thiên nhiên của Phật giáo.13 Tất nhiên,<br />
cho bụi bặm lẫn vào nơi trong sạch/ Dưới cách ứng xử với cái nhàn ở mỗi thi nhân sẽ<br />
cửa sổ tam lan, vắng bặt tiếng ngâm nga/ khác nhau: có những người đẩy cái nhàn<br />
Tinh thần dần dần về cõi hư không - Ốm).12 lên như một triết lý sống, lẽ sống ở vào<br />
Trở lên có thể thấy rằng, từ sự nhận một giai đoạn nào đó của cuộc đời và cũng<br />
thức tỉnh táo về hiện thực cũng như về bản có thể là cả cuộc đời của mình (như đối với<br />
thể, thân phận, Nguyễn Du đã lựa chọn một loại hình tác giả nhà nho ẩn dật với những<br />
con đường đi riêng của mình trong buổi tên tuổi tiêu biểu như Nguyễn Trãi,<br />
loạn ly của đất nước. Khát vọng hành đạo Nguyễn Hãng, Nguyễn Bỉnh Khiêm…);<br />
theo cái nghĩa thông thường của nho sĩ bấy cũng có những thi nhân hướng đến nó như<br />
lâu nay một khi đã vĩnh viễn không còn và chỉ là một cách để giải tỏa những ưu sầu<br />
không thể bùng cháy được thì đó cũng là lúc thế sự, là những giây phút nghỉ ngơi, tĩnh<br />
thi nhân hướng những quan tâm của mình dưỡng sau bao bận rộn quan trường hay<br />
về hiện thực, về xã hội, về cuộc đời bằng cái những công việc thường nhật khác. Nếu<br />
nhìn, thái độ phủ định đối với lợi danh, theo đường hướng thứ hai này thì cứ như<br />
quan trường; cảm thông chia sẻ đối với khảo sát của chúng tôi, hầu hết các thi nhân<br />
những số phận bi kịch và cảm thương cho trung đại, người ít người nhiều đều nói tới,<br />
chính cá nhân ông. Cái nhìn ấy, nỗi niềm ấy đều hướng đến cái nhàn, tất nhiên cách thể<br />
liệu có giúp thi nhân thanh thản? Hay chính hiện mỗi người mỗi khác. Từ đây, chúng<br />
nó lại thêm một lần nữa khiến thi nhân càng tôi cho rằng có sự hình thành của một loại<br />
thêm trĩu nặng bao thế thái nhân tình? Vả hình tác giả nhàn tản và một dòng thơ ca<br />
chăng chỉ có khi, mặc dù không nhiều, nhàn tản trong văn học trung đại Việt Nam<br />
Nguyễn Du hướng xúc cảm thường nhật của với những đặc sắc trên cả hai phương diện<br />
mình về với thiên nhiên tạo vật, về cái cái nội dung và nghệ thuật cần được nghiên<br />
nhàn (như cách thể hiện của bao thi nhân cứu như một đề tài chuyên biệt.14<br />
khác trước và sau ông) thì đó mới là những Cảm hứng về cái nhàn trong thơ chữ<br />
giây phút thi nhân được giải phóng những u Hán Nguyễn Du đi theo hướng thứ hai, như<br />
ẩn nội tâm trước vần xoay thế cuộc, trước chúng tôi đã nói ở trên song có những tình<br />
đảo điên thế thái nhân tình. ý và cách thức thể hiện riêng. Về tần suất,<br />
3. Và cảm hứng về cái nhàn: thời gian mười năm gió bụi (1786-1795),<br />
Phương thức giải phóng những u ẩn nội tâm dưới chân núi Hồng (1796-1802) và làm<br />
