
lượng vũ trang nhân dân (lực lượng an ninh, bộ đội biên phòng, bộ đội phòng
không, không quân, hải quân…), các cơ quan quản lý nhà nước và của mọi
công dân, trực tiếp là chính quyền và công dân khu vực biên giới [101, tr. 25].
Quốc phòng là công cuộc giữ nước của một quốc gia, gồm tổng thể các
hoạt động đối nội và đối ngoại về quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa
học… của nhà nước và nhân dân để phòng thủ đất nước, tạo nên sức mạnh
toàn diện, cân đối, trong đó có sức mạnh quân sự là đặc trưng, nhằm giữ vững
hòa bình, đẩy lùi, ngăn chặn các hoạt động gây chiến của kẻ thù và sẵn sàng
đánh thắng chiến tranh xâm lược dưới mọi hình thức, quy mô. Quốc phòng
trở thành hoạt động của các nước trong đó lực lượng vũ trang làm nòng cốt.
Quốc phòng phải kết hợp với kinh tế để bảo vệ và xây dựng đất nước. Tổ
chức quốc phòng của mỗi nước phụ thuộc trực tiếp vào chế độ chính trị - xã
hội, truyền thống dân tộc và hoàn cảnh cụ thể của mỗi nước [101, tr. 848].
Đối với một quốc gia như Việt Nam, luôn phải đương đầu với các thế
lực ngoại xâm hiếu chiến và nguy cơ chia cắt đất nước thì vấn đề an ninh
quốc phòng luôn được các triều đại phong kiến và các thể chế chính trị đặc
biệt coi trọng. Tùy từng giai đoạn lịch sử, căn cứ vào đặc trưng của thể chế
nhà nước mà nhiệm vụ và tính chất của an ninh quốc phòng được hiểu khác
nhau, nhưng về cơ bản an ninh được hiểu là yên ổn, không có rối loạn. Còn
quốc phòng là việc giữ gìn đất nước chống mọi âm mưu xâm lược từ bên
ngoài. Hai phạm trù an ninh và quốc phòng thường được đi kèm với nhau, bổ
sung ý nghĩa cho nhau, thể hiện quan điểm chính trị hay cách thức trị quốc
của mỗi ông vua, mỗi triều đại, hay mỗi nhà nước. Lẽ dĩ nhiên, một đất nước
không thể có nền an ninh tốt nếu không có quốc phòng vững mạnh và ngược
lại.
Triều Nguyễn ra đời trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động, mà đặc
điểm bao trùm nhất là sự bành trướng của Chủ nghĩa thực dân phương Tây