Vũ Hồng Kỳ và Đtg<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
190(14): 77 - 84<br />
<br />
CHẾ TẠO CÁC HẠT KIM LOẠI COBALT BẰNG PHƯƠNG PHÁP NGHIỀN<br />
CƠ NĂNG LƯỢNG CAO SỬ DỤNG CHẤT TRỢ NGHIỀN OLEYLAMINE<br />
Vũ Hồng Kỳ1,*, Nguyễn Trung Hiếu1, Đỗ Khánh Tùng1, Lê Thị Hồng Phong1,<br />
Nguyễn Văn Đăng2, Đỗ Hùng Mạnh1<br />
1<br />
<br />
Viện Khoa học vật liệu - Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam<br />
2<br />
Trường Đại học Khoa học - ĐH Thái Nguyên<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Các hạt kim loại Cobalt (Co) với kích thước và hình thái học khác nhau có tiềm năng ứng dụng<br />
trong một số lĩnh vực như điện tử, xúc tác, y sinh học... Kỹ thuật tổng hợp, chế tạo các hạt kim loại<br />
từ tính để có thể điều khiển được kích thước, cấu trúc vi mô và thành phần được nhiều nhà khoa<br />
học trên thế giới quan tâm và nghiên cứu. Trong bài báo này, chúng tôi báo cáo những kết quả<br />
nghiên cứu ban đầu về ảnh hưởng của chất trợ nghiền Oleylamine và thời gian nghiền đến các đặc<br />
trưng hình thái, cấu trúc và tính chất từ của các hệ hạt kim loại Co được chế tạo bằng phương pháp<br />
nghiền cơ năng lượng cao. Phân tích các ảnh SEM cho thấy sự đồng tồn tại của các hạt có kích<br />
thước lớn sub-micro mét với hình đĩa dẹt và các hạt nano hình tựa cầu với đường kính khoảng 30<br />
nm. Đường cong từ hóa chỉ ra rằng tính chất từ ít thay đổi theo thời gian nghiền. Ảnh hưởng của<br />
tham số nghiền đến khả năng tạo chất lỏng từ chứa các hạt lớn (micro) và nhỏ (nano) cũng được<br />
phân tích và biện luận. Bên cạnh đó, khả năng sinh nhiệt của chất lỏng từ chứa các hạt nano Co<br />
cũng cho thấy tiềm năng ứng dụng trong nhiệt từ trị.<br />
Từ khóa: Hạt nano kim loại từ; Cobalt; nghiền cơ năng lượng cao; chất trợ nghiền<br />
<br />
MỞ ĐẦU*<br />
Vật liệu từ tính dạng hạt của các đơn kim loại<br />
và lưỡng kim như Fe, Co, Fe-Co,.. gần đây<br />
thu hút nhiều nghiên cứu vì chúng có từ độ<br />
bão hòa cao và độ từ thẩm lớn [1-8]. Ví dụ<br />
như từ độ bão hòa của các mẫu khối như Fe<br />
(~218 emu/g), Fe-Co (~235 emu/g) và Co<br />
(~166 emu/g) cao hơn khá nhiều so với mẫu<br />
hạt oxit từ phổ biến là Fe3O4 (~100 emu/g) [8,<br />
9]. Hơn nữa, nhờ sự phát triển mạnh mẽ của<br />
khoa học công nghệ, các kỹ thuật tổng hợp,<br />
chế tạo mẫu cho phép có thể điều khiển được<br />
kích thước, vi cấu trúc và hình thái học theo ý<br />
muốn. Các hạt từ kim loại kích thước submicro mét đến vài micro mét, có thể sử dụng<br />
trong<br />
chất<br />
lỏng<br />
lưu<br />
biến<br />
từ<br />
(magnetorheological fluid), một chất được gọi<br />
là “chất rắn mềm” với độ nhớt và ứng suất<br />
đàn hồi thay đổi mãnh liệt khi đặt trong từ<br />
trường. Chất lỏng lưu biến từ được ứng dụng<br />
rộng rãi trong thực tế như: cơ kỹ thuật (giảm<br />
chấn, hãm), tự động hóa (van, phanh chống<br />
sốc), quang học (đánh bóng),…[2, 3]. Các hạt<br />
từ kim loại kích thước nhỏ hơn, cỡ nano mét<br />
*<br />
<br />