Nhàn ở đây được hiểu là nhàn nhã, thư quan ở Bắc Hà (1802-1804) là khoảng thời<br />
<br />
59<br />
gian tác giả nhắc nhiều tới cái nhàn nhất. (… Vầng trăng sáng đầy trời giọi<br />
Lẽ bởi đây chính là quãng thời gian mà xuống mặt nước ao/ Ngọn đèn lạnh bên<br />
Nguyễn Du vừa trải qua, chứng kiến những vách leo lét trước làn gió muôn cây/ Già<br />
“va đập” của chế độ chính trị đương thời rồi, vẫn chưa biết mình vụng đường sinh<br />
đối với đại gia đình của ông. Đó cũng là kế/ Hết nghiệp chướng, mới thấy tấm lòng<br />
quãng thời gian nhà thơ còn ít nhiều niềm xưa nhẹ nhõm/ Làm bạn với khách ngư<br />
hi vọng, trông ngóng về một cục diện mới tiều năm này sang năm khác/ Cười ngạo<br />
mà ở đó ông có cơ hội được gánh vác, mặc nghễ giữa khói mặt hồ và cỏ đồng nội -<br />
dù ý thức về sự bất tài, về tuổi già sức mỏi Đêm trong xóm).16<br />
cũng đã xuất hiện nhiều: Trong thời gian này, có tổng số 06 bài<br />
Hoàng Mai kiều thượng tịch dương hồng, Nguyễn Du trực tiếp nhắc đến chữ nhàn,<br />
Hoàng Mai kiều hạ thủy lưu đông. gồm các bài: Khai song (Mở cửa sổ), Đối<br />
Nguyên khí phù trầm thương hải ngoại, tửu (Ngồi uống rượu), Liệp (Đi săn), Mộ<br />
Tình lam thôn thổ loạn lưu trung. xuân mạn hứng (Cuối xuân cảm hứng),<br />
Đoản soa ngư chẩm cô chu nguyệt, Đồng Lung giang (Sông Đồng Lung) và<br />
Trường địch đồng xuy cổ kính phong. Lạng Sơn đạo trung (Trên đường đi Lạng<br />
Đại địa văn chương tùy xứ kiến, Sơn). Những giây phút nhàn nhã, thảnh<br />
Quân tâm hà sự thái thông thông. thơi thực sự có ý nghĩa quan trọng đối với<br />
(Hoàng Mai kiều vãn diểu) nhà thơ, giúp thi nhân cân bằng được cảm<br />
(Trên cầu Hoàng Mai, bóng chiều xúc của mình trước cuộc sống, hòa mình<br />
nhuốm đỏ/ Dưới cầu Hoàng Mai, nước cùng với cuộc sống xóm thôn, lấy hươu nai<br />
chảy về đông/ Nguyên khí nổi chìm ở làm bầu bạn:<br />
ngoài bể rộng/ Giữa dòng sông khí núi tỏa Môn tiền yên cảnh cận như hà,<br />
xuống từng đợt/ Nhà chài nằm gối áo tơi Nhàn nhật khai song sinh ý đa…<br />
trong chiếc thuyền lẻ loi dưới ánh trăng/ (Khai song)<br />
Em bé đi trên lối cũ thổi sáo trước làn gió/ (Phong cảnh trước nhà nay ra sao?/<br />
Trên mặt đất rộng lớn này, ở đâu không có Thong thả, mở cửa sổ thấy mọi vật vui<br />
cảnh đẹp/ Việc gì mà anh phải quá vội tươi… - Mở cửa sổ).17<br />
vàng? - Buổi chiều đứng trên cầu Hoàng Y quan đạt giả chí thanh vân,<br />
Mai ngắm cảnh).15 Ngô diệc lạc ngô mi lộc quần.<br />
Trong không gian của một đêm trăng Giải thích nhàn tình an tại hoạch,<br />
sáng, đối diện với ngọn đèn bên vách, thi Bỉnh trừ dị loại bất phương nhân…<br />
nhân cảm thấy lòng mình thanh thản, bao (Liệp)<br />
nghiệp chướng rồi cũng qua đi như gió bụi (Những người làm quan hiển đạt thì<br />
thời gian: chí ở đường mây/ Còn ta, ta cũng vui với<br />
…Mãn thiên minh nguyệt nhất trì thủy, lũ hươu nai của ta/ Cốt thư thái tâm tình,<br />
Bán bích hàn đăng vạn thụ phong. chứ không cốt săn bắn cho được/ Nhưng<br />
Lão khứ vị tri sinh kế chuyết, dù có giết giống khác cũng không hại đến<br />
Chướng tiêu thời giác túc tâm không. điều nhân… - Đi săn).18<br />
Niên niên kết đắc ngư tiều lữ, Từ đó, Nguyễn Du tìm cách chối từ<br />
Tiếu ngạo hồ yên dã thảo trung. bả phù hoa, coi danh lợi chỉ như cơn gió<br />
(Thôn dạ) thoảng qua; nỗi cô đơn sầu muộn của kiếp<br />
<br />
60<br />
người rồi cũng qua đi dẫu vẫn biết cõi phù thường lại là một nỗi niềm thế thái hướng về<br />
sinh là “cái nợ” ai cũng phải trải qua: cuộc đời, cuộc sống xã hội của thi nhân.<br />
… Phù thế công danh khan điểu quá, Những vẫn thơ nhàn của Nguyễn Du vì thế<br />
Nhàn đình tiết tự đái oanh thiên… mà đọc lên vẫn cảm thấy cái dư vị nghèn<br />
Phù lợi vinh danh chung nhất tán, nghẹn, cay chua của một thân phận, của một<br />
Hà như cập tảo học thần tiên. kiếp người nhiều tài hoa, nhiều khát vọng mà<br />
(Mộ xuân mạn hứng) đa đoan, cực nhọc:<br />
(… Công danh ở đời xem như chim … Anh hùng tâm sự hoang trì sính,<br />
bay vút qua/ Trước sân vắng, thời tiết cũng Danh lợi doanh trường lụy tiếu tần.<br />
theo chim oanh mà đổi dời…/ Danh lợi hão Nhân tự tiêu điều xuân tự hảo,<br />
huyền cuối cùng sẽ tiêu tan hết/ Sao bằng Đoàn thành thành hạ nhất triêm cân.<br />
kịp thời sớm theo đạo thần tiên! - Cuối (Xuân tiêu lữ thứ)<br />
xuân cảm hứng).19 (Tâm sự anh hùng đã nguội lạnh, không<br />
Đồng Lung giang thủy khứ dud u, nghĩ đến chuyện rong ruổi/ Trên đường danh<br />
Kim cổ nhàn sầu bất trú lưu. lợi, buồn hay vui, cũng không được tự nhiên/<br />
Sa chủy tàn lô phi bạch lộ, Người thì tiều tụy, nhưng xuân vẫn đẹp/<br />
Lũng đầu lạc nguyệt ngọa hàn ngưu… Đứng dưới Đoàn thành, nước mắt thấm khăn<br />
(Đồng Lung giang) - Đêm xuân lữ thứ).21<br />
(Nước sông Đồng Lung chảy xa thăm Một ước muốn về nghỉ mà với ai thì<br />
thẳm/ Mối sầu man mác kim cổ cũng trôi thật dễ dàng nhưng với thi hào sao khó đến<br />
theo dòng nước không ngừng/ Đàn cò trắng thế, nghẹn ngào đến thế:<br />
bay trên đám lau tàn cuối mỏm cát/ Con … Lịch lịch lâu đài thiên ngoại kiến,<br />
trâu nằm đầu ghềnh dưới bóng trăng tà lạnh Vi vi chung cổ nguyệt trung văn.<br />
lẽo… - Sông Đồng Lung).20 Thanh sam tẩu biến hồng trần lộ,<br />
Nhìn chung, giai đoạn mười năm gió Viên hạc hà tòng nhận cựu lân.<br />
bụi, dưới chân núi Hồng và làm quan ở Bắc (Đồng Lư thượng dao kiến Sài Sơn)<br />
Hà là thời gian Nguyễn Du nói nhiều tới cái (… Xa xa, thấy lâu đài rõ mồn một/<br />
nhàn; nhiều bài thể hiện cảm hứng của tác Văng vẳng nghe tiếng chuông trống trong<br />
giả hướng đến thiên nhiên. Ở đó là một ánh trăng/ Một chiếc áo xanh đi khắp cõi<br />
không gian gần mặt đất, gắn với thôn xóm, bụi hồng/ Làm sao lại về chơi được với con<br />
quê kiểng, con đường làng, đàn trâu nằm vượn con hạc ở nơi xóm núi? - Trên đường<br />
dưới bóng trăng, đàn cò trắng… và đâu đó Đồng Lư nhìn xa thấy núi Thầy).22<br />
thấp thoáng bóng hình của con người như Thời gian làm quan cho nhà Nguyễn<br />
người nông phu, tiều phu… Theo chiều và đi sứ Trung Hoa, mặc dù công việc quan<br />
hướng xúc cảm này, nếu như ở các thi nhân trường, chính sự có tiêu tốn nhiều thời gian<br />
khác, đó sẽ thực sự là những giây phút họ của thi nhân, song bất kể thời gian nào cho<br />
được tiêu dao tâm hồn cùng với ngoại giới phép và không gian thích hợp là Nguyễn<br />
đến tận cùng (chúng tôi không đề cập tới loại Du lại hướng cảm xúc của mình về với<br />
hình tác giả nhà nho ẩn dật ở chỗ này) thì ở thiên nhiên, cuộc sống thường nhật của xã<br />
Nguyễn Du, dường như những giây phút đó hội. Và ở vào những khoảnh khắc như thế,<br />
không ngưng đọng được lâu. Nó đến nhanh dường như mối quan hoài xứ Bắc, niềm<br />
và cũng tan biến nhanh bởi ngay sau đó nhung nhớ Thăng Long và quê cũ dưới<br />
<br />
61<br />
chân núi Hồng luôn thôi thúc ông, khiến hiểu: “Khi làm quan, ông thường bị quan<br />
ông tâm dạ chẳng lúc nào được yên: trên quở trách, nên lấy làm uất ức bực<br />
Lô hoa sơ bạch cúc sơ hoàng, chí”.25 Đã có lúc, có chỗ thi nhân tìm đến<br />
Thiên lý hương tâm dạ cộng trường. Đạo, tìm đến Phật nhưng tất cả cứ nửa vời<br />
Cưỡng khởi thôi song vọng minh nguyệt, bởi ông chưa bao giờ nguôi quên tục lụy.<br />
Lục âm trùng điệp bất di quang. Vả có tìm đến những cái thú tao nhã của<br />
(Ngẫu hứng, kỳ 2) nho sĩ như uống rượu, ngâm thơ, ngắm<br />
(Hoa lau chớm trắng, hoa cúc chớm cảnh, thưởng ngoạn thiên nhiên… nhưng<br />
vàng/ Lòng nhớ quê hương ngàn dặm, đêm chưa bao giờ thi hào đi được đến tận cùng<br />
cũng dài dằng dặc/ Gắng dậy mở cửa sổ của những xúc cảm như thế. Hứng thú về<br />
xem trăng sáng/ Bóng râm lớp lớp không cái nhàn để được hoà mình vào trăng trong,<br />
để lọt tia sáng nào).23 gió mát, được nằm khểnh giữa chốn rừng<br />
Làm quan với một tâm trạng buồn thông nghe tiếng vi vu gọi nguồn cứ chen<br />
nản, chán trường, Nguyễn Du tự cảm thấy lẫn với nỗi niềm rưng rưng của một kẻ sĩ<br />
như mình đang bị cầm tù. Ông hướng lòng già yếu, tóc bạc, lữ thứ, đau ốm, vô dụng<br />
mình lên với trời cao, nhìn đám mây trăng và bao nhiêu những sầu bi khác ùa đến.<br />
