ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------------------------
LẠI DIỆU KIỀU PHƢƠNG
CHÍNH SÁCH NGOẠI GIAO DẦU MỎ CỦA MỸ ĐỐI VỚI IRAQ
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÀNH QUỐC TẾ HỌC
Hà Nội – 2016
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------------------------
LẠI DIỆU KIỀU PHƢƠNG
CHÍNH SÁCH NGOẠI GIAO DẦU MỎ CỦA MỸ ĐỐI VỚI IRAQ
Chuyên ngành: Quan hệ quốc tế
Mã số: 60 31 02 06
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÀNH QUỐC TẾ HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS.LÊ THẾ QUẾ
Hà Nội – 2016
MỤC LỤC
LỜI CÁM ƠN
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU
LỜI MỞ ĐẦU .................................................................................................. 1
CHƢƠNG I: TỔNG QUAN VỀ CHÍNH SÁCH NGOẠI GIAO DẦU MỎ
CỦA MỸ ........................................................................................................... 6
1.1 Một số khái niệm ................................................................................... 6
1.1.1 An ninh dầu mỏ ................................................................................ 6
N o o ầu mỏ ........................................................................... 9
1.2 Chính sách ngo i giao dầu mỏ của Mỹ .............................................. 10
1.2.1 Các yếu tố tác độn đến chính sách ngo i giao dầu mỏ của Mỹ .. 10
Các đặc đ ểm chính của chính sách ngo i giao dầu mỏ của Mỹ .. 11
1.2.3 Chính sách ngo i giao dầu mỏ của Mỹ đối với các khu vực ......... 13
CHƢƠNG II. NỘI DUNG CHÍNH SÁCH NGOẠI GIAO DẦU MỎ CỦA
MỸ VỚI IRAQ .............................................................................................. 22
2.1. Cơ sở hình thành chính sách dầu mỏ của Mỹ đối với Iraq ............. 22
2.1.1. Lợi ích của Mỹ t i Iraq ................................................................. 22
2.1.2. Chính quyền Iraq và quan hệ với Mỹ ............................................ 26
2.1.3 Chính sách của các quốc gia khác t i Iraq ..................................... 28
2.2 Mục tiêu và công cụ triển khai chính sách ngo o năn lƣợng
của Mỹ với Iraq .......................................................................................... 31
2.2.1 Mục tiêu chính sách .......................................................................... 31
2.2.2 Công cụ thực hiện chính sách .......................................................... 34
2.3. Thực tiễn triển khai chính sách ngo i giao dầu mỏ của Mỹ đối với
Iraq qua các thời kỳ ................................................................................... 37
3 G đo n trƣớc năm 958 ............................................................... 37
3 G đo n 1958 – 1979 ...................................................................... 39
3 3 G đo n 1979 – 1990 ...................................................................... 42
3 4 G đo n 1990 – 2003 ...................................................................... 45
3 5 G đo n 2003 – nay ........................................................................ 49
CHƢƠNG III: TÁC ĐỘNG VÀ TRIỂN VỌNG CHÍNH SÁCH NGOẠI
GIAO DẦU MỎ CỦA MỸ VỚI IRAQ ....................................................... 54
3 Tác động của chính sách dầu mỏ của Mỹ với Iraq .......................... 54
3 Tác độn đến an ninh dầu mỏ thế giới ........................................... 54
3 Tác độn đến an ninh khu vực Trun Đôn .................................. 56
3 3 Tác độn đến Iraq ............................................................................. 58
3.2 Đánh á và triển vọng của chính sách ngo i giao dầu mỏ của
Mỹvới Iraq .................................................................................................. 60
3 Đánh á về chính sách ngo i giao dầu mỏ của Mỹ với Iraq ........ 60
3.2.2 Triển vọng của chính sách ngo i giao dầu mỏ của Mỹ với Iraq .. 64
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 75
LỜI CÁM ƠN
Trƣớc hết, tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc đến TS Lê Thế Quế vì
Thầy đã dành thời gian và tâm sức tận tình hƣớng dẫn tôi hoàn thành bài luận
văn này.
Tôi xin cảm ơn Khoa Quốc tế học – Đại học KHXH & NV, Đại học
quốc gia Hà Nội đã tổ chức tốt khóa học và tạo điều kiện để các học viên
hoàn thành tốt quá trình học tập.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đặc biệt đến Thƣ viện Đại học KHXH &
NV, Đại học quốc gia Hà Nội đã giúp đỡ tôi rất nhiều trong việc tìm kiếm các
nguồn tài liệu tham khảo bổ ích.
Do sự hạn chế của bản thân nên luận văn của tôi không tránh khỏi những
thiếu sót về cả nội dung và hình thức. Vì vậy, tôi rất mong nhận đƣợc những ý
kiến đóng góp của các Thầy, cô giáo, các anh, các chị và các bạn để luận văn
của tôi đƣợc hoàn thiện hơn.
Hà Nội, ngày 10 tháng 12 năm 2015
Học viên
L i Diệu Kiều Phƣơn
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
STT Từ viết tắt Tiếng Anh Tiếng Việt
1 CENTCOM U.S. Central Command Bộ chỉ huy trung tâm Mỹ
Central Intelligence Cơ quan Tình báo Trung 2 CIA Agency ƣơng (Mỹ)
China National Tập đoàn dầu khí quốc gia 3 CNPC Petroleum Corporation Trung Quốc
Coalition Provisional Liên minh chính phủ lâm 4 CPA Authority thời (Iraq)
Energy Information Cơ quan/CụcThông tin 5 EIA Administration Năng lƣợng (Mỹ)
6 GDP Gross Domestic Product Tổng sản phẩm quốc nội
International Monetary 7 IMF Quỹ Tiền tệ Quốc tế Fund
Iraq National Oil Công ty dầu mỏ quốc gia 8 INOC Company Iraq
Iraq Petroleum 9 IPC Công ty dầu khí Iraq Company
10 IS Islamic State Nhà nƣớc Hồi giáo
Islamic State of Iraq and Nhà nƣớc Hồi giáo Iraq và 11 ISIL Levant Cận đông
Islamic State of Iraq and Nhà nƣớc Hồi giáo Iraq và 12 ISIS Syria Syria
National Security Chiến lƣợc an ninh quốc 13 NSS Strategy gia
Latin America Energy Tổ chức Năng lƣợng Mỹ 14 OLADE Organization Latinh
Organization of Tổ chức các nƣớc xuất 15 OPEC Petroleum Exporting khẩu dầu mỏ Countries
16 WB World Bank Ngân hàng Thế giới
Weapons of Mass 17 WMD Vũ khí huỷ diệt hàng loạt Destruction
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Biểu đồ 3.1: Sản lƣợng khai thác dầu mỏ của Iraq trong giai đoạn
1980 - 2015…………………………………………………………….57
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Nửa cuối thế kỷ XX, thế giới chứng kiến sự bứt phá và chiếm lĩnh vị trí
thống soái của dầu mỏ đối với nền công nghiệp và dịch vụ xã hội. Với những
vai trò quan trọng không chỉ về kinh tế, chính trị và ngoại giao, dầu mỏ là một
trong những nguồn năng lƣợng quan trọng nhất và khó có thể thay thế trong
tƣơng lai gần. Tuy nhiên, dầu mỏ không phải là tài nguyên vô tận. Với tốc độ
khai thác nhƣ hiên nay, ngƣời ta ƣớc tính dầu mỏ sẽ cạn kiệt sau 30-40 năm
nữa. Viễn cảnh không mấy tốt đẹp này khiến cạnh tranh trong lĩnh vực dầu
mỏ càng ngày càng trở nên nóng bỏng hơn. Các cƣờng quốc đặc biệt là Mỹ
luôn muốn chạy đua đến cùng để “có chân” trong các khu vực về dầu mỏ để
có cơ hội phát triển thuận lợi hơn cho đất nƣớc của mình. Từ đó, chính sách
ngoại giao dầu mỏ của Mỹ ra đời hƣớng đến những khu vực có trữ lƣợng dầu
mỏ lớn nhƣ Trung Đông, Châu Phi… Đặc biệt, chính sách ngoại giao dầu mỏ
của Mỹ với Iraq là một phần quan trọng trong chính sách ngoại giao dầu mỏ
toàn cầu của Mỹ. Iraq là quốc gia có trữ lƣợng dầu mỏ đứng thứ hai trên thế
giới, giữ vai trò quan trọng trong cán cân năng lƣợng toàn cầu. Cũng chính vì
nguồn dầu mỏ dồi dào này mà Iraq vô tình trở thành trung tâm của chính sách
ngoại giao dầu mỏ của Mỹ tại Trung Đông đồng thời là nơi mà chính sách
này để lại tác động rõ ràng và sâu sắc nhất với 2 cuộc chiến tranh năm 1991
và 2003. Nghiên cứu chính sách dầu mỏ của Mỹ đối với Iraq sẽ cho chúng ta
cái nhìn xuyên suốt và hệ thống hơn về chính sách ngoại giao dầu mỏ đƣợc
Mỹ triển khai qua các giai đoạn từ những năm đầu thế kỉ XX tới nay. Hơn
nữa, chính sách ngoại giao dầu mỏ của Mỹ đối với Iraq không chỉ tác động
đến bản thân Iraq mà còn đến các quốc gia trong khu vực cũng nhƣ toàn thế
giới. Đặc biệt, trong bối cảnh Nhà nƣớc Hồi giáo tự xƣng IS đang phát triển
về cả phạm vi và mức độ hoạt động khủng bố nhƣ hiện nay, việc nghiên cứu
1
chính sách này càng trở nên cấp thiết khi Nhà nƣớc Hồi giáo IS đƣợc xem là
sản phẩm và cũng là phần tiếp theo của quá trình triển khai chính sáchngoại
giao dầu mỏ của Mỹ tại Iraq.
Chính vì những lý do trên, tôi đã lựa chọn đề tài “Chính sách ngoại giao
dầu mỏ của Mỹ với Iraq” cho luận văn này của mình.
2. Tình hình nghiên cứu vấn đề
Vấn đề nghiên cứu về chính sách ngoại giao năng lƣợng nói chung và
chính sách ngoại giao dầu mỏ của Mỹ với Iraq nói riêng không phải là vấn đề
mới.
Trên thế giới, tài liệu nghiên cứu về chính sách ngoại giao dầu mỏ của
Mỹ với Iraq rất đa dạng. Cuốn sách “American Oil Diplomacy in the Persian
Gulf and the Caspian Sea” của Gawdat Bahgat (2003) là tài liệu tập trung
cung cấp những điểm chính của chính sách ngoại giao dầu mỏ của Mỹ với
khu vực vùng Vịnh, trong đó có gần 30 trang đi sâu vào chính sách ngoại giao
dầu mỏ với Iraq. Tuy nhiên, phần chính sách ngoại giao dầu mỏ ở Iraq không
đƣợc phân tích cụ thể vào các yếu tố dầu mỏ tác động lên chính sách đối
ngoại mà hơi nghiêng về chính sách chung dành cho Iraq trƣớc cuộc chiến
tranh Iraq năm 2003. Bài báo A Century of U.S. Relations with Iraq của tác
giả Peter Hahn đăng trên Origins cũng là một tài liệu quan trọng ghi nhận các
cột mốc trong mối quan hệ giữa Mỹ và Iraq. Bài báoOil, Iraq and US foreign
policy in the Middle East của tác giả Irene Gendzier đăng trên Tạp chí
Situation Analysis năm 2003 cũng đã phân tích chính sách của Mỹ với khu
vực Trung Đông từ năm 1953 đến năm 2003 dựa trên nền tảng lợi ích chính là
nguồn dầu mỏ giàu có tại đây. Chính sách ngoại giao dầu mỏ của Mỹ với Iraq
cũng đƣợc đề cập đến nhƣ 1 phần của chính sách này trên toàn cầu trong cuốn
sách Blood and oil: The Dangers and Consequences of America’s Growing
Dependency on Imported Petroleum của tác giả Michael Klare (2004).
2
Các Báo cáo về chính sách năng lƣợng của Mỹ cũng là nguồn tham khảo
đáng giá nhƣ Báo cáo Strategic Energy Policy Challenges for the 21st
Century (2001)của Independent Task Force, Báo cáo National energy policy:
Reliable, Affordable, and Environmentally Sound Energy for America’s
Future (2001)của National Energy Policy Development Group… Các báo cáo
này cung cấp các quan điểm chính sách từ chính chính phủ Mỹ.
Ngoài ra còn có rất nhiều tài liệu phân tích về cuộc chiến tranh Iraq năm
2003 nhƣ “Petroimperialism: US Oil Interests and the Iraq War” của Nayna J
Jhaveri đi sâu vào phân tích các lợi ích liên quan tới dầu mỏ của Mỹ từ đó
phân tích nguyên nhân cuộc chiến Iraq 2003, bài báo “The US Invasion of
Iraq: Explanations and Implications” của tác giả Raymond Hinnebusch viết
về nguyên nhân và hệ luỵ của cuộc chiến này. Một điểm chung của tất cả các
tài liệu này là dầu mỏ là yếu tố quyết định lớn nhất lên chính sách đối ngoại
của Mỹ với Iraq từ trƣớc, trong và sau cuộc chiến.
Tại Việt Nam, các công trình nghiên cứu về chính sách ngoại giao năng
lƣợng có luận án tiến sĩ “Chính sách ngoại giao năng lƣợng của Trung Quốc
những năm đầu thế kỉ 21” của Nguyễn Minh Mẫn (Trƣờng ĐH Sƣ phạm Tp Hồ
Chí Minh). Luận án đƣa ra 1 khung tham khảo về chính sách ngoại giao năng
lƣợng của 1 nƣớc cụ thể là Trung Quốc, đặc biệt là phần viết về chính sách ngoại
giao năng lƣợng của Trung Quốc với Trung Đông. Tuy nhiên, đây là luận án tiến
sĩ ngành lịch sử nên các tiếp cận chủ yếu là liệt kê sự kiện, thiếu cái nhìn khái
quát lên thành chính sách theo cách tiếp cận của quan hệ quốc tế. Ngoài ra còn
có một số bài báo khoa học khác về đề tài này nhƣ Cuộc cạnh tranh dầu mỏ
giữa Trung Quốc với các cường quốc hiện nay và tác động của nó đến quan hệ
quốc tế của Ngô Chí Nguyện và Nguyễn Tú Hoa trên Tạp chí Nghiên cứu Đông
Bắc Á số 07 năm 2007, An ninh năng lượng Trung Quốc: thách thức và những
chiến lược của Nguyễn Anh Chƣơng đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á
số 2 năm 2010...
3
3. Mục tiêu nghiên cứu
Luận văn đặt mục tiêu nghiên cứu là làm rõ chính sách ngoại giao dầu
mỏ của Mỹ với Iraq ở các khía cạnh cơ sở hoạch định, nội dung, thực tế triển
khai và triển vọng chính sách trong tƣơng lai.
Mục tiêu này đƣợc cụ thể hoá thành các câu hỏi nghiên cứu sau: (1)
Chính sách ngoại giao dầu mỏ của Mỹ trên toàn cầu là gì? (2) Chính sách
ngoại giao dầu mỏ của Mỹ với Iraq đƣợc hoạch định dựa trên các cơ sở chính
sách nào? Mục tiêu và công cụ triển khai chính sách tƣơng ứng ra sao? (3)
Chính sách ngoại giao dầu mỏ của Mỹ với Iraq đƣợc triển khai trên thực tế
tƣơng ứng với từng giai đoạn nhƣ thế nào? (4) Chính sách ngoại giao dầu mỏ
của Mỹ đƣợc đánh giá nhƣ thế nào sau hơn 1 thế kì triển khai? (5) Chính sách
ngoại giao dầu mỏ của Mỹ với Iraq sẽ đƣợc triển khai nhƣ thế nào trong thời
gian tới về thời gian và mức độ triển khai?.
4. Ph m vi nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn này là chính sách ngoại giao dầu mỏ
của Mỹ với Iraq.
Về mặt giới hạn thời gian, luận văn tập trung nghiên cứu giai đoạn từ
những năm đầu thế kỉ XX, khi Mỹ bắt đầu can dự vào công nghiệp khai thác
dầu mỏ tại Iraq bằng việc thu mua cổ phần của công ty dầu khí Iraq (IPC) đến
thời điểm hiện nay. Ngoài ra, luận văn chỉ giới hạn việc nghiên cứu chính
sách ngoại giao dầu mỏ của Mỹ với Iraq trong giới hạn lãnh thổ Iraq và các
nƣớc trong khu vực Trung Đông nhƣ Iran và Arab Saudi chứ chƣa nghiên cứu
trong sự tƣơng tác chính sách ở cấp độ rộng hơn.
5 Phƣơn pháp n h ên cứu
Luận văn sử dụng tổng hợp các phƣơng pháp nghiên cứu khoa học, trong
đó chủ yếu là các phƣơng pháp phân tích, tổng hợp, thu thập dữ liệu và so
sánh nhằm đem lại sự logic, chặt chẽ và thuyết phục ngƣời đọc. Việc áp dụng
4
các phƣơng pháp nghiên cứu này sẽ đƣợc lựa chọn cẩn thận để giúp luận văn
tiếp cận với đối tƣợng nghiên cứu một cách toàn diện và phù hợp nhất để từ
đó làm rõ các câu hỏi nghiên cứu đặt ra ban đầu.
6. Bố cục luận văn
Để đạt đƣợc các mục đích trên, ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn
gồm có 3 chƣơng nhƣ sau:
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ CHÍNH SÁCH NGOẠI GIAO DẦU
MỎ CỦA MỸ: Chƣơng này đƣa ra những thông tin tổng quan dầu mỏ, an
ninh dầu mỏ và chính sách ngoại giao dầu mỏ của Mỹ trên toàn cầu. Đây sẽ là
những thông tin nền cho việc phân tích chính sách ngoại giao dầu mỏ của Mỹ
với Iraq ở chƣơng sau.
CHƢƠNG 2: NỘI DUNG CHÍNH SÁCH NGOẠI GIAO DẦU MỎ
CỦA MỸ VỚI IRAQ: Chƣơng này đi sâu vào phân tích chính sách ngoại giao
dầu mỏ của Mỹ với Iraq ở các mặt cơ sở hoạch định, mục tiêu, công cụ thực
hiện và thực tế triển khai.
CHƢƠNG 3: TÁC ĐỘNG VÀ TRIỂN VỌNG CHÍNH SÁCH NGOẠI
GIAO DẦU MỎ CỦA MỸ VỚI IRAQ: Dựa vào các thông tin nền ở chƣơng
1 và những nghiên cứu thực tiễn ở chƣơng 2, chƣơng 3 đánh giá quá trình
triển khai đồng thời đƣa ra những dự báo về triển vọng trong tƣơng lai của
chính sách này.
5
CHƢƠNG I: TỔNG QUAN VỀ CHÍNH SÁCH NGOẠI GIAO DẦU MỎ
CỦA MỸ
1.1 Một số khá n ệm
1.1.1 An ninh dầu mỏ
1.1.1.1 Khái niệm an ninh dầu mỏ
An ninh dầu mỏ là một lĩnh vực quan trọng gắn với vấn đề an ninh năng
lƣợng và an ninh quốc gia. An ninh dầu mỏ đƣợc xem là một phần cốt lõi của
an ninh năng lƣợng. An ninh dầu mỏ là các hoạt động nhằm đảm bảo việc
cung cấp dầu mỏ một cách ổn định và liên tục phục vụ cho nhu cầu sử dụng
của mỗi quốc gia. Ngày nay, khái niệm an ninh dầu mỏ không đơn thuần là
các nguồn cung cấp dầu mỏ đƣợc đảm bảo nhƣ những thập kỉ trƣớc đây, mà
còn đƣợc hiểu một cách toàn diện, bao quát hơn là công tác bảo vệ môi
trƣờng đƣợc đảm bảo, giá cả hợp lý và khả năng ứng phó với các tình huống
khẩn cấp phát sinh từ các nhân tố kinh tế, chính trị bên trong và bên ngoài quốc gia liên quan đến quá trình khai thác và sử dụng dầu mỏ1.
