Chăn nuôi gia cầm part 4
lượt xem 45
download
Gà Ri. Gà Ri là giống gà địa phương có từ lâu đời trên đất nước ta và được nuôi phổ biến ở khắp mọi miền đất nước. Trong đó, phổ biến nhiều nhất ở vùng đồng bằng trung du Bắc bộ và trung Nam Bộ. Ngoại hình : Qua nhiều năm, gà Ri bị pha tạp nhiều, sắc lông không đồng nhất, gà mái có màu lông vàng, nâu, nâu nhạt, đen hoặc điểm các đốm đen ở đầu, cánh, cổ và chót đuôi.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Chăn nuôi gia cầm part 4
- Các giống ngan II Kém phát 1 Dòng R31 Pháp 1992 triển Phát triển tốt 2 Dòng R51 Pháp 1992 Phát triển tốt 3 Dòng R71 Pháp 1997 Dòng siêu nặng Phát triển tốt 4 Pháp 1997 Nguồn: Bộ Nông nghiệp và PTNT, 2006. 3.5.1.4. Các giống gà đang nuôi ở nƣớc ta 1) Gà Ri. Gà Ri là giống gà địa phương có từ lâu đời trên đất nước ta và được nuôi phổ biến ở khắp mọi miền đất nước. Trong đó, phổ biến nhiều nhất ở vùng đồng bằng trung du Bắc bộ và trung Nam Bộ. Ngoại hình : Qua nhiều năm, gà Ri bị pha tạp nhiều, sắc lông không đồng nhất, gà mái có màu lông vàng, nâu, nâu nhạt, đen hoặc điểm các đốm đen ở đầu, cánh, cổ và chót đuôi. Gà trống có bộ lông sặc sỡ nhiều màu, nhất là lông cổ và đuôi, nhưng đa số có màu vàng đậm, tía. Đầu thanh đa số mào đơn (95%). Da chân vàng, chân có 2 hàng vẩy, thịt vàng, vẩy chân có khi màu đen gọi là chân chì. Gà Ri mọc lông sớm, chỉ hơn 1 tháng con đã đủ lông như gà trưởng thành. Phần lớn gà Ri có màu lông vàng rơm, chân vàng, đầu nhỏ, thanh, có mào đơn . Gà trống có lông màu đỏ tía, cánh và đuôi có lông đen, dáng chắc khỏe, ngực vuông và mào đứng. 85
- Hình 3.9: Gà Ri Khối lượng cơ thể lúc mới nở là 28g (Theo sử An Ninh và đồng nghiệp- 2003), lúc 4 tháng tuổi gà trống trung bình đạt 1,7 kg, gà mái 1,2 kg, khối lượng cơ thể khi 1 năm tuổi, con trống nặng 1,8 - 2,5 kg; con mái nặng 1,3 - 1,8 kg. Gà Ri là giống phát dục sớm : 4- 4,5 tháng đã bắt đầu đẻ. Sản lượng trứng đạt 120 - 150 quả/mái/năm. Nếu nuôi tốt, thực hiện chế độ cai ấp khi có con có thể cho sản lượng 164 - 182 quả/mái/năm (Theo kết quả nghiên cứu của viện chăn nuôi- 1970 ). Khối lượng trứng 40 - 45 g, tỷ lệ trứng có phôi đạt 89 - 90%, tỷ lệ nở trứng ấp: 94% tỷ lệ nuôi con đến 2 tuần tuổi là 98% (Theo sử An Ninh và đồng nghiệp - 2003 ). Ưu điểm nổi bật nhất của gà Ri là gà mọc lông, phát dục sớm, thịt trứng thơm ngon, thích nghi với khí hậu nhiệt đới, á nhiệt đới, ít mẫn cảm đối với bệnh cầu trùng, bạch lỵ, đường hô hấp. Nhưng tầm 86
- vóc bé, trứng bé, sản lượng trứng thấp và tính đòi ấp cao. Vì vậy, gà Ri thích hợp với chế độ nuôi quảng canh theo hướng cả thịt và trứng ở từng hộ gia đình. Trong tương lai, khi mà trên đại trà ngành gà nuôi các giống gà cao sản, nuôi thâm canh thì gà Ri sẽ được coi là một đặc sản. 2) Gà Hồ. Nguồn gốc của gà Hồ từ làng Lạc Thổ, Thị trấn Hồ, xã Song Hồ, huỵện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Sự hình thành và phát triển gà Hồ gắn liền với tập quán cổ truyền, với nền văn hiến vùng quê Kinh Bắc cổ kính. Nơi sản xuất ra tranh Ðông Hồ, đã đi vào lịch sử và được lưu truyền cho đến ngày nay. Gà Hồ cũng được nuôi phổ biến ở một số huyện thuộc tỉnh Bắc Ninh cũ và một số vùng khác ở miền Bắc (Theo Lê Hồng Mận, Hoàng Hoa Cương- 1994 ). Đặc điểm ngoại hình: Gà Hồ có tầm vóc khá to so với các giống gà địa phương khác. Đặc điểm của con trống theo thành ngữ chọn giống của dân địa phương là : Đầu công, mình ốc, cánh võ trai, đuôi nơm (chính cái nơm úp cá, để đạp mái dễ) da bụng, cổ màu đỏ, mào xuýt (mào kép), diều cân ở giữa; quản ngắn, đùi dài (cho thịt đùi nhiều) chân tròn, ngón tách nhau, da vàng, thịt ngon, lông mã lĩnh hay mận chín. Lông gà mái màu lá chuối hay màu võ nhãn, màu đất thó. Gà trống da vàng, màu lông mận chín hay mận đen, ngực nở, chân cao vừa phải, mào xuýt, thân hình chắc chắn. Khối lượng mới nở 45 g/con, lúc trưởng thành con trống nặng 4,5 - 5,5 kg/con; con mái nặng 3,5 - 4,0 kg/con. Bắt đầu đẻ lúc 185 ngày tuổi. Một năm đẻ 3 - 4 lứa, mỗi lứa đẻ được 10-15 quả trứng. Khối lượng trứng 50-55 g/quả. 87
- Hình 3. 10: Gà Hồ Tuổi đẻ của gà Hồ muộn 7,5 - 8 tháng. Sản lượng trứng 55 - 57 quả/năm/mái, khối lượng trứng 55 - 58 g (Theo Hội chăn nuôi Việt nam - 2002). Trong đó, tỷ lệ trứng có phôi là 80%, tỷ lệ ấp nở 70%, tỷ lệ nuôi sống đến 2 tuần tuổi 80% (Theo sử An Ninh và đồng nghiệp - 2003). Theo Bùi Đức Lũng, Lê Hồng Mận - 2003 gà Hồ có sản lượng trứng đạt 60 quả/mái/năm, tỷ lệ trứng ấp 70 - 80%. Gà Hồ có thân hình vạm vỡ và là giống gà địa phương có từ lâu đời nên cũng có những ưu điểm của gà địa phương. Thịt, trứng thơm ngon, sức chống chịu với ngoại cảnh tốt, nhưng sản lượng trứng thấp. Do đó, gà Hồ được xếp vào nhóm ― gà hướng thịt ― của Việt nam. 3) Gà Mía. Gà Mía có nguồn gốc ở xã Phùng Hưng, huyện Tùng Thiện, tỉnh Hà Tây (nay thuộc xã Sơn tây - Hà Tây ) Đặc điểm ngoại hình: Gà Mía là giống gà duy nhất ít bị pha tạp so với các giống gà nội khác. Ngoại hình gà Mía hơi thô: Mình ngắn, đùi to và thô, mắt sâu, mào đơn, chân có 3 hàng vảy, da đỏ sắc lông gà trống màu tía, ga mái màu nâu xám hoặc vàng. Nói 88
- chung màu lông gà Mía tương đối thuần nhất. Tốc độ mọc lông chậm, đến 15 tuần tuổi mới phủ kín lông ở gà trống. Khối lượng cơ thể lúc mới sinh là 32g (Theo sử An Ninh và đồng nghiệp- 2003). Lúc 4 tháng tuổi (giết thịt) bình quân con trống đạt 2,32 kg, con mái 1,9 kg, Gà 6 tháng tuổi con trống đạt 3,1 kg, con mái 2,4 kg (Theo tài liệu quỹ gen - 2001). Khi trưởng thành gà nặng 3 - 3,5 kg; gà trống đạt tới 5 kg (Lê Hồng Mận, Hoàng Hoa Cương - 1994). Theo hội chăn nuôi Việt nam khối lượng gà mái trưởng thành 2,5 -3 kg; trống 3,5 - 4 kg. Tuổi đẻ muộn 7 - 8 tháng, sản lượng trứng 50 - 55 quả/mái/năm, khối lượng trứng 50 - 55 g (Theo hội chăn nuôi Việt Nam - 2002). Tỷ lệ trứng có phôi 88%; tỷ lệ ấp nở 83%, tỷ lệ nuôi sống đến 8 tuần 98% (Theo sử An Ninh và đồng nghiệp - 2003). Gà Mía có sản lượng trứng trung bình 70 quả/mái/năm, tỷ lệ trứng có phôi và ấp nở đạt 70 - 75% (Theo Bùi Đức Dũng, Lê Hồng Mận - 2003). Gà Mía có chất lượng thịt thơm, da giòn, mỡ dưới da ít, sức khoẻ tốt, thích hợp trong điều kiện chăn nuôi thả vườn nhưng tuổi đẻ muộn, sản lượng trứng thấp nên hiện nay gà Miá được nuôi theo hướng thịt và ở một số vùng như Thành Phố Hồ Chí Minh, Bình Định, chủ yếu để lai với một số giống gà nội và nhập nội khác tạo gà lai nuôi thịt. 4) Gà Đông Tảo. Gà Đông Tảo là giống gà địa phương có nguồn gốc từ thôn Đông Tảo, xã Cấp Tiến, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên. Hiện nay nó được phát triển nhiều ở một số địa phương trong tỉnh Hưng yên, ngoài ra còn được nuôi ở Tỉnh Hải Dương, Hà Nội, Thái Bình, Hà Nam... Gà Đông Tảo có tầm vóc thô: Đầu to, mào nụ, mắt sâu, chân to xù xì có nhiều hàng vảy, xương to, nhiều thịt nhưng thịt không 89
- mịn, da đỏ ở bụng và cổ (gà trống ); da màu trắng đục (gà mái ). Lông của con trống có màu mận chín (màu mã lĩnh) chiếm đa số, con mái có hai màu lông điển hình: lông xám xen kẻ đốm đen, nâu (dân địa phương gọi là lá chuối khô), chiếm đa số và lông nõn chuối (màu nõn chuối) chiếm số ít. Nói chung, màu lông gà Đông Tảo cũng ít bị pha tạp như gà Mía và tốc độ mọc lông chậm. Khối lượng cơ thể lúc mới sinh là 33g (Theo sử An Ninh và đồng nghiệp- 2003). Gà thịt lúc 4 tháng tuổi có khối lượng trung bình con trống đạt 2,5 kg, con mái đạt 2 kg. Gà đẻ lúc 4 tháng tuổi con trống trung bình đạt 4,8 kg, con mái 3,5 kg (Theo tài liệu quỹ gen vật nuôi - 2001). Lúc trưởng thành mái nặng 2,5 - 3 kg, trống nặng 3,5 - 4 kg (Theo Hội chăn nuôi Việt Nam - 2002). Hình 3.11: Gà Đông Tảo Sản lượng trứng trong 10 tháng đẻ 68 quả mái, tỷ lệ có phôi 90%, tỷ lệ trứng ấp nở 68% (Theo tài liệu quỹ gen vật nuôi - 2001), khối lượng trứng 55 - 57 g, tỷ lệ trứng có phôi 88%, tỷ lệ ấp nở 70%, tỷ lệ nuôi sống đến 8 tuần tuổi 85% (Theo sử An Ninh và đồng nghiệp - 2003). Gà Đông Tảo có ưu điểm: Tầm vóc lớn, khối lượng trứng to. Nhưng có nhược điểm xương to, đẻ ít, khả năng tăng đàn chậm, gà con mọc lông chậm. Hiện nay, gà Đông Tảo được nuôi theo 2 90
- hướng: Hướng thịt và gà trống thường được dùng để lai với gà Ri, Gà Lương Phượng, gà Kabir tạo con lai lấy thịt có tốc độ sinh trưởng nhanh và chất lượng thịt thơm. Đây là vốn gen quí dùng để lai với các giống gà khác sẽ cho gà broiler có năng suất cao. 5) Gà Mán. Gà Mán là vật nuôi truyền đời của đồng bào Dao, H’Mông, Nùng ở các huyện khác nhau của tỉnh Cao Bằng và một số tỉnh phía Bắc. Về đặc điểm ngoại hình nổi bật của gà Mán là có chân màu vàng, trên da có những chấm xanh, màu hoa mơ. Lông màu hoa mơ hoặc nâu thẩm. Con trống trưởng thành màu đơn rất phát triển, thân dài, ngực rộng và sâu, lông đuôi cong dài. Gà Mán có nhiều màu sắc: xám, vàng, nâu đất. Đặc biệt, hầu hết các con mái trưởng thành (80%) các ― bộ râu ― rất phát triển đó là một chùm lông vũ mọc dưới cằm của gà. Chùm lông này phát triển trở thành một đặc điểm ngoại hình đặc trưng của gà Mán để phân biệt với các giống gà khác. Gà Mán có tầm vóc tương đối lớn so với các giống gà nội khác. Khối lượng cơ thể lúc sở sinh 34g, khi 24 tháng tuổi gà trống có thể đạt 4,5 - 5kg, gà mái 3 - 3,5kg (Theo Bùi Hữu Đoàn - 2003). Gà Mán thành thục sinh dục muộn, 200 ngày mới bắt đầu đẻ quả trứng đầu tiên. Sản lượng trứng 48 - 50 quả/mái/năm . Khối lượng trứng 50,34g/quả, trứng có phôi đạt tỷ lệ 95,35%, tỷ lệ nở chiếm 85,66% ( Theo Bùi Hữu Đoàn - 2003 ). Gà Mán có bản năng ấp rất cao và khéo, nuôi con khéo và kéo dài, tầm vóc lớn, nhưng đẻ ít, khả năng tăng đàn chậm. Vì vậy mà gà Mán được nuôi để lấy thịt. 6) Gà Tàu vàng. Được nuôi phổ biến ở các tỉnh miền Nam và hiện nay, phát triển mạnh ở một số địa phương thuộc địa phận đồng bằng sông Cửu Long, bị pha tạp nhiều. 91
- Gà Tàu vàng có lông màu vàng, chân có lông màu đen ở bàn, có khi ở cả ngón, gà mẹ có loại trui đuôi hoặc cũng có loại đuôi dài. Khối lượng có thể lúc mới sinh 30g (Theo sử An Ninh và đồng nghiệp - 2003) khi trưởng thành, gà trống nặng 3kg, mái nặng 2kg (Theo hội chăn nuôi Việt nam - 2002). Sản lượng trứng 70 - 90 quả/mái/năm, nặng 45 - 50 g/quả. Trong đó, tỷ lệ trứng có phôi 85%, tỷ lệ ấp nở 88%, tỷ lệ nuôi sống đến 8 tuần tuổi là 95% (Theo sử An Ninh và đồng nghiệp - 2003). Theo kết quả nghiên cứu khả năng sinh sản và sinh trưởng gà Tàu Vàng ở Đồng Nai của Lâm Minh Thuận, Lâm Thanh Vũ (2003) thì tỷ lệ trứng có phôi 93,5 - 97,6% ), tỷ lệ ấp nở 82,4 - 87,9%. 7) Gà Ác. Gà Ác được thuần dưỡng phát triển đầu tiên ở các tỉnh Trà Vinh, Long An, Kiên Giang. Đặc điểm ngoại hình: Thân hình nhỏ, nhẹ, thịt xương màu đen, lông trắng tuyền xù như bông, mỏ, chân cũng màu đen, mào cơ phát triển, màu đỏ tím khác với các giống gà khác chân có 5 ngón nên còn gọi là gà ― Ngũ trảo ― và có lông chiếm đa số. Gà trên 4 tháng tuổi có khối lượng trung bình 640 -760 g. Tuổi đẻ trứng đầu tiên là 110 -120 ngày, sản lượng trứng 70 - 80 quả/mái/năm, trứng nặng 30 - 32 g (Theo hội chăn nuôi Việt nam - 2002), tỷ lệ trứng có phôi 90%, tỷ lệ ấp nở /trứng xấp xỉ 64%. Gà mái có thể sử dụng tới 2,5 năm (Theo Bùi Đức Lũng và Lê Hồng Mận - 2003) Gà Ác có khối lượng nhỏ, tỷ lệ ít nhưng lại là loại gà thuốc, bồi dưỡng (tỷ lệ sắt trong thịt cao hơn gà thường 45%, tỷ lệ axít amin cao hơn 25%). Gà Ác được nuôi chủ yếu để hầm với thuốc bắc hoặc ngâm rượu để bồi bổ sức khoẻ và trị bệnh. 92
- 8) Gà Nòi ( còn gọi là gà chọi). Số lượng không nhiều, rải rác nhiều nơi, thường tồn tại chủ yếu ở những địa phương có phong tục truyền thống văn hoá ― chơi chọi gà ― như tỉnh Hà tây, Hà Nội, Bắc Ninh, Huế, Thành Phố Hồ Chí Minh ( huyện Hoóc Môn ) Đặc điểm ngoại hình: Chân cao, mình dài, cổ cao, mào xuýt (mào kép) màu đỏ tía; cựa sắc và dài (con trống có lông màu mận chín pha lông đen ở cánh, đuôi, đầu). Tích và dái tai màu đỏ, con mái màu xám ( lá chuối khô ) hoặc màu vàng nhờ điểm đen, mỏ và chân màu chì, mắt đen có vòng đỏ. Hình 3. 12: Gà nòi (gà chọi) Gà trống 1 năm tuổi đạt 2,5 - 3 kg, gà mái 1,8 - 1,9 kg (Theo hội chăn nuôi Việt nam -2002)...Khi trưởng thành gà trống 3-4kg, gà mái 2 - 2,5kg (Theo Sử An Ninh và đồng nghiệp - 2003 ). 93
- Sản lượng trứng 50 - 70 quả/mái/năm, vỏ trứng màu hồng. Khối lượng trứng 50 - 55 g/quả ( Theo sử An Ninh và đồng nghiệp - 2003 ). Gà có sức khoẻ tốt nhưng đẻ ít, khả năng tăng đàn chậm. Được người dân nuôi để làm gà chọi trong các cuộc lễ hội. Một số địa phương như vùng Hoóc môn và các tỉnh miền Đông thường cho lai với gà ta để nuôi lấy thịt. 9) Gà Văn Phú. Gà Văn Phú là giống gà địa phương được thuần dưỡng từ lâu ở xã Văn Phú, Xã Sài Ngã, huyện Cẩm khê, tỉnh Phú Thọ giống gà này phân bố hẹp, chỉ chủ yếu ở một vài địa phương trong tỉnh. Về đặc điểm ngoài hình, thể chất: gà Văn Phú có ngoại hình cân đối, chân chì, cao, lông đen pha lẫn trắng ở cuống lông, mào đơn, da trắng, xương nhỏ. Khối lượng cơ thể qua các giai đoạn thấp hơn gà Đông Tảo, gà Hồ, Gà Mán. Một năm tuổi con trống nặng 3,2kg, mái nặng 2 - 2,3kg. Sản lượng trứng khá 80- 100 trứng/mái/năm, khối lượng trứng 50 - 55 g. Tỷ lệ nở thấp, chỉ đạt trên 70% (Theo Bùi Đức Lũng và Lê Hồng Mận - 2003 ) Gà Văn Phú là giống gà kiêm dụng được dùng chăn nuôi theo cả hướng thịt và hướng trứng. 10) Gà “ ô “ (gà đen). Gà ―ô ‖ được nuôi ở vùng biên giới Việt Trung như: Bản Mễ thuộc huyện Bắc Hà, một số xã của huyện Mường Khương. Đặc điểm ngoại hình: Gà có tầm vóc nhỏ con, có nhiều màu lông khác nhau, nhưng màu đen tuyền chiếm đa số, mào cờ (mào đơn) màu đen nhạt, chân, da, thịt, xương, mề, mỡ màu đen khối lượng gà lúc lên đẻ từ 1 – 1,3kg sản lượng trứng 90 - 100 quả/ mái/ năm. Ngoài ra còn có loại gà ― Ô ‖ to hơn (hướng thịt), màu lông chủ yếu là màu vàng đất, xám, có lòng bàn chân, đa số mào trụ (mào 94
- kép) màu hồng xám. Khối lượng cơ thể lúc trưởng thành con mái 2,8 - 3 kg, con trống 2,8 - 3,2 kg ( Theo Bùi Đức Lũng và Lê Hồng Mận - 2003) . Gà có sức sống và chống bệnh cao nhưng khối lượng cơ thể nhỏ. Đây là loại gà được sử dụng hầm với thuốc bắc, ngâm rượu để bồi bổ cơ thể cho người rất tốt. 11) Gà Tre. Được nuôi ở các tỉnh Nam Bộ, vóc dáng nhỏ, thịt thơm ngon. Sáu tháng tuổi trống nặng 800 - 850 g, mái nặng 600 - 620g. Đầu nhỏ, mào hạt đậu, con trống thường có màu vàng ở cổ và đuôi, phần còn lại màu đen, lông dài, lông con mái thường màu xám xen lẫn màu trắng. Sản lượng trứng 50 - 60 quả / mái/ năm, nặng 21 - 22 g. Gà Tre được dùng làm cảnh và thi chọi ở nhiều nơi trong nước ta (Theo hội chăn nuôi Việt Nam- 2002). 12) Gà Rốt - Ri. Gà Rốt - Ri là một nhóm giống được lai tạo giữa gà Rhode Island kiêm dụng trứng thịt với gà Ri của ta tại Viện chăn nuôi vào những năm 70, năm 1985 được công nhận là nhóm giống. Gà có lông nâu nhạt, mào đơn, chân vàng. Khối lượng gà lúc 9 tuần tuổi 660 g/con, 19 tuần tuổi 1,5 kg/con đến 44 tuần tuổi đạt 1,9 kg/con. Tuổi đẻ trứng đầu là 135 ngày. Khối lượng trứng 49 g/quả. Năng suất trứng 1 năm đạt 180 - 200 quả/mái. Hình 3.13: Gà Rốt Ri 95
- Vỏ trứng màu nâu nhạt gần giống màu trứng gà Ri. Giống gà này được nuôi giữ tại Trung tâm nghiên cứu gia cầm Thuỵ Phương (Từ Liêm, Hà nội), dùng để lai với một số giống gà nội và gà nhập nội ( gà thả vườn) tạo ra con lai năng suất cao. 13) Gà Tam Hoàng. Nhập vào nước ta từ Trung Quốc và Hồng Kông gồm 2 dòng: 882 và Jiangcun. Gà có màu lông vàng, mỏ vàng, chân vàng, có thân hình chắc: ngực nở, bầu bĩnh, nhanh nhẹn, thích kiếm mồi, thịt thơm ngon. Tính chống chịu bệnh tật cao. Lông gà con mới nở không đồng nhất về màu sắc, màu lông biểu hiện chính là màu vàng (62%) sau đó đến màu xám (23%) và một số màu khác với tỷ lệ ít, khoảng cách sai khác giữa màu lông mất dần theo tuổi. Gà trưởng thành chủ yếu là màu vàng. Da chân vàng, mào đơn đỏ, ngực nở, đùi to. Khối lượng cơ thể lúc mới sinh là 35g (Theo sử An Ninh và đồng nghiệp- 2003). Dòng 882 màu lông vàng hoặc lốm đốm đen, đa số có cườm cổ, ở 11 tuần tuổi trống nặng 1,4 - 1,45 kg, mái nặng 1,2 kg. Dòng Jiangcun lông màu vàng tuyền, ở 11 tuần tuổi con trống 1,3 kg; con mái nặng trên dưới 1kg ( Theo hội chăn