đến vài chục nano mét có thể sử dụng trong<br />
chất lỏng từ nano (ferrofluid) với các ứng<br />
dụng trong y sinh học (đốt nhiệt từ, tăng<br />
cường tương phản ảnh cộng hưởng từ, dẫn<br />
thuốc, phân tách từ,…) [9]. Ngoài ra, từ các<br />
hạt nano kim loại, các cấu trúc nano khác<br />
nhau như cấu trúc lõi vỏ, cấu trúc tổ hợp đã<br />
và đang được tập trung nghiên cứu. Dựa trên<br />
các cấu trúc này, các vật liệu đa chức năng,<br />
vật liệu được tăng cường tính chất, vật liệu lai<br />
(ví dụ plasmonic-từ), vật liệu với các hiệu<br />
ứng vật lý thú vị như tương tác trao đổi kép<br />
(exchange-coupled), tương tác trao đổi hiệu<br />
dịch (exchange-bias), vật liệu hạn chế được<br />
các nhược điểm của hạt nano kim loại như<br />
chống oxy hóa, bền với môi trường, giảm độc<br />
tính và tương thích sinh học tốt hơn, v.v. đã<br />
được nghiên cứu và tạo ra [9-12].<br />
Các hạt kim loại từ với hình thái học khác<br />
nhau được chế tạo, tổng hợp bằng một số<br />
phương pháp vật lý và hóa học: đồng kết tủa,<br />
phân hủy nhiệt, nghiền cơ năng lượng cao,<br />
hóa siêu âm, lắng đọng từ pha hơi (CVC),<br />
plasma,...[1-12]. Trong các phương pháp kể<br />
trên, nghiền cơ năng lượng cao có một số ưu<br />
<br />
Tel:+24-37564274, Email:kyvh@ims.vast.ac.vn<br />
<br />
77<br />
<br />
Vũ Hồng Kỳ và Đtg<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
điểm vượt trội như quy trình đơn giản và dễ<br />
chế tạo được vật liệu với khối lượng lớn, giá<br />
thành thấp. Phương pháp nghiền cơ chỉ dựa<br />
vào lực tác động cơ học được tạo ra bởi bi và<br />
cối nghiền quay với tốc độ cao để phá vỡ các<br />
hạt bột cỡ micro, làm tăng số lượng biên hạt.<br />
Quá trình nghiền cơ năng lượng cao liên quan<br />
đến việc tối ưu nhiều thông số để thu được<br />
sản phẩm có kích thước hạt bột, pha hay cấu<br />
trúc mong muốn. Trong việc nghiền để tạo ra<br />
các hạt bột phân tán, kích thước nhỏ, chất trợ<br />
nghiền có một vai trò rất quan trọng [13-17].<br />
Chất trợ nghiền sẽ bao quanh các hạt mịn một<br />
lớp mỏng hữu cơ để ngăn ngừa các hạt kết tụ<br />
và hàn nguội với nhau để duy trì kích thước<br />
hạt nhỏ trong quá trình nghiền năng lượng<br />
cao [17]. Quá trình nghiền có và không có<br />
chất trợ nghiền được trình bày chi tiết trong<br />
tài liệu [13].<br />
Đã có khá nhiều nghiên cứu, tiến hành một<br />
cách hệ thống, sử dụng phương pháp nghiền<br />
cơ năng lượng cao để chế tạo các hạt nano từ<br />
kim loại Fe, Fe-Co, Co [1, 8, 13-17]. Quá<br />
trình nghiền được tiến hành trong các môi<br />
trường khác nhau như: nghiền khô (trong môi<br />
trường không khí hoặc khí trơ bảo vệ), nghiền<br />
ướt (trong dung môi bảo vệ) và sử dụng kết<br />
hợp chất trợ nghiền. Việc sử dụng chất trợ<br />
nghiền kết hợp đã cho thấy hiệu quả rõ rệt<br />
trong việc tạo ra các hạt nano phân tán. Đối<br />
với các hệ vật liệu kim loại từ, chất trợ nghiền<br />
được lựa chọn sử dụng chủ yếu là oleic acid<br />
và/hoặc oleylamine với tỉ lệ thích hợp so với<br />
lượng bột nghiền. Trong các công trình [8,<br />
15], nhóm Ping Liu và các cộng sự đã chế tạo<br />
thành công các hạt kim loại nano từ Co, có<br />
kích thước hạt từ vài đến vài chục nanomet,<br />
bằng phương pháp nghiền cơ năng lượng cao<br />
sử dụng chất trợ nghiền. Họ đã khảo sát ảnh<br />
hưởng của các thông số nghiền, chất trợ<br />
nghiền lên kích thước, hình thái học của hạt<br />
nano Co. Chất trợ nghiền oleylamine được<br />
cho là phù hợp trong việc nghiền kim loại Co.<br />
Hạt nano kim loại Co cũng đã được một số<br />
nhóm trong nước nghiên cứu và chế tạo. Tiêu<br />
78<br />
<br />
190(14): 77 - 84<br />
<br />
biểu là các nghiên cứu tại Viện Khoa học vật<br />
liệu, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ<br />
Việt Nam. Hoàng Anh Sơn và công sự đã chế<br />
tạo hạt nano Co kích thước 50-100 nm bằng<br />
phương pháp khử hoàn nguyên từ Cobalt<br />
hydroxit (Co(OH)2), và dùng chúng như một<br />
nguyên tố vi lượng để kích thích sinh trưởng,<br />
tăng năng suất cây trồng [18]. Trong một<br />
nghiên cứu khác, Nguyễn Xuân Trường và<br />
cộng sự đã chế tạo các dây nano Co bằng<br />
phương pháp nhiệt phân từ muối kim loại<br />
trong dung môi phân cực, ứng dụng để chế<br />
tạo nam châm tổ hợp nano Co/MnBi [19].<br />
Nhóm chúng tôi, đã sử dụng phương pháp<br />
nghiền cơ năng lượng cao chế tạo và tổng hợp<br />
thành công một số hệ vật liệu cấu trúc nano<br />
trong đó có kim loại như Fe, Fe-Co [20-22].<br />
Quá trình nghiền thông thường được tiến<br />
hành trong môi trường khô hay dung môi bảo<br />
vệ. Mặc dù đã thu được bột vật liệu gồm các<br />
hạt nano, nhưng các hạt này dễ bị kết tụ và<br />
phân tán chưa tốt trong chất lỏng như dung<br />
môi hữu cơ hay nước. Việc các hạt nano từ<br />
chưa thể phân tán tốt khiến cho tính chất của vật<br />
liệu chưa đáp ứng, và giới hạn các nghiên cứu<br />
và ứng dụng tiếp theo về hạt nano từ chế tạo<br />
bằng phương pháp nghiền cơ năng lượng cao.<br />
Trong bài báo này, chúng tôi tập trung vào<br />
nghiên cứu, khảo sát các điều kiện công nghệ<br />
để chế tạo hạt kim loại từ Co phân tán bằng<br />
phương pháp nghiền cơ năng lượng cao sử<br />
dụng kết hợp chất trợ nghiền. Hình thái, kích<br />
thước hạt và các đặc trưng cấu trúc, tính chất<br />
từ của các hạt được chế tạo dưới tác động của<br />
nghiền cơ năng lượng cao sử dụng kết hợp<br />
chất trợ nghiền sẽ được phân tích và bàn luận.<br />
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU<br />
Các mẫu hạt Co được chế tạo bằng phương<br />
pháp nghiền cơ năng lượng cao sử dụng kết<br />
hợp chất trợ nghiền Oleylamine (OL). Bột<br />
kim loại Co ban đầu có độ sạch > 99,5% và<br />
kích thước hạt trong khoảng từ 2-5 micro mét.<br />
Dung môi hữu cơ n-hexane (chất hòa tan)<br />
được sử dụng có độ sạch 99,8% và OL được<br />
sử dụng có độ sạch > 98%. Mẫu được nghiền<br />
<br />
Vũ Hồng Kỳ và Đtg<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
trên máy nghiền năng lượng cao Spex D8000<br />
với cối và bi nghiền bằng thép tôi. Tỉ lệ bi bột<br />
được chọn là 5:1. Lượng nguyên liệu sử dụng<br />
cho mỗi mẻ nghiền là 5 g bột Co, 10 ml dung<br />
môi n-hexane và 10 wt.% OL (so với khối<br />
lượng bột Co). Thời gian nghiền là 01, 05 và<br />
10 giờ. Các mẫu nghiền không có chất trợ<br />
nghiền, với các thông số nghiền tương tự<br />
cũng được chế tạo để so sánh.<br />
Các đặc trưng cấu trúc được khảo sát trên<br />
máy nhiễu xạ tia X D8 Advance Brucker với<br />
nguồn phát Cu-K, góc 2 theta từ 20 đến 70<br />
độ. Hình thái và kích thước hạt được xác định<br />
trên kính hiển vi điện tử quét phát xạ trường<br />
(FESEM) Hitachi S-4800. Đường cong từ trễ<br />
của các mẫu bột được đo trên thiết bị từ kế<br />
mẫu rung (VSM) tại nhiệt độ phòng. Phép đo<br />
đốt nóng cảm ứng từ được thực hiện trên máy<br />
phát thương mại RDO - HFI với từ trường đo<br />
xoay chiều tần số 236 kHz, cường độ 80 Oe.<br />
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN<br />
Hình thái và kích thước hạt<br />
Sản phẩm bột kim loại Co nghiền năng lượng<br />
cao có và không có OL thu được như trong<br />
Hình 1. Mẫu bên trái là sản phẩm của quá<br />
<br />
Hình 1. Mẫu Co sau khi nghiền 10 giờ không có<br />
(bên trái) và có OL (bên phải)<br />
<br />
190(14): 77 - 84<br />
<br />
trình nghiền chỉ trong dung môi n-hexane và<br />
không có OL. Bột sau nghiền của mẫu này<br />
lắng đọng khá nhanh, và phần chất lỏng vẫn<br />
duy trì độ trong của dung môi nghiền. Mẫu<br />
bên phải, sản phẩm của quá trình nghiền với<br />
OL, được tách thành hai phần khá rõ rệt: phần<br />
lắng đọng dưới đáy lọ và phần chất lỏng ở<br />
trên. Tuy nhiên, phần chất lỏng này có màu<br />
nâu đen, và độ đậm màu chất lỏng được quan<br />
sát thấy tăng theo thời gian nghiền. Rất có thể<br />
các hạt bột rất mịn cỡ nano mét đã hình thành<br />
và phân tán vào trong dung môi, gây ra màu<br />
của chất lỏng.<br />
Hình 2 là ảnh SEM chụp phần mẫu bột lắng<br />
của mẫu nghiền (không có OL) sau 10 giờ đã<br />
được làm khô. Có thế thấy các hạt bột đã bị<br />
kết tụ với nhau và tạo thành hạt với kích<br />
thước lên đến 10 micro mét, lớn hơn cả kích<br />
thước bột ban đầu như thấy trong Hình 3a.<br />
Nếu phóng đại bề mặt một hạt (hình nhỏ hơn<br />
chèn trong Hình 2) ta thấy bề mặt hạt khá gồ<br />
ghề, hình thành các vùng từ vài chục đến<br />
hàng trăm nano mét. Việc các hạt kết tụ thành<br />
hạt lớn sau nghiền có thể là lý do khiến bột<br />
nhanh lắng đọng và chưa tạo được các hạt<br />
kích thước nano mét phân tán trong chất lỏng.<br />
<br />
Hình 2. Ảnh SEM mẫu bột Co sau khi nghiền 10 giờ<br />
trong n-hexane, không sử dụng OL<br />
<br />
Hình 3 là ảnh SEM của mẫu bột kim loại Co ban đầu và các mẫu bột lắng sau nghiền có sử dụng<br />
OL lần lượt trong 01, 05 và 10 giờ nghiền. Quan sát bằng mắt, thấy phần bột lắng này có màu<br />
trắng, khác với màu nâu đen của bột Co thông thường, có thể là do OL, một chất hoạt động bề<br />
mặt, đã bao xung quanh các hạt bột nghiền. Sau 01 giờ nghiền, từ kích thước ban đầu vài micro<br />
mét, các hạt bột đã bị tán dẹt và đứt gẫy thành các hạt sub-micro mét, có dạng hình cầu, rời rạc,<br />
kích thước điển hình trong khoảng 400-600 nano mét (Hình 3b). Sau 05 giờ nghiền (Hình 3c),<br />
79<br />
<br />
Vũ Hồng Kỳ và Đtg<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
các hạt bột có dạng mảnh hình đĩa dẹt có xu<br />
thế rời rạc, không kết tụ với nhau. Với hy<br />
vọng có thể tạo ra đứt gẫy nhiều hơn để gia<br />
tăng số hạt mịn cỡ nano mét, mẫu bột đã được<br />
nghiền đến 10 giờ. Tuy nhiên, ảnh SEM của<br />
mẫu nghiền 10 giờ vẫn cho thấy xu thế các<br />
mảnh dẹt được tạo thành là chủ yếu, mặc dù<br />
biên hạt có vẻ tăng lên. Bề rộng các mảnh dẹt<br />
đó có kích cỡ từ sub-micro mét đến một vài<br />
micro mét, trong khi bề dày, ở một số góc<br />
chụp thuận lợi (hình nhỏ chèn trong Hình 3d),<br />
có kích cỡ < 100 nano mét. Các mảnh dẹp<br />
này cũng rời rạc nhau và về mặt hình thái học<br />
khác biệt hẳn so với trong mẫu nghiền 10 giờ<br />
không có OL với hạt hình khối cầu lớn (Hình<br />
2). Việc tạo thành các mảnh dẹt (hạt), kích<br />
thước sub-micro mét như vậy cũng được công<br />
bố trong tài liệu [1, 8, 15] khi nghiền các kim<br />
<br />
190(14): 77 - 84<br />
<br />
loại từ bằng phương pháp nghiền cơ năng<br />
lượng cao sử dụng chất trợ nghiền. Như vậy,<br />
có thể thấy, ngay từ mẫu nghiền trong 1 giờ<br />
đến mẫu nghiền trong 10 giờ, OL đã có vai<br />
trò ngăn các hạt bột nghiền tái kết tụ và hàn<br />
nguội với nhau trong quá trình nghiền. Nhờ<br />
việc bị hấp thụ trên bề mặt của hạt bột, các<br />
phân tử của chất trợ nghiền đã tạo ra lực tĩnh<br />
điện và ngăn cách không gian khiến cho hạt<br />
bột ít bị tích tụ khi nghiền [16]. Một số tác giả<br />
cho rằng, các chất trợ nghiền có tác dụng hạ<br />
thấp năng lượng bề mặt của các hạt mịn bằng<br />
việc bao quanh hạt mịn một lớp mỏng hữu cơ<br />
để tạo ra lực mao dẫn. Điều này ngăn ngừa<br />
các hạt kết tụ và hàn nguội với nhau để duy trì<br />
kích thước hạt nhỏ trong quá trình nghiền<br />
năng lượng cao [16, 17].<br />
<br />
(a)<br />
<br />
(b)<br />
<br />
(c)<br />
<br />
(d)<br />
<br />
Hình 3. Ảnh SEM tiêu biểu của các mẫu bột Co (phần bột lắng) sau khi nghiền với OL: (a) bột ban đầu;<br />
(b) nghiền 01 giờ; (c) nghiền 05 giờ; và (d) nghiền 10 giờ.<br />
<br />
80<br />
<br />
Vũ Hồng Kỳ và Đtg<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
Phân tích cấu trúc tinh thể<br />
Các mẫu bột lắng thu được sau khi nghiền với<br />
OL đã được khảo sát cấu trúc theo thời gian<br />
nghiền. Hình 4 là giản đồ nhiễu xạ tia X của<br />
mẫu nghiền trong 10 giờ. Phân tích định tính<br />
pha cho thấy các đỉnh nhiễu xạ phù hợp với<br />
đỉnh của pha tinh thể chuẩn Co (thẻ nhiễu xạ<br />
98-008-6653) với cấu trúc lục giác<br />
(hexagonal). Không phát hiện thấy các pha<br />
tinh thể của oxit Co hay các pha lại nào khác.<br />
Vạch nhiễu xạ của mẫu được mở rộng có thể<br />
là do các hạt bột hình thành từ các miền<br />
(vùng) tinh thể nhỏ cỡ nanomet và với sai<br />
hỏng bề mặt lớn do tác động của nghiền năng<br />
lượng cao. Cường độ vạch nhiễu xạ của mẫu<br />
đo tại góc 2 theta 44,48o (hkl - 0 0 2) tăng<br />
mạnh, trong khi tại góc 44,45o (hkl - 0 1 1) lại<br />
giảm, ngược xu thế khi so với với cường độ<br />
của vạch nhiễu xạ của phổ chuẩn. Đây có thể<br />
là do thiên hướng tinh thể (texture) ở những<br />
hạt mẫu bột có hình dạng mảnh dẹt.<br />
Tính chất từ<br />
Hình 5 là đường cong từ trễ M(H) đo ở nhiệt<br />
độ phòng, từ trường ngoài lên đến 11 kOe,<br />
của mẫu bột kim loại ban đầu (tmill = 0 hour)<br />
và các mẫu nghiền với OL trong 01, 05 và 10<br />
giờ. Trước khi dùng để đo từ, các mẫu bột<br />
nghiền đã được rửa sạch OL bám xung quanh<br />
bằng cách hòa tan (10 lần) trong dung môi<br />
cồn và n-hexane kết hợp rung siêu âm mỗi lần<br />
30 phút. Mẫu bột kim loại Co ban đầu có giá<br />
trị từ độ bão hòa Ms tại từ trường 11 kOe<br />
~156 emu/g và giá trị Hc tương đối nhỏ ~70<br />
Oe. Các mẫu sau khi nghiền, Ms có xu thế<br />
<br />
Hình 4. Giản đồ nhiễu xạ tia X của mẫu bột lắng<br />
sau khi nghiền với OL trong 10 giờ<br />
<br />
190(14): 77 - 84<br />
<br />
giảm, lần lượt là 152, 151 và 148 emu/g<br />
tương ứng với thời gian nghiền là 01, 05 và<br />
10 giờ. So với mẫu bột kim loại ban đầu, giá<br />
trị Ms của mẫu bột nghiền trong 01 giờ giảm<br />
khoảng 4 emu/g. Theo thời gian nghiền tăng<br />
đến 5 và 10 giờ, Ms tiếp tục giảm, tuy nhiên<br />
giảm không nhiều. Sự suy giảm Ms của các<br />
mẫu bột nghiền so với mẫu ban đầu và khi<br />
thời gian nghiền tăng có thể là do một phần<br />
chưa loại bỏ hoàn toàn được chất trợ nghiền<br />
khỏi mẫu khi rửa, và một phần do khuyết tật<br />
bề mặt hạt tăng trong quá trình nghiền năng<br />
lượng cao. Lực kháng từ của mẫu sau nghiền<br />
tăng nhẹ từ 110 đến 190 Oe theo thời gian<br />
nghiền tăng. Việc tăng Hc có thể là do kích<br />
thước hạt Co giảm và ứng suất tăng trong quá<br />
trình nghiền cơ năng lượng cao [8].<br />
Như đã trình bày ở trên, phần chất lỏng có<br />
màu nâu đen của mẫu nghiền với OL nhiều<br />
khả năng có các hạt nano kim loại từ phân tán<br />
ở trong. Sau khi để lắng tự nhiên và được tách<br />
riêng ra, chất lỏng này không bị lắng đọng,<br />
kết tụ và khá bền theo thời gian. Hình 6 là ảnh<br />
SEM mẫu chất lỏng nghiền trong 10 giờ với<br />
OL. Có thể quan sát thấy các hạt có dạng hình<br />
cầu và kích thước trong khoảng cỡ từ 20 đến<br />
30 nano mét. Như vậy có thể khẳng định, quá<br />
trình nghiền cơ năng lượng cao sử dụng OL<br />
đã tạo ra các hạt nano phân tán trong chất<br />
lỏng. Kết quả tạo ra được các hạt nano phân<br />
tán trong chất lỏng bằng nghiền với chất trợ<br />
nghiền phù hợp với kết quả công bố trong<br />
công trình [1, 8, 15].<br />
<br />
Hình 5. Đường cong từ trễ của các mẫu bột lắng<br />
nghiền với OL ở thời gian khác nhau<br />
<br />
81<br />
<br />