Nguyễn Thị Hồng Nam<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
73(11): 9 - 13<br />
<br />
CÂU HỎI HƯỚNG DẪN HỌC SINH ĐỌC HIỂU VĂN BẢN<br />
Nguyễn Thị Hồng Nam*<br />
Đại học Cần Thơ<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Thiết kế và sử dụng câu hỏi nhƣ thế nào để đạt hiệu quả luôn là một thử thách đối với giáo viên.<br />
Trong bài báo này, chúng tôi sẽ bàn về cơ sở của việc thiết kế câu hỏi để hƣớng dẫn học sinh đọc<br />
hiểu tác phẩm văn chƣơng hình tƣợng, đó là thang nhận thức của Bloom, tính hình tƣợng, tính đa<br />
nghĩa, tính truyền cảm của hình tƣợng nghệ thuật. Trên cơ sở đó, chúng tôi đề xuất các loại câu hỏi<br />
nhằm phát triển năng lực tƣ duy cho học sinh nhƣ phân tích, tổng hợp, đánh giá, tƣởng tƣợng, giúp<br />
học sinh thực hiện hai vai trò: giải mã và kiến tạo nghĩa cho văn bản. Đồng thời chúng tôi cũng<br />
bàn về cách tổ chức cho học sinh tƣơng tác với nhau trong giờ học.<br />
Từ khóa: loại hình câu hỏi, vai trò giải mã văn bản, kiến tạo văn bản, tương tác<br />
<br />
ĐẶT VẤN ĐỀ <br />
Một trong những cách thức tích cực hóa vai<br />
trò của ngƣời học là sử dụng câu hỏi (CH)<br />
trong dạy học (DH). Trong giờ DH tác phẩm<br />
văn chƣơng (TPVC), CH của giáo viên (GV)<br />
nên đƣợc thiết kế nhƣ thế nào để giúp sinh<br />
viên, học sinh (chúng tôi gọi chung là học<br />
sinh (HS) không chỉ thu nhận đƣợc kiến thức<br />
về văn bản, về cuộc sống mà còn tác động<br />
đến nhận thức, tình cảm, cách nhìn con ngƣời,<br />
nhìn cuộc đời của HS. Sử dụng CH trong lớp<br />
học, tổ chức cho HS suy nghĩ, thảo luận, phản<br />
hồi nhƣ thế nào để đạt đƣợc các mục tiêu DH<br />
lại vừa đảm bảo thời gian, không bị cháy giáo<br />
án. Điều này đòi hỏi GV phải hiểu văn bản,<br />
các đặc trƣng của tiếp nhận văn học, các loại<br />
CH và mục tiêu của giờ đọc hiểu văn bản,<br />
nắm vững trình độ HS.<br />
CƠ SỞ THIẾT KẾ CÂU HỎI DẠY ĐỌC<br />
HIỂU VĂN BẢN<br />
Khi thiết kế CH trong DH và kiểm tra, đánh<br />
giá HS, các nhà giáo dục thƣờng dựa vào<br />
thang nhận thức của Bloom (1951) gồm 6<br />
bậc: nhớ, hiểu, vận dụng, phân tích, tổng hợp,<br />
đánh giá. Sau đó, thang nhận thức này đƣợc<br />
Anderson và Krathwohl (2001) chỉnh sửa<br />
gồm 6 bậc: nhớ, hiểu (mức độ tƣ duy cấp<br />
thấp), vận dụng, phân tích, đánh giá, sáng tạo<br />
<br />
<br />
Tel: 84 7103 830 261; Email:nhnam@ctu.edu.vn<br />
<br />
(mức độ tƣ duy cấp cao). Thang nhận thức<br />
này đã đƣợc sử dụng rộng rãi trong tất cả các<br />
môn học. Tuy nhiên, TPVC không giống nhƣ<br />
một tài liệu khoa học, một bài học lịch sử, địa<br />
lý… do vậy, khi thiết kế câu hƣớng dẫn HS<br />
đọc hiểu văn bản, cần lƣu ý những vấn đề sau:<br />
Thứ nhất, đối tƣợng tìm hiểu, khám phá của<br />