Đến nay, mỗi quốc gia có một cách tiếp cận khác nhau về an ninh dầu
mỏ. Các quốc gia xuất khẩu dầu mỏ sẽ nhấn mạnh khía cạnh “đảm bảo nguồn
cầu” trong hoạt động xuất khẩu của mình, vốn là nguồn thu chủ yếu cho ngân
sách của họ. Nhƣ trƣờng hợp nƣớc Nga, mục tiêu của họ là nhằm xác lập lại
quyền kiểm soát của nhà nƣớc đối với “các tài nguyên chiến lƣợc” và các
đƣờng ống dẫn dầu chính cũng nhƣ các kênh thị trƣờng mà nƣớc này vận
chuyển các sản phẩm dầu mỏ ra đến thị trƣờng thế giới. Với các quốc gia
nhập khẩu dầu mỏ thì an ninh dầu mỏ lại đƣợc xem xét ở khía cạnh những
thay đổi về giá cả dầu mỏ sẽ ảnh hƣởng đến cán cân thanh toán của các quốc
gia đó nhƣ thế nào. Đối với Trung Quốc và Ấn Độ, khái niệm an ninh dầu mỏ
hiện đƣợc hiểu là khả năng nhanh chóng thích ứng với sự phụ thuộc xuất hiện 1 Nguyễn Minh Mẫn (2011), “An ninh năng lƣợng những năm đầu thế kỉ 21”, Tạp chí khoa học ĐH Sư phạm Tp Hồ Chí Minh, số 32, tr. 46.
6
gần đây của các nƣớc này vào thị trƣờng dầu mỏ thế giới, vốn là một sự thay
đổi lớn so với những quyết tâm nhằm tự cung tự cấp năng lƣợng trƣớc đây
của họ. Đối với Nhật Bản, an ninh dầu mỏ lại có nghĩa là hạn chế mặt tiêu cực
của tình trạng khan hiếm trong nƣớc thông qua sự đa dạng hóa nguồn cung
dầu mỏ, các hoạt động thƣơng mại và đầu tƣ. Còn nƣớc Mỹ thì hƣớng đến
mục tiêu quốc gia về “độc lập năng lƣợng”, một thuật ngữ vốn đã trở thành
khẩu hiệu kể từ khi đƣợc Tổng thống Nixon nêu ra bốn tuần sau lần cấm vận
dầu mỏ năm 1973. Trong bối cảnh toàn cầu hoá ngày nay, an ninh dầu mỏ và
an ninh năng lƣợng cũng đang nổi lên nhƣ những vấn đề toàn cầu hết sức bức thiết2.
1.1.1.2 Các biện pháp bảo đảm an ninh dầu mỏ
Nhiều quốc gia tiêu thụ dầu đã chú ý đến các xu hƣớng giá cả và sự biến
động trong nhiều thập kỷ qua và đang tích cực tìm ra giải pháp để tăng cƣờng
an ninh dầu mỏ của họ. Các biện pháp chủ yếu bao gồm tăng dự trữ trong
nƣớc, tăng nguồn cung trong nƣớc, tăng cƣờng hiệu quả sử dụng dầu mỏ, tìm
nguồn năng lƣợng thay thế và đặc biệt là thực hiện chiến lƣợc ngoại giao dầu
mỏ nhằm đa dạng hoá nguồn cung dầu mỏ từ bên ngoài.
Ở trong nƣớc, các quốc gia tiêu thụ dầu chú ý đến việc mở rộng kho dự
trữ dầu của mình để đối phó với việc giá dầu biến đổi nhanh và bất ngờ.
Ngoài ra, các quốc gia có dầu mỏ sẽ thông qua việc mở rộng quy mô của bộ
phận sản xuất trong nƣớc dựa vào việc một số vùng có nhiều tiềm năng về
dầu mỏ chƣa đƣợc khai thác hết để nới rộng khối lƣợng dầu mỏ cho việc dự
trữ, sử dụng cũng nhƣ xuất khẩu. Ngoài ra, các nƣớc tập trung phát triển công
nghệ tiết kiệm và công nghệ mới để giảm bớt năng lƣợng dầu mỏ tiêu dùng và
giảm ô nhiễm. Các quốc gia, đặc biệt là các nƣớc phát triển, còn tập trung vào
việc phát triển nguồn năng lƣợng mới thay thế dầu mỏ nhƣ năng lƣợng tái
2 Daniel Yergin (2006). “Ensuring Energy Security”, Foreign Affairs, Vol. 85, No. 2 (Mar – Apr), pp. 69-82
7
sinh ( gió, địa nhiệt, sinh học…), năng lƣợng thay thế (các loại nhiên liệu
dùng cho giao thông đƣợc tạo ra từ các nguồn phi truyền thống để thay thế
cho các nguồn xăng, diezel... bao gồm ethnol, biodiezel, biofuele, pin nhiên
liệu, hyđro, nhiệt hạch...), năng lƣợng nguyên tử.
Việc tăng nguồn dự trữ đƣợc các quốc gia đặc biệt chú trọng trong an
ninh dầu mỏ. Để bảo đảm cho an ninh năng lƣợng, các nƣớc trên thế giới đẩy
mạnh xây dựng các kho dự trữ dầu chiến lƣợc. Trung Quốc và Ấn Độ tuyên
bố sẽ xây dựng kho dự trữ chiến lƣợc bằng nguồn ngoại tệ dồi dào của mình.
Năm 2008, Ấn Độ đã công bố kế hoạch xây dựng kho dự trữ chiến lƣợc quốc
gia có sức 36 triệu thùng, tƣơng lai sẽ tăng mức dự trữ lên đến 108 triệu
thùng. Cùng thời gian nêu trên, Trung Quốc tuyên bố xây dựng 4 cơ sở dự trữ
chiến lƣợc ở khu vựcduyên hải là Trấn Hải, Đại Sơn, Đại Liên và Hoàng Đảo.
Mục tiêu dự trữ dầu mỏ của Trung Quốc là đáp ứng nhu cầu dầu mỏ quốc gia
trong 30 ngày nếu xảy ra hiện tƣợng các nguồn cung ứng bất ngờ bị ngƣng trệ (tƣơng ứng với khoảng 300 triệu thùng vào năm 2010)3.
Tuy nhiên, các biện pháp trên chỉ mang tính ngắn hạn và hiệu quả cũng
rất hạn chế. Các nƣớc chủ yếu vẫn thực hiện chính sách ngoại giao dầu mỏ để
tăng cƣờng tìm kiếm nguồn cung từ bên ngoài.Các nƣớc có nhu cầu cao về
năng lƣợng đang tiến hành ngoại giao song phƣơng hoặc đa phƣơng với các
khu vực, quốc gia có tiềm năng dầu mỏ dồi dào. Các hội nghị mang tính khu
vực và quốc tế liên tục chọn an ninh dầu mỏ và an ninh năng lƣợng làm chủ
đề chính. Các tổ chức mang tính khu vực khác thì bổ sung vấn đề an ninh
năng lƣợng và hợp tác trong lĩnh vực năng lƣợng vào chƣơng trình hoạt động
của mình. Rõ ràng, ngoại giao dầu mỏ trở nên quan trọng đối với chính
trƣờng thế giới hơn bao giờ hết và Mỹ cũng không là ngoại lệ khu chính sách
ngoại giao dầu mỏ của nƣớc này luôn đƣợc chú trọng thực hiện từ rất sớm.
3 Nguyễn Minh Mẫn (2011), Sđd, tr. 52.
8
N o o ầu mỏ
Nửa cuối thế kỷ XX, thế giới chứng kiến sự bứt phá và chiếm lĩnh vị trí
thống soái của dầu mỏ với nền công nghiệp và dịch vụ xã hội, bỏ xa nhiên
liệu hóa thạch truyền thống là than đá. Dầu mỏ đƣợc coi là “vàng đen” chính
vì sự ứng dụng rộng rãi trong gần nhƣ mọi hoạt động sống của con ngƣời.
Chính vì vai trò là nguồn năng lƣợng quan trọng và khó có thể thay thế mà
dầu mỏ có thể coi là thứ thuốc bôi trơn cho nền kinh tế phát triển đối với mọi
quốc gia. Một quốc gia muốn duy trì đƣợc một nền kinh tế ổn định, và phát
triển đều cần phải có một chiến lƣợc năng lƣợng dầu mỏ một cách hợp lý, một
chính sách an ninh năng lƣợng toàn diện đảm bảo đủ nguồn dầu mỏ cần thiết
cung cấp cho cả nền kinh tế. Đối với các quốc gia xuất khẩu dầu mỏ, thì
ngành công nghiệp khai thác dầu mỏ là xƣơng sống cho cả một nền kinh tế.
Nó đóng vai trò là nguồn thu nhập chính cho cả một nền kinh tế quốc gia.
Với vai trò quan trọng đối với nền kinh tế nói đến ở trên, sự ổn định của
sản lƣợng khai thác dầu mỏ rất quan trọng đối với an ninh năng lƣợng của các
quốc gia. Đặc biệt, trong bối cảnh hiện nay, tình trạng khan hiếm dầu mỏ kèm
theo nhu cầu ngày càng tăng của loại hàng hoá hữu hạn này đã lôi kéo mọi
quốc gia, đặc biệt là các nƣớc lớn vào cuộc chiến vì dầu mỏ này. Nhằm đảm
bảo sự phát triển bền vững của mình, các quốc gia trên thế giới đang tìm mọi
cách để đảm bảo và tăng cƣờng nguồn cung dầu ổn định cho mình. Hơn thế
nữa, dầu mỏ còn là yếu tố tác động mạnh mẽ đến an ninh quốc gia. Các cuộc
chiến tranh sặc mùi dầu mỏ trong lịch sử chứng minh dầu mỏ là một con dao
2 lƣỡi: là yếu tố đảm bảo an ninh cho các quốc gia đồng thời cũng là yếu tố
khiến các quốc gia khác muốn phá vỡ môi trƣờng an ninh của các quốc gia
xuất khẩu dầu.
Dầu mỏ không chỉ đóng vai trò quan trọng trong kinh tế, an ninh quốc
gia và an ninh thế giới, nó còn đóng vai trò vô cùng quan trọng trong quan hệ
9
quốc tế. Dầu mỏ đƣợc coi là một yếu tố vô cùng quan trọng trong việc hoạch
định chính sách ngoại giao của một quốc gia. Với tầm quan trọng và tính khan
hiếm, khó thay thể của mình, một quốc gia muốn có đƣợc nền kinh tế phát
triển và vị thế chính trị trên thế giới bắt buộc phải chú trọng đến ngoại giao
dầu mỏ. Nói các khác, dầu mỏ có thể chi phối chính sách ngoại giao của một
quốc gia. Tùy vào các vấn đề về dầu mỏ vào từng thời điểm mà mỗi quốc gia
phải điểu chỉnh thậm chí thay đổi cả chính sách ngoại giao của mình đối với
nƣớc khác hay đổi với một khu vực. Chƣa bao giờ trong lịch sử, dầu mỏ đƣợc
coi là một công cụ đắc lực trong chính trị quốc tế nhƣ hiện nay. Với tầm quan
trọng, dầu mỏ luôn đƣợc nhiều nƣớc sử dụng để mặc cả cho những vấn đề
chính trị khác. Sức nặng của nó trên bàn đàm phán và sức thu hút mạnh mẽ
của nó đối với các nƣớc lớn là thứ luôn đƣợc cân nhắc tới.
Cùng với sự tập trung mức độ cao tại một số khu vực nhƣ Trung Đông –
“rốn dầu thế giới”, và Trung Á – “căn cứ năng lƣợng của thế giới”, dầu mỏ từ
lâu đã trở thành con bài chính trị chiến lƣợc trong việc gây dựng ảnh hƣởng,
lôi kéo bè phái chính trị, đƣa ra yêu sách… Trên thực tế, các nƣớc lớn trên thế
giới nhƣ Mỹ, Trung Quốc, Nga, Ấn Độ, Nhật Bản và các nƣớc thuộc EU đều
tìm mọi cách gây ảnh hƣởng hoặc tìm kiếm liên doanh hợp tác trên lĩnh vực
năng lƣợng với những khu vực, quốc gia có trữ lƣợng dầu mỏ lớn nhƣ Trung
Đông, Trung Á, Bắc Phi, Mỹ La-tinh… Có thể nói ngoại giao dầu mỏ hiện
nay luôn là điểm nóng trên trƣờng quốc tế. Thế giới đang chứng kiến cuộc
chạy đua ngoại giao dầu mỏ giữa các nƣớc lớn làm cho quan hệ quốc tế thêm
phức tạp và đa dạng.
1.2 Chính sách ngo i giao dầu mỏ của Mỹ
1.2.1 Các yếu tố tác động đến chính sách ngoại giao dầu mỏ của Mỹ
Về mặt kinh tế, yếu tố tác động lớn nhất là sự gia tăng của nhu cầu năng
lƣợng ở cả trong nƣớc lẫn toàn cầu. Nhu cầu về dầu mỏ trên thế giới tăng
10
nhanh bởi các yếu tố tác động nhƣ quá trình công nghiệp hóa ở các nƣớc đang
phát triển cộng, nguồn năng lƣợng thay thế dầu mỏ còn hạn chế, dân số tăng
nhanh... Mỹ là nƣớc tiêu thụ dầu lớn nhất thế giới (24,6% thế giới) nên sự gia
tăng nhu cầu về dầu mỏ sẽ là nhân tố thúc đẩy chính sách ngoại giao dầu mỏ
của Mỹ đồng thời sự gia tăng nhu cầu của các nƣớc khác sẽ là thúc đẩy tính
cạnh tranh của Mỹ trong quá trình thực thi chính sách này.
Đối với khía cạnh an ninh, hầu hết các khu vực chiến lƣợc về dầu mỏ
nhƣ Trung Đông, Trung Á, Mỹ Latinh, châu Phi, Biển Đông… đều là mục
tiêu tranh giành của các cƣờng quốc dẫn đền xu hƣớng bất ổn của các khu vực
này. Những bất ổn này đã ảnh hƣởng đến nguồn cung dầu mỏ thế giới, làm
tăng giá dầu thế giới từ đó trực tiếp đe doạ an ninh dầu mỏ của Mỹ. Tiêu biểu
có thể kể đến các sự kiện nhƣ Mỹ phát động những cuộc chiến tranh những
năm gần đây ở Trung Đông, mâu thuẫn Nga - Mỹ tại Trung Á, quan hệ căng
thẳng giữa Nga - châu Âu cũng nhƣ sự bành trƣớng của Trung Quốc ở Biển
Đông và các nƣớc châu Phi…
Ngoài ra, chính sách ngoại giao dầu mỏ của Mỹ bị tác động bởi quan
điểm về cung cấp dầu mỏ của các chủ thể. Đó là những bất ổn, bất đồng quan
điểm giữa các quốc gia, các tổ chức quốc tế xuất khẩu dầu mỏ và những nƣớc
sử dụng dầu mỏ nhƣ Mỹ, OPEC… trong việc bất hợp tác trong kiềm chế giá
dầu tăng, phớt lờ đề nghị cộng đồng quốc tế về tăng sản lƣợng khai thác, cố
tình duy trì giá dầu để thu lợi. Mỹ buộc phải có hành động cụ thể để điều hoà
các quan điểm này nhằm duy trì nguồn cung và giá cả của dầu mỏ để đảm bảo
an ninh dầu mỏ cho đất nƣớc mình.
1.2.2 Các đặc điểm chính của chính sách ngoại giao dầu mỏ của Mỹ
Nền tảng của chính sách ngoại giao dầu mỏ của Mỹ xuất hiện từ rất sớm.
Một nghiên cứu của William C.Ferris, chuyên gia nghiên cứu về dầu mỏ của
Bộ Ngoại giao Mỹ từ ngày 24/12/1941 đã chỉ ra những kết luận mà sau này
11
đã dùng để xây dựng chính sách năng lƣợng của Mỹ. Trong báo cáo này W.C.
Ferris cảnh báo rằng, nếu Mỹ tiếp tục khai thác với tốc độ hiện tại (năm 1941)
thì chẳng bao lâu nguồn dầu mỏ này sẽ cạn kiệt. Do đó, Mỹ cần phải giảm sản
xuất trong nƣớc và tăng nhập khẩu từ các nguồn dầu mỏ nƣớc ngoài. Ferris đề
ra những nguyên tắc chung mà sau này đã đƣợc sử dụng làm các nguyên tắc
chính thức trong chính sách năng lƣợng của chính phủ Mỹ “để chuẩn bị cho
việc dự phòng trong tƣơng lai, các quốc gia nên bảo tồn dự trữ quốc gia của
mình và sử dụng nhiều dầu hơn từ các nguồn nƣớc ngoài... Chính phủ Mỹ nên
theo đuổi một chính sách đối ngoại tích cực hơn nhiều nhằm đảm bảo quyền tiếp cận với các nguồn dầu khí ở nƣớc ngoài”4.
Chính sách đảm bảo an ninh dầu mỏ của Mỹ bao gồm cả các biện pháp
đối nội và đối ngoại nhƣng các biện pháp bên ngoài là quan trọng hơn. Mỹ
thực hiện chiến lƣợc ngoại giao dầu mỏ vừa giữ thị trƣờng truyền thống vừa
mở rộng thị trƣờng bằng việc sử dụng kết hợp các công cụ kinh tế, quân sự và
ngoại giao. Về kinh tế, Mỹ dùng sức mạnh kinh tế đầu tƣ vào các quốc gia
dầu mỏ gắn nền kinh tế của họ vào nền kinh tế Mỹ từ đó kiểm soát thị trƣờng
cung ứng. Về quân sự, Mỹ dùng công cụ quân sự để thực hiện các viện trợ
quân sự đảm bảo an ninh vì các khu vực nhiều dầu đồng thời cũng là khu vực
bất ổn về an ninh. Thông qua đó, Mỹ có thể tiếp xúc và tiến tới kiểm soát các
mỏ dầu. Mỹ dùng quân đội để bảo vệ các đƣờng ống dẫn dầu các mỏ dầu của
Mỹ ở nƣớc ngoài thậm chí là tiến hành xâm lƣợc vì dầu mỏ. Các công cụ
ngoại giao đƣợc chính quyền Mỹ sử dụng để có thể thiết lập các mối quan hệ
thân thiết với các nƣớc xuất khẩu dầu mỏ, đặc biệt là các thị trƣờng mới.
Mỗi đời Tổng thống Mỹ sau đại chiến thế giới thứ 2 nhƣ Truman,
Eisenhower, J.F.Kennedy cho đến Nixon, G.Bush, B. Obama đều có chính
sách riêng của mình về dầu mỏ. Chính sách của Truman là triển khai đồng 4 Michael Klare (2004), Blood and oil: The Dangers and Consequences of America’s Growing Dependency on Imported Petroleum, Metropolitan Books, tr. 30.