bay tự do mà cảm khái cho cá nhân mình. Khảo sát hai tập thơ “Nam trung tạp ngâm”<br />
Lời thơ chất chứa mối sầu bi của một cái và “Bắc hành tạp lục”, chúng tôi thấy chỉ<br />
tôi trữ tình vẻ như muốn lại như thôi tìm có 04 bài Nguyễn Du nhắc tới chữ nhàn<br />
về những ngày tháng cũ hay một không nhưng cả bốn trường hợp chủ thể trữ tình<br />
gian khác với thực tại, gần đấy mà cũng xa đều không có được sự thảnh thơi theo đúng<br />
tít tắp: nghĩa. Đó là các bài Thu chí (Thu đến), Dã<br />
Giang thành nhất ngọa duyệt tam chu, tọa (Đêm ngồi), Tống Ngô Nhữ Sơn công<br />
Bắc vọng gia hương thiên tận đầu. xuất trấn Nghệ An (Tiễn ông Ngô Nhữ Sơn<br />
Lệ Thủy Cẩm Sơn giai thị khách, ra làm Hiệp trấn Nghệ An) và Quế Lâm<br />
Bạch vân hồng thụ bất thăng thu. công quán (Công quán Quế Lâm). Một số<br />
Thử thân dĩ tác phàn lung vật, bài khác, thi nhân không trực tiếp nhắc tới<br />
Hà xứ trùng tầm hãn mạn du?... chữ nhàn mà gửi gắm niềm cảm hứng của<br />
(Tân thu ngẫu hứng) mình tới cỏ cây, phong cảnh trên những<br />
(Nằm ở Giang thành chốc đã ba năm nẻo đường mà Nguyễn Du có dịp đi qua:<br />
tròn/ Trông về phía bắc quê nhà ở tận cuối Thiên Thai sơn tại đế thành đông,<br />
trời/ Ở Nhật Lệ hay Cẩm Sơn mình vẫn là Cách nhất điều giang tự bất thông.<br />
khách/ Đám mây trắng, chòm mây đỏ, bao Cổ tự thu mai hoàng diệp lý,<br />
xiết vẻ thu/ Thân này đã là vật trong lồng Tiên triều tăng lão bạch vân trung.<br />
cũi/ Còn tìm đâu được cuộc đời phóng Khả liên bạch phát cung khu dịch,<br />
khoáng tự do nữa… - Đầu mùa thu ngẫu Bất dữ thanh sơn tương thủy chung.<br />
hứng).24 Ký đắc niên tiền tằng nhất đáo,<br />
Làm quan mà với một tâm trạng “lạc Cảnh hưng do quải cựu thời chung.<br />
loài” như thế, hẳn nhiên Nguyễn Du không (Vọng Thiên Thai tự)<br />
thể hoàn thành tốt nhiệm vụ của một viên (Núi Thiên Thai ở phía đông kinh<br />
quan từ cái nhìn chính thống. Lẽ đó mà ông thành/ Cách một dòng sông tựa hồ không có<br />
bị quan trên quở mắng cũng là điều dễ lối qua/ Mùa thu, ngôi chùa cổ lấp dưới lá<br />
<br />
62<br />
vàng/ Vị sư triều trước già trong mây trắng/ Ngã độc Kim Cương thiên biến linh,<br />
Thương mình đầu bạc còn phải lận đận/ Kỳ trung áo chỉ đa bất minh.<br />
Không được cùng núi xanh trọng nghĩa thủy Cập đáo Phân kinh thạch đài hạ,<br />
chung/ Nhớ lại năm trước từng đến thăm Tài tri vô tự thị chân kinh.<br />
đây/ Còn thấy treo quả chuông thời Cảnh (Lương Chiêu Minh thái tử phân kinh<br />
Hưng - Trông chùa Thiên Thai).26 thạch đài)<br />
Chỗ khác, trên đường đi sứ, một đêm (Ta đọc kinh Kim Cương hàng nghìn<br />
đậu thuyền ở cửa sông Tam Giang, ngẫm lượt/ Những ý nghĩa gọi là sâu xa trong đó<br />
về một hành trình đầy mỏi mệt của mình phần nhiều không rõ ràng/ Khi đến dưới đài<br />
(làm quan từ năm 1802 đến năm 1813), phân kinh này/ Mới biết kinh “không chữ”<br />
giữa chốn sông nước, núi non, dường như mới thật là chân kinh - Đài đá “Phân kinh”<br />
niềm xúc cảm, tinh thần của thi nhân đã ít của thái tử Chiêu Minh đời Lương).28<br />
nhiều chạm được tới cái huyền vi của triết 4. Kết luận<br />
lý thoát tục: Trở lên, có thể khẳng định rằng, nội<br />
… Viên đề thụ điểu nhược vô lộ, dung cảm hứng trong thơ chữ Hán Nguyễn<br />
Khuyển phệ lâm trung tri hữu nhân. Du rất đa dạng, phong phú, ít nhiều phức<br />
Tứ vọng vân sơn nhân độc lão, tạp mà trong đó cảm hứng về cái nhàn hay<br />
Đồng chu Hồ Việt các tương thân. cảm hứng nhàn tản là một biểu hiện đáng<br />
Thập niên dĩ thất hoàn hương lộ, quan tâm. Có lẽ, điểm phân định cũng như<br />
Ná đắc gia hương nhập mộng tần? dấu ấn riêng của thi hào ở hướng này trong<br />
(Tam Giang khẩu đường dạ bạc) dòng thơ ca nhàn tản trung đại chính nỗi<br />
(… Vượn hót ngọn cây, tưởng không niềm thân phận, những trở trăn day dứt về<br />
có lối đi/ Chó sủa trong rừng, biết có cuộc đời, con người nói chung trong xã hội<br />
người/ Bốn mặt núi mây, riêng thấy mình đương thời chưa bao giờ “buông tha” ông,<br />
già/ Đi cùng thuyền kẻ Hồ người Việt đều khiến cho mỗi lời thơ cất lên là một xúc<br />
thân nhau/ Mười năm nay quên đường về cảm nghẹn ngào, dưng dưng. Và, nếu như<br />
làng cũ/ Làm sao cố hương thường vào với nhiều nho sĩ khác, sự trăn trở, kể cả lồ<br />
được giấc mộng? - Đêm đậu thuyền ở cửa lộ “Đêm đêm thức nhẫn nẻo sơ chung”<br />
sông Tam Giang).27 (Nguyễn Trãi) hay ẩn giấu “Nghĩ ra lại<br />
Chỉ có điều, với thi hào, dường như thẹn với ông Đào” (Nguyễn Khuyến) đâu<br />
chưa bao giờ ông muốn trở thành một kẻ tu đó còn là chức năng phận vị của những con<br />
hành với đúng nghĩa của nó. Tình cảm ấy, người ý thức cao về tài năng và tâm huyết<br />
tấm lòng ấy thì dù có đặt chân vào chốn với chính sự, với thời cuộc mà đành bó gối<br />
thiền viện thì thi nhân, sớm hay muộn cũng khoanh tay thì với đại thi hào, cảm xúc ấy,<br />
“phá giới” mà thôi. Nguyễn Du chỉ tìm đến nỗi niềm ấy chả những trượt qua những gì<br />
Phật như một giải pháp tạm thời trong được coi là cụ thể mà còn thể hiện biết bao<br />
trạng huống cụ thể nào đó để xoa dịu vết tình cảm lớn, hướng về cuộc đời, con<br />
thương lòng, để “ru mình” giữa cõi đời người nhân loại. Đó là chỗ Nguyễn Du ghi<br />
loạn ly lúc bấy giờ chứ bản thân ông từng một cái tên trên dòng chảy thi ca trung đại<br />
thú nhận, dầu có đọc kinh nghìn lượt thì nói riêng, thi ca dân tộc nói chung để chưa<br />
cũng chả có gì rõ ràng cả, tất nhiên không cần đến bản “Nam âm tuyệt cú” thì ông đã<br />
phải ở nhận thực của người đọc kinh rồi: mãi mãi bất tử trong trái tim độc giả muôn<br />
<br />
63<br />
đời; nơi tìm đến, hướng về, sẻ chia biết bao hang_long_voi_hon_tho_cua_chu_chau_nguy<br />
cảnh ngộ nhân sinh trong cõi vô thường./. en_du.html<br />
- Xuân tha hương trong thơ chữ Hán của thi<br />
Ghi chú: hào Nguyễn Du, tác giả: Nguyễn Phúc Vĩnh<br />
1<br />
Thơ chữ Hán Nguyễn Du, sđd, tr.93. Ba, nguồn:<br />
2<br />
Thơ chữ Hán Nguyễn Du, sđd, tr.230. http://vietsciences.free.fr/vietnam/bienkhao-<br />
3<br />
Thơ chữ Hán Nguyễn Du, sđd, tr.195. binhluan/xuanthahuongnguyendu.htm<br />
24<br />
4 Thơ chữ Hán Nguyễn Du, sđd, tr.187.<br />
Thơ chữ Hán Nguyễn Du, sđd, tr.222. 25<br />
5 Dẫn theo Trương Chính, “Lời giới thiệu”, Thơ<br />
Thơ chữ Hán Nguyễn Du, sđd, tr.229.<br />
6 chữ Hán Nguyễn Du, sđd, tr.33.<br />
Thơ chữ Hán Nguyễn Du, sđd, tr.73. 26<br />
7 Thơ chữ Hán Nguyễn Du, sđd, tr.201.<br />
Thơ chữ Hán Nguyễn Du, sđd, tr.211. 27<br />
8 Thơ chữ Hán Nguyễn Du, sđd, tr.250.<br />
Thơ chữ Hán Nguyễn Du, sđd, tr.323. 28<br />
9 Thơ chữ Hán Nguyễn Du, sđd, tr.425.<br />
Thơ chữ Hán Nguyễn Du, sđd, tr.254.<br />
10<br />
Thơ chữ Hán Nguyễn Du, sđd, tr.431. TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
11<br />
Thơ chữ Hán Nguyễn Du, sđd, tr.117.<br />
12 1. Nguyễn Huệ Chi (1965), “Tìm hiểu thơ chữ<br />
Thơ chữ Hán Nguyễn Du, sđd, tr.127. Hán Nguyễn Du”, Tạp chí Văn học, số 11,<br />
13<br />
Xin xem thêm phần viết của chúng tôi trong tr.48.<br />
sách: Tác giả nhà nho ẩn dật và văn học trung<br />
2. Trương Chính (1965), “Lời giới thiệu”, Thơ<br />
đại Việt Nam, chuyên luận, Nxb Khoa học xã<br />
chữ Hán Nguyễn Du, Nxb Văn học, Hà Nội,<br />
hội, Hà Nội, 2013, tr.43-62.<br />
14<br />
tr.7-43.<br />
Xin xem thêm bài viết của chúng tôi: “Nhận<br />
3. Trương Chính (1999), “Tâm sự của Nguyễn<br />
diện loại hình tác giả nhàn tản trong văn học Du qua thơ chữ Hán”, Nguyễn Du về tác gia<br />
trung đại Việt Nam”, Tạp chí Thông tin khoa và tác phẩm (1999), Trịnh Bá Đĩnh, Nguyễn<br />
học xã hội, số 11/2014, tr.11-18. Hữu Sơn, Vũ Thanh tuyển chọn và giới thiệu,<br />
15<br />
Thơ chữ Hán Nguyễn Du, sđd, tr.76. tái bản lần 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr. 89-<br />
16 111.<br />
Thơ chữ Hán Nguyễn Du, sđd, tr.95.<br />
17<br />
Thơ chữ Hán Nguyễn Du, sđd, tr.117. 4. Xuân Diệu (1981), Các nhà thơ cổ điển Việt<br />
18<br />
Thơ chữ Hán Nguyễn Du, sđd, tr.138. Nam, Nxb Văn học, Hà Nội.<br />
19<br />
Thơ chữ Hán Nguyễn Du, sđd, tr.146. 5. Nguyễn Du về tác gia và tác phẩm (1999),<br />
20<br />
Thơ chữ Hán Nguyễn Du, sđd, tr.150. Trịnh Bá Đĩnh, Nguyễn Hữu Sơn, Vũ Thanh<br />
21 tuyển chọn và giới thiệu, tái bản lần 1, Nxb<br />
Thơ chữ Hán Nguyễn Du, sđd, tr.158. Giáo dục, Hà Nội, 1999.<br />
22<br />
Thơ chữ Hán Nguyễn Du, sđd, tr.151. 6. Lê Đình Kỵ (1971), “Nguyễn Du qua thơ chữ<br />
23<br />
Thơ chữ Hán Nguyễn Du, sđd, tr.181. Về nội Hán”, Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của<br />
dung này, xin xem thêm các bài viết sau: Nguyễn Du, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.<br />
- Thăng Long và Hà Tĩnh trong thơ chữ Hán 7. Vũ Đình Liên (1971), “Nguyễn Du một tâm<br />
Nguyễn Du, nguồn: hồn lạc loài trong xã hội phong kiến”, Tạp chí<br />
http://nguyendu.vn/nd.nsf/chi-tiet-nghien- Văn học, (2), tr.69.<br />
cuu/thang_long_va_ha_tinh_trong_tho_chu_h<br />
8. Mai Quốc Liên (1999), “Thơ chữ Hán<br />
an_nguyen_du.html<br />
Nguyễn Du”, Nguyễn Du về tác gia và tác<br />
- Thành Thăng Long trước thế kỷ XIX trong phẩm (1999), Trịnh Bá Đĩnh, Nguyễn Hữu<br />
thơ Nguyễn Du, nguồn: Sơn, Vũ Thanh tuyển chọn và giới thiệu, tái<br />
http://nguyendu.vn/nd.nsf/chi-tiet-nghien- bản lần 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr.120-131.<br />
cuu/thanh_thang_long_truoc_the_ky_xix_tron 9. Nguyễn Thị Nương (2007), Con người<br />
g_tho_nguyen_du.html Nguyễn Du qua thơ chữ Hán (Thanh Hiên thi<br />
- Thăng Long với hồn thơ của chú cháu tập, Nam trung tạp ngâm, Bắc hành tạp lục),<br />
Nguyễn Du, nguồn: Luận án tiến sĩ Ngữ Văn, Trường Đại học Sư<br />
http://nguyendu.vn/nd.nsf/dong_ho_chi_tiet/t phạm Hà Nội.<br />
<br />
64<br />
10. Đào Xuân Quí, “Nguyễn Du trong những bài 11, tr.11.<br />
thơ chữ Hán”, Báo Văn nghệ, (237), tr.5. 14. Lê Văn Tấn (2015), “Hình tượng dật sĩ trong<br />
11. Nguyễn Hữu Sơn (2005), Thơ chữ Hán văn chương tác giả nhà nho ẩn dật”, Tạp chí<br />
Nguyễn Du - từ cõi hư vô nhìn lại kiếp người”, Nghiên cứu văn học, (5), tr.95-103.<br />
Phụ bản Thơ, Báo Văn nghệ, (26), tr.7. 15. Lê Văn Tấn (2015), “Nhận diện loại hình tác<br />
12. Lê Văn Tấn (2013), “Loại hình tác giả nhà giả nhà nho hành đạo trong văn học trung đại<br />
nho ẩn dật trong văn học trung đại Việt Nam”, Việt Nam”, Tạp chí khoa học xã hội, Tp. Hồ<br />
Tạp chí Nghiên cứu văn học, (10), tr.43-58. Chí Minh, (chờ in).<br />
13. Lê Văn Tấn (2014), “Nhận diện loại hình tác 16. Hoài Thanh (1962), “Tâm tình Nguyễn Du<br />
giả nhàn tản trong văn học trung đại Việt qua một số bài thơ chữ Hán”, Tạp chí Văn<br />
Nam”, Tạp chí Thông tin khoa học xã hội, số nghệ, số 58, tr.16.<br />
<br />
<br />
Ngày nhận bài: 11/11/2016 Biên tập xong: 15/12/2016 Duyệt đăng: 20/12/2016<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
65<br />