giờ đọc hiểu là TPVC với những đặc trƣng:<br />
tính hình tƣợng, tính truyền cảm, tính hàm<br />
súc, tính đa nghĩa. Vì thế mà mỗi ngƣời đọc,<br />
dựa trên kiến thức nền, quan điểm thẩm mỹ<br />
của mình, có cách hiểu, cách giải thích khác<br />
nhau về văn bản, đồng thời có thể sáng tạo ra<br />
những ý nghĩa mới, ngoài những ý nghĩa mà<br />
tác giả muốn gửi gắm. Bàn về vấn đề này,<br />
Judith Langer (1992) cho rằng “Đọc TPVC là<br />
sự thám hiểm khi việc không hiểu hết, hiểu rõ<br />
chắc chắn là một phần bình thƣờng của hoạt<br />
động đọc và cách hiểu mới khơi gợi những<br />
cách hiểu khác. Ngƣời đọc suy ngẫm, thƣởng<br />
ngoạn các cảm xúc, các vấn đề, các ngụ ý mà<br />
tác giả gửi gắm trong văn bản, sử dụng kiến<br />
thức về những khả năng của con ngƣời để<br />
vƣợt qua giới hạn ý nghĩa của tác phẩm và<br />
“làm đầy” hình tƣợng bằng cách hiểu của<br />
mình” [2, trang 37]. Nhƣ vậy, vai trò của<br />
ngƣời đọc không chỉ là giải mã văn bản:<br />
khám phá ý nghĩa các từ ngữ, hình ảnh, ý<br />
nghĩa của tác phẩm mà còn có một vai trò<br />
kiến tạo nghĩa: tạo ra những ý nghĩa mới cho<br />
văn bản. Vậy vấn đề đặt ra là trong quá trình<br />
dạy đọc hiểu GV phải thiết kế đƣợc những<br />
CH giúp HS thực hiện cả hai vai trò trên.<br />
<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
http://www.lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />
| 9<br />
<br />
Nguyễn Thị Hồng Nam<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
Vấn đề thứ hai: Chức năng của văn chƣơng là<br />
phản ảnh cuộc sống, truyền cảm xúc cho<br />
ngƣời đọc. Do vậy, ngoài việc phát triển tƣ<br />
duy cho HS, CH còn có chức năng khơi gợi<br />
cảm xúc, ký ức, kinh nghiệm sống của HS,<br />
giúp HS có những suy ngẫm về cuộc sống.<br />
Nếu GV chỉ hƣớng đến việc xây dựng CH để<br />
thực hiện chức năng nhận thức (giúp HS hiểu<br />
văn bản) thì không đầy đủ và không thể hiện<br />
đƣợc các đặc trƣng riêng của hoạt động tiếp<br />
nhận văn chƣơng, không đáp ứng đƣợc mục<br />
tiêu dạy đọc hiểu văn bản.<br />
Bên cạnh đó, sử dụng CH trong DH còn cần<br />
hƣớng đến mục tiêu không kém phần quan<br />
trọng là phát triển các kỹ năng xã hội nhƣ<br />
diễn đạt, lắng nghe, phản hồi ý kiến của ngƣời<br />
khác qua việc tổ chức hoạt động thảo luận<br />
trong nhóm nhỏ và trong cả lớp.<br />
Vậy CH nên đƣợc thiết kế và sử dụng nhƣ thế<br />
nào để vừa đảm bảo đƣợc đặc trƣng của<br />
TPVC, vừa đạt đƣợc các mục tiêu trên?<br />
CÁC LOẠI CH HƢỚNG DẪN HS ĐỌC<br />
HIỂU VĂN BẢN<br />
Để khơi gợi kiến thức nền của HS vào việc<br />
giải mã và kiến tạo nghĩa cho văn bản, để giờ<br />
đọc hiểu văn bản thực sự tác động đến nhận<br />
thức và tình cảm của HS, giúp ngƣời học qua<br />
hành động đọc không chỉ hiểu văn bản mà<br />
còn hiểu bản thân, hiểu ngƣời khác, hiểu cuộc<br />
sống, chúng tôi đề xuất một số loại CH sau<br />
(bảng 1).<br />
Ví dụ: khi hƣớng dẫn HS học Chiếc thuyền<br />
ngoài xa của Nguyễn Minh Châu, GV có thể<br />
hỏi “Hãy tìm chi tiết những chi tiết thể hiện<br />
thái độ của ngƣời vợ khi bị chồng đánh?”, với<br />
CH này, HS sẽ sử dụng nguồn thông tin có<br />
sẵn trong văn bản để trả lời, và chỉ có một<br />
đáp án duy nhất đúng cho CH này. Để trả lời<br />
CH “Em lý giải như thế nào về hai thái độ<br />
của ngƣời đàn bà: khi bị chồng đánh, bà cam<br />
chịu, không kêu la, chống trả nhƣng khi thấy<br />
con đánh lại chồng, bà lại cảm thấy xấu hổ,<br />
đau đớn, nhục nhã, chắp tay vái con?”, HS<br />
phải sử dụng kinh nghiệm, vốn sống của mình<br />
để giải mã những chi tiết, hình ảnh trong văn<br />
bản, và có thể có nhiều cách lý giải do mỗi<br />
<br />
73(11): 9 - 13<br />
<br />
HS có vốn sống, vốn hiểu biết khác nhau. CH<br />
“Hình ảnh ngƣời đàn bà trong tác phẩm này<br />
gợi cho em nhớ đến cái gì?” hoặc “Câu<br />
chuyện này gợi cho em những suy nghĩ gì về<br />
cuộc sống?” thì câu trả lời rất phong phú, tùy<br />
theo kinh nghiệm sống và độ sâu sắc trong<br />
tâm hồn, suy nghĩ của từng HS. Để khơi gợi<br />
năng lực tưởng tượng, khả năng kiến tạo<br />
nghĩa cho văn bản của HS, GV có thể nêu<br />
những CH “Nếu em ở trong hoàn cảnh của<br />
ngƣời đàn bà, em sẽ xử sự nhƣ thế nào?”,<br />
hoặc “Em suy nghĩ gì về sự cam chịu của<br />
ngƣời phụ nữ?”. Những CH nhƣ vậy sẽ tạo<br />
cho HS cơ hội đối mặt với những vấn đề của<br />
thực tế và thể hiện chính kiến của bản thân.<br />
Chúng tôi đã thử nghiệm sử dụng một số CH<br />
trong bảng 1 khi tổ chức cho sinh viên (SV)<br />
năm thứ ba ngành Sƣ phạm Ngữ văn đọc bài<br />
thơ Cuộc phỏng vấn kiến của Trần Thị Huyền<br />
Trang. Sau đây là phản hồi của 4 SV với 3<br />
CH. Về CH “Văn bản này đã khơi gợi cảm<br />
xúc gì của anh/chị”, câu trả lời là: Ðể có cuộc<br />
sống ấm no thì phải cố gắng phấn đấu (SV<br />
Thanh Thúy); Cảm thông cho sự vất vả của<br />
kiến, trân trọng sự siêng năng, chăm chỉ,<br />
thông minh (Hoàng Anh); Cảm thấy vui khi<br />
đọc văn bản, ngẫm kỹ thì nó rất sâu sắc, đó là<br />
triết lý trong cuộc sống: có những điều tƣởng<br />
chừng nhỏ bé nhƣng lại rất quan trọng (Chí<br />
Bằng); Ðồng cảm và thấu hiểu sự vất vả của<br />
ngƣời dân lao động (Ngọc Hân). CH “Văn<br />
bản này có đánh thức ký ức nào, gợi anh/chị<br />
nhớ đến người nào, địa điểm hay kinh nghiệm<br />
nào?”, mỗi SV có câu trả lời khác nhau:<br />
Ðừng cứng nhắc trong việc nhìn nhận hay<br />
giải quyết vấn đề (Thanh Thúy); Khi gặp khó<br />
khăn trở ngại dù có lớn đến đâu cũng có cách<br />