12
loạt lực lƣợng quân đội và hải quân đến vùng Vịnh để ngăn cản chiến lƣợc
của Nga ở khu vực vùng Vịnh. Chính sách của Eisenhower là đƣa quân vào
Lebanon để bảo vệ chính quyền tổng thống thân phƣơng Tây. Các tổng thống
J.F. Kennedy và Richarrd Nixon tập trung viện trợ cho 2 quốc gia thân thiện
là Arab Saudi và Iran. Chính sách của Nixon phát huy tác dụng khi hỗ trợ vua
Shah trở về nắm quyền vào năm 1953 và trong những năm 70 chính quyền
này đã nhận đƣợc đến 14 tỷ đôla Mỹ viện trợ, nhƣng cuối cùng quyền lợi Mỹ
ở đó không đƣợc bảo vệ khi cuộc khủng hoảng năng lƣợng bắt đầu và các
nƣớc Arab đã đƣa ra quyết định không bán dầu mỏ cho Mỹ vì Mỹ đã ủng hộ
Israel. Tổng thống Bush với học thuyết đối ngoại “Đánh đòn phủ đầu” đã lợi
dụng sự kiện 11.9.2001 làm bƣớc đệm để tấn công Iraq với một cuộc chiến vì
dầu mỏ.
Theo Báo cáo của Tổ chính sách năng lƣợng quốc gia đứng đầu là Phó
Tổng thống Cheney công bố tháng 5/2001, thì trong 20 năm tới, lƣợng dầu
mà Mỹ sử dụng sẽ tăng 1/3, trong khi sản lƣợng dầu của Mỹ giảm 12% và
đến năm 2020, lƣợng dầu nhập khẩu chiếm 2/3 nhu cầu dầu mỏ ở Mỹ. Vì vậy,
mối quan tâm đặc biệt của Mỹ tới các khu vực sở hữu nguồn dầu mỏ dồi dào
nhƣ Trung Đông, Trung Á, Đông Nam Á, Tây Phi cũng là điều dễ hiểu. Từ
góc độ chiến lƣợc toàn cầu, có thể thấy rõ mục tiêu mà Mỹ đang theo đuổi
trong chiến lƣợc ngoại giao dầu mỏ của mình hiện nay và trong tƣơng lai:
khống chế các khu vực “cửa ô”, các đầu mối giao thông và nguồn cung dầu
mỏ ở các châu lục để đảm bảo an ninh dầu mỏ quốc gia.
1.2.3 Chính sách ngoại giao dầu mỏ của Mỹ đối với các khu vực
1.2.3.1 Với khu vực châu Mỹ - Latinh
Mỹ La tinh vốn là địa bàn ảnh hƣởng truyền thống của Mỹ và cũng là thị
trƣờng dầu mỏ độc quyền của Mỹ từ trƣớc đến nay. Nơi đây có những quốc
gia có tiềm năng dầu mỏ to lớn và là nguồn cung quan trọng truyền thống của
13
Mỹ nhƣ Venezuela, Bolivia. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, với sự lên
ngôi của các chính phủ thiên tả có tƣ tƣởng chống Mỹ tại khu vực làm cho Mỹ có nguy cơ mất đi thị trƣờng dầu mỏ quan trọng và gần gũi này5. Với ảnh
hƣởng ngày càng gia tăng của Trung Quốc tại khu vực này, các công ty dầu
mỏ của Trung Quốc đã ký kết đƣợc nhiều hợp đồng lớn về thăm dò, khai thác
và tiêu thụ dầu với các nƣớc trong khu vực, đặc biệt Venezuela đã tuyên bố
sẵn sàng cung cấp cho Trung Quốc hàng triệu tấn dầu mỗi ngày trong những năm tới6.
Mặc dù quan hệ giữa Mỹ và khu vực này đang tiềm ẩn những mâu thuẫn
đối địch. Mỹ vẫn luôn coi khu vực Mỹ Latinh là sân sau của mình và muốn
duy trì lợi ích của mình tại khu vực này trong đó có cả dầu mỏ. Trong khi đó,
nhiều nƣớc trong khu vực này dƣới sự lãnh đạo của phe cánh tả lại muốn
giảm sự phụ thuộc vào Mỹ và thậm chí là chống lại Mỹ. Venezuela là ví dụ
điển hình. Venezuela là nƣớc cung cấp nhiều dầu nhất cho Mỹ ở khu vực này
nên Mỹ rất chú trọng đến quốc gia này trong chính sách ngoại giao dầu mỏ
với khu vực Mỹ La tinh. Tuy vậy, dƣới thời Hugo Chavez, mối quan hệ này
diễn biến phức tạp và nhìn chung là có chiều hƣớng xấu đi. Hugo Chavez có
thể nói là ngƣời có xu hƣớng cánh tả nên vì vậy mà không ít lần Venezuela đe
doạ cắt nguồn cung dầu cho Mỹ trong giai đoạn hiện tại, sự đe doạ này vô
cùng nguy hiểm đối với Mỹ vì Venezuela là 1 trong những nhà cung cấp dầu
quan trọng nhất của Mỹ. Năm 2005, Venezuela cung cấp trung bình mỗi ngày
288000 thùng dầu cho Mỹ (chiếm 11,1% tổng dầu nhập khẩu của Mỹ) thì đến năm 2011, con số này chỉ còn là 79,000 thùng dầu mỗi ngày7. Hơn thế nữa,
Venezuela cũng đang đề xuất thành lập hai liên minh dầu mỏ là PetroCaribe
(cho các nƣớc vùng Caribe) và PetroSur (cho khu vực Nam Mỹ) để thúc đẩy 5 Ngô Chí Nguyện và Nguyễn Tú Hoa (2007), Tlđd 6 Ngô Chí Nguyện và Nguyễn Tú Hoa (2007), Tlđd 7 Ian James, Venezuela's oil exports to US decline, CNS News, tại địa chỉ http://www.cnsnews.com/news/article/venezuelas-oil-exports-us-decline truy cập ngày 14/11/2015
14
sự độc lập của thị trƣờng dầu mỏ tại đây8. Do đó, Mỹ đã nhiều lần can thiệp
vào chính trƣờng Venezuela với mục đích nhằm lật đổ ông Chavez.
1.2.3.2 Với Nga và khu vực Trung Á
Nga chiếm khoảng 5% trữ lƣợng dầu của thế giới. Về sản xuất cũng nhƣ
xuất khẩu dầu thì Nga đều nằm trong nhóm 3 nƣớc dẫn đầu thế giới. Mặc dù
trong quá khứ Nga và Mỹ từng có những giai đoạn đối đầu căng thẳng, cả hai
bên đều thấy rằng cần phải hợp tác chặt chẽ hơn nữa trong vấn đề năng lƣợng.
Mỹ thì rất cần đến nguồn tài nguyên dầu mỏ và khí đốt phong phú của Nga,
còn Nga cần tập trung phát triển kinh tế mà sự trợ giúp từ phía Mỹ là vô cùng
hữu ích cho quá trình đó. Bộ trƣởng năng lƣợng Mỹ, Spencer Abraham đã
khẳng định trong phiên Điều trần trƣớc Uỷ ban đối ngoại Thƣợng viện:
“Chúng ta đang phát triển mạnh quan hệ song phƣơng với Nga, là nƣớc sản
xuất và xuất khẩu dầu mỏ lớn trên thế giới. Tổng thống Bush và Putin đã ký tuyên bố chung đƣa ra những sáng kiến năng lƣợng mang tính chiến lƣợc”9.
Đỉnh cao của mối quan hệ song phƣơng Nga – Mỹ liên quan đến dầu mỏ
là Hội nghị thƣợng đỉnh năng lƣợng Nga – Mỹ ở thành phố Texas năm 2002
với nội dung chủ yếu là về việc đƣa Nga từng bƣớc trở thành một nhà cung
cấp dầu chiến lƣợc chính cho Mỹ. Trong hội nghị này, có 3 dự án lớn đƣợc
đƣa ra trong đó dự án đầu tiên và cũng mang tính khả thi nhất là vận chuyển
dầu từ vùng Murmask, một thành phố cảng của Nga nằm ở vùng cực Bắc
bằng những tàu chở dầu cực lớn thẳng đến nƣớc Mỹ với kì vọng dự án có thể cung cấp cho nƣớc Mỹ 1triệu thùng/ngày10.
Khu vực Trung Á là nơi có trữ lƣợng dầu mỏ lớn, ƣớc tính khoảng 200 tỉ
thùng và cũng là nơi cung cấp lƣợng dầu đáng kể cho Mỹ. Để củng cố sự hiện 8 Nguyễn Minh Mẫn (2011), Sđd, tr.54 9 Biên bản phiên Điều trần trƣớng Uỷ ban đối ngoại Thƣợng viện Mỹ, Oil Diplomacy: The Facts and Myths Behind Foreign Oil Dependency, tại địa chỉ http://commdocs.house.gov/committees/intlrel/hfa80291.000/hfa80291_0.htm - 0 truy cập ngày 14/11/2015 10 Rice University, US - Russia Commercial Energy Summit, James A. Baker Institute for public policy, tại địa chỉ http://bakerinstitute.org/media/files/Research/5df1ecd6/study_21.pdf truy cập ngày 11/10/2015
15
diện của mình Mỹ đã viện trợ quân sự 4,4 tỉ đô la cho quốc gia giàu dầu mỏ
Azerbaizan. Mỹ đã có nhiều hoạt động quân sự ở khu vực nhạy cảm này cũng
là để đảm bảo cho lợi ích của Mỹ trong đó có các đƣờng ống dẫn dầu. Năm
2001 tổng thống Bush hoan nghênh Nga và Kazakhstan cùng các công ty dầu
mỏ của Mỹ là Exxon mobil, Chevron Tẽaco thành lập Caspian Pipeline
Consortium (CPS). Mỹ đã xây dựng đƣờng ống dẫn dầu vƣợt hồ Baikan nhằm
tạo thêm đƣờng cung cấp dầu xuất khẩu ở vùng Caspie với sự tham gia của
các công ty dầu của Mỹ. Mỹ đã đầu tƣ khoảng 3,5 tỉ đô vào ngành dầu mỏ tại
Trung Á, trở thành nhà đầu tƣ lớn nhất trong khu vực và giành đƣợc thế mạnh
về quyền khai thác ở khu vực Caspi.
1.2.3.3 Với khu vực châu Phi
Châu Phi dần trở thành 1 đối tác quan trọng của Mỹ trong vấn đề dầu mỏ
và là điểm đến hợp lý của chính sách ngoại giao dầu mỏ của chính quyền Mỹ
trong tƣơng lai. Châu Phi chiếm khoảng 16% tổng lƣợng dầu nhập khẩu của Mỹ. Dự kiến năm 2016, tỷ lệ này sẽ tăng lên 25-35%11.
Mỹ ngày càng tăng cƣờng quan hệ kinh tế, hợp tác an ninh và quan tâm
nhiều hơn đến tình hình an ninh, tự do chính trị và nhân quyền tại đây. Trong
cuộc tìm kiếm nguồn dầu Châu Phi, cuộc cạnh tranh sẽ trở nên khốc liệt khi
việc tăng cƣờng sự hiện diện của Mỹ chạm phải chiến lƣợc Châu Phi của
Trung Quốc cũng đang đƣợc triển khai mạnh mẽ trong mấy năm gần đây. Các
Tổng thống Mỹ nhƣ B. Clinton hay G.W. Bush đều có chuyến công du chính
thức tới châu Phi với mục đích không đơn thuần chỉ là vấn đề nhân đạo, dân
chủ và đói nghèo mà còn là vấn đề thị trƣờng, nguyên liệu hiếm và dầu mỏ.
Thậm chí, dầu mỏ còn là vấn đề quan trọng hơn.
Mỹ đã dùng diễn đàn hợp tác kinh tế và thƣơng mại Mỹ – Phi làm
phƣơng tiện đề tăng cƣờng gắn kết song phƣơng, đa phƣơng, thúc đẩy môi 11 Ngô Chí Nguyện và Nguyễn Tú Hoa (2007), “Cuộc cạnh tranh dầu mỏ giữa Trung Quốc với các cƣờng quốc hiện nay và tác động của nó đến quan hệ quốc tế”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á số 07 năm 2007.
16
trƣờng thuận lợi hơn cho thƣơng mại, đầu tƣ, hoạt động dầu khí của Mỹ.
Tháng 6/2002 bộ Năng lƣợng Mỹ đã đƣa ra kiến nghịthảo luận về vấn đề
khuyến khích đầu tƣ của khu vực tƣ nhân vào lĩnh vực năng lƣợng tại Hội
nghị bộ trƣởng năng lƣợng Mỹ - Phi lần 3 ở Casablanca. Cơ quan phát triển
năng lƣợng Mỹ đã hỗ trợ về mặt công nghệ cho công nghiệp khai thác dầu mỏ
tại Tây Phi, đầu tƣ vào các dự án đƣờng ống liên quan đến các công ty dầu
của Mỹ nhằm biến châu Phi thành một nguồn cung dầu mới cho nƣớc Mỹ.
Ngoài ra, nhằm tăng cƣờng ảnh hƣởng tại châu Phi, Mỹ đang cung cấp vũ khí
và phát triển các chƣơng trình huấn luyện quân sự cho các nƣớc châu Phi. Mỹ
cũng căng cƣờng sự hiện diện quân sự bằng việc giành quyền lập căn cứ và
tiếp cận các sân bay tại Dibuti, Uganda, Mali, Senegan và Gabong, cùng với
các cơ sở cảng biển tại Marốc và Tuynidi. Mỹ đang mở rộng các hoạt động tình báo bí mật khắp châu Phi dƣới chiêu bài chống khủng bố12.
1.2.3.4 Với khu vực Ch u - Thái B nh Dư ng
Theo Lầu Năm Góc, Châu Á - Thái Bình Dƣơng là khu vực có đến 8
trong số 10 cảng container nhộn nhịp nhất thế giới. Trong đó, riêng khu vực
Biển Đông là nơi qua lại của 30% lƣợng hàng hóa di chuyển trên biển toàn
cầu. Ƣớc chừng 2/3 lƣợng dầu mỏ vận chuyển đƣờng biển toàn cầu đi qua Ấn
Độ Dƣơng vào Thái Bình Dƣơng qua eo biển Malacca. Chỉ riêng năm 2014,
mỗi ngày có trung bình 15 triệu thùng dầu đi qua Malacca. Washington có lợi
ích to lớn tại vùng biển này, bởi hằng năm số lƣợng hàng hóa vận chuyển cho
Mỹ di chuyển qua Biển Đông có giá trị lên đến 1.200 tỉ USD. Không chỉ là
tuyến hàng hải quan trọng, Biển Đông còn đƣợc đánh giá cao về trữ lƣợng hải
sản lẫn dầu mỏ và khí đốt. Cụ thể, một báo cáo của LHQ chỉ ra vùng biển này
chiếm đến 10% lƣợng hải sản đƣợc đánh bắt trên cả thế giới. Cơ quan thông
12 Chris Mansur, The Secret War Between China and the US for Africa's Oil Riches, tại địa chỉ http://oilprice.com/Geopolitics/Africa/The-Secret-War-Between-China-and-the-US-for-Africas-Oil- Riches.html truy cập ngày 5/9/2015
17
tin năng lƣợng của Mỹ ƣớc tính trữ lƣợng dầu mỏ trên Biển Đông lên đến 11
tỉ thùng và có khoảng 3 tỉ m3 khí đốt. Với tầm quan trọng nhƣ vậy, Châu Á-
Thái Bình Dƣơng là một trong những khu vực nóng hàng đầu trong việc triển
khai chính sách ngoại giao dầu mỏ của Mỹ.
Tuy nhiên, Mỹ bắt gặp phải không ít thách thức khó khăn khi thực
thi chính sách ngoại giao dầu mỏ của mình tại đây. Trong đó, vấn đề tranh
chấp chủ quyền tại biển Hoa Đông và Biển Đông bị cho là ảnh hƣởng mạnh
mẽ đến các sự ổn định trong khu vực và ảnh hƣởng trực tiếp đến việc hoạch
định chính sách dầu mỏ của Mỹ tại đây. Là một bên tranh chấp, Trung Quốc
liên tục có nhiều hành động gây lo ngại, đe dọa nhằm vào các bên liên quan.
Một loạt hành vi của Bắc Kinh nhƣ : tăng cƣờng hoạt động quân sự, quấy phá
và gây rối ở Biển Đông nhƣ tập trận, triển khai giàn khoan di động Haiyang
Shiyou-981 ở vùng biển Việt Nam; thiết lập Vùng nhận diện phòng không
trên biển Hoa Đông trong thời gian vừa qua đã phần nào cho thầy tham vọng
của Trung Quốc trong việc muốn gia tăng ảnh hƣởng của mình trong toàn khu
vực ... Khu vực Ấn Độ Dƣơng, vốn nối tiếp với Thái Bình Dƣơng, cũng ẩn
chứa nhiều nguy cơ căng thẳng.
Để đảm bảo đƣợc lợi ích về dầu mỏ, về tầm ảnh hƣởng của Mỹ tại khu
vực này, chính quyền Mỹ đã tăng cƣờng sức mạnh quân sự, hiện đại hóa các
lực lƣợng quân đội, các căn cứ quân sự nhằm khống chế, kiểm soát toàn bộ
khu vực, ngăn chặn không để các nƣớc thách thức đến vai trò lãnh đạo của
Mỹ. Mỹ tiếp tục đẩy mạnh hỗ trợ các đồng minh cũng nhƣ tăng cƣờng quan
hệ hợp tác với nhiều đối tác trong khu vực. Một mặt Mỹ tăng cƣờng hợp tác
để giữ vững kênh đối thoại nhằm giải quyết các bất đồng đối với Trung Quốc.
Mặt khác vẫn nhấn mạnh sự quan ngại đối với nhiều hoạt động của Bắc Kinh,
hợp tác cùng ASEAN để hình thành các đƣờng dây nóng kịp thời ứng phó các
căng thẳng xảy ra bất ngờ. . Tất cả những nỗ lực này nhằm đảm bảo một mục
18
tiêu quan trọng nhất của Mỹ tại khu vực này đó là đảm bảo an ninh hàng hải
cho các tuyến vận chuyển dầu và nguồn dầu mỏ có thể khai thai đƣợc ở đây.
1.2.3.5 Với hu vực Trung Đông
Khu vực Trung Đông nằm ở gần trung tâm Đông bán cầu, là “cửa ô” ngã
ba của ba châu lục với những eo biển quan trọng, nơi có những tuyến đƣờng
vận chuyển dầu trọng yếu. Trung Đông còn đƣợc mệnh danh là "kho báu dầu
mỏ của thế giới", nơi đây chiếm tới gần 70% trữ lƣợng dầu mỏ đã đƣợc thăm
dò của thế giới, 65% lƣợng tiêu thụ dầu mỏ trên thế giới. Tỉ trọng dầu Trung Đông trong tổng lƣợng dầu nhập khẩu của Mỹ là 22%13. Do tầm quan trọng
chiến lƣợc đặc biệt nhƣ vậy, nên các nhà cầm quyền Mỹ rất quan tâm đến khu
vực này trong chiến lƣợc ngoại giao dầu mỏ của mình.
Các liên doanh đầu tiên của Mỹ đƣợc đánh dấu bởi các công trình khai thác dầu khí của Standard Oil ở California vào năm 1933, tại Arab Saudi14.
Năm 1943, Tổng thống Mỹ Franklin D.Roosevelt đã lập tức đích thân đi gặp
vua Abdul Aziz Ibn Saud của Arab Saudi để bàn về chủ đề dầu mỏ. Tháng
4/1943, Bộ Ngoại giao Mỹ đã công bố Chiến lƣợc quốc tế về dầu mỏ với 3 trụ
cột chính là quân sự, ngoại giao và kinh tế trong đó xác lậi các quyền hạn của
Tổng thống trong củng cố quan hệ với Arab Saudi, cƣờng quốc dầu mỏ tại
Trung Đông.
Ngày 23/1/1980, sau khi Liên Xô đƣa quân vào thực hiện nghĩa vụ quốc
tế ở Afghanistan, Tổng thống Mỹ Jimmy Carter đã đƣa ra chiến lƣợc mới về
dầu mỏ của Mỹ, trong đó xác định rõ việc bảo vệ nguồn dầu mỏ từ vùng Vịnh
là quyền lợi sống còn của nƣớc Mỹ, và thành lập lực lƣợng phản ứng nhanh
đa mục tiêu (Rapid Deployment Joint Force) chuyên tác chiến ở vùng Vịnh.
Đến năm 1983, Tổng thống Ronald Reagan đổi tên lực lƣợng này thành Bộ
13 Stephen Stec and Besnik Baraj (2007), Energy and Environmental Challenges to Security, NATO Science for Peace and Security Series C: Environmental Security, Springer, p.198 14 Michael Klare (2004), Sđd, p.30-31.
19
Chỉ huy trung tâm (Central Command, hàm ý đây là trung tâm giữa châu Âu
và châu Á).
Hiện nay, Mỹ vẫn xác định Trung Đông là trung tâm của chính sách
ngoại giao dầu mỏ của mình. Trong bản báo cáo chính sách năng lƣợng quốc
gia “Năng lƣợng đáng tin cậy, giá cả phải chăng, và thân thiện với môi trƣờng
cho tƣơng lai của nƣớc Mỹ” do nhóm Phát triển chính sách năng lƣợng quốc
gia Mỹ đƣa ra năm 2001, khu vực Trung Đông đƣợc xác định là “trọng tâm hàng đầu của chính sách năng lƣợng quốc tế của Mỹ”15 với 2 đối tác quan
trọng nhất là Arab Saudi và Iraq. Chính sách ngoại giao dầu mỏ của Mỹ với
Iraq là một phần quan trọng của chính sách ngoại giao dầu mỏ của Mỹ tại
Trung Đông cũng nhƣ trên toàn cầu. Chính sách này sẽ đƣợc đi sâu vào phân
tích trong chƣơng II.
Tiểu kết
Dầu mỏ ngay từ những ngày đầu đƣợc phát hiện đã đóng vai trò rất quan
trọng về cả kinh tế, an ninh lẫn chính trị với hầu hết các quốc gia trên thế giới.
Đặc biệt, nhu cầu về dầu mỏ ngày càng tăng lên không ngừng mà nguồn cung
thì có hạn và đang dần đi xuống do sự cạn kiệt nguồn dầu mỏ. Chính vì các
vai trò này mà an ninh dầu mỏ luôn đƣợc các quốc gia đặc biệt chú trọng với
nhiều biện pháp đa dạng. Trong đó, biện pháp đƣợc sử dụng nhiểu nhất và
cũng mang lại hiệu quả lớn nhất là chính sách ngoại giao dầu mỏ. Mỹ cũng
không phải là trƣờng hợp ngoại lệ. Bị tác động bởi yếu tố nguồn cung hạn chế
và nguồn cầu ngày càng gia tăng ở cả trong và ngoài nƣớc, sự bất ổn về an
15 National Energy Policy Development Group (2001), National energy policy: Reliable, Affordable, and Environmentally Sound Energy for America’s Future, U.S Government Printing Office, Washington D.C.
ninh của nguồn cung dầu mỏ và đặc biệt là sự xung đột về quan niệm của các
20
chủ thể trong mối quan hệ cung – cầu dầu mỏ, Mỹ đã đƣa ra chính sách ngoại
giao dầu mỏ với các đặc điểm chính là một mặt Mỹ thúc đẩy nhập khẩu dầu
mỏ từ các nguồn cung bên ngoài và đặc biệt quan tâm đến việc tiến hành
chiến lƣợc kiểm soát đối với khu vực có trữ lƣợng dầu mỏ lớn nhất là khu vực
Trung Đông (trong đó có Iraq). Mỗi đời Tổng thống Mỹ có một quan niệm
riêng về chính sách ngoại giao dầu mỏ này tuy nhiên đều có điểm chung là
các công cụ quân sự, kinh tế và ngoại giao đƣợc Mỹ phối hợp nhuần nhuyễn
để có thể đạt đƣợc mục đích là dùng dầu mỏ làm con bài mặc cả các quốc gia
khác thông qua việc kiểm soát nguồn cung và giá dầu. Chính sách này đƣợc
thực thi tƣơng ứng với những điều kiện cụ thể của từng khu vực khác nhau
trên thế giới. Thậm chí, Mỹ còn sử dụng cả các công cụ quân sự để tiến hành
lật đổ, gây ra chiến tranh nếu cần thiết để thực hiện chính sách ngoại giao dầu
mỏ này. Trong chƣơng sau, chúng ta sẽ đi sâu vào nghiên cứu chính sách
ngoại giao dầu mỏ Mỹ tại Iraq vốn là một phần của chính sách ngoại giao dầu
mỏ của Mỹ ở nƣớc ngoài với những đặc điểm chung và riêng nổi bật đáng để
nghiên cứu.
21
CHƢƠNG II NỘI DUNG CHÍNH SÁCH NGOẠI GIAO DẦU MỎ
CỦA MỸ VỚI IRAQ
2.1. Cơ sở hình thành chính sách ầu mỏ củ Mỹ đố vớ
Iraq
2.1.1. Lợi ích của Mỹ tại Iraq
2.1.1.1 Lợi ích về nguồn cung dầu mỏ
Iraq là nƣớc có trữ lƣợng dầu đứng thứ 2 thế giới với 155 tỉ thùng. Iraq
là quốc gia xuất khẩu dầu mỏ lớn thứ ba trên thế giới và thứ hai trong Tổ chức các nƣớc Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC)16. Đặc biệt, dầu mỏ tại Iraq phần lớn
vẫn chƣa đƣợc thăm dò hoặc đang đƣợc khai thác dƣới mức tiềm năng nên
tiềm năng khai thác của nguồn dầu mỏ tại đây vẫn còn rất lớn. Bộ Năng lƣợng
Mỹ ƣớc tính rằng Iraq còn 220 tỉ thùng trong trữ lƣợng chƣa đƣợc khai thác, tƣơng đƣơng với lƣợng dầu nhập khẩu Mỹ trong 98 năm17.
Nhu cầu dầu mỏ của Mỹ nhƣ ở trình bày ở phần trƣớc là rất lớn và ngày
càng gia tăng theo thời gian. Do đó, lợi ích về an ninh dầu mỏ lâu dài cho Mỹ
sẽ đƣợc duy trì nếu kiểm soát đƣợc nguồn dầu của Iraq. Báo cáo của nhóm
chính sách phát triển năng lƣợng quốc gia đƣa ra năm 2001 với tiêu đề:
“Năng lƣợng đáng tin cậy, giá cả phải chăng, và thân thiện với môi trƣờng
cho tƣơng lai của nƣớc Mỹ” nhấn mạnh rằng Mỹ tiêu thụ “hơn 25% lƣợng
dầu đƣợc sản xuất trên toàn thế giới, hơn một nửa trong số đó phải nhập
khẩu” và Iraq và khu vực Trung Đông trong tƣơng lai sẽ cung cấp từ 54% đến
67% lƣợng dầu cho thế giới nên cũng sẽ là trọng tâm của chính sách đa dạng hoá nguồn cung của Mỹ18.
16 International Energy Agency, Iraq Energy Outlook: World Energy Outlook Special Report, tại địa chỉ http://www.worldenergyoutlook.org/media/weowebsite/2012/iraqenergyoutlook/Fullreport.pdf, truy cập ngày 1/10/2015 17 Nayna J Jhaveri (2004), “Petroimperialism: US Oil Interests and the Iraq War”, Antipode Volume 36, Issue 1 January 2004, p. 2–11 18 Irene Gendzier , “Oil, Iraq and US foreign policy in the Middle East”, Situation Analysis, Issue 2 Spring 2003, p. 18-28, March 2003
22
Lợi ích về nguồn cung dầu mỏ của Iraq không chỉ dừng lại ở việc đảm
bảo nguồn cung cho riêng Mỹ mà còn là việc Mỹ kiểm soát nguồn cung của
các quốc gia khác. Theo báo cáo “Chính sách năng lƣợng chiến lƣợc: thách
thức trong thế kỉ 21” do Đơn vị tác chiến đặc biệt độc lập giữa Viện nghiên
cứu chính sách thuộc Đại học Rice và Hội đồng quan hệ đối ngoại cùng biên
soạn thì “Iraq vẫn có tác động gây mất ổn định cho dòng chảy của dầu mỏ từ
Trung Đông sang các thị trƣờng quốc tế. Saddam Hussein cũng đã chứng
minh sự sẵn sàng đe dọa sử dụng vũ lực và sử dụng chƣơng trình xuất khẩu dầu mỏ của mình để thao túng thị trƣờng dầu mỏ thế giới”19. Với tiềm năng
dầu mỏ của Iraq cùng với sự cạn kiệt trong tƣơng lai gần của nguồn nhiên liệu
này, việc Mỹ kiểm soát các giếng dầu ở Iraq sẽ khiến các quốc gia khác phải
thông qua Mỹ để kí kết hợp đồng dầu mỏ với Iraq. Con bài chính trị dầu mỏ
sẽ giúp Mỹ đạt đƣợc nhiều lợi ích lớn.
Ngoài ra, lợi ích kinh tế liên quan đến khai thác dầu mỏ tại Iraq gắn liền
với quyền lợi của các các tập đoàn dầu khí của Mỹ vốn dĩ có tác động lớn đến
chính sách đối ngoại của quốc gia này. Từ sau chiến tranh Lạnh, các công ty
của Mỹ nắm giữ quyền lực lớn hơn các công ty từ các nƣớc khác tại Iraq nói
riêng và cả khu vực Trung Đông nói chung. Tuy nhiên, bƣớc vào thế kỉ 21 thì
các hợp đồng khai thác dầu mỏ của Pháp, Nga và Trung Quốc tại Iraq lại đe
dọa sẽ phá vỡ sự thống trị của Mỹ ở đó. Việc các tập đoàn dầu khí của Mỹ
đánh mất quyền tiếp cận các giếng dầu tại Iraq có thể dẫn đến những tổn thất
lớn cho nền kinh tế Mỹ, đặc biệt là trong các cuộc khủng hoảng kinh tế toàn
cầu nhƣ khủng hoảng dầu mỏ Trung Đông 1973 – 1975, biến động thị trƣờng
dầu mỏ năm 1979- 1980, cơn sốt giá xăng dầu năm 1990, khủng hoảng kinh
tế thế giới 2008… Do đó, Mỹ cần thực hiện chính sách ngoại giao dầu mỏ để
19 Report of an Independent Task Force Cosponsored by the James A. Baker III Institute for Public Policy of Rice University and the Council on Foreign Relations, Strategic Energy Policy Challenges for the 21st Century, Council on Foreign Relations Press
23
đẩy mạnh lợi ích của các tập đoàn dầu khí này tại Iraq.
2.1.1.2 Lợi ích về an ninh
Để đảm bảo an ninh năng lƣợng, Mỹ luôn muốn đảm bảo an ninh cho
Iraq nói riêng và khu vực Trung Đông nói chung để đảm bảo nguồn cung cấp
dầu mỏ ổn định và lâu dài cho mình. Những bất ổn về an ninh của Iraq đến từ
cả bên trong lẫn bên ngoài khi nội bộ quốc gia này thƣờng xuyên xảy ra xung
đột, tranh giành quyền lực còn quan hệ giữa Iraq với các nƣớc láng giềng
cũng rất căng thẳng với nhiều cuộc xung đột. Chính sách chống khủng bố của
Mỹ có những tác động rất lớn ở khía cạnh an ninh trong chính sách ngoại giao
dầu mỏ của Mỹ. Lợi ích về an ninh của Iraq càng đƣợc chú trọng trong thời
điểm hiện nay, khi các lực lƣợng khủng bố luôn xem các giếng dầu là đại diện
cho lợi ích của Mỹ tại khu vực này và thƣờng xuyên dùng các giếng dầu làm
mục tiêu tấn công. Nhà nƣớc Hồi giáo IS là ví dụ tiêu biểu cho nhận định này.
Ngoài ra, chính sách ngoại giao dầu mỏ của Mỹ còn gắn chặt với an ninh
tiền tệ. Năm 1972, chính phủ Mỹ và chính phủ Arab Saudi ký một thỏa thuận
theo đó Mỹ cung cấp viện trợ kỹ thuật và quân sự cho Arab Saudi để đổi lấy
việc nƣớc này chỉ chấp nhận đồng đôla Mỹ làm đồng tiền trong mua bán dầu
mỏ. Từ đó hình thành thông lệ quốc tế là việc mua bán dầu mỏ hầu hết đƣợc
tiến hành bằng đôla Mỹ. Điều này khiến Mỹ vừa có thể tăng giá trị của đồng
đôla đồng thời có thể tự mình in thêm đôla để mua dầu mỏ để kiểm soát giá
dầu. Ngoài ra, các nƣớc xuất khẩu dầu mỏ có xu hƣớng sử dụng các khoản
tiền thu đƣợc từ dầu mỏ đầu tƣ vào Mỹ và làm lãi suất ở Mỹ hạ xuống. Có thể
nói chính đôla đầu mỏ là thứ đảm bảo cho nƣớc Mỹ một lợi thế thƣơng mại to lớn và giúp Mỹ vƣơn lên làm nền kinh tế thống trị thế giới20. Ông Lindsey
Williams, cựu bộ trƣởng quản lý các công ty dầu mỏ toàn cầu đã nói “Kể từ
khi dầu thô trở thành động lực đằng sau toàn bộ nền kinh tế của chúng ta 20 Geoffrey Heard, Not Oil, But Dollars vs. Euros, Global Policy Forum, bản online tại địa chỉ https://www.globalpolicy.org/component/content/article/173/30447.html truy cập ngày 1/10/2015
24
(Mỹ), tất cả mọi thứ trong cuộc sống của chúng ta xoay quanh dầu thô… chƣa
bao giờ dầu thô đƣợc mua, bán, giao dịch mà lại không bằng đồng đôla Mỹ ở bất kỳ nƣớc nào trên thế giới”21. Tuy nhiên, tháng 11 năm 2000, Iraq tuyên bố
chỉ chấp nhận đồng euro trong khi thực hiện chƣơng trình đổi dầu lấy lƣơng thực của Liên Hiệp Quốc thay vì đồng đôla nhƣ trƣớc kia22. Một vài quốc gia
vùng Vịnh cũng theo chân Iraq cũng bắt đầu chấp nhận việc dùng đồng Euro
trong việc mua bán dầu mỏ. Việc Iraq sử dụng đồng Euro hay bất kì đơn vị
tiền tệ nào khác để mua bán dầu đe dọa trực tiếp quyền lực tài chính của Mỹ
trên thị trƣờng dầu mỏ thế giới đồng thời làm lung lay sự thống nhất của đồng
đôla trong vai trò đồng tiền dự trữ trên thế giới.
2.1.1.3 Lợi ích địa chiến lược
Lợi ích về ảnh hƣởng từ dầu mỏ của Mỹ tại Iraq không chỉ gói gọn tại
khu vực Trung Đông mà còn là trên phạm vi toàn cầu. Iraq có vị trí địa chính
trị trung tâm tại Trung Đông nên cũng có vai trò quan trọng trong việc đảm
bảo ảnh hƣởng của Mỹ với khu vực Trung Đông. Từ sau khi ảnh hƣởng của
Anh tại đây suy yếu từ những năm 1930, Mỹ nhảy vào khu vực Trung Đông
và nhanh chóng đảm nhận vai trò lãnh đạo tại Trung Đông với đồng minh
thận cận là Iran. Tuy nhiên, vào năm 1979, với sự thành công của các mạng
Hồi giáo Iran thì Mỹ đá đánh mất đồng minh Trung Đông này và buộc phải
quay sang xem Iraq là đồng minh hàng đầu mới. Từ đó đến nay, Iran, quốc
gia đại diện cho ngƣời Hồi giáo dòng Shi‟ite, luôn là quốc gia đối đầu với
Mỹ. Hơn thế nữa, Iran còn tỏ ra là một nƣớc rất tích cực trong việc theo đuổi
vũ khí hạt nhân và có thể thổi bùng lên cuộc chiến tranh hạt nhân hoặc ít nhất
21 Ken Schortgen Jr, Dollar no longer primary oil currency as China begins to sell oil using Yuan, bản online tại địa chỉ http://www.examiner.com/article/dollar-no-longer-primary-oil-currency-as-china-begins-to-sell- oil-using-yuan truy cập ngày 1/10/2015 22 Charles Recknagel , Iraq: Baghdad Moves to Euro, Radio Free Europe bản online tại địa chỉ http://www.rferl.org/nca/features/2000/11/01112000160846.asp truy cập ngày 1/10/2015
25
cũng là một cuộc chạy đua vũ khí hạt nhân trong khu vực23. Một khi Iran mở
rộng ảnh hƣởng của mình thành quốc gia dẫn đầu cả khu vực Trung Đông thì
Mỹ có thể đánh mất quyền tiếp cận với nguồn dầu mỏ tại đây. Iraq dƣới thời
Saddam Hussein là thế lực cân bằng trọng yếu với Iran trong khu vực. Do đó,
Mỹ đã từng có lợi ích rất lớn trong việc duy trì một chính quyền Iraq có ảnh
hƣởng lớn tại Trung Đông để có thể làm đối trọng với Iran trong khu vực. Đó
là một trong những lí do tại sao Mỹ không tấn công lật đổ ngay Tổng thống
Saddam Hussein sau khi giải phóng Kuwait năm 1991.
Không chỉ giúp đảm bảo ảnh hƣởng của Mỹ tại Trung Đông, Iraq còn là
nơi Mỹ xây dựng và bảo vệ lợi ích của mình trên toàn cầu. Do nhu cầu dầu
mỏ ngày một tăng, một khi Mỹ kiểm soát đƣợc các khu vực dầu mỏ lớn nhất
thế giới, trƣớc hết là Iraq, thì tất cả các nƣớc đồng minh của Mỹ sẽ phải tiếp
tục ủng hộ vị thế bá chủ chính trị - quân sự của Mỹ trên thế giới.
2.1.2. Chính quyền Iraq và quan hệ với Mỹ
Chính quyền Iraq và quan hệ của nó với Mỹ là một nhân tố quan trọng
ảnh hƣởng đến chính sách ngoại giao dầu mỏ của Mỹ tại đây. Năm 1920, Iraq
trở thành một quốc gia thuộc Liên đoàn các quốc gia ủy trị dƣới quyền kiểm
soát của Anh với tên gọi “Quốc gia Iraq”. Chính phủ Baghdad ủng hộ mạnh
mẽ của các cƣờng quốc phƣơng Tây trong đó có Mỹ. Năm 1951, Iraq bắt đầu tiếp cận viện trợ kinh tế và quân sự của Mỹ24.
Năm 1958, tại Iraq diễn ra một cuộc đảo chính xóa bỏ nền quân chủ thân
Anh, chuyển sang chế độ cộng hoà. Một thời gian ngắn sau khi thành lập nền
23 Lý Quang Diệu (2013), Middle East: A Spring without a Summer, trong cuốn L.K. Yew, One Man’s View of the World, pp. 238- 257 Straits Times Press, Singapore
24 Peter Hahn, A Century of U.S. Relations with Iraq, Origins, http://origins.osu.edu/article/century-us- relations-iraq truy cập ngày 11/11/2015
cộng hòa, mối quan hệ giữa Iraq và Mỹ trở nên căng thẳng. Lãnh đạo Iraq lo
26
lắng về việc Mỹ đã can dự vào các vấn đề nội bộ của mình, đặc biệt là vấn đề
ngƣời Kurk ở phía Bắc Iraq. Quan hệ ngoại giao cuối cùng bị cắt đứt vào năm
1967 với sự bùng nổ của cuộc chiến tranh Ả Rập - Israel, trong đó Washington ủng hộ Jerusalem25. Baghdad củng cố chính sách chống Mỹ và
phƣơng Tây của mình bằng cách ký một hiệp ƣớc hữu nghị với Liên Xô vào
năm 1972, thời điểm cuộc Chiến tranh Lạnh đang diễn ra gay gắt nhất. Chính
quyền Iraq duy trì mối quan hệ gần gũi với Liên Xô cho đến hết chiến tranh Lạnh26.
Cuộc nổi dậy của Ayatollah Khomeini tại Iran vào năm 1979 thay đổi
bức tranh chính trị trong khu vực vùng Vịnh và thay đổi cả mối quan hệ giữa Mỹ và Iraq27. Đột nhiên Iraq đƣợc nhìn nhận nhƣ bức tƣờng thành chống lại
Iran từ sau cách mạng. Sự thù địch ngày càng tăng giữa Washington và
Tehran dẫn đến sự xích lại gần nhau giữa Washington và Baghdad. Lúc này,
Tổng thống Saddam Hussein chính thức lên nắm quyền ở Iraq và định vị Iraq
nhƣ một bức tƣờng thành quan trọng chống lại trào lƣu Hồi giáo chính thống
ở Iran vốn có ý định xuất khẩu lý tƣởng cách mạng của mình ra toàn khu vực.
Khi cuộc chiến tranh Iran – Iraq nổ ra và kéo dài suốt 8 năm (1980-1988),
chính phủ Iraq đã tích cực xây dựng một mối quan hệ tốt đẹp với Mỹ. Quan
hệ ngoại giao giữa Washington và Baghdad cũng đƣợc tái thiết lập. Trong và
sau cuộc chiến, chính phủ Iraq tiếp tục đƣợc ủng hộ rộng rãi từ cộng đồng
quốc tế gồm Mỹ và các nƣớc châu Âu, Liên Xô và Trung Quốc.
Sau chiến tranh Iran – Iraq, chế độ Saddam Hussein nổi lên với một
tham vọng lãnh đạo thế giới Ả Rập. Cuộc chiến khiến cho Iraq sở hữu sức
mạnh quân sự lớn nhất trong vùng Vịnh nhƣng đi kèm theo nó là những
25 Gawdat Bahgat (2003), American Oil Diplomacy in the Persian Gulf and the Caspian Sea, University Press of Florida, Florida 26 Gary M. Boutz and Kenneth H. Williams (2015), U.S. Relations with Iraq: From the Mandate to Operation Iraqi Freedom, Engaging the World, Washington, D.C 27 Gawdat Bahgat (2003), Sđd
27
khoản nợ lớn đồng thời ngƣời Kurd ở vùng núi phía bắc và ngƣời Hồi giáo
theo phái Shi‟ite ở miền nam Iraq đồng loạt nổi dậy đòi ly khai. Mối quan hệ
giữa Mỹ và Iraq cũng không còn tốt đẹp khi Mỹ liên tục lên án Iraq đàn áp
ngƣời Kurd.Tháng 8/1990, Iraq buộc tội Kuwait xâm phạm biên giới Iraq để
chiếm lấy các nguồn tài nguyên dầu mỏ và quân đội Iraq tấn công Kuwait.
Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc và Liên đoàn Ả Rập ngay lập tức lên án vụ
xâm lƣợc của Iraq. Bốn ngày sau, Hội đồng Bảo an áp đặt một lệnh cấm vận
kinh tế bao trùm hầu nhƣ toàn bộ các hoạt động thƣơng mại của Iraq. Ngày
24/2/1991, Liên quân do Mỹ đứng đầu đã giải phóng đƣợc Kuwait. Tuy bị
xem là đã thất bại trong cuộc chiến vùng Vịnh, ông Saddam Hussein vẫn giữ
nguyên vai trò là ngƣời lãnh đạo tối cao của Iraq và duy trì thái độ đối đầu với Mỹ cho đến tận khi bị lật đổ trong cuộc chiến tranh Iraq 200328.
Sau cuộc chiến tranh Iraq 2003, Mỹ duy trì chính quyền quân sự của Mỹ
quản lý Iraq cho đến năm 2005 khi ngƣời đứng đầu chính phủ lâm thời cuối
cùng của Mỹ là ông John Negroponte rời khỏi Iraq. Liên minh của ngƣời
Shi‟ite đã giành chiến thắng trong cuộc bầu cử tại Iraq vào năm 2005. Chính
quyền Iraq vẫn phải dựa vào Mỹ để duy trì quyền lực của mình tại đây bao
gồm việc lính Mỹ đảm nhận duy trì an ninh và chính phủ Mỹ cung cấp các
gói viện trợ cho Iraq.
2.1.3 Chính sách của các quốc gia khác tại Iraq
Trong bối cảnh toàn cầu hoá, chính sách năng lƣợng của Mỹ sẽ đƣợc
hoạch định một phần dựa trên chính sách của các chủ thể lớn trên thị trƣờng
năng lƣợng quốc tế nhƣ các nƣớc châu Âu, Liên Xô, Trung Quốc, Nhật Bản...
Chính sách ngoại giao dầu mỏ của Mỹ cũng không phải là ngoại lệ khi nó bị
tác động bởi chính sách của Anh, Liên Xô (Nga sau này), Trung Quốc và một
số quốc gia Trung Đông khác.
28 Gawdat Bahgat (2003), Sđd
28
Trong giai đoạn đầu của thế kỉ 20, chính sách ngoại giao dầu mỏ của Mỹ
tại Iraq chủ yếu bị chi phối bời Anh. Sau khi những giếng dầu lớn đƣợc phát
hiện gần Kirkuk mang lại sự cải thiện kinh tế cho Iraq vào năm 1927, chính
quyền uỷ trị của Anh chủ trƣơng quản lý nghiêm ngặt công ty dầu mỏ Iraq.
Bên cạnh đó, Anh còn phối hợp cùng Mỹ trong việc đƣa ra những chính sách
tại Trung Đông, ví dụ nhƣ Anh và Mỹ cùng đóng vai trò chính trong việc lật
đổ Thủ tƣớng Mahammad Mossadeq của Iran khi ông có chủ trƣơng quốc hữu hoá công nghiệp dầu mỏ Iran29. Tuy nhiên, ảnh hƣởng của Anh tại Iraq
nói riêng và Trung Đông nói chung suy giảm dần dần theo thời gian từ khi
Iraq trở thành nhà nƣớc quân chủ vào năm 1932 cho đến khi nó chính thức trở
thành nƣớc cộng hoà vào năm 1958 nên ảnh hƣởng của chính sách của Anh
lên chính sách ngoại giao dầu mỏ của Mỹ cũng yếu dần đi.
Trong thời chiến tranh Lạnh, việc Liên Xô duy trì quan hệ mật thiết với
Iraq thông qua các khoản viện trợ kinh tế và quân sự đã có tác động không
nhỏ lên chính sách ngoại giao dầu mỏ của Mỹ. Sau khi chính thức hóa mối
quan hệ bằng việc ký kết một hiệp ƣớc hữu nghị năm 1972, Liên Xô là nguồn
cung cấp chính các loại vũ khí cho Iraq và các hợp đồng mua bán vũ khí này đƣợc trả chủ yếu bằng dầu mỏ30. Điều này khiến các Mỹ trở nên lo lắng rằng
Liên Xô đe doạ ảnh hƣởng của Mỹ tại Iraq nói riêng và Trung Đông nói
chung. Sau chiến tranh Lạnh, việc cạnh tranh ảnh hƣởng của Mỹ với Nga tại
khu vực Trung Đông tuy không còn căng thẳng nhƣ trƣớc nhƣng một vấn đề
khác nổi lên là Nga thắt chặt quan hệ kinh tế với Iraq thông qua việc tham gia
ngành công nghiệp khai thác dầu mỏ của Iraq. Bất chấp lệnh trừng phạt của
Liên Hợp Quốc hạn chế việc buôn bán dầu của Iraq, công ty năng lƣợng
Zarubezhneft của Nga thông báo rằng họ đã đƣợc khoan thử nghiệm các
29 Đỗ Trọng Quang, “Quan hệ Mỹ - Iran trong nửa thế kỉ”, Tạp chí Châu Mỹ ngày nay số 03/2007, tr. 23-32 30 Carol R. Saivetz (2000), “Caspian Geopolitics: The View from Moscow”, The Brown Journal of World Affairs, Volume VII, Issue 253, pp 53-57
29
giếng dầu ở Iraq tập trung ở vùngKirkuk ở miền bắc vào năm 1999. Đây là
lần khoan thử nghiệm đầu tiên của một công ty nƣớc ngoài kể từ khi lệnh trừng phạt đƣợc áp đặt lên Iraq sau chiến tranh vùng vịnh 199031. Ngoài ra,
vào tháng 9/2001, Iraq thông báo rằng Nga đã giành đƣợc các hợp đồng trị
giá 40 tỷ đôla Mỹ để phát triển các dự án khoan thử nghiệm và phát triển cơ sở hạ tầng khai thác dầu mỏ trong tƣơng lai32. Việc Nga can dự sâu vào các
dự án dầu mỏ của Iraq sẽ làm một cản trở lớn cho Mỹ khi quan hệ của Nga
với Iraq vốn lâu dài và ít mang tính đối đầu nhƣquan hệ Mỹ và Iraq.
Tham vọng của Trung Quốc gia tăng ảnh hƣởng tại Iraq để tranh thủ
nguồn lợi dầu mỏ tại đây cũng đặt ra hàng loạt thách thức cho Mỹ. Trung
Quốc cũng đang tích cực tìm kiếm khả năng hợp tác về thăm dò dầu mỏ và đầu tƣ vào các mỏ dầu ở Iraq33. Tháng 6/1997, Tập đoàn dầu khí quốc gia
Trung Quốc (CNPC) và tổ hợp công nghiệp vũ khí nhà nƣớc Northern
Industries Cooperation của Trung Quốc đã ký một bản ghi nhớ với mục tiêu
phát triển mỏ dầu al-Ahdab ở miền trung Iraq. Mỏ dầu này ƣớc tính chứa khoảng 360 triệu thùng dầu và cần một khoản đầu tƣ lên đến 1,3 tỷ đôla Mỹ34.
Tuy nhiên, do lệnh cấm vận của Liên Hiệp Quốc, hoạt động của các công ty
dầu mỏ Trung Quốc hầu nhƣ chỉ giới hạn trong việc thăm dò khu vực mỏ dầu
ở al- Ahdab chứ chƣa mở rộng. Bên cạnh việc các công ty của Trung Quốc
bắt đầu tìm kiếm cơ hội khai thác dầu mỏ ở Iraq, Trung Quốc còn gây khó
khăn cho Mỹ trong nhiều vấn đề khác nhƣ sự phản đối của Trung Quốc và
Nga đối với những lệnh cấm vận của Liên Hiệp Quốc, cũng nhƣ phản đối
in 1998,
tại địa chỉ
31 Oil and Gas Journal, U.S. Crude Reserves Plunged 7 Percent http://www.ogj.com/articles/print/volume-98/issue-1/in-this-issue/exploration/us-crude-reserves-plunged-7- in-1998.html truy cập ngày 1/10/2015
32 Middle East Monitor, “OPEC Ministers Approve Huge 1.7 Million B/D Production Cuts.” Vol 29, no. 3 (March 1999) p.22. 33 Xu (2000), „China and the Middle East: Cross Investment in the Energy Sector‟, Middle East Policy, vol. vii, no. 3, June 2000. 34 Jaffe, Amy Myers and Lewis, Steven W. (2002) “Beijing‟s oil diplomacy”, Survival, 441, pp. 115 – 134
30
những cuộc tấn công quân sự nhằm vào Iraq. Những động thái này đã cản trở
việc thực thi các chính sách ngoại giao dầu mỏ của Mỹ hiệu quả.
Các yếu tố bao gồm lợi ích quốc gia của Mỹ, thái độ của chính quyền
Iraq và chính sách của các quốc gia khác tại Iraq chính là nền tảng xây dựng
chính sách ngoại giao dầu mỏ của Mỹ tại Iraq với các mục tiêu và công cụ
thực hiện chính sách tƣơng ứng.
Mục t êu và côn cụ tr ển kh chính sách n o o năn lƣợn
củ Mỹ vớ Ir q
2.2.1 Mục tiêu chính sách
2.2.1.1 Mục tiêu về inh tế
Đầu tiên, Mỹ mong muốn thiết lập và mở rộng sự tham gia của mình vào
ngành công nghiệp dầu khí của Iraq. Từ lúc bắt đầu chen chân vào ngành dầu
khí Iraq vào thập kỉ 1920, mục tiêu của Mỹ luôn là gia tăng sự can dự vào
ngành công nghiệp dầu mỏ, tiến đến kiểm soát lâu dài ngành năng lƣợng
khổng lồ này của Iraq. Mỹ luôn thúc đẩy sự tham gia của các công ty của Mỹ
vào việc khai thác và xuất khẩu dầu khí của Iraq bằng nhiều cách khác nhau.
Thậm chí sau cuộc chiến năm 2003, Mỹ muốn khi một chế độ mới ở Iraq
đƣợc thiết lập thì các hợp đồng kinh tế đƣợc chính quyền Saddam ký trƣớc
đây với nhiều nƣớc sẽ không còn hiệu lực. Các mỏ dầu vốn đƣợc dành cho
các công ty của Pháp, Đức, Nga,.… nay có thể sẽ thuộc về Mỹ. Bằng cách
này từ chỗ không có phần ở Iraq, Mỹ sẽ gạt các nƣớc khác ra để áp đặt ảnh
hƣởng toàn diện và độc tôn ở nƣớc này. Ngoài ra, chắc chắn chính phủ Iraq
do Mỹ hậu thuẫn sẽ dành phần lớn công việc tái thiết Iraq không chỉ ở các
giếng dầu mà còn nhiều lĩnh vực khác nhƣ cơ sở hạ tầng, giáo dục… cho các
công ty của Mỹ và do vậy càng mang lại nhiều lợi ích kinh tế cho các công ty
của Mỹ tại Iraq.
Thứ hai, Mỹ muốn gắn kết chặt chẽ hơn về kinh tế với Iraq từ xuất phát
31
điểm là thƣơng mại dầu mỏ. Thông qua các hoạt động ngoại giao dầu mỏ, Mỹ
muốn hƣớng tới việc tăng cƣờng liên kết về thƣơng mại, đầu tƣ không chỉ
trong lĩnh vực năng lƣợng mà còn nhiều lĩnh vực khác của nền kinh tế quốc
dân, tạo thế phụ thuộc lẫn nhau và tạo cơ sở vững chắc cho việc thiết lập quan
hệ chiến lƣợc giữa Mỹ với Iraq phục vụ cho lợi ích của Mỹ tại đây. Ví dụ cụ
thề là các công ty của Mỹ có thể tham gia vào quá trình khai thác dầu mỏ tại
Iraq để tạo tiền đề cho việc hợp tác trong nhiều lĩnh vực khác ví dụ nhƣ hợp
tác xây dựng cơ sở hạ tầng cho Iraq trong giai đoạn tái thiết hậu cuộc chiến
2003.
Thứ ba, Mỹ hƣớng đến việc đảm bảo các hợp đồng mua bán dầu mỏ của
Mỹ phải đƣợc thanh toán bằng đồng đôla Mỹ giúp củng cố sức mạnh của
đồng đôla dầu mỏ. Từ đó Mỹ có thể khiến cả thế giới Ả Rập tiếp tục phải phụ
thuộc vào kinh tế, chính trị của Mỹ, gián tiếp buộc kinh tế của các nƣớc
OPEC cùng nhiều nƣớc khác phải "đỡ đòn" cho những cuộc khủng hoảng
kinh tế của Mỹ và lấy dầu mỏ làm "đòn bẩy" để thực hiện những toan tính
chính trị trên khắp thế giới
2.2.1.2 Mục tiêu về an ninh
Mục tiêu đầu tiên của chính sách ngoại giao dầu mỏ của Mỹ là đảm bảo
an ninh dầu mỏ của mình thông qua việc kiểm soát đƣợc nguồn cung ổn định
từ Iraq. Mỹ muốn thông qua mục tiêu này hƣớng đến làm giảm sự phụ thuộc
vào Arab Saudi để bình ổn giá dầu thô trên thế giới, từ đó tạo điều kiện cho
Mỹ thúc ép nƣớc này và các nƣớc xuất khẩu dầu khác trong khu vực cải cách
chính trị - xã hội mà không phải lo lắng quá nhiều đến nguồn cung.
Ngoài ra, Mỹ còn hƣớng đến việc kiểm soát nguồn cung của Iraq cho các
nƣớc khác. Mục tiêu này hiện lên rõ nét sau cuộc chiến 2003 khi Mỹ nắm
quyền kiểm soát phần lớn nền công nghiệp khai thác dầu mỏ tại Iraq. Mỹ
muốn xem xét lại tất cả các hợp đồng mà chính quyền Saddam Hussein đã kí
32
trƣớc đó đồng thời tác động lên những hợp đồng mới mà chính quyền Iraq sẽ
kí với một bên thứ ba ngoài Mỹ. Điều này sẽ giúp Mỹ kiểm soát đƣợc quyền
tiếp cận với nguồn dầu mỏ tại Iraq của các nƣớc khác, từ đó có thể sử dụng nó
nhƣ một con bài chính trị để mặc cả với nhiều nƣớc trong nhiều vấn đề khác.
Tuy nhiên, mục tiêu về an ninh của Mỹ vƣớng phải một tình thế lƣỡng
nan là một mặt phải đảm bảo dòng chảy ổn định của dầu mỏ từ Iraq nhƣng
đồng thời phải ngăn chặn việc Iraq sử dụng lợi nhuận thu đƣợc từ việc bán
dầu đề phát triển tiềm năng quân sự, đe doạ an ninh của cả khu vực Trung
Đông, nơi cung cấp dầu chủ yếu cho Mỹ.
Ngoài ra, Mỹ còn sử dụng chính sách ngoại giao dầu mỏ để đảm bảo cho
an ninh của không chỉ các giếng dầu tại Iraq mà còn là an ninh của cả Iraq và
vùng Vịnh, vốn dĩ đã rất bất ổn vì những xung đột chính trị và tôn giáo. Trong
điều kiện chủ nghĩa khủng bố nổi lên trong những năm đầu thế kỉ 21, vấn đề
an ninh tại khu vực trọng yếu này lại càng đƣợc chú trọng hơn nữa trong
chính sách của Mỹ.
2.2.1.3 Mục tiêu về địa chính trị
Mục tiêu về ảnh hƣởng của Mỹ trong chiến lƣợc ngoại giao dầu mỏ với
Iraq thể hiện ở hai cấp độ: gia tăng ảnh hƣởng bên trong chính quyền Iraq
đồng thời dùng mối quan hệ với Iraq để củng cố ảnh hƣởng của Mỹ tại vùng
Vịnh.
Ở cấp độ quốc gia, Mỹ mong muốn tìm kiếm một chính quyền thân thiện
với Mỹ tại Iraq để các hoạt động thƣơng mại dầu mỏ giữa 2 bên diễn ra thuận
lợi và mang về nhiều lợi ích cho Mỹ. Vì bên trong Iraq luôn là một chiến
trƣờng không khoan nhƣợng với một loạt các xung đột sắc tộc và tôn giáo
đồng thời Iraq là quốc gia có vị trí địa chiến lƣợc đặc biệt và là nơi diễn ra
cuộc cạnh tranh địa chính trị của nhiều cƣờng quốc nhƣ Mỹ, Nga, Trung
Quốc… nên mục tiêu xây dựng một chính quyền thân Mỹ tại đây đối mặt với
33
nhiều thách thức và thuận lợi đan xen với nhau. Thách thức lớn nhất cho mục
tiêu này là tình trạng mất ổn định trong nƣớc và sự cạnh tranh ảnh hƣởng của
các nƣớc lớn. Thuận lợi lớn nhất của mục tiêu này là sự đa dạng của các phe
phái trong nƣớc khiến Mỹ có nhiều lựa chọn hơn.
Ở cấp độ khu vực, Mỹ muốn dùng chính sách ngoại giao dầu mỏ để củng
cố ảnh hƣởng thông qua việc gửi đi thông điệp rằng Mỹ có mặt tại khu vực
này. Trong phiên họp Hội đồng an ninh quốc gia trƣớc khi tiến hành cuộc tấn
công Iraq vào năm 2003, Bộ trƣởng Bộ quốc phòng Rumsfeld tuyên bố: “Thử
tƣởng tƣợng vùng [Trung Đông] không có bóng dáng Saddam và với một chế
độ sẵn sàng đi theo quyền lợi của Mỹ sẽ nhƣ thế nào. Điều đó sẽ làm thay đổi mọi thứ trong vùng và mọi nơi khác”35.Rõ ràng việc xây dựng một chính
quyền thân Mỹ đƣợc kì vọng sẽ dẫn đến việc ảnh hƣởng của Mỹ trong khu
vực Trung Đông sẽ thay đổi theo hƣớng tích cực. Đây còn đƣợc xem là hình
thức răn đe và gây sức ép có hiệu quả với những nƣớc có tƣ tƣởng chống Mỹ.
Một số nƣớc Mỹ cho là "bất hảo" nhƣ Iran và Syria cần phải thận trọng hơn
trong các quyết định của họ đối với một số vấn đề Mỹ xếp vào loại "nhạy
cảm" nhƣ chống khủng bố và chống phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt.
2.2.2 Công cụ thực hiện chính sách
2.2.2.1 Công cụ chính trị
Các công cụ chính trị bao gồm ủng hộ phe đối lập, công cụ pháp lý, nhân
chủ và dân quyền… đã đƣợc dùng để thực hiện chính sách ngoại giao dầu mỏ
của Mỹ tại Iraq ngay từ những ngày đầu. Mỹ luôn mong muốn tập trung vào
hỗ trợ về tài chính và quân sự để các phe đối lập tại Iraq nổi dậy chống đối
chính quyền có khuynh hƣớng chống Mỹ để từ đó tiến đến việc thực hiện đảo
chính, xây dựng chính quyền mới thân Mỹ. Chính quyền Mỹ đã từng ban
hành Đạo luật Giải phóng Iraq vào tháng 10/1998 trong đó khẳng định việc
35 Michael Schwartz, “Why Did We Invade Iraq Anyway?”, The Nation Institute , 30-10-2007
34
Mỹ lựa chọn một phe đối lập tại Iraq để ủng hộ về cả quân sự lẫn tài chính.
Đất nƣớc Iraq đầy rẫy xung đột và chia rẽ là một nơi rất thích hợp để Mỹ
triển khai công cụ này. Tuy nhiên, việc Washington tiếp thêm sức mạnh quân
sự cho lực lƣợng đối lập với chính quyền Iraq là một chính sách mạo hiểm.
Đầu tiên, Mỹ có nguy cơ bị buộc tội vi phạm luật pháp quốc tế khi có âm
mƣu lật đổ một chính phủ ở nƣớc ngoài. Thứ hai, chiến lƣợc này của Mỹ có
thể gây phản tác dụng với các đồng minh của Mỹ khi họ lo ngại Mỹ sẽ có thể
thay đổi thái độ, quay sang ủng hộ các lực lƣợng đối lập của họ. Thứ ba, việc
ủng hộ phe đối lập có thể thổi bùng lên xung đột bên trong Iraq và dẫn tới
nhiều hệ luỵ khó lƣờng. Nhà nƣớc Hồi giáo IS là một trong những hệ luỵ
nguy hiểm đe doạ không chỉ an ninh Iraq mà còn là mối hiểm hoạ cho an ninh
thế giới hiện nay.
Ngoài ra, Mỹ sử dụng công cụ nhân quyền và dân chủ nhằm buộc
Baghdad phải giải trình theo luật pháp quốc tế theo những báo cáo về tình
hình nhân quyền của Washington tại Iraq cũng nhƣ khu vực Trung Đông. Rồi
từ những cáo buộc Iraq vi phạm nhân quyền, Mỹ có cơ sở hợp pháp để tiến
hành việc thiết lập một chế độ mới tại Iraq.
Một số công cụ khác ví dụ nhƣ các công cụ pháp lý nhƣ các hợp đồng,
biện bản và Hiệp ƣớc song phƣơng lẫn đa phƣơng, các công cụ ngoại giao
nhƣ các chuyến viếng thăm giữa 2 bên, các công cụ an ninh khác nhƣ chống
phổ biến vũ khí huỷ diệt hàng loạt, vù khí hoá học, sinh học … cũng đƣợc Mỹ
sử dụng để hỗ trợ và thực hiện chính sách ngoại giao dầu mỏ của mình tại
Iraq.
2.2.2.2 Công cụ inh tế
Mỹ sử dụng công cụ kinh tế thông qua quá trình hợp tác kinh tế với Iraq
để có thể tạo cơ hội cho các công ty của Mỹ tham gia vào quá trình khai thác
và xuất khẩu dầu mỏ. Ban đầu, Mỹ bắt đầu thu mua cổ phiếu của công ty dầu
35
khí Iraq (IPC) để có thề bắt đầu chen chân vào ngành dầu khí tại đây. Sau đó,
Mỹ liên tục tạo sức ép lên chính quyền Iraq, buộc họ phải giao các hợp đồng
liên quan đến quá trình khai thác và xuất khẩu dầu mỏ cho các công ty của
Mỹ để từ đó tăng cƣờng sự tham gia của Mỹ vào đây. Không chỉ kí kết các
hợp đồng với chính phủ Iraq, Mỹ còn cho phép các công ty của mình kí kết
hợp đồng với các phe đối lập, ví dụ nhƣ Cộng đồng ngƣời Kurd ở phía Bắc
Iraq, để có thể tối đa háo lợi ích thu đƣợc từ ngành dầu khí Iraq.
Mỹ còn khởi xƣớng lệnh cấm vận kinh tế toàn diện và chặt chẽ nhất
trong khu vực đối với Iraq. Chính phủ này bị hạn chế mọi hoạt động tiếp xúc
hay ngoại giao thông thƣờng, họ chỉ nhận đƣợc một lƣợng nhỏ lƣơng thực và
thuốc men. Hầu nhƣ Mỹ đã thành công trong việc phá vỡ vị thế hàng đầu của
Iraq trong thế giới Ảrập. Lệnh cấm vận là nguyên nhân dẫn đến việc thiếu
thốn tài chính trầm trọng dành cho các công trình xây dựng cơ bản hoặc tái
thiết. Mỹ nghĩ đây sẽ là phƣơng pháp tốt nhất để ngăn cản chính quyền
Baghdad sử dụng tiền cho mục đích chính trị và quân sự khi lệnh cấm vận
kiểm soát mọi nguồn trợ giúp tài chính từ bên ngoài. Lệnh cấm vận mặc dù
đƣợc thực hiện dƣới danh nghĩa Liên Hiệp Quốc nhƣng thực chất là của Mỹ.
Mỹ mong muốn việc bao vây cấm vận kinh tế sẽ cô lập Iraq, làm suy yếu
chính phủ Iraq từ bên trong để từ đó có thể gây áp lực buộc chính phủ Iraq
hành động theo ý của Mỹ, thậm chí là tiến tới lật đổ chính phủ Iraq.
Từ lệnh cấm vận kinh tế này, Mỹ đã đề xƣớng Chƣơng trình đổi dầu lấy
lƣơng thực đƣợc xem nhƣ là một mũi tên bắn trúng 2 đích trong chính sách
ngoại giao dầu mỏ của mình. Một mặt, Mỹ có thể tiếp cận nguồn dầu mỏ của
Iraq vốn bị phong toả nghiêm ngặt bởi lệnh cấm vận để thoả mãn cơn khát
dầu của nền kinh tế Mỹ. Mặt khác, Mỹ có thể kiểm soát việc xuất khẩu dầu
mỏ của Iraq thông qua Liên Hiệp Quốc. Ngoài ra, 5% số tiền thu đƣợc trong
khuôn khổ chƣơng trình đổi dầu lấy lƣơng thực này sẽ chi cho Uỷ an bồi
36
thƣờng Liên Hiệp Quốc chi cho các nƣớc đã tham gia vào cuộc chiến bảo vệ
Kuwait năm 1991 mà phần lớn là đồng minh của Mỹ.
2.2.2.3 Công cụ qu n sự
Tổng thống Mỹ Jimmy Carter đã nói “Lập trƣờng của chúng tôi là hoàn
toàn rõ ràng: Một nỗ lực của bất cứ thế lực bên ngoài để giành quyền kiểm
soát các khu vực vùng Vịnh Ba Tƣ (trong đó có Iraq) sẽ đƣợc coi là một cuộc
tấn công vào những lợi ích quan trọng của Mỹ, và một cuộc tấn công nhƣ vậy
sẽ bị đẩy lùi bởi bất kỳ phƣơng tiện cần thiết, bao gồm cả lực lƣợng quân sự”36. Rõ ràng, Mỹ sẵn sàng sử dụng các công cụ quân sự để thực hiện các
mục tiêu của chính sách ngoại giao dầu mỏ tại Iraq. Quân đội Mỹ đã liên tục
tham gia các hoạt động quân sự tại Iraq từ chiến dịch “Bão táo sa mạc” năm
1990, cƣỡng chế trừng phạt và thực hiện vùng cấm bay, lật đổ chính quyền
Saddam Hussein, tiến hành trấn áp các phe nổi dậy để xây dựng chính quyền
mới tại Iraq và sau đó là tiếp tục hiện diện tại Iraq để duy trì an ninh và trấn
áp khủng bố. Đỉnh cao của việc sử dụng các công cụ quân sự này là việc Mỹ
dẫn đầu liên quân giải phóng Kuwait sau 7 tháng bị Iraq chiếm đóng năm
1990 và liên quân do Mỹ đứng đầu đánh chiếm Iraq năm 2003 để lật đổ Tổng
thống Saddam Hussein.
Các mục tiêu và công cụ triển khai của chính sách ngoại giao dầu mỏ
của Mỹ tại Iraq nói đến ở trên sẽ đƣợc chính quyền Mỹ lựa chọn triển khai
trên thực tế theo từng giai đoạn lịch sử.
3 Thực t ễn tr ển kh chính sách n o o ầu mỏ củ Mỹ đố
vớ Ir q qu các thờ kỳ
2.3.1 Giai đoạn trƣớc năm 1958
Chính sách ngoại giao dầu mỏ của Mỹ với Iraq bắt đầu từ những năm
đầu thế kỉ 20 khi các công ty dầu khí Mỹ tham gia vào thị trƣờng dầu mỏ 36 Jimmy Carter, The State of the Union Address Delivered Before a Joint Session of the Congress, tại địa chỉ http://www.presidency.ucsb.edu/ws/?pid=33079 truy cập ngày 1/10/2015
37
Iraq. Sự tham gia của chính phủ Mỹ vào Iraq ở các khía cạnh chính trị lẫn
khai thác dầu mỏ trong thời gian này rất hạn chế. Trong những năm 1920 và
1930, Mỹ nói chung chậm chân hơn Anh, nƣớc đƣợc uỷ quyền bởi Hội Quốc
liên để quản lý, phân định biên giới quốc gia, và xây dựng Iraq thành một chế
độ quân chủ thân phƣơng Tây. Song hành cùng sự hạn chế này, chính sách
ngoại giao dầu mỏ của Mỹ tại Iraq cũng chƣa đƣợc chính phủ Mỹ chú ý nhiều
ngoài việc các công ty dầu khí Mỹ bắt đầu tham gia cùng với các đối tác châu
Âu khác trong việc phát triển nguồn tài nguyên dầu Iraq ở giai đoạn đầu. Mỹ
đã bắt đầu thăm dò dầu khí tại khu vực Mesopotamia từ những năm 1910. Sau
đó, một mỏ dầu khổng lồ gần Kirkuk đƣợc phát hiện đã thu hút sự chú ý của
các công ty dầu khí của Mỹ. Mỹ bắt đầu mua lại cổ phần của công ty dầu khí
Iraq (IPC) của các đối tác Anh, Pháp và Hà Lan. Mỹ nắm giữ 23,75% cổ phần của IPC vào năm 192837. Công ty này đã xây dựng một mạng lƣới các giếng
dầu, đƣờng ống dẫn, và các cơ sở sản xuất để có thể thu đƣợc khoản lợi nhuận
đáng kể từ nguồn dầu mỏ của Iraq.
Tuy nhiên, tình hình quốc tế sau chiến tranh thế giới thứ 2 buộc Mỹ phải
có một mối quan hệ chính trị sâu sắc hơn với Iraq. Sự khởi đầu của Chiến
tranh Lạnh tạo ra một sự quyết tâm của các nhà lãnh đạo Mỹ về việc ngăn
chặn sự lây lan của chủ nghĩa cộng sản ở Trung Đông đồng thời nhu cầu dầu
mỏ tăng cao khiến Mỹ phải nhìn nhận lại chính sách ngoại giao dầu mỏ
hƣớng về khu vực có trữ lƣợng dầu mỏ lớn này. Mỹ khuyến khích IPC tăng
sản lƣợng dầu và chia sẻ một phần lớn doanh thu cho chính phủ Iraq. Mỹ
cung cấp viện trợ kinh tế và quân sự cho chính phủ Iraq. Đến năm 1955, Iraq
trở thành thành viên sáng lập của Hiệp ƣớc Baghdad, một quan hệ đối tác
quốc phòng chống Liên Xô giữa Iraq, Iran, Pakistan, Thổ Nhĩ Kỳ và Anh với
sự ủng hộ không chính thức của Mỹ. Tóm lại, Mỹ đã tìm thấy công thức để
37 Peter Hahn, Tlđd
38
đảm bảo sự ổn định lâu dài và chống chủ nghĩa cộng sản của Iraq nhằm đảm
bảo nguồn cung dầu mỏ từ quốc gia này.
Tuy nhiên, cách mạng Iraq nổ ra vào tháng7/1958 chấm dứt chế độ quân
chủ thân phƣơng Tây có lợi cho việc mua bán dầu mỏ giữa Mỹ - Iraq và mở
ra giai đoạn mới trong chính sách ngoại giao dầu mỏ của Mỹ với Iraq.
2.3.2 Giai đoạn 1958 – 1979
Sự sụp đổ của chế độ quân chủ vào năm 1958 và sự gia tăng quyền lực
của chủ nghĩa dân tộc và phe cánh tả đã thay đổi nhanh chóng các mối quan
hệ giữa chính phủ Iraq và IPC, dẫn đến sự thay đổi trong chính sách ngoại
giao dầu mỏ của Mỹ với đất nƣớc này. Một chi tiết quan trọng là việc Iraq
thông qua Công luật 80 năm 1961 về việc chính phủ Iraq nắm giữ khoảng
99% cổ phần IPC và các chi nhánh của nó. Một vài năm sau đó, Công ty Dầu
khí Quốc gia Iraq (INOC) đƣợc thành lập. Năm 1972 chính phủ Iraq quốc hữu
hoá IPC, và đến năm 1975 cổ phần của các công ty tƣ nhân khác làm việc tại
Iraq đã đƣợc chuyển đổi hoàn toàn vào INOC. Từ giữa những năm 1970,
INOC nắm toàn quyền kiểm soát ngành công nghiệp dầu mỏ của Iraq, các công ty quốc tế đã chỉ đƣợc kí kết các hợp đồng dịch vụ38.
Cuộc cách mạng năm 1958 kéo theo hàng loạt cuộc xung đột và đảo
chính tại Iraq vào năm 1963, 1968, và 1979. Iraq trở thành tâm điểm của xung
đột chính trị và sắc tộc - văn hóa dai dẳng trong một thời gian dài và hệ quả
của giai đoạn bất ổn này lên an ninh năng lƣợng của Mỹ là vô cùng nghiêm
trọng. Sự mất ổn định kèm theo việc ngƣời dân Iraq cho rằng chính dầu mỏ là
nguyên nhân khiến phƣơng Tây can thiệp vào đất nƣớc mình khiến cho hàng
loạt giếng dầu bị tấn công, nguồn cung dầu mỏ sụt giảm nghiêm trọng. Thêm
vào đó, Mỹ đã trở thành một nƣớc nhập khẩu dầu từ những năm 1970 khi họ
38 Gawdat Bahgat (2003), Sđd pp.77
39
không thể sản xuất dầu đủ cho nhu cầu trong nƣớc39. Phụ thuộc vào thị trƣờng
dầu quốc tế cũng có nghĩa là Mỹ thúc đẩy mạnh mẽ hơn chính sách ngoại
giao dầu mỏ để đảm bảo an ninh năng lƣợng trong nƣớc.
Trong thời kỳ 1958-1979, Mỹ theo đuổi chính sách ngoại giao dầu mỏ
với mục tiêu chính là đảm bảo nguồn cung dầu mỏ ở Iraq bằng cách tìm kiếm
một mối quan hệ chính trị tốt đẹp với chính quyền của Iraq, ngăn chặn sự gia
tăng của chủ nghĩa cộng sản và khả năng Liên Xô mở rộng ảnh hƣởng tại đây,
ngăn chặn Iraq trở thành một ngòi nổ cho một cuộc chiến tranh khu vực.
Một mặt, Mỹ đã thực hiện một chính sách ngoại giao mềm dẻo với Iraq
nhƣ đàm phán chấm dứt hòa bình của khối Hiệp ƣớc Baghdad, ngăn chặn
xung đột khi ngƣời Iraq ở Anglo thách thức Kuwait vào năm 1961, cung cấp
viện trợ nƣớc ngoài cho Iraq, thúc đẩy các mối quan hệ kinh tế ở đây. Thậm
chí khi có các bằng chứng cụ thể, Mỹ đã không làm gì để giảm bớt sự đàn áp
các nhóm dân tộc thiểu số của chính quyền Iraq.
Mặt khác, Mỹ tích cực hỗ trợ đảng Baath tại Iraq để xây dựng một chính
quyền thân Mỹ do nhà lãnh đạo Iraq Abdel Karim Kassem có thái độ thân
Liên Xô đồng thời công khai chống lại chủ trƣơng đoàn kết các nƣớc Ảrập
của Tổng thống Ai Cập Nasser thập kỷ 1960. Năm 1963, Cơ quan Tình báo
Trung ƣơng Mỹ (CIA) cho thành lập một trung tâm chỉ huy tại Kuwait nhằm
thông qua đảng Baath, thực hiện kế hoạch lật đổ tƣớng Abdel Karim
Kassem.Với sự hậu thuẫn về mọi mặt của Washington, các thành viên đảng
Baath do Abd al-Salam Aref lãnh đạo đã làm cuộc đảo chính thành công vào tháng 4/196340. Chính quyền mới đƣợc dựng lên ở Baghdad do Abd al-Salam
39 Tobias N. Rasmussen and Agustín Roitman (2011), Oil Shocks in a Global Perspective: Are they Really that Bad?, IMF working paper August 2011
40 Richard Becker, 1958-1963, Iraq: Revolution and the U.S. Response, Press for Conversion tại địa chỉ http://coat.ncf.ca/our_magazine/links/issue51/articles/51_20-21.pdf truy cập ngày 1/10/2015
40
Aref làm tổng thống có chủ trƣơng ủng hộ "Chủ nghĩa dân tộc toàn Ảrập" do
Tổng thống Ai Cập Nasser đề xƣớng.Tuy nhiên, quyền lực sau đó dần dần rơi
vào tay những ngƣời ngoài đảng Baath, vốn không có lập trƣờng thân Mỹ.
Những nhân vật lãnh đạo không thuộc đảng Baath này đã dành một số đặc ân
về kinh tế cho Liên Xô và Pháp trong các hợp đồng khai thác dầu mỏ khiến
Mỹ cảm thấy lợi ích của mình bị đe doạ. Để đảm bảo quyền lợi của Mỹ tại
các mỏ dầu và toàn Iraq, Mỹ đã phản ứng lại bằng cách cử Robert Anderson,
cựu bộ trƣởng tài chính thời Tổng thống Eisenhower, đi tiếp xúc với đảng
Baath để thể hiện sự ủng hộ và mong muốn thay đổi chính quyền Iraq. Ngày
17/7/1968, một cuộc đảo chính đã xảy ra tại Iraq. Chính quyền mới đƣợc hình
thành với sự ủng hộ đằng sau của Mỹ.
Tuy nhiên, sau đó quan hệ Mỹ - Iraq lại xấu đi trong những năm cuối
thập niên 1960 do sự nghi ngại của chính quyền mới về việc Mỹ can dự quá
sâu vào các cuộc đảo chính tại Iraq. Năm 1967, Iraq tuyên bố cắt đứt quan hệ ngoại giao với Mỹ vì cho rằng Mỹ ủng hộ cuộc chiến Sáu ngày của Israel41.
Vì chính quyền Iraq dần chuyển sang khuynh hƣớng chống Mỹ trong cách
tiếp cận với các vấn đề Ả Rập - Israel đồng thời quốc hữu hoá các quyền lợi
dầu mỏ của Mỹ và quay sang hợp tác với Liên Xô để phát triển ngành khai
thác dầu của mình vào thập kỉ 1970, chính quyền Mỹ cũng dần điều chỉnh
chính sách ngoại giao dầu mỏ của mình với Iraq. Mỹ quay sang ủng hộ phe
đối lập tại Iraq thông qua việc ngấm ngầm trang bị vũ khí cho các phiến quân
nổi dậy tại Iraq đề làm suy yếu chính phủ Iraq, từ đó có thể tiến đến thay đổi
sang một chính quyền thân thiện với Mỹ hơn. Năm 1974, ngƣời Kurd ở phía
bắc Iraq nổi dậy. Họ nhận đƣợc sự hậu thuẫn từ phía chính quyền thân Mỹ ở
Iran. Mặc dù không trực tiếp ra mặt nhƣng vai trò của Mỹ đối với các phe nổi
dậy này là rất lớn.
41 Gawdat Bahgat (2003), Sđd p.77
41
2.3.3 Giai đoạn 1979 – 1990
Giai đoạn thứ ba của chính sách ngoại giao dầu mỏ của Mỹ với Iraq bắt
đầu vào năm 1979, khi cuộc cách mạng Hồi giáo Iran diễn ra. Cuộc cách
mạng Iran không chỉ lấy đi của Mỹ đồng minh thân cận nhất tại Trung Đông
lúc đó mà còn đẩy Mỹ và cả thế giới vào 1 cuộc biến động giá dầu. Vào đầu
1978, Iran xuất khẩu 5,5 triệu thùng dầu mỗi ngày, chiếm 17% tổng sản lƣợng của OPEC42. Nhƣng sau cách mạng Iran lật đổ chính quyền quân chủ của
Shah vào năm 1979, sản lƣợng khai thác dầu mỏ của nƣớc này dƣới chế độ
mới đã giảm mạnh bởi sự tàn phá của các lực lƣợng đối lập. Bất chấp nỗ lực
tăng sản lƣợng để bù đắp vào khoảng thiếu hụt này của các nƣớc OPEC khác,
giá dầu vẫn tăng lên ngất ngƣởng do nỗi sợ hãi của thị trƣờng cùng với việc
Tổng thống Mỹ Jimmy Carter ra lệnh ngừng nhập khẩu dầu từ Iran. Chỉ trong
vòng 12 tháng, mỗi thùng dầu nhảy vọt từ 15,85 đôla Mỹ lên 39,5 đôla Mỹ.
Đứng trƣớc tình thế đó, Mỹ buộc phải quay sang củng cố chính sách ngoại
giao dầu mỏ với Iraq để có thể tận dụng nguồn cung dầu mỏ dồi dào đồng
thời củng cố vai trò “bức tƣờng chắn” của Iraq đối với chính quyền Iran.
Tháng 9 năm 1980, khi Hussein ra lệnh cho quân đội Iraq khởi động một
cuộc xâm lƣợc quy mô hƣớng vào Iran, Mỹ từng bƣớc tham gia vào cuộc
chiến tranh Iran – Iraq này. Sau khi lên nhậm chức vào tháng 1/1981, Tổng
thống Ronald Reagan tiếp tục chính sách thừa hƣởng từ thời Tổng thống tiền
nhiệm là Jimmy Carter khi ông giữ lập trƣờng trung lập trong cuộc xung đột
này. Tuy nhiên, từ năm 1982 chính phủ Mỹ bắt đầu chuyển hƣớng sang lập trƣờng hỗ trợ Iraq43. Nguyên nhân chính là sự tiến bộ quân sự của Iran khiến
các quan chức Mỹ lo lắng rằng chính quyền chống Mỹ mới ở Iran có thể mở
rộng ảnh hƣởng chính trị trong khu vực và hỗ trợ của những kẻ khủng bố
42 Jeff Reed, Persian Pride: The History of the Iranian Oil Sector, tại địa chỉ http://oilpro.com/post/668/persian-pride-the-history-of-the-iranian-oil-sector-part-2 truy cập ngày 4/11/2015 43 Peter Hahn, Tlđd
42
chống Mỹ ở Lebanon. Các nhà lãnh đạo Mỹ nhìn nhận Iraq là một chế độ
lành tính hơn và có vai trò nhƣ một bức tƣờng thành quan trọng chống lại sự
bành trƣớng của Iran. Đƣợc thúc đẩy bởi sự cực đoan ngày càng tăng của các giáo sĩ Hồi giáo Iran và vụ bê bối Iran-Contra44 vào giữa những năm 1980,
Mỹ công khai hỗ trợ cho Iraq thông qua các khoản vay lớn, trang thiết bị quân
sự, công nghệ hóa học và đào tạo cũng nhƣ chia sẻ thông tin tình báo về lực
lƣợng quân sự của Iran... Các quan chức Mỹ cũng kết thúc các cuộc biểu tình
lên án việc Iraq sử dụng các loại vũ khí hủy diệt hàng loạt chống lại Iran và
các phe đối lập trong nƣớc. Vũ khí hóa học của Iraq “không phải là một vấn đề quan tâm sâu sắc”45 so với sự lo ngại của Mỹ về cuộc cách mạng Iran có
thể tràn vào Kuwait hay Arab Saudi. Mỹ đã đƣa Iraq ra khỏi danh sách các nƣớc tài trợ khủng bố vào năm 198246 trong khi Iran đã đƣợc bổ sung vào danh sách này vào năm 198447.
Tuy nghiêng về phía Iraq nhƣng chính quyền Mỹ và các nƣớc phƣơng
Tây khác lại muốn kéo dài cuộc chiến này để Iraq và Iran “tự giết lẫn nhau”
còn Mỹ có thể kiếm lợi từ các hợp đồng mua bán vũ khí cho cả hai bên đồng
thời có thể tận dụng nguồn dầu từ cả 2 quốc gia giàu dầu mỏ này khi cả 2
cùng tăng cƣờng bán dầu để trang trải cho cuộc chiến. Tuy nhiên, chiến tranh
kéo dài đã tàn phá nền công nghiệp dầu mỏ của cả Iraq và Iran, ảnh hƣởng
đến an ninh năng lƣợng của Mỹ và nhiều nƣớc nhập khẩu dầu khác. Đặc biệt,
an ninh hàng hải tại khu vực cung cấp dầu mỏ lớn nhất cho Mỹ này bị đe doạ
44 Tháng 11/1986, tờ báo Al-Shiraa của Lebanon đã tố cáo việc Mỹ bất chấp lệnh cấm vận áp dụng trong chiến tranh Iran – Iraq xây dựng một mạng lƣới bán vũ khí cho Iran để đổi lại việc giải thoát con tin Mỹ đang bị giam giữ tại Lebanon và gây quỹ viện trợ Contra - lực lƣợng phản động chống phá Nicaragua. Ngay sau khi báo phát hành, vụ việc nhanh chóng lan tỏa thành một vụ bê bối chính trị chƣa từng có, đe dọa chiếc ghế tổng thống của Ronald Reagan và sau là George Bush. 45 Patrick E. Tyler, Officers say U.S aided Iraq in was despite use of gas, The New York Times tại địa chỉ http://www.nytimes.com/2002/08/18/world/officers-say-us-aided-iraq-in-war-despite-use-of- gas.html?pagewanted=all truy cập ngày 1/10/2015 46 Lionel Beehner, What good is a terrorism list?, The Los Angeles Times, tại địa chỉ http://articles.latimes.com/2008/oct/20/opinion/oe-beehner20 truy cập ngày 1/10/2015 47 The U.S government, Country Reports on Terrorism 2014, tại địa chỉ http://www.state.gov/j/ct/rls/crt/2014/239410.htm truy cập ngày 1/10/2015
43
khi Iran tiến hành tấn công các con tàu chở dầu của Iraq và sau đó là bất kỳ
tàu chở dầu nào của các quốc gia Ả Rập ủng hộ Iraq từ cuối năm 1984.
Đến năm 1988, Mỹ cho rằng đã đến lúc đƣa ra một thỏa thuận ngừng
bắn Iran - Iraq để kết thúc chiến tranh đồng thời khôi phục các hoạt động
thƣơng mại dầu mỏ béo bở tại Iraq. Lợi dụng việc căng thẳng xuống thang
của Chiến tranh Lạnh, Tổng thống Reagan cũng đã làm việc với Liên Xô và
các nhà lãnh đạo khác trên thế giới để đƣa ra một Nghị quyết của Liên Hiệp
Quốc về việc ngừng bắn trong đó đƣa ra một khuôn khổ pháp lý cho việc kết
thúc cuộc chiến. Iraq kịp thời chấp nhận ngừng bắn nhƣng Iran từ chối, yêu
cầu Iraq trƣớc tiên phải đồng ý trả bồi thƣờng chiến tranh. Hải quân Mỹ đã
gây sức ép lên Iran, buộc Iran chấp nhận ngừng bắn vào tháng 7 năm 1988.
Cuộc chiến tranh Iraq - Iran đã tạo nên một Iraq rất mạnh mẽ về quân sự
nhƣng lại suy yếu về kinh tế. Chính sách của Mỹ đối với đồng minh Iraq cũng
không có gì thay đổi. Ngay khi lên nắm quyền, Tổng thống G.H. Bush (cha)
đã quyết định theo đuổi một chính sách “hữu hảo” đối với Iraq. Năm 1989, Tổng thống Bush cha đã ký Chỉ thị An ninh quốc gia số 2648, hứa hẹn những
lợi ích cho Iraq nếu ông Hussein có quan điểm ôn hoà hơn nhƣ là một dấu
hiệu rõ ràng cho chính sách đầy khoan dung và nhân nhƣợng của Mỹ với Iraq trong 2 năm sau cuộc chiến Iraq – Iran49. Tuy nhiên, Tổng thống Hussein đã
không thể hiện thiện chí đáp trả lại động thái này của Mỹ khi liên tục có thách
thức an ninh khu vực với tâm điểm là cuộc xâm chiếm Kuwait, một đồng
minh của Mỹ. Giới chính khách Mỹ, đặc biệt là một số nhà ngoại giao cho
rằng: “Quan hệ Mỹ - Iraq vẫn duy trì ở mức tốt đẹp nếu S. Hussein không tiến hành đánh chiếm Kuwait năm 1991”.50
48 The White House, National Security Directive 26 October 2 1989, bản online tại địa chỉ https://fas.org/irp/offdocs/nsd/nsd26.pdf truy cập ngày 14/11/2015 49 Gawdat Bahgat (2003), Sđd 50 Hồ Quang Lợi, Nam Hồng, Ngô Huy Hoà (2001), Khủng bố & chống khủng bố - Tập III: Cuộc chiến không giới hạn, Nxb. Lao Động, Hà Nội, tr. 326
44
2.3.4 Giai đoạn 1990 – 2003
Mối quan hệ tốt đẹp giữa Mỹ và Iraq nhanh chóng thay đổi sang trạng
thái đối đầu không lâu sau khi chiến tranh Iraq – Iran kết thúc. Iraq với sự hỗ
trợ của các nƣớc phƣơng Tây trong chiến tranh Iran – Iraq đã trở nên hùng
mạnh về quân sự đồng thời tham vọng bá chủ khu vực của Saddam Hussein
càng ngày càng lộ rõ. Iraq rõ ràng là một đồng minh mà Mỹ không dễ dàng
kiểm soát. Cuộc xâm lƣợc quân sự của Iraq của Kuwait vào ngày 2 tháng 8
năm 1990 đã chứng minh rõ ràng mức độ gây hấn liều lĩnh của Saddam
Hussein và sự chấm dứt của chính sách khoan dung và nhân nhƣợng của
chính quyền Bush trƣớc đó. Mỹ cùng với đồng minh mở chiến dịch Bão táp
sa mạc nhằm giải phóng Kuwait khỏi sự kiểm soát của Iraq. Chiến tranh
Vùng Vịnh chấm dứt sau khi Tổng thống Mỹ tuyên bố tạm ngừng các cuộc
tấn công với thắng lợi hoàn toàn thuộc về Mỹ và liên quân đồng thời Kuwait
đƣợc giải phóng. Tuy nhiên, ngay khi đánh bật quân đội Iraq ra khỏi Kuwait,
Tổng thống Bush đã tuyên bố ngừng tấn công Iraq bởi theo ông “chiến dịch
đó không phải lật đổ Saddam mà mục tiêu chính là giải phóng Kuwait”, ngoài
ra Nhà Trắng còn chịu sự tác động lớn của dƣ luận quốc tế.
Sau cuộc chiến, Liên Hợp Quốc áp dụng lệnh cấm xuất khẩu dầu toàn
phần đối với Iraq và Kuwait. Chính lệnh cấm vận này đã lấy đi của thị trƣờng
dầu mỏ thế giới gần 5 triệu thùng mỗi ngày, khiến giá tăng cao.Cơn sốt lần
này kéo dài trong 9 tháng và chỉ kết thúc khi lực lƣợng Liên quân do Mỹ lãnh
đạo đƣa quân vào giải phóng Kuwait. Trong khi đó, Bộ Năng lƣợng Mỹ đề
xuất tăng nhập dầu từ vùng Vịnh từ tỉ lệ 5% lƣợng dầu nhập khẩu năm 1973 lên 10% vào năm 1989 và dự báo lên đến 25% vào năm 200051 khiến Mỹ cần
phải tăng cƣờng sự có mặt của mình tại khu vực này để đảm bảo nguồn cung
dầu mỏ. Thêm vào đó, sự cải thiện đáng kể trong quan hệ Mỹ - Liên Xô cùng
51 Helga Graham, “Exposed: Washington's Role in Saddam's Oil Plot”, London Observer, October 21, 1990
45
với việc Liên Xô gặp khủng hoảng kinh tế, chính trị và thất bại tại chiến
trƣờng Afghanistan vào cuối thập kỉ 1980 khiến Mỹ giảm bớt mối quan tâm
vào việc ngăn cản ảnh hƣởng của Liên Xô tại khu vực Trung Đông. Chính
sách ngoại giao dầu mỏ của Mỹ với Iraq cũng thay đổi, trở thành một phần
của chiến lƣợc trực tiếp khống chế toàn bộ khu vực Trung Đông để bảo vệ
quyền kiểm soát dầu hỏa cùng các quyền lợi khác tại bán đảo Ả Rập.
Sau chiến tranh vùng Vịnh, chính sách ngoại giao dầu mỏ của Mỹ với
Iraq tập trung vào 2 điểm chính: đầu tiên Mỹ ủng hộ các phe đối lập tại Iraq
nhằm thay đổi chính quyền chống Mỹ của Saddam Hussein tại Iraq đồng thời
Mỹ sử dụng lệnh cấm vận kinh tế của Hội đồng bảo an Liên Hiệp Quốc đƣa
ra để kiểm soát nguồn dầu mỏ xuất khẩu của Iraq.
Ở điểm đầu tiên, Mỹ thực hiện thông qua cả phát biểu của các lãnh đạo
cấp cao và ở hành động cụ thể. Sau cuộc chiến tranh vùng Vịnh, một số quan
chức cấp cao của Mỹ đã bày tỏ rằng Mỹ mong muốn một sự thay đổi chế độ ở
Iraq. Tháng 12/1998, Ngoại trƣởng Madeleine Albright cho rằng các chính
sách của Mỹ về ngăn chặn của Iraq đã thay đổi thành “ngăn chặn cộng với sự thay đổi chế độ”52. Tƣơng tự nhƣ vậy, vào năm 1998 Donald H. Rumsfeld và
Paul D. Wolfowitz, những ngƣời sau này trở thành Bộ trƣởng và phó Bộ
trƣởng Bộ Quốc phòng trong chính quyền Bush, kêu gọi Tổng thống Clinton
chấp nhận một chính phủ lâm thời của Iraq do phe đối lập dựng lên. Đỉnh cao
là Tổng thống Clinton đã ký Đạo luật Giải phóng Iraq vào tháng 10 năm
1998, trong đó kêu gọi chính quyền chọn một hay nhiều nhóm đối lập Iraq để
Bộ Quốc phòng hỗ trợ thiết bị và huấn luyện quân sựđể lật đổ Saddam
Hussein. Tổng thống Bill Clinton tuyên bố: “Phƣơng cách tốt nhất để chấm
52 Barbara Crossette, Pressing for Iraqi’s Overthrow, U.S. Appeals for Arab Support, The New York Times, tại địa chỉ http://www.nytimes.com/1998/12/09/world/pressing-for-iraqi-s-overthrow-us-appeals-for-arab- support.html truy cập ngày 11/11/2015
46
dứt nguy cơ một lần và mãi mãi là thiết lập một chính phủ mới ở Iraq”53.
Trong thực tế triển khai, Mỹ đã thực hiện một số bƣớc để làm suy yếu và
mất uy tín và cuối cùng lật đổ chế độ Iraq từ năm 1991. Ngay sau khi kết thúc
cuộc chiến tranh vùng Vịnh, Tổng thống Bush đã kêu gọi ngƣời dân Iraq “nổi dậy và lật đổ nhà độc tài Saddam”54. Các nhóm sắc tộc và dân tộc lớn nhất tại
Iraq nhìn nhận tuyên bố của tổng thống nhƣ một lời hứa hỗ trợ Mỹ. Vào đầu
tháng 3 năm 1991 ngƣời Shi‟ite của miền nam Iraq và ngƣời Kurd ở phía bắc
Iraq đã đồng thời nổi dậy. Mỹ, Anh và Pháp thành lập hai vùng cấm bay: một
ở phía bắc để bảo vệ ngƣời Kurd, và một ở phía nam để bảo vệ ngƣời Shi‟ite.
Washington hỗ trợ hai đảng phái chính trị của ngƣời Kurd là Đảng Dân chủ
ngƣời Kurd (KDP) và Liên minh yêu nƣớc của ngƣời Kurd (PUK) với hy
vọng các đảng phái chính trị này có thể lớn mạnh để lật đổ chính phủ của
Saddam Hussein. Chính sách hỗ trợ các lực lƣợng đối lập tại Iraq này kéo dài
cho đến khi Mỹ xâm lƣợc Iraq năm 2003.
Ở hƣớng triển khai thứ hai, Mỹ đẩy mạnh các biện pháp cấm vận kinh tế
đối với Iraq để từ đó tiến đến có thể kiểm soát việc xuất khẩu dầu mỏ của
nƣớc này. Ngày 06 tháng 8 năm 1990, chỉ một vài ngày sau khi Iraq xâm
chiếm Kuwait, Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc đã thông qua Nghị quyết 661
cấm việc mua hoặc trung chuyển dầu và các hàng hóa khác của Iraq cũng nhƣ
việc cung cấp tất cả các hàng hóa và sản phẩm cho Iraq. Tổng thống Bush đã
mô tả về lệnh cấm vận này là “Những biện pháp trừng phạt có khả năng buộc
Iraq chối bỏ những thành quả của việc xâm lƣợc Kuwait khi hạn chế mọi mặt hàng nhập khẩu hay xuất khẩu, đặc biệt là dầu mỏ”55. Ban đầu, với mục đích
53 Bill Clinton, Transcript: President Clinton explains Iraq strike, CNN, tại địa chỉ http://edition.cnn.com/ALLPOLITICS/stories/1998/12/16/transcripts/clinton.html truy cậ ngày 14/11/2015 54 Thomas L. McNaugher, Arms Sales and Arms Embargoes in the Persian Gulf: The Real Dilemmas of Dual Containment, Powder Keg in the Middle East, Rowman & Littlefield Publishers Inc. 1995. Chapter 14, pp. 337-360 55 George H.W. Bush, President George H.W. Bush's Address on Iraq's Invasion of Kuwait, 1990, tại địa chỉ http://www.cfr.org/iraq/president-george-hw-bushs-address-iraqs-invasion-kuwait-1990/p24117 truy cập ngày 4/11/2015
47
là buộc Iraq rút khỏi Kuwait thì lệnh cấm vận này đƣợc ủng hộ bởi hầu hết
cộng đồng quốc tế. Sau cuộc chiến tranh vùng Vịnh năm 1991, Mỹ đã vận
động các nƣớc để Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc tiếp tục lệnh cấm vận này
cho đến khi Iraq đáp ứng hoàn toàn hai điều kiện là phá hủy hoàn toàn các
kho vũ khí giết ngƣời hàng loạt và cải thiện quan hệ với các dân tộc thiểu số (nhƣ ngƣời Kurd ở miền Bắc)56. Mục đích của lệnh cấm vận này đã chuyển từ
buộc Iraq rút khỏi Kuwait sang thành gây sức ép với Baghdad để hợp tác
trong việc phá hủy vũ khí huỷ diệt hàng loạt (WMD) và cuối cùng là để làm
suy yếu chế độ của Saddam Hussein và tiến đến lật đổ ông.
Tuy nhiên, các lệnh cấm vận kéo dài này đã gây khó khăn cho không chỉ
ngƣời dân Iraq mà còn là các nƣớc nhập khẩu dầu mỏ từ quốc gia này, bao
gồm cả Mỹ. Để hoá giải tình thế này, chính quyền Tổng thống Bill Clinton đã
đƣa ra sáng kiến về chƣơng trình đổi dầu lấy lƣơng thực cho Iraq. Chƣơng
trình này đƣợc chính thức thông qua bởi Nghị quyết 986 của Hội đồng Bảo an
Liên Hiệp Quốc năm 1995 cho phép Iraq bán dầu ra thị trƣờng thể giới để
trao đổi cho lƣơng thực, thuốc men, và các nhu yếu phẩm khác cho những dân
thƣờng, đồng thời ngăn chặn chính quyền Saddam Hussein xây dựng lại lực
lƣợng quân sự sau Chiến tranh vùng Vịnh lần thứ nhất. Tuy nhiên việc thực
hiện Nghị quyết này đã bị trì hoãn nhiều tháng vì những bất đồng giữa
Washington và Baghdad. Cuối cùng, vào tháng Mƣời Hai năm 1996, dầu mỏ
Iraq đƣợc phép vào thị trƣờng quốc tế thông qua chƣơng trình này. Kể từ đó,
chƣơng trình đổi dầu lấy lƣơng thực đã đƣợc gia hạn nhiều lần trƣớc khi chấm
dứt vào 21 tháng 11 năm 2003 sau cuộc xâm lƣợc Iraq của Mỹ và các hoạt động nhân đạo đƣợc chuyển giao cho Liên minh chính phủ Lâm thời (CPA).57
56 Thông Tấn xã Việt Nam, Mỹ - Iraq cuộc đối đầu hai thế kỷ (Cuộc chiến tranh vùng Vịnh lần thứ hai), Nxb. Thông Tấn, Hà Nội 2003, tr. 12 57 Thông tin thêm về chƣơng trình Đổi dầu lấy lƣơng thực của Iraq có thể xem tại địa chỉ http://www.un.org/Depts/oip/
48
2.3.5 Giai đoạn 2003 – nay
Sự kém hiệu quả của các biện pháp thực hiện chính sách ngoại giao dầu
mỏ của Mỹ trong thời kì trƣớc khiến Saddam Hussein ngày càng trở nên mất
kiểm soát. Đỉnh điểm là việc chính quyền Iraq cấm sử dụng đôla Mỹ trong
nƣớc và chỉ chấp nhận đồng Euro trong chƣơng trình đổi dầu lấy lƣơng thực
của Liên Hiệp vào cuối năm 2000. Mỹ cảm thấy an ninh tiền tệ của mình bị
đe doạ nghiêm trọng. Hơn thế nữa, Iraq quyết định tăng phụ phí bán dầu mỏ
để tạo ra doanh thu độc lập với các hợp đồng mua bán dầu thông qua chƣơng
trình Đổi dầu lấy lƣơng thực của Liên Hợp Quốc và cung cấp cho Iraq nguồn
tài chính để chi tiêu mà không cần sự giám sát quốc tế. Iraq hoàn toàn có thể
sử dụng số tiền này để mua vũ khí. Hơn thế nữa, Iraq còn xuất khẩu lậu dầu
thô qua Syria qua đƣờng ống dẫn dầu Kirkuk-Banias khiến Mỹ không thể
kiểm soát. Đứng trƣớc những lo ngại trên, Mỹ đã đƣa ra quyết định tự mình
thực hiện việc thay đổi chính quyền tại Iraq thông qua các biện pháp quân sự.
Dầu mỏ rõ ràng là nguyên nhân cho cuộc chiến này. Chính vị tƣớng John
Abizaid, cựu tƣ lệnh Bộ chỉ huy trung tâm Mỹ (CENTCOM) chịu trách nhiệm
về Iraq đã nói “Tất nhiên đó là cuộc chiến vì dầu mỏ, và chúng ta thực sự không thể phủ nhận đều đó”58. Dù Mỹ một mực khẳng định rằng Iraq vẫn
đang sở hữu và phát triển vũ khí hủy diệt hàng loạt (gồm vũ khí hạt nhân, hóa
học và sinh học), đồng thời có liên hệ với tổ chức khủng bố al-Qaeda thì dầu
mỏ vẫn có dính dáng đến các nguyên nhân này. Phó Tổng thống Mỹ Dick
Cheney đã nói về nguy cơ này ngay trƣớc thềm cuộc chiến rằng “Đơn giản
mà nói, không có nghi ngờ gì về việc Saddam Hussein hiện nay đang sở hữu
các loại vũ khí hủy diệt hàng loạt… những thứ đƣợc phát triển với sự giàu có
58 Lisa Trei, Roundtable addresses global security and the challenges of climate change, tại địa chỉ http://news.stanford.edu/news/2007/october17/round-101707.html truy cập nagy2 4/11/2015
49
đến từ dầu mỏ của Iraq”59. Tổng thống Bush sau này còn nói thêm về nguyên
nhân của cuộc chiến Iraq năm 2003 rằng “'Nếu Zarqawi và [Osama] bin
Laden giành quyền kiểm soát Iraq, họ sẽ tạo ra một sân tập mới cho các cuộc
tấn công khủng bố trong tƣơng lai. Họ muốn nắm giữ các mỏ dầu để tài trợ cho những tham vọng của họ”60. Dù không nhận đƣợc nghị quyết phê chuẩn
của Liên Hợp Quốc (do thiếu chứng cứ) và bị thế giới phản đối, ngày
20/3/2003, Liên quân gồm Mỹ, Anh và một số nƣớc bất ngờ tấn công Iraq với
chiến dịch “Tự do Iraq”.Ngày 9/4/2003, Iraq thất thủ và thời kỳ cầm quyền
của Tổng thống Saddam Husseinchấm dứt.
Sau khi lật đổ chính quyền Saddam Hussein, chính sách ngoại giao dầu
mỏ của Mỹ giai đoạn tái thiết Iraq tập trung vào việc xây dựng và củng cố
chính quyền mới thân Mỹ tại Iraq đồng thời Mỹ đẩy mạnh hợp tác giữa 2
nƣớc trong công nghiệp khai thác dầu khí tại Iraq.
Ở hƣớng triển khai tập trung xây dựng và củng cố chính quyền mới thân
Mỹ tại Iraq, Tổng thống Bush thành lập Liên minh chính phủ lâm thời (CPA)
dƣới sự lãnh đạo của Đại sứ L. Paul Bremer với hy vọng ổn định đất nƣớc sau
chiến tranh. Nhƣng Sắc lệnh số 1 và 2 của CPA quyết định giải tán Đảng Baath và toàn bộ chính phủ Iraq61đã dẫn đến kết quả là chỉ các cuộc nổi dậy
diễn ra trên khắp Iraq. Chính quyền Bush đã rất cố gắng xây dựng một chính
quyền dân chủ ở Iraq. Khi nhận ra rằng sự nắm quyền của CPA tạo ra phản
ứngchính trị dữ dội, Bremer giải thể CPA vào tháng 6 năm 2004 và thành lập
một chính phủ chuyển tiếp đa sắc tộc chủ trì việc thành lập một chính phủ
vĩnh viễn. Khi chính phủ Iraq đƣợc thành lập sau hai cuộc bầu cử đã đƣợc tổ
chức vào tháng 1 và tháng 12 năm 2005, Mỹ vẫn tham gia vào việc bảo vệ 59 Dick Cheney, Full text of Dick Cheney's speech, tại địa chỉ http://www.theguardian.com/world/2002/aug/27/usa.iraq truy cập ngày 4/11/2015 60 Peter Baker and Josh White, Bush Calls Iraq War Moral Equivalent Of Allies' WWII Fight Against the Axis tại địa chỉ http://www.washingtonpost.com/wp-dyn/content/article/2005/08/30/AR2005083001078.html truy cập ngày 4/11/2015 61 Peter Hahn, Tlđd
50
chính quyền mới này tại Iraq khi các cuộc đụng độ với lực lƣợng nổi dậy lên
đến đỉnh điểm. Lực lƣợng quân đội Mỹ cũng khéo léo sử dụng các công cụ
ngoại giao, tuyên truyền và hỗ trợ tài chính để huy động phe phái Iraq khác
nhau để chiến đấu chống lại các nhóm nổi dậy. Đến năm 2008, cuộc nổi dậy
suy yếu đi đƣa quân đội và tình hình chính trị tại Iraq vào trạng thái tƣơng đối
ổn định. Sau khi nhậm chức, Tổng thống Barack Obama dần dần chấm dứt sự
hiện diện quân sự của Mỹ tại Iraq và cam kết chuyển giao trách nhiệm cho
tƣơng lai của Iraq cho ngƣời dân Iraq. Khi quân đội Mỹ rời khỏi Iraq vào cuối
năm 2011, Mỹ vẫn duy trì ảnh hƣởng chủ đạo của Mỹ trong chính quyền Iraq.
Tuy nhiên, chính sách xây dựng và bảo vệ chính quyền thân Mỹ tại Iraq
đã dần biến đổi khi Nhà nƣớc Hồi giáo tự xƣng IS xuất hiện vào năm 2012.
Đƣợc xem là một sản phẩm của chính sách ngoại giao dầu mỏ của Mỹ tại Iraq
đồng thời là mối đe doạ lớn nhất cho chính sách này ở hiện tại, nhà nƣớc Hồi
giáo IS là một vấn đề “gậy ông đập lƣng ông” mà Mỹ khó có thể giải quyết
trong thời gian ngắn. Năm 2013, Tổng thống Obama đã đƣa ra chiến lƣợc
chống khủng bố mới “tấn công chính xác bằng máy bay không ngƣời lái, quan hệ đối tác hiệu quả, tiếp xúc ngoại giao và viện trợ”62 và cũng là hƣớng
chính trong cuộc chiến chống lại IS.Trong bối cảnh đó, Thủ tƣớng Maliki thể
hiện xu thế khác biệt với Mỹ trong các vấn đề đối nội và đối ngoại khiến Mỹ
thất vọng. Bộ trƣởng Quốc phòng Chuck Hagel nói với buổi điều trần của
Quốc hội “Chính phủ hiện tại ở Iraq đã không bao giờ thực hiện đƣợc các
cam kết là mang lại một chính phủ thống nhất cho ngƣời Sunni, ngƣời Kurd và ngƣời Shi‟te”63. Khi ông Maliki yêu cầu lực lƣợng không quân Mỹ giúp đỡ
để chống lại sự tấn công của IS, Mỹ đã yêu cầu ông Nouri al-Maliki phải từ
62 The White House, Remarks by the President at the National Defense University, tại địa chỉ https://www.whitehouse.gov/the-press-office/2013/05/23/remarks-president-national-defense-university truy cập ngày 4/11/2015 63 VOA, US Official Says Iraq Requests Airstrikes, tại địa chỉ http://www.voanews.com/content/us-official- says-iraq-requests-airstrikes/1939806.html truy cập nagy2 15/11/2015
51
chức để Mỹkhởi động các cuộc không kích ở Iraq.
Ở hƣớng triển khai đẩy mạnh hợp tác dầu khí với Iraq, Mỹ cũng đầu tƣ 6
tỉ đôla Mỹ vào khai thác dầu khí ở Iraq, trong đó bao gồm việc xây dựng một
số cơ sở hóa dầu ở phía nam thành phố Basra. Công ty Chevron Phillips
Chemical (CPC) cam kết sẽ sử dụng những công nghệ tiên tiến nhất hiện nay
tƣơng hợp với môi trƣờng để tiến hành khai thác mỏ dầu ở Basra nói riêng và
Iraq nói chung. Dự án của CPC cũng sẽ bao gồm việc đáp ứng nhu cầu sử
dụng điện của ngƣời dân Basra trong tƣơng lai. chính quyền Iraq sẵn sàng tạo
mọi điều kiện thuận lợi cho CPC nhƣ là cấp giấy phép đầu tƣ nhằm tạo cơ sở
pháp lý cho dự án khai thác dầu khí và những yêu cầu khác nhƣ miễn thuế
nhập khẩu nguyên vật liệu đồng thời cấp visa cho công nhân viên và chuyên
gia Mỹ cũng nhƣ trách nhiệm bảo vệ an ninh cần thiết.
Ngoài ra, Mỹ còn can dự vào quá trình hợp tác dầu khí giữa Iraq và các
bên thứ ba. Mỹ cùng với công ty KOGAS của Hàn Quốc đã ký hợp đồng với
Bộ Dầu mỏ Iraq giành quyền khai thác mỏ khí Akkas ở tỉnh Anbar miền Tây
Iraq - mỏ khí lớn nhất Iraq. Việc phát triển mỏ khí Akkas sẽ đáp ứng nhu cầu
năng lƣợng trong nƣớc và mở đƣờng cho sự thiết lập nền công nghiệp hóa dầu
đầy hứa hẹn.
Tiểu kết
Là một phần của chính sách ngoại giao dầu mỏ của Mỹ trên toàn cầu,
chính sách ngoại giao dầu mỏ của Mỹ tại Iraq cũng mang những đặc điểm
chung của chính sách này nhƣ đã trình bày ở chƣơng I. Tuy nhiên, với những
điểm riêng biệt về lợi ích của Mỹ và đặc điểm của khu vực, chính sách này
cũng có những đặc điểm cụ thể nổi bật sau: Đầu tiên, chính sách ngoại giao
dầu mỏ tại Iraq đƣợc xây dựng trên nền tảng là lợi ích về an ninh, kinh tế và
ảnh hƣởng của Mỹ tại Iraq. Trong đó lợi ích lớn nhất và quan trọng nhất là
đảm bảo quyền tiếp cận nguồn tài nguyên thiên nhiên có trữ lƣợng lớn thứ 2
thế giới này. Thứ hai, chính sách này đặt mục tiêu trọng tâm vào việc đảm
52
bảo dòng chảy ổn định của dầu mỏ từ Iraq đồng thời ngăn chặn việc Iraq sử
dụng nguồn lợi từ dầu mỏ này để phát triển quân sự và trở thành nguy cơ đe
doạ an ninh Trung Đông, trung tâm chính cung cấp dầu mỏ cho Mỹ. Mỹ cần
phải duy trì ảnh hƣởng với cả chính quyền Iraq lẫn cả khu vực Trung Đông.
Ngoài ra, Mỹ còn muốn duy trì và mở rộng sự tham gia của các công ty Mỹ
vào ngành công nghiệp khai thác và xuất khẩu dầu mỏ vốn thu hút sự cạnh
tranh của rất nhiều nƣớc lớn tại Iraq. Để thực hiện mục tiêu trên, Mỹ triển
khai chính sách bằng cách kết hợp các công cụ quân sự, cấm vận kinh tế,
ủng hộ các phe đối lập và nhiều công cụ hỗ trợ khác. Thứ ba, chính sách
ngoại giao dầu mỏ của Mỹ với Iraq đƣợc triển khai theo 5 giai đoạn chính:
trƣớc năm 1958, 1958 – 1979, 1979 – 1990, 1990 – 2003 và 2003 đến nay.
Trong mỗi giