intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Cầu Trường Tiền

Chia sẻ: Van Nguyen Van | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

240
lượt xem
19
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Cầu Trường Tiền Bùi Thụy Đào Nguyên Cầu Trường Tiền hay cầu Tràng Tiền là chiếc cầu bắc qua sông Hương. Đầu cầu phía Bắc thuộc phường Phú Hòa, đầu cầu phía Nam thuộc phường Phú Hội; ngay giữa thành phố Huế, Việt Nam. Lịch sử và tên gọi Theo thi sĩ Quách Tấn [1], căn cứ bài thơ Thuận Hóa thành tức sự (chép bên dưới) của nhà thơ Thái Thuận[2]dưới thời vua Lê Thánh Tôn, thì sông Hương đã có cầu. Và chiếc cầu đó, được làm bằng song mây bó chặt lại với nhau và nối liền...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Cầu Trường Tiền

  1. Cầu Trường Tiền Bùi Thụy Đào Nguyên Cầu Trường Tiền hay cầu Tràng Tiền là chiếc cầu bắc qua sông Hương. Đầu cầu phía Bắc thuộc phường Phú Hòa, đầu cầu phía Nam thuộc phường Phú Hội; ngay giữa thành phố Huế, Việt Nam. Lịch sử và tên gọi Theo thi sĩ Quách Tấn [1], căn cứ bài thơ Thuận Hóa thành tức sự (chép bên dưới) của nhà thơ Thái Thuận[2]dưới thời vua Lê Thánh Tôn, thì sông Hương đã có cầu. Và chiếc cầu đó, được làm bằng song mây bó chặt lại với nhau và nối liền nhau, nên có tên là Cầu Mây. Rồi vì cầu có hình cái mống úp lên sông, nên còn có tên là Cầu Mống. Trải bao năm tháng, không biết năm nào, Cầu Mống được làm lại bằng gỗ, mặt cầu lát bằng ván gỗ lim. Năm Thành Thái thứ 9 (1897), chiếc cầu trên được nhà cầm quyền Pháp (khi ấy Khâm xứ Trung Kỳ là Levécque) giao cho hãng Eiffel (Pháp) thiết kế (do Gustave Eiffe thiết kế) và xây dựng lại bằng sắt, đến năm Thành Thái thứ 11 (1899) thì hoàn thành và được mang tên vị vua này. Tổng cộng tiền xây cầu Thành Thái tiêu tốn hết khoảng 400 triệu đồng, là một số tiền lớn vào thời đó. Nhưng sau khi vua Thành Thái bị thực dân Pháp đày sang đảo Réunion, thì nhà cầm quyền cho đổi tên là Clémnceau, theo tên của một Thủ tướng Pháp thời Chiến tranh thế giới lần thứ nhất.
  2. Đến năm Giáp Thìn (1904), bão lớn làm hư mất mấy vài. Hai năm sau, tức năm Thành Thái thứ 16 (1906), chiếc cầu mới được sửa chữa lại bằng xi măng cốt thép. Tổng chiều dài cây cầu là 401,10m, rộng 6,20m, có 6 vài, 12 nhịp, mỗi nhịp được thiết kế hình bán nguyệt. Và diện mạo này, vẫn giữ được cho đến ngày hôm nay. Năm 1945 chính phủ Trần Trọng Kim đổi tên là cầu Nguyễn Hoàng. Đến năm 1937, cầu được mở rộng thêm hai hành lang ở hai bên, dành cho người đi bộ, xe đạp và những bao lơn hình bán nguyệt được tạo ra ở 5 trụ cầu giữa 2 vai để có chỗ dừng chân, hay né tránh nhau. Năm 1946, trong chiến tranh Việt - Pháp, cầu bị đặt mìn giựt sập hai phía tả ngạn. Hai năm sau cầu được tu sửa tạm để qua lại.
  3. Trong Sự kiện Tết Mậu Thân, trụ 3 và nhịp 7 bị phá huỷ, sau đã được sửa chữa lại. Từ năm 1991 đến 1995, công ty Công ty Cầu 1 Thăng Long lãnh trách nhiệm trùng tu, xây lại hai nhịp cầu, đổi màu cầu từ màu dụ bạc sang màu lam, nên chiếc cầu không còn giống chiếc lược ngà và không còn lấp lánh dưới ánh mặt trời nữa. Tất cả các bao lơn cũng bị phá bỏ. Trước đây mặt cầu rộng 6m20, nhưng sau khi sửa chữa xong, chỉ còn 5m40, cho nên chỉ có xe loại nhỏ mới qua lại cầu được. Ngoài ra, ở hai đầu cầu, người ta còn gắn thêm hai tấm bảng bằng đồng ghi tên cầu là Tràng Tiền, chứ không phải là Trường Tiền, một cái tên quen thuộc đã đi vào sử sách và thơ ca. Và dù lần lượt có nhiều tên gọi, nhưng từ rất lâu, cái tên Trường Tiền (vì chiếc cầu nằm gần một công trường đúc tiền, gọi tắt là Trường Tiền của nhà Nguyễn) vẫn được người dân quen gọi và đã đi vào nhiều bộ môn nghệ thuật... Trong Văn học Nghệ thuật
  4. Tên Cầu Mống đã xuất hiện trong thơ Thái Thuận: Thuận Hóa thành tức sự (Quách Tấn dịch) Ghe thuyền qua lại sớm liền trưa Cầu Mống giăng sông cửa nước chừa. Mây lẫn bóng non trời rộng mở, Gió dồn tiếng sóng biển xa đưa. Chợ chiều tấp nập thân là lụa, Nét bút bồi hồi nhịp trúc tơ. Ca nữ quản bao dòng huyết hận, Địch đài trổi khúc lạc mai xưa.[3] Sau Cầu Mống, là cầu Trường Tiền. Và công trình này đã nhanh chóng trở thành một thắng cảnh nổi tiếng, và là đề tài của nhiều bộ môn nghệ thuật. Trích giới thiệu: Cầu Trường Tiền trong những câu ca: Cầu Trường Tiền sáu vai mười hai nhịp Em theo không kịp Tội lắm em anh ơi! Bấy lâu mang tiếng chịu lời Anh có xa em đi nữa
  5. Cũng tại ông Trời nên xa.[4] Năm 1906, chiếc cầu được đút lại bằng bê tông cốt thép, nên có câu: Chợ Đông Ba đem ra ngoài giại Cầu Trường Tiền đúc lại xi-mon Ơi người lỡ hội chồng con Về đây gá nghĩa vuông tròn nước non...[5] Năm 1946, trong chiến tranh Pháp - Việt, cầu bị đặt mìn giựt sập. Sau đó, lại có câu: Cầu Trường Tiền bấy nhiêu niên (năm) qua lại, Kể tự đời Thành Thái đến nay. Chạnh lòng biết hỏi ai đây, Việc chi nên nỗi đang tay dứt cầu? Và có ai đó đã đáp lại rằng: Chí quyết thắng PhápTây Nên cầu nầy phải phá, Qua sông còn nhiều ngã Đừng buồn bã em ơi. Nước non khôi phục được rồi, Cầu nầy bắc lại, không mấy hồi đó em... Trong thời gian Nguyễn Bính lưu lạc đến Huế, cầu Trường Tiền
  6. cũng đã xuất hiện trong thơ ông: Cầu cong như chiếc lược ngà Sông dài mái tóc cung nga buông hờ Đôi bờ đôi cánh tay vua Cung nga úp mặt làm thơ thất tình... ...Bồng bồng sáu nhịp cầu cao Thờ ơ bóng mát nơi nào cũng xanh... (trích trong bài Vài nét Huế, 1941) Trước năm 1975, ca sĩ Duy Khánh đã sáng tác ra bài Ai ra xứ Huế, trong đó có đoạn: À ơi à ơi ! Chứ cầu Tràng Tiền sáu vài mười hai nhịp Vì thương nhau rồi chớ xin kiếm về mau À ơi ơi à! Hò ơi! Kẻo rồi mai tê bóng xế qua cầu Thì bạn còn thương bạn chứ biết gởi sầu về nơi mô À ơi ơi à!... Sau sự kiện Tết Mậu Thân, cầu Trường Tiền bị bom đạn gây hư hại nặng. Quá xúc cảm, nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng viết bài hát Chuyện một chiếc cầu đã gãy để nói lên sự việc này. Ngoài ra, cầu Truờng Tiền cũng đã được in trong bộ tem thư của
  7. Việt Nam. Bùi Thụy Đào Nguyên, biên soạn. Chú thích 1. Quách Tấn, Bước Lãng Du, Nxb Trẻ, tr. 126-138. 2. Thái Thuận (chữ Hán: 蔡順, 1440 -?), phó nguyên suý Tao đàn Nhị thập bát Tú, tác giả Lữ Đường Thi Di Cảo. 3. Xem phiêm âm Hán – Việt trong Quách Tấn, Bước Lãng Du, tr. 130. 4. Theo Quách Tấn, câu ca trên có từ thời vua Hàm Nghi, rất có thể do Hoàng giáp Đỗ Huy Liêu (người Nam Định) sáng tác, để gửi gắm tâm sự của một bầy tôi không kịp chạy theo vua, chứ không phải viết về đề tài tình yêu trai gái. Và qua câu này, cũng đủ chứng tỏ trước đời vua Thành Thái, sông Hương đã có cầu. 5. Quách Tấn giải thích: "người lỡ hội chồng con", ám chỉ những chiến sĩ còn sống sót sau cuộc Cần Vương (Bước lãng du, tr. 136).
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2