nuôi Việt nam - 2002). Nếu được nuôi tốt dòng Jiangcun đạt 1,8 kg/ con/ 11- 12 tuần tuổi (Theo Nguyễn Thiện - 1999) gà mái lúc 5 tháng tuổi đã đẻ bói, lúc gần 7 tháng tuổi tỷ lệ đẻ đạt trên 60%. Sản lượng trứng dòng Jiangcun đạt 170 quả/ mái/ năm, dòng 882 đạt 156 quả/ mái/ năm. (Theo Hội chăn nuôi Việt nam - 2002). Khối lượng trứng 51 - 52 g/ quả, tỷ lệ trứng có phôi đạt 95%, tỷ lệ nở so với trứng có phôi đạt 83% ( Theo Nguyễn Thiện - 1999). Tỷ lệ nuôi sống đến 2 tuần tuổi là 95%. 96
- Hình 3.14: Gà Tam Hoàng Gà Tam Hoàng có những đặc điểm nổi bật là: tỷ lệ nuôi sống cao, chống chịu bệnh tật, chịu khó kiếm mồi, phẩm chất thịt và trứng thơm ngon, sản lượng trứng và thịt cao hơn các giống gà nội Việt Nam, hợp với thị hiếu của người nuôi và tiêu dùng ở Việt nam. Do đó, gà Tam Hoàng được nuôi khắp 3 miền: Bắc - Trung - Nam với số lượng trên triệu con để lấy thịt và trứng. 14) Gà Sasso. Gà Sasso là dòng gà thịt của Pháp nhập vào nước ta từ năm 2002, được nuôi nhiều ở Tam Ðảo (Vĩnh Phú), trại thực nghiệm Liên-Ninh (Hà Tây) và một số nơi ở miền Bắc. Dòng trống: con trống lông màu nâu, con mái lông màu trắng. Dòng mái lông màu nâu. Dòng thương phẩm có lông màu nâu vàng hoặc nâu đỏ; chân, mỏ và da màu vàng. Khối lượng lúc 9 tuần tuổi nặng 2,5 kg/con. Dòng trống, đàn ông bà có năng suất trứng 65 tuần đạt 180 quả, khối lượng trứng 50 g/quả. Gà Sasso có khả năng chống chịu bệnh tốt, chúng chịu được nóng và độ ẩm cao. Gà lớn nhanh, lúc 2 tháng tuổi kể từ lúc bóc trứng, nuôi đúng kỹ thuật gà đạt 2,2 - 2,5 kg/ con chất lượng thịt tốt: thịt rắn, chắc, thơm ngon, có vị ngon đậm đà tương tự gà Ri của 97
- Việt Nam. Đặc biệt, gà Sasso tận dụng được ngô, tấm, gạo, sắn và thức ăn thừa của lợn. Gà đạt hiệu quả kinh tế cao kể cả nuôi thả vườn và tập trung. Do đó, gà Sasso có thể nuôi được từ Bắc vào Nam và hiện nay nuôi gà Sasso theo hướng thịt. Tại xí nghiệp gà giống Tam Đảo (Vĩnh Phúc) và trung tâm nghiên cứu gia cầm Vạn Phúc đã nhập 4 dòng ông bà và gà bố mẹ SA 31 L để lai tạo ra gà thịt (broiles) Các chỉ tiêu sản xuất của gà bố mẹ SA 31L trung bình. Hình 3. 15: Gà Sasso + Khối lượng cơ thể lúc giết thịt ( 9 tuần tuổi): 2390g + Khả năng nuôi sống 23 - 66 tháng tuổi : 92% + Sản lượng trứng/ 10 tháng đẻ: 159 quả/ mái + Tỷ lệ trứng giống: 95,5%; Tỷ lệ ấp nở: 80%. + Sản lượng trứng giống/ mái: 152 quả/ mái + Sản lượng gà con 1 ngày tuổi: 129 con/ mái ( Theo Bùi Đức Lũng và Lê Hồng Mận - 2003) 98
- 15) Gà Lƣơng Phƣợng. Gà Lương Phượng hay còn gọi là Lương Phượng Hoa Trung Quốc do lai tạo giữa giống gà nội của Trung Quốc với gà nhập nội, được nhập vào nước ta từ sau năm 1997. Gà có màu lông đa dạng: vàng đốm đen ở vai, lưng và lông đuôi. Lông cổ có màu vàng ánh kim, búp lông đuôi có màu xanh đen. Dòng mái có màu đốm đen, cánh sẻ là chủ yếu. Dòng trống chủ yếu có màu vàng nâu nhạt - đốm đen. Chân màu vàng, mào đơn đỏ tươi. Thân hình cân đối. Gà có thân hình chắc, thịt ngon. Khối lượng cơ thể lúc mới sinh: 34,5 g, lúc 8 tuần tuổi đạt 1,2 - 1,3 kg. Khối lượng gà lúc 20 tuần tuổi con trống 2,0 - 2,2 kg, gà mái 1,7 - 1,8 kg/con. Tuổi dẻ đầu tiên 140 - 150 ngày, sản lượng trứng 150 - 170 quả/mái/năm. Gà Lương Phượng có sức kháng bệnh tốt, thích hợp với mọi điều kiện chăn nuôi ở Việt Nam. Nuôi công nghiệp, bán chăn thả và chăn thả. Hình 3.16: Gà Lƣơng Phƣợng 16) Gà Kabir. Gà Kabir có nguồn gốc từ Israel, nhập vào nước ta tháng 7/1999 và được người nuôi Việt Nam ưa chuộng. Các dòng khác 99
- nhau có ngoại hình và màu lông khác nhau:. Gà có màu lông nâu vàng hoặc đỏ vàng, da , chân vàng, thân hình chắc, to hơn giống gà hướng trứng. Khối lượng gà mới nở 41 g/con, lúc 8 tuần tuổi đạt 920 g/con, lúc 25 tuần tuổi gà trống nặng 2,8 kg, gà mái nặng 2,2 kg/con. Năng suất trứng của đàn bố mẹ 170 quả /mái/70 tuần tuổi. Khối lượng trứng 59 g/quả, tỷ lệ nuôi sống 97%. Khối lượng cơ thể lúc sơ sinh 39g/ con, lúc 8 tuần tuổi đạt 1520g/ con (Theo Nguyễn Minh Hoàn - 2003). Khi 20 tuần tuổi đạt 2 - 2,1kg / con (Theo Hội chăn nuôi Việt nam , 2002), lúc 9 tháng tuổi trung bình 2100g/ con (Theo Bùi Đức Lũng và Lê Hồng Mận – 2003). Hình 3.17: Gà Kabir Sản lượng trứng của gà bố mẹ 140 quả / 9 tháng đẻ/ mái (Theo Bùi Đức Lũng và Lê Hồng Mận - 2003). Có khi sản lượng trứng 70 tuần tuổi đạt trên dưới 00 trứng, khối lượng trứng 57 - 58 g/ quả (Theo Hội chăn nuôi Việt Nam - 2002). Gà có tỷ lệ nuôi sống cao 96,6% (Theo Nguyễn Minh Hoàn - 2003) Gà Kabir có thịt chắc ngon, sức sống tốt, phù hợp với điều kiện khí hậu Việt Nam, khối lượng cơ thể và trứng tương đối lớn. Đây là giống gà kiêm dụng trứng và thịt. Nhưng gà Kabir có khả năng chống chịu bệnh tật và thay đổi ngoại cảnh không được tốt lắm. 100
- 17) Gà Bình Thắng (BT1). Gà BT1 là giống gà cải tiến trong nước được lai tạo tại Trung tâm nghiên cứu và phát triển chăn nuôi Bình Thắng trên đối tượng là gà Goldline 54 và gà Rhode Ri. Ngoại hình: Gà có lông màu nâu nhạt, mào đơn, chân vàng,. gà có tầm vóc to, chân cao vừa phải, chắc khoẻ con trống lông màu đỏ, con mái lông nâu nhạt, lông cổ nâu sẫm, đầu thanh, ngực sâu, bụng sệ, chân da màu vàng. Khối lượng cơ thể lúc 5 tháng con trống : 2 - 2,2 kg, con mái 1,5 - 1,7 kg. Nuôi 1 năm con trống nặng 3,2 - 3, 5 kg; con mái nặng 2,2 - 2,5 kg. Sản lượng trứng đạt 180 - 200 quả./ năm/ mái, khối lượng trứng 54 - 55 quả. Gà BT1 có những ưu điểm của gà bố là : tốc độ sinh trưởng nhanh, khả năng đẻ trứng lớn, có những ưu điểm của gà mẹ là có sức sống tốt, khả năng chống chịu với ngoại cảnh, bệnh tật... cao. Đây là giống gà kiêm dụng thích hợp với tất cả các hình thức: Chăn thả, bán chăn thả và công nghiệp. Hình 3.18: Gà Bình Thắng 101
- 18) Gà Brown Nick (braonic) Là dòng gà trứng cao sản ở Mỹ, được nuôi nhiều ở Thành phố Hồ Chí Minh và một số tỉnh phía Nam, phía Bắc. Lúc mới nở gà trống có lông màu trắng, gà mái màu nâu có 2 sọc ở lưng. Khối lượng mới nở 36 g/con, trưởng thành 1,8 kg/con. Bắt đầu đẻ lúc 18 tuần tuổi. Sản lượng trứng 305 - 325 quả/56 tuần. Khối lượng trứng 62 - 64 g/quả. Hình 3.19: Gà Brown Nick 3.5.2. Các giống vịt 3.5.2.1. Vịt Cỏ Vịt cỏ (hay còn gọi là vịt đàn, vịt tàu) là một trong những giống vịt được nuôi lâu đời và phổ biến ở nước ta. Phân bố phổ biến khắp mọi miền đất nước, chiếm 85% trong tổng đàn, tập trung nhiều ở các vùng lúa nước. Trong vòng 10 năm trở lại đây, vịt có xu hướng chủ yếu phân bố ở Ðồng bằng Bắc Bộ và ven biển miền Trung, ở các tỉnh phía Nam có số lượng vịt giảm dần và được thay thế bằng vịt Anh Ðào. Nguồn gốc bắt nguồn từ vịt trời, qua quá trình thuần hóa tự nhiên tạo thành giống vịt cỏ thích nghi với đời sống chăn thả hiện 102
- nay. Do con người không có tác động chọn lọc, nên giống vị t này đang bị pha tạp nhiều. Vịt có lông màu vàng, có con màu xanh, màu cà cuống có chấm đen, có con đen nhạt. Vì bị pha tạp nhiều nên có nhiều màu lông khác nhau. Vịt có đầu thanh, mắt sáng, linh lợi, mỏ dẹt, khỏe và dài, mỏ thường có màu vàng, có con mỏ màu xanh cà cuống lấm chấm đen, có con màu tro. Cổ dài, mình thon nhỏ, ngực lép. Chân hơi dài so với thân, chân thường màu vàng, có con màu nâu, một số con màu đen (những con này toàn thân có màu da xám). Những con màu lông khác thì có da trằng hơi vàng. Dáng đi nhanh nhẹn, kiếm mồi giỏi, tỷ lệ nuôi sống cao. Hình 2.20: Vịt Cỏ Khối lượng mới nở 42 g/con. Lúc trưởng thành con trống nặng 1,6 kg, con mái nặng 1,5 kg/con. Mỗi năm có thể đẻ từ 150 - 250 quả, tuỳ theo điều kiện nuôi dưỡng. Khối lượng trứng 65 g/quả, 70-80 ngày tuổi có thể giết thịt. 3.5.2.2. Vịt Bầu Giống to con, ngon thịt, nặng trung bình 2,0-2,5 kg, 6 tháng tuổi bắt đầu đẻ trứng, trứng nặng 50-60 g. Vịt phổ biến hầu hết các 103
- địa phương ở nước ta, nhưng nổi tiếng nhất vẫn là loại vịt Bầu bến (Hòa Bình), vịt Phủ Quì (Nghệ An). Vịt Bầu Bến có nguồn gốc ở vùng Chợ Bến, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hoà Bình, hiện nay được nuôi ở nhiều nơi như Hà Nội, Hà Tây, Thanh Hoá và một số mơi khác. Vịt có thân hình bầu bỉnh, đầu to, cổ dài. Con mái có màu nâu-vàng xen lẫn. Con trống có màu cánh sẻ phía đầu, lưng. Tuy nhiên vẫn có một số con có màu khác. Chân màu vàng, thỉnh thoảng có chấm đen. Khối lượng mới nở 42 g/con. Lúc trưởng thành, con trống nặng 1,6 - 1,8 kg, con mái nặng 1,3 - 1,7 kg. Vịt bắt đầu đẻ lúc 154 ngày tuổi. Khối lượng trứng 64 - 66 g/quả. Sản lượng trứng/mái/34 tuần đẻ 134 - 146 quả. Tỷ lệ phôi 95 - 96%. Tỷ lệ nở đạt 80%. Vịt Bầu Quì có nguồn gốc từ huyện Quì Châu, tỉnh Nghệ An. Hiện nay được phân bố ở các huyện Quì Châu, Quế Phong, Vinh (Nghệ An), Hà Nội, Hà Tây, Thanh Hoá. Vịt có thân hình gần giống vịt Bầu Bến. Khối lượng trưởng thành con trống nặng 1,6 - 1,8 kg, con mái nặng 1,4 - 1,7 kg/con. Vịt bắt đầu đẻ lúc 162 - 168 ngày tuổi. Trứng nặng 70 - 75 g/quả. Tỷ lệ phôi 96 - 97%. Tỷ lệ ấp nở đạt 80%. Sản lượng trứng/mái/34 tuần đẻ đạt 122 - 124 quả. Hình 3.21: Vịt Bầu Bến 104
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Chăn nuôi bồ câu chim cút part 4
19 p | 176 | 64
-
Chăn nuôi gia cầm part 6
28 p | 176 | 55
-
Bài giảng phương pháp thí nghiệm trong chăn nuôi và thú y tập 1 part 4
7 p | 189 | 54
-
Thức ăn bổ sung cho vật nuôi : Khái niệm và phân loại thức ăn bổ sung part 4
5 p | 133 | 23
-
Công nghệ chăn nuôi : GIỐNG VÀ CÔNG TÁC GIỐNG VẬT NUÔI part 4
6 p | 151 | 21
-
Công nghệ chăn nuôi : Kỹ thuật chăn nuôi gia cầm part 2
7 p | 144 | 19
-
Ứng dụng công nghệ trong chăn nuôi gia súc và bảo quản sản phẩm part 4
14 p | 89 | 18
-
Chăn nuôi dê part 1
7 p | 77 | 11
-
Chăn nuôi dê part 10
7 p | 65 | 11
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn