intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Chia trứng trong thụ tinh ống nghiệm sẻ chia hạnh phúc - nhân đôi cơ hội

Chia sẻ: ViThimphu2711 ViThimphu2711 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:4

13
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Hiện nay, chia trứng là phương pháp áp dụng phổ biến trên thế giới và hàng năm, có hàng ngàn phụ nữ được hưởng lợi ích mà phương pháp mang lại. Các nghiên cứu đã được công bố chỉ ra rằng chia trứng không làm giảm cơ hội có thai của người chia trứng và việc có thai đồng thời giữa người chia trứng và người nhận là phổ biến.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Chia trứng trong thụ tinh ống nghiệm sẻ chia hạnh phúc - nhân đôi cơ hội

  1. VŨ MINH NGỌC TỔNG QUAN CHIA TRỨNG TRONG THỤ TINH ỐNG NGHIỆM SẺ CHIA HẠNH PHÚC - NHÂN ĐÔI CƠ HỘI Vũ Minh Ngọc Bệnh viện Từ Dũ Tóm tắt Thực tế cho thấy, nhiều phụ nữ khó khăn hoặc không thể có trứng hoặc chất lượng trứng không tốt (đôi khi nguyên nhân do phụ khoa, đôi khi chỉ đơn giản là vấn đề về tuối) mong muốn có con nhưng không thể tìm được người cho trứng. Trong khi đó, không ít phụ nữ chức năng buồng trứng tốt có nhiều trứng nhưng không có đủ kinh phí hoặc khi làm thụ tinh trong ống nghiệm (TTTON) số trứng dư thừa quá nhiều, để lãng phí trứng không cần dùng đến trong tương lai. Có một giải pháp mang lại rất nhiều lợi ích cho 2 đối tượng này đó là chia trứng. Chia trứng là 1 phương pháp điều trị TTTON kết hợp cho những phụ nữ có nhiều trứng (người chia trứng) với những phụ nữ không có trứng (người nhận trứng). Chia trứng cho phép 2 nhóm phụ nữ này giúp đỡ lẫn nhau – người chia trứng nhận được giảm phí hoặc miễn phí điều trị TTTON, trong khi đó người nhận trứng có trứng cần cho họ làm TTTON với giá phải chăng. Hiện nay, chia trứng là phương pháp áp dụng phổ biến trên thế giới và hàng năm, có hàng ngàn phụ nữ được hưởng lợi ích mà phương pháp mang lại. Các nghiên cứu đã được công bố chỉ ra rằng chia trứng không làm giảm cơ hội có thai của người chia trứng và việc có thai đồng thời giữa người chia trứng và người nhận là phổ biến. Với số liệu thống kê này, hầu hết phụ nữ tham gia chương trình này đã ủng hộ nó. Abstract EGG SHARING IN IN VITRO FERTILISATION SHARE HAPPINESS - DOUBLE CHANCE The fact that, many women find it difficult or impossible to produce Tác giả liên hệ (Corresponding author): their own eggs or whose egg quality is poor (Sometimes the cause is Vũ Minh Ngọc, email: gynaecological; sometimes it may simply be a matter of age) desire to vuminhngoc1968@yahoo.com Ngày nhận bài (received): 10/03/2016 have children but can not find anyone to donor eggs. Meanwhile, many Ngày phản biện đánh giá bài báo (revised): women have ovarian function well with eggs but not enough money or 20/04/2016 when doing In Vitro Fertilisation (IVF) some eggs too much excess, Tháng 05-2016 Tập 14, số 02 Ngày bài báo được chấp nhận đăng (accepted): 25/04/2016 to waste without the use of eggs in future. There is a solution to bring 26
