Chiêm Thành (Champa) -11
Triều vương thứ chín (1074-1139) : tranh chấp với Đại Việt
Tại Panduranga, một hoàng thân xuất thân từ Panduranga tên Thăn (còn gọi là Yan
Visnumurti, Madhavamurti hay Devatamurti, tiếng Việt là Thân), cùng em
hoàng tPãn (tên Việt Phan), đã lần lượt chinh phục các tiểu vương sứ quân,
thống nhất lại đất nước. Năm 1074, Thăn được quần thần tôn lên làm vua, hiu
Harivarman IV, mở đầu triều vương thứ chín.
Thăn tên một hoàng tộc thuộc bộ tộc Cau mà dân chúng Panduranga cho
dòng vương tôn chân truyền của vương quốc Champa. Chính vì thế Harivarman
IV rất tự hào vnguồn gốc xuất thân của mình, luôn t nhận là skết hợp của
hai b tộc lớn nhất của Chiêm Thành : cha Pralaysvara Dharmaraja, dòng
Narikelavansa thuộc đẳng cấp Ksatriya, bộ tộc Dừa Amaravati ; mẹ thuộc dòng
Kramukavansa, đẳng cấp Brahman, bộ tộc Cau Panduranga. Sở sự giải
thích dài dòng vnguồn gốc xuất thân này - nhất là nguồn gốc xuất thân của mẹ,
dòng Brahman chính thống - Harivarman IV biết chắc rằng trong các squân
không ai hội đủ điều kiện về nguồn gốc xuất thân để thể được tôn lên làm vua
trên toàn cõi Chiêm Thành.
Việc làm đầu tiên của Harivarman IV là phục hồi lại các đền đài đã btàn phá bi
quân Đại Việt và cuộc nội chiến. Không đầy một năm sau, Chiêm Thành trnên
hùng mạnh trở lại. Harivarman IV mang quân sang đánh Đại Việt, giành lại phần
lãnh thmà Rudravarman III đã nhượng trước đó.
Năm 1075, viện cớ phục hồi ngôi vua cho con cháu Rudravarman III (Chế Củ),
nhà sai Thường Kiệt mang quân chiếm lại ba châu vừa bị mất. Trước sự
chống trả mãnh liệt của quân Chiêm, Thường Kiệt phải lui binh nhưng cho
người vlại địa thế rồi đưa một số nông dân gan dạ (thật ra là những binh lính trá
hình) vào định cư. Hay tin quân Lý bị Chiêm Thành đánh bại, vua Tống sai Vương
An Thạch mang 10.000 quân tiến qua biên giới tấn ng Đại Việt. Thường
Kiệt lui về bảo vệ lãnh th phía bắc. Ba châu vừa chiếm lại lọt vào tay Chiêm
Thành.
Năm 1076, vua Tống sai Quách Quì kết hợp với Chiêm Thành Angkor, mang
7.000 quân tiến công Đại Việt nhưng bị Thường Kiệt Tôn Đản đánh bại.
Thừa thắng, Thường Kiệt tiến xuống chiếm đóng đế đô Phật Thành,
Harivarman IV phải cùng con cái và một số thân tín chạy lên núi trốn ; tại đây phái
đoàn được các sắc dân Thượng che chỡ.
Quân Lý chỉ chịu rút khỏi Phật Thành khi Harivarman IV tuyên bố chấp nhận triều
cống nhà tr lại. Hay tin này, hoàng thân Sri Nandanavarmadeva (người
Khmer) - mang quân vào miên Nam Chiêm Thành theo li mời của Quách Quì để
chống lại nhà Lý - chiếm luôn Panduranga. Vua Harivarman IV phải yêu cầu nhà
giúp đỡ. Lúc này mặc dù đã tuổi già sức yếu, Thường Kiệt vẫn phải thân
chinh đi đánh dẹp. Quân Khmer thua to bỏ chạy về nước, Harivarman IV truy đuổi
tiêu diệt hết tại Somesvara (Biên Hòa ngày nay). Nhà vua sai em hoàng t
Pãên (tiếng Việt là Phan) chiếm thành Sambhupura (Sambor) trên sông Mékong,
bắt được nhiều tù binh cùng vàng bc và của cải mang về nước.
Dẹp xong loạn phương Nam, Harivarman IV tập trung phục hồi đất nước. Mặc dù
vẫn duy trì triều đình tại Vijaya, nhà vua sửa sang lại các nơi thờ phượng khác trên
toàn quốc và cho xây dựng lại các thánh địa tôn giáo tại Indrapura (Đồng Dương)
Sinhapura (MSơn). Hoàng tử Pãn đích thân đôn đốc việc trùng tu các đền thờ
tại Sinhapura (Mỹ n). Dưới triều vua Harivarman IV, Chiêm Thành trù phú tr
lại, đền đài cung điện tìm lại những nét huy hòang tráng lngày xưa.
Năm 1080, Harivarman IV nhường ngôi cho con thái tVăk Pulyan Rajadvara,
9 tuổi. Tân vương lên ngôi năm 1081, hiệu Jaya Indravarman II (Chế Ma Na). Chú
hoàng tPãn thế quyền giám quốc. Nhưng không biết vì nguyên do o c
triều thần và thái tử Văk đồng tôn Pãn lên làm vua, hiệu Sri Paramabodhisatva (Si-
Ra-ma B-đề Sát-bà). Paramabodhisatva giao hảo tốt với Đại Việt, mục đích
chính của nhà vua duy trì sthống nhất của Chiêm Thành, vì lúc đó một tiểu
ơng Panduranga tên Rudravarman ly khai, không công nhận vương quyền
phương Bắc. Thật ra sly khai này đã xảy ra từ 16 m trước, nhưng triều đình
Vijaya bận lo giải quyết những vấn đề khác cấp bách n nên chưa ra tay. Tiểu
ơng Rudravarman bị đánh bại, Panduranga bị dưới quyền cai trị trực tiếp của
Phật Thành (Vijaya).
Năm 1086, nội bộ Chiêm Thành xảy ra nội chiến. Thái tử Văk (Jaya Indravarman
II) được triều đình thúc đẩy muốn cầm quyền trở lại. Ước muốn này gặp sự phản
đối của vua Paramabodhisatva (hoàng tPãn) - người muốn đưa trưởng nam của
mình hoàng tPulyan Sri Yavaraja lên ngôi - đã tìm mọi cách loại trừ thế lực
của thái tử Văk nhưng không được. Cuối cùng Paramabodhisatva mất tích, phe của
ông bphe của thái tử Văk giết hết. Jaya Indravarman II lên ngôi tiếp tục triều
cống Đại Việt. Năm 1092, Jaya Indravarman II nhnhà Tống giúp đòi lại vùng đất
đã mất nhưng không kết quaœ.
Năm 1103, một người Việt phủ Diên Châu (NghAn) tên Giác nổi lên m
phản. Thường Kiệt vào đánh, Lý Giác thua chạy sang Phật Thành (Vijaya)
thuyết phục vua Jaya Indravarman II hưng binh chiếm lại vùng đất đã mất.
Thường Kiệt một lần nữa phải thân chinh đi dẹp lọan, Jaya Indravarman II bị thua
phải trả lại ba châu đã chiếm và chịu triều cống trở lại năm 1104.
Nhà liền phân chia lại các châu vừa lấy lại như sau : châu Bố Chánh gồm
huyện Nam Bố Chánh (Bố Trạch ngày nay) huyện Bắc Bố Chánh (Quảng
Trạch và Tuyên Hóa ngày nay), châu Lâm Bình (Địa cũ) gồm huyện Phong
Lộc (Quảng Ninh ngày nay) huyện Phong Đăng (sau gọi là Phong Phú, tức
huyện Lệ Thủy ngày nay). Hai huyện Phong Lộc và Phong Phú vựa lúa lớn nhất
của đất Indrapura. Châu Minh Linh (Ma Linh cũ) được chia thành hai huyện nh
Linh và Gio Linh.
Năm 1113, cháu Jaya Indravarman II Harivarman V lên ngôi, tân vương gi
nguyên chính sách cai trcủa chú, quan hệ giữa Chiêm Thành Đại Việt rất là
thân thiết. Harivarman V trị vì đến năm 1129 thì mất không người kế vị, Chiêm
Thành lâm cảnh loạn lạc. Vương triều Panduranga không chịu sự cai trị của
Vijaya, liên kết với Chân Lạp đánh lại. Hai miền Nam Bắc đánh phá lẫn nhau
trong suốt 10 năm (1129-1139).