giải quyết “không có con đƣờng cùng, chỉ có<br />
những ranh giới…” (Hoàng Anh); Những con<br />
ngƣời nhỏ bé, không có địa vị, trình độ nhƣng<br />
lại nỗ lực hết mình, đƣơng đầu với khó khăn,<br />
thử thách, dũng cảm đối mặt để mƣu sinh<br />
(Chí Bằng); Ký ức về tuổi thơ, gợi nhớ đến<br />
những con ngƣời nhỏ bé, kiên trì trong cuộc<br />
sống (Ngọc Hân). Về CH “Ý nghĩ đầu tiên<br />
của anh/chị khi đọc văn bản này là gì?”, phản<br />
hồi của SV nhƣ sau: Cuộc sống nhìn bề ngoài<br />
có vẻ phức tạp, khó khăn nhƣng hãy thử sức<br />
<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
http://www.lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />
| 10<br />
<br />
Nguyễn Thị Hồng Nam<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
của mình, mặc dù cái đích đến có thể khá xa<br />
(Thanh Thúy); Ðời ngƣời giống nhƣ những<br />
chú kiến, gian nan, vất vả nhƣng vẫn sống,<br />
vẫn vƣợt qua và có cách xử lý thích hợp<br />
động vật (Ngọc Hân). Các phản hồi với cùng<br />
một CH rất khác nhau, thể hiện kinh nghiệm<br />
sống, kiến thức nền và cảm xúc khác nhau.<br />
Và không thể dùng tiêu chí đúng/sai để phán<br />
xét những phản hồi này. Phần lớn những CH<br />
hƣớng dẫn HS đọc văn bản trong sách giáo<br />
khoa và trong giờ đọc hiểu hiện nay chủ yếu<br />
giới hạn ở loại CH Tìm chi tiết thể hiện sự<br />
lam lũ, tảo tần của nhân vật…; Chi tiết... có<br />
ý nghĩa gì?’ Phân tích…Những CH trên đều<br />
hƣớng vào chức năng nhận thức: giúp HS<br />
hiểu tác phẩm, nhớ các thông tin, chủ đề, thực<br />
hiện vai trò giải mã văn bản, không chú trọng<br />
khơi gợi cảm xúc, kinh nghiệm sống của HS,<br />
<br />
73(11): 9 - 13<br />
<br />
(Hoàng Anh); Cảm thấy rất thú vị, nhiều ý<br />
nghĩa sâu sắc (Chí Bằng); Nhà thơ dƣờng nhƣ<br />
miêu tả sự lao động cực nhọc, cần mẫn và<br />
những kinh nghiệm xƣơng máu của một loài<br />
không khuyến khích những cách hiểu khác<br />
nhau về văn bản, cũng không giúp HS nhận<br />
biết văn bản có tác động hoặc có ý nghĩa nhƣ<br />
thế nào với chính các em. Đó là một trong<br />
những nguyên nhân làm cho HS không thích<br />
học văn. Hiệu quả của CH không chỉ phụ<br />
thuộc vào nội dung CH mà còn phụ thuộc vào<br />
cách sử dụng CH trong lớp học.<br />
TẠO RA MÔI TRƢỜNG TƢƠNG TÁC<br />
TRONG LỚP HỌC<br />
Trong lớp học thƣờng xảy ra tình trạng GV<br />
chỉ nêu CH cho một số HS tích cực, HS khá,<br />
giỏi trả lời. Cách tổ chức thƣờng là: GV hỏi,<br />
HS trả lời, GV đánh giá đúng/sai.<br />
<br />
Bảng 1. Loại câu hỏi hƣớng dẫn học sinh đọc văn bản<br />
Loại câu hỏi<br />
Mục đích<br />
Nhân vật chính là ai?<br />
Tìm các chi tiết, từ ngữ thể hiện… (hình ảnh bà<br />
Tú, cảnh ngày hè, tính cách nhân vật…).<br />
Phân tích các chi tiết, hình ảnh…<br />
Tác dụng của biện pháp nghệ thuật… ?<br />
Lời nói… của nhân vật thể hiện điều gì về tâm<br />
trạng/suy nghĩ/tính cách của nhân vật ?<br />
So sánh chi tiết/nhân vật A với các chi tiết/nhân<br />
vật B…<br />
Hãy tóm tắt cốt truyện ?<br />
Chủ đề tác phẩm là gì ?<br />
Tác giả đã thể hiện chủ đề của tác phẩm tốt đến<br />
mức nào ?<br />
Đặc sắc nghệ thuật nổi bật của tác phẩm này là<br />
gì? Hạn chế của tác phẩm là gì?<br />
Em đánh giá nhƣ thế nào về hành động của nhân<br />
vật ?<br />
Theo em, thông điệp tác giả muốn gửi gắm trong<br />
văn bản là gì ?<br />
Nếu em ở trong hoàn cảnh của nhân vật, em sẽ<br />
phản ứng/hành động/suy nghĩ nhƣ thế nào?<br />
Nếu em là tác giả, em sẽ cho nhân vật hành động<br />
nhƣ thế nào/sẽ kết thúc tác phẩm nhƣ thế nào?<br />
Tại sao em lại chọn cách xử lý nhƣ vậy?<br />
Theo em, tựa đề của văn bản, bìa cuốn sách có<br />
thể thể hiện nội dung gì?<br />
Ý nghĩ đầu tiên của em khi đọc văn bản là gì?<br />
<br />
Hƣớng dẫn HS tìm các chi tiết quan trọng trong<br />
văn bản, ghi nhớ thông tin, phát triển vai trò giải<br />
mã văn bản.<br />
<br />
Rèn kỹ năng phân tích, so sánh, phát triển vai trò<br />
giải mã văn bản.<br />
Rèn kỹ năng tổng hợp, phát triển vai trò giải mã<br />
văn bản.<br />
Rèn kỹ năng đánh giá, phát triển vai trò giải mã<br />
văn bản.<br />
<br />
Khơi gợi kiến thức nền của HS, phát triển vai trò<br />
kiến tạo nghĩa cho văn bản.<br />
Khơi gợi năng lực sáng tạo, tưởng tượng của HS,<br />
giúp HS, phát triển vai trò kiến tạo nghĩa cho văn<br />
bản.<br />
Khơi gợi năng lực tưởng tượng, sáng tạo, tư duy<br />
logic của HS, phát triển vai trò kiến tạo nghĩa cho<br />
văn bản.<br />
Khơi gợi kiến thức nền và năng lực tưởng tượng<br />
của HS.<br />
Khơi gợi kỷ niệm, vốn sống, khơi gợi cảm xúc<br />
<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
http://www.lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />
| 11<br />
<br />
Nguyễn Thị Hồng Nam<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
Vãn bản này đánh thức ký ức nào, gợi em nhớ<br />
đến ngƣời nào, địa điểm hay kinh nghiệm nào?<br />
Vãn bản này đã khơi gợi cảm xúc gì của em?<br />
Văn bản bày gợi cho em suy nghĩ gì về cuộc<br />
đời/con ngƣời ?<br />
Theo em, ngƣời anh hùng/ngƣời chồng tốt… là<br />
ngƣời nhƣ thế nào ?<br />
<br />
Điều này không khuyến khích đƣợc tất cả các<br />
HS, thuộc mọi trình độ, tham gia vào tiến<br />
trình kiến tạo kiến thức. Để khắc phục nhƣợc<br />
điểm trên, để đạt đƣợc mục tiêu nhận thức,<br />
thẩm mỹ, mục tiêu phát triển tƣ duy và rèn<br />
luyện các kỹ năng xã hội nhƣ diễn đạt, lắng<br />
nghe, phản hồi ý kiến của ngƣời khác, GV<br />
cần tổ chức cho HS thảo luận trong nhóm nhỏ<br />
và trong nhóm lớn (cả lớp), khuyến khích mọi<br />
HS tham gia tìm câu trả lời, mời gọi các<br />
HS/nhóm HS khác phản hồi, đánh giá ý kiến<br />
của bạn/nhóm bạn. Kiểu đàm thoại này sẽ tạo<br />
điều kiện cho HS chia sẻ kiến thức, hợp tác<br />
cùng nhau tìm kiếm kiến thức. Qua đó, HS sẽ<br />
nhận ra rằng có thể có nhiều câu trả lời khác<br />
nhau, nhiều cách khác nhau để nhìn nhận vấn<br />
đề. HS cũng học đƣợc cách lắng nghe, phân<br />
tích, nhận xét, phát vấn, đánh giá. Taffy<br />
Raphael và Efrieda Hiebert (1996) đề xuất sử<br />
dụng cấu trúc I-R-E (Initiation-ResponseEvaluation) trong quá trình dạy đọc hiểu. Đó<br />
là kiểu giao tiếp gồm 3 giai đoạn: Khởi xƣớng<br />
- Trả lời - Đánh giá. Tác dụng của kiểu tƣơng<br />
tác I-R-E là tạo ra cơ sở cho GV có thể điều<br />
chỉnh kiến thức và sự hiểu biết của HS, giúp<br />
việc học tập diễn ra theo đúng hƣớng và chỉ<br />
ra rõ đâu là các kiến thức và kinh nghiệm thật<br />
sự có giá trị. Tuy nhiên, cấu trúc I-R-E tƣơng<br />
đối cứng nhắc, thể hiện rõ sự chi phối của<br />
GV: chỉ định HS nào phát biểu, kết thúc cuộc<br />
thảo luận bằng ý kiến đánh giá của GV. Để<br />
tăng cƣờng sự tƣơng tác trong lớp học, để<br />
cuộc thảo luận thực sự “mở”, khuyến khích<br />
các ý kiến của HS, GV có thể sử dụng cấu<br />
trúc I-R-I-R-E (Initiation-Response-InitiationResponse-Evaluation), hay I-R-R-E<br />
(Initiation-Response-Response-Evaluation).<br />
Các kiểu giao tiếp này gồm một chuỗi những<br />
trao đổi, phản hồi… phản hồi này có thể gợi<br />
ý, kích thích những ý kiến tiếp theo. GV có<br />
<br />
73(11): 9 - 13<br />
<br />
của HS, giúp HS liên hệ văn bản với thực tế, làm<br />
cho nội dung văn bản gần gũi với cuộc sống của<br />
ngƣời đọc.<br />
<br />
Giúp HS liên hệ thực tế, nêu quan điểm cá nhân<br />
về cuộc sống.<br />
<br />
thể dựa vào ý kiến của HS để dẫn dắt HS thảo<br />
luận về những chủ đề liên quan [6].<br />
E. Probst (1992) đề xuất biện pháp tạo điều<br />
kiện cho HS tƣơng tác với nhau: (a) cho hai<br />
HS cạnh nhau trao đổi những ký ức, suy nghĩ<br />
và cảm xúc của mình khi đọc văn bản; (b)<br />
phát cho mỗi HS phiếu ghi chép và phản hồi,<br />
mỗi HS điền thông tin vào cột 1 và 2, sau đó,<br />
đổi bài cho HS kế bên, HS này sẽ ghi phản<br />
hồi của mình về ý kiến của bạn và trả lại ghi<br />
chép của mình cho bạn [5].<br />
Chúng tôi đã sử dụng biện pháp trên để tổ<br />
chức cho các nhóm gồm hai SV thực hiện<br />
hoạt động ghi chép và phản hồi khi đọc bài<br />
Hoa gạo của Phan Huyền Thƣ. Hình bên là<br />
sản phẩm của nhóm SV Nguyễn Ngọc Hoàng<br />
Điều và Phan Thị Mộng Tiên. Ví dụ trên thể<br />
hiện năng lực cảm nhận, phân tích văn bản<br />
của Hoàng Điều (cột 1,2), ý kiến tán thành và<br />
bổ sung của Mộng Tiên (cột 3) ý kiến trao đổi<br />
lại của SV Điều (cột 4). Hoạt động này là<br />
cuộc bút đàm về bài thơ giữa hai ngƣời đọc,<br />
qua đó, họ cùng nhau chia sẻ cảm nhận của<br />
mình về văn bản, giúp nhau hiểu văn bản hơn<br />
đồng thời rèn kỹ năng diễn đạt, điều chỉnh<br />
suy nghĩ trƣớc đó của bản thân về văn bản.<br />
Vấn đề thứ hai của tiến trình sử dụng CH<br />
trong lớp học là GV cần tổ chức những cuộc<br />
thảo luận “mở”, nghĩa khuyến khích các ý<br />
kiến khác nhau, không gò ép vào một đáp án<br />
duy nhất đúng. CH của GV nhằm khơi gợi<br />
hiểu biết, cảm xúc của HS, tạo điều kiện cho<br />
HS tương tác, chia sẻ cảm xúc, kinh nghiệm<br />
chứ không phải là mong đợi câu trả lời đúng ý<br />
GV. Để làm đƣợc điều này, đòi hỏi GV phải<br />
tôn trọng ý kiến của HS, đồng thời phải linh<br />
hoạt, khéo léo điều khiển cuộc thảo luận để<br />
không dẫn đến sự tranh cãi. Judith Langer<br />
(1992) đề xuất một số biện pháp trợ giúp HS<br />
tham gia vào quá trình tƣơng tác trong lớp<br />
<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
http://www.lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />
| 12<br />
<br />
Nguyễn Thị Hồng Nam<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
học nhƣ sau: (a) Gợi mở hiểu biết của HS<br />
bằng cách mời HS trình bày suy nghĩ và nêu<br />
CH, nếu đó là CH hay thì sử dụng CH đó cho<br />
các nhóm thảo luận; (b) Yêu cầu HS giải<br />
thích ý kiến của mình; (c) Mời HS thực hiện<br />
lƣợt nói của mình trong cuộc thảo luận; (d)<br />
Hƣớng dẫn HS cách liên hệ các ý kiến, cách<br />
đồng ý, không đồng ý và cách mở rộng các ý<br />
tƣởng; (e) Khi HS thảo luận, GV đến các<br />
nhóm đóng vai trò là ngƣời quan sát, giúp đỡ<br />
HS nếu chƣa hiểu CH [3].<br />
Việc tổ chức thảo luận về văn bản trong các<br />
nhóm nhỏ và cả lớp sẽ làm cho HS tham gia<br />
một cách thực sự vào việc giải mã và kiến tạo<br />
nghĩa cho văn bản, thể hiện chính kiến, đồng<br />
tình hay phản bác ý kiến khác, bảo vệ quan<br />
điểm của mình… HS có nhiều cơ hội học hơn<br />
thông qua sự tƣơng tác với những ngƣời hiểu<br />
biết hơn: GV, các HS khác. Kiến thức đƣợc<br />
kiến tạo giữa các cá nhân trong một môi<br />
trƣờng văn hoá xã hội thu nhỏ là lớp học, qua<br />
đó, HS khám phá ý tƣởng mới, phát triển cách<br />
thức tƣ duy mới.<br />
KẾT LUẬN<br />
Việc sử dụng CH, tổ chức cho HS tƣơng tác<br />
với nhau, với GV, thông qua tiến trình hỏi,<br />
đáp, phản hồi, đánh giá chia sẻ, thảo luận giữa<br />
các nhóm nhỏ và nhóm lớn (cả lớp) sẽ tạo ra<br />
bối cảnh khuyến khích HS tích cực tham gia<br />
thảo luận về văn bản, cùng nhau giải quyết<br />
vấn đề song song với quá trình tự xây dựng<br />
kiến thức cho bản thân.<br />
<br />
73(11): 9 - 13<br />
<br />
Để làm đƣợc điều này, đòi hỏi GV phải nắm vững<br />
đặc trƣng của hình tƣợng nghệ thuật, các đặc điểm<br />
của hoạt động tiếp nhận văn chƣơng, mục đích của<br />
việc dạy đọc hiểu văn bản, trình độ HS, đồng thời<br />
phải có năng lực tổ chức lớp học khéo léo, linh<br />
hoạt.<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
[1]. Anderson & Krathwohl – beyond Bloom. Truy cập<br />
từ:<br />
http://www.uwsp.edu/education/lwilson/curric/newtaxo<br />
nomy.htm ngày 7.11.2010<br />
[2]. Benjamin Bloom. Bloom’s taxonomy.<br />
Truy cập từ http://eduscapes.com/tap/topic69.htm ngày<br />
20 tháng 10 năm 2010.<br />
[3]. Judith A. Langer (1992). Literature Instruction, a<br />
focus on student response. National Council of<br />
Teachers of English.<br />
[4]. Nguyễn Thị Hồng Nam (2006). “Thiết kế câu hỏi<br />
trong dạy học văn – một thử thách với giáo viên”, Tạp<br />
chí Giáo dục số 147, kỳ 1 – 10/2006.<br />
[5]. Probst R.E. Five Kinds of Literary Knowing in<br />
trong Literature Instruction, a focus on student<br />
response. Edited by Judith A. Langer (1992). National<br />
Council of Teachers of English.<br />
[6]. Taffy E. Raphael & Elfrieda H. Hiebert (1996).<br />
Creating Intergrated Approach to Literacy Instruction.<br />
Harcourt Brace College Publishers.<br />
[7]. Taffy E. Raphael & Kathryn H. Au (2005). QAR:<br />
Enhancing comprehension and test talking across<br />
grades and content areas (2005). The Reading Teacher<br />
Vol.59, No.3, November 2005 (pp 206-221).<br />
<br />
ABSTRACT<br />
DESIGNING AND USING QUESTIOSN IN READING COMPREHENSION OF NON-FICTION<br />
WORKS<br />
Nguyen Thi Hong Nam<br />
Can Tho University<br />
<br />
How to design and use questions effectively is always a challenge for teachers. In this article, we discuss the<br />
principles of question design in order to guide students in reading of non-fiction works. Based on Bloom’s taxonom<br />
and the iconic features, multi-meanings, and emotive characteristics of these artistic symbols/ figure, different types<br />
of questions are proposed to help improve students’ critical thinking and cognitive capacity such as analysis,<br />
synthesis, evaluation, and imagination. These skills have two roles: decoding and constructing meanings for<br />
literature works. Simultaneously, we also mention the ways to organize activities so that students can have mutual<br />
interactions in the classrooms.<br />
Key words: types of questions, text decoding, meaning construction, interactions<br />
<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
http://www.lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />
| 13<br />
<br />