  2. TẠP CHÍ PHỤ SẢN - 14(02), 26 - 29, 2016 many benefits to the both of them that is egg-sharing. Egg-sharing is an IVF treatment that brings together women who produce surplus eggs (an egg sharer) with those unable to produce eggs (an egg recipient). Egg-sharing enables these two groups of women to help one another - egg sharers receive free or subsidised IVF treatment, whilst egg recipients receive the eggs they need for IVF. Egg-sharing now takes place across the world, every year several thousand women have benefitted from this process. Published studies indicate that sharing eggs does not diminish the sharer’s chances of a successful pregnancy, and simultaneous pregnancies between sharers and their matched recipients are common. Given these statistics, almost of women who have been involved in the programme are in favour of it. 1. Đặt vấn đề càng phát triển trên khắp thế giới và hàng ngàn Ngày nay, trên thế giới ngày càng nhiều phụ nữ phụ nữ được hưởng lợi ích mà nó mang lại hàng kết hôn muộn hoặc có con muộn. Điều này khiến năm. Chia trứng là 1 phương pháp điều trị TTTON họ rơi vào tình trạng không thể sinh con bởi vì họ kết hợp cho những phụ nữ có nhiều trứng (người bị mãn kinh sớm hoặc hoặc do lớn tuổi. Chất lượng chia trứng) với những phụ nữ không có trứng (người trứng thường bắt đầu giảm sau tuổi 35, bị nhiều nhận trứng). Chia trứng cho phép 2 nhóm phụ nữ tổn hại nghiêm trọng sau 40 tuổi và gần như bị này giúp đỡ lẫn nhau – người chia trứng nhận được suy giảm toàn bộ sau tuổi 43. Điều này là do một điều trị TTTON với chi phí thấp, trong khi đó người số bất thường của tế bào trứng, đặc biệt là với các nhận trứng nhận được trứng cần cho họ làm TTTON trục chính phân bào giảm nhiễm, mà kết quả cho với giá phải chăng. Các nghiên cứu đã được công tỷ lệ phần trăm cao của phôi bất thường. Bên cạnh bố chỉ ra rằng chia trứng không làm giảm cơ hội có đó còn có những phụ nữ không có buồng trứng thai của người chia trứng, và việc có thai đồng thời do bị cắt buồng trứng bởi bệnh lý ở buồng trứng giữa người chia trứng và người nhận là phổ biến hoặc bị căn bệnh di truyền không thể có con bằng chính trứng của họ. Tất cả họ nếu muốn có con 2. LỢI ÍCH CỦA CHIA TRỨNG đều cần phải xin trứng làm thụ tinh ống nghiệm. Lợi ích của chia trứng với người chia trứng, Chương trình thụ tinh ống nghiệm bằng trứng hiến người nhận và xã hội thể hiện: đã trở thành phổ biến hơn với những tiến bộ nhanh • Cung cấp điều trị IVF miễn phí hoặc hỗ trợ chóng trong công nghệ hỗ trợ sinh sản đã mang kinh phí cho những phụ nữ đủ điều kiện trở thành lại hạnh phúc lớn lao được làm mẹ cho những phụ người chia trứng. nữ này. Tuy nhiên, nguồn trứng hiến thì thật khan • Cung cấp một lựa chọn an toàn cho những hiếm không những ở các nước kém phát triển mà phụ nữ cần xin trứng. kể cả những nước phát triển. Trong khi đó, có nhiều • Giảm sự lãng phí trứng cho các trường hợp phụ nữ trẻ tuổi, buồng trứng rất tốt và cần phải nhiều trứng và không sử dụng hết. làm TTTON thì mới có con nguyên nhân do chồng • Loại bỏ sự phụ thuộc vào những người cho hoặc bị tắc 2 vòi trứng nhưng không có đủ kinh phí. trứng không phải là bệnh nhân. Do đó loại trừ các Thêm vào nữa có 1 số phụ nữ làm TTTON có nhiều rủi ro liên quan đến IVF và can thiệp y tế không cần trứng dư thừa mà họ không cần dùng cho tương thiết cho nhóm phụ nữ này. lai sau khi họ đã có thai và bị bỏ phí. Cần giải • Thúc đẩy sự giúp đỡ lẫn nhau giữa những pháp nào cho vấn đề này? Từ nhu cầu từ thực tế, người phụ nữ hiếm muộn, mang tính nhân đạo cao. Tháng 05-2016 Tập 14, số 02 chương trình chia trứng TTTON đã ra đời và ngày • Tiền đề cho việc thành lập ngân hàng trứng. 27
  3. VŨ MINH NGỌC TỔNG QUAN 3. Đối tượng tham gia chương những người cho trứng đủ điều kiện các chương trình chia trứng làm TTTON trình chia trứng cung cấp một cách hợp lý để họ 1.Người xin trứng làm TTTON trong khi giúp đỡ được người khác a. Chỉ định của người xin trứng một cách kín đáo. Đối với những người nhận, quá • Buồng trứng không còn chức năng hoặc đã trình hiến trứng cho phép người phụ nữ xin trứng bị cắt mang thai đứa trẻ có liên quan huyết thống với • Chất lượng trứng kém chồng mình. Điều này cho phép các cặp vợ chồng • Vô sinh không rõ nguyên nhân có quyền cơ bản nhất của con người là bản năng • Người đã từng điều trị bằng phương pháp IVF - sinh con. Bằng cách tham gia các chương trình bị thất bại nhiều lần. chia trứng, chi phí cho những người nhận cũng • Người bị sẩy thai nhiều lần. được giảm đáng kể. • Bất thường di truyền nghiêm trọng Còn ở Anh, những người cần xin trứng để làm b. Điều kiện của người xin trứng TTTON phải chờ đợi trong thời gian rất dài do • Có đủ sức khỏe có thể mang thai khan hiếm người cho trứng, rất nhiều phụ nữ Anh • Đã được tư vấn sẵn sàng về vấn đề chia trứng phải ra nước ngoài để xin trứng với chi phí rất • Về mặt tài chính có thể đủ khả năng điều trị cao. Trong khi chưa có giải pháp nào cho vấn đề 2. Người chia trứng này thì năm 1992, có 3 bệnh nhân đến gặp Bác sĩ a. Chỉ định của người chia trứng Kamal Ahuija và Eric Simon tại phòng khám phụ • Phụ nữ với các vấn đề về sinh sản như là tắc khoa của họ ở Durham và đề nghị được chia trứng vòi trứng hoặc buồng trứng đa nang làm TTTON. Điều này là ý tưởng giúp cho 2 vị bác • Người phụ nữ chức năng sinh sản bình thường sĩ người Anh này đi tiên phong trong vấn đề chia nhưng chồng bị vô sinh trứng ở Anh [2], [3] • Đồng tính nữ và phụ nữ đơn thân Trứng thường được chia đều giữa người chia b. Điều kiện của người chia trứng trứng và người nhận, với sự sắp xếp chính xác đã • Tuổi 18 - < 35 tuổi thỏa thuận trước.Trong trường hợp số trứng chia lẻ, • Không có bệnh truyền nhiễm hoặc rối loạn ở Anh trứng dôi sẽ được chia cho người chia trứng di truyền. còn ở Mỹ trứng dôi ra sẽ được chia cho người nhận • Phải có xét nghiệm nội tiết (FSH/AMH) để trứng. Khi trứng của người chia quá nhiều sẽ được đánh giá tình trạng của buồng trứng. chia cho 2 người nhận (Tối đa số người nhận được • Không hút thuốc lá ít nhất trong 3 tháng cho phép ở Anh và ở Mỹ là 2). Nếu không đủ trứng • Chỉ số khối cơ thể (BMI) < 28. để chia (ít hơn 8 trứng), người chia trứng phải lựa • Không có tiền căn bệnh buồng trứng, bao chọn quyết định không chia trứng và giữ lại tất cả gồm LNMTC trứng cho mình, tuy nhiên trong trường hợp này • Không quá 2 lần IVF thất bại. họ phải trả phí IVF. Còn người xin trứng sẽ phải hủy chu kỳ và được hoàn trả phí đã thực hiện cho 4. Cách tiến hành và kết người chia trứng[1], [3]. Tại sao lại có mốc tối thiểu quả của TTTON chia trứng là 8 trứng thì mới được chia trứng, mà không phải trên thế giới là 10 hay 12 trứng?….Nghiên cứu của Efstratios Các chi phí của IVF có thể là rào cản đối với cho thấy nếu giảm số lượng tế bào trứng tối thiểu một số bệnh nhân. Đôi khi IVF là điều trị duy nhất cần thiết để thực hiện chia trứng từ 12 xuống 8 và có thể giúp một người phụ nữ có con. Điều này có chia các tế bào trứng bằng nhau giữa người cho thể là do bệnh nặng ở vòi trứng hoặc có chất lượng và người nhận đã làm giảm đáng kể tỷ lệ hủy bỏ tinh trùng quá kém trong khi đó chức năng buồng chu kỳ trong khi đó tỷ lệ sinh sống của người cho trứng còn rất tốt. Các chương trình chia trứng lần và người nhận không bị ảnh hưởng [4].. đầu tiên được thành lập ở Mỹ khoảng năm 1988 Các nghiên cứu đã được công bố chỉ ra rằng với mục đích làm cho việc thực hiện thụ tinh trong chia trứng không làm giảm cơ hội có thai của người Tháng 05-2016 Tập 14, số 02 ống nghiệm giá cả phải chăng hơn [1]. Đối với chia trứng, và việc có thai đồng thời giữa người 28
  4. TẠP CHÍ PHỤ SẢN - 14(02), 26 - 29, 2016 chia trứng và người nhận là phổ biến. Tại The Lister dụng một số trứng tươi cho bản thân và sau đó Fertility Clinic ở Anh, từ năm 2005 – 2012, kết đông trứng phần còn lại. Nếu họ có thai hoặc có quả của người chia trứng với tỷ lệ có thai 55,8% một số lý do khác nên họ không muốn sử dụng và tỷ lệ sinh sống 40,4% tương đương với kết quả những trứng đã đông lạnh họ có thể hiến số trứng có thai ở phụ nữ < 35 tuổi làm TTTON (tỷ lệ có đông lạnh cho ngân hàng trứng. Nếu hai vợ chồng thai 54,4% và tỷ lệ sinh sống là 41,2%) [3]. Đây là không có thai, họ có thể sử dụng trứng đông lạnh những con số của trung tâm sinh sản Herts & Essex của họ và chỉ phải trả phí bình thường để làm rã bao gồm dữ liệu từ tháng 1 năm 2012 đến tháng đông, thụ tinh, nuôi phôi và chuyển phôi. 12 năm 2013 và đã được xác minh bởi các HFEA Ở Trung quốc những bệnh nhân làm TTTON có (Human Fertilization and Embryology Authority): trên 20 trứng được khuyến khích thụ tinh tối thiểu Người chia trứng tỷ lệ có thai là 56,3%, tỷ lệ thai 15 trứng với tinh trùng của chồng để tạo thành lâm sàng là 42,5%, tỷ lệ sinh sống 40%. Người phôi. Số trứng còn dư sẽ được trữ đông bằng nhận trứng chia tỷ lệ có thai là 64,4%, tỷ lệ thai phương pháp thủy tinh hóa. Thông thường những lâm sàng 55,6%, tỷ lệ sinh sống là 45,6% [5 ]. Một phụ nữ này sau khi sinh con khỏe mạnh và họ số nghiên cứu cũng cho thấy: không có sự khác thường hiến số trứng trữ vào ngân hàng để cho biệt về số lượng trung bình của trứng được chia, tỷ các cặp vợ chồng hiếm muộn khác. Tỷ lệ có thai lệ thụ tinh hoặc số phôi chuyển trung bình và tỷ lệ lâm sàng của trứng trữ hiến là 42,3%, tỷ lệ làm tổ sinh sống mặc dù tuổi người nhận cao hơn người là 25,5%. Không có bé bị dị tật bẩm sinh. Những chia trứng [6], [7]. Cơ hội có thai hoặc sinh sống kết quả này chỉ ra rằng trữ trứng thủy tinh hóa là của người chia trứng và người nhân cũng giống một phương pháp hiệu quả cho một chương trình như bệnh nhân làm TTTON tiêu chuẩn. Người chia chia trứng hiến với kết quả làm tổ và có thai chấp trứng cũng không có nguy cơ bị hội chứng kích nhận được. [10] thích buồng trứng cao hơn so với người làm TTTON tiêu chuẩn [8]. 5. Kết luận Nhờ có kỹ thuật đông trứng bằng phương pháp TTTON chia trứng ngày càng phát triển rộng thủy tinh hóa ra đời với tỷ lệ trứng sống sau rã khắp trên thế giới. Với nhiều lợi ích, sự chia sẻ đông rất cao, nghiên cứu của Krinos cho thấy: trứng – sẻ chia hạnh phúc đã mang lại cơ hội trứng đông lạnh bằng phương pháp thủy tinh hóa có thai không những cho phụ nữ vô sinh trẻ chức có thể cung cấp cùng một chất lượng phôi, thai, năng buồng trứng tốt mà còn cho cả những phụ và khả năng làm tổ giống trứng tươi [9]. Với kết nữ không thể có con bằng chính trứng của mình. quả ấn tượng của phương pháp đông trứng thủy Nhân đôi niềm hạnh phúc được làm cha, làm mẹ tinh hóa, bệnh nhân có thể làm một chu kỳ và sử cho hàng ngàn cặp vợ chồng vô sinh trên thế giới. Tài liệu tham khảo 1. www.houstonfertilitysolutions.com/egg-sharing-progrm and relational aspects of egg-sharing: egg-share donors’ and recipients’ 2. Blyth. E. “Subsidized IVF: the development of ‘egg sharing’ in the UK”. feelings about each other, each others’ treatment outcome and any Hum. Reprod. (2002) 17 (12):3254-3259. resulting children”. Hum. Reprod. (2012) 27 (6):1690-1701. 3. www.ivf.org.uk/egg-sharing 8. Thum M.Y, Gafar. A, Wren. M, Faris. R, Ogunyemi. B , Korea. 4. Efstratios M Kolibianakis, Herman Tournaye, Kaan Osmanagaoglu, L, Scott. L and Abdalla H.I. Does egg‐sharing compromise the chance Michel Camus, Linda Van Waesberghe, Andre Van Steirteghem, Paul of donors or recipients achieving a live birth?. Hum. Reprod. (2003) 18 Devroey. Outcome for donors and recipients in two egg-sharing policies. (11):2363-2367. Fertility and Sterility Volume 79, Issue 1, January 2003, Pages 69 – 73 9. Krinos M. Trokoudes, Constantinos Pavlides, Xiao Zhang. Comparison 5. www.hertsandessexfertility.com/egg-sharing-and-egg-donation- outcome of fresh and vitrified donor oocytes in an egg-sharing donation program. sharing-our-results Fertility and Sterility Volume 95, Issue 6, May 2011, Pages 1996 – 2000. 6. Ahuja K.K, Simons E.G, Fiamanya W, Dalton M, Armar N.A, 10. Ling-Bo Cai, Xiao-Qiao Qian, Wei Wang, Yun-Dong Mao, Zheng-Jie Kirkpatrick P, Sharp S.J, Arian-Schad M, A. Seaton A, and Watters A.J. Yan, Cui-Zhen Liu, Wei Ding, Jie Huang, De-Chun Chai, Ri-Cheng Chian, “Egg-sharing in assisted conception: ethical and practical considerations”. Jia-Yin Liu. Oocyte vitrification technology has made egg-sharing donation Hum. Reprod. (1996) 11 (5):1126-1131. easier in China. Reproductive BioMedicine Online Volum 24 Issure 2, Tháng 05-2016 Tập 14, số 02 7. Zeynep B. Gürtin, Kamal K. Ahuja and Susan Golombok. “Emotional February 2012, Pages 1076 – 1080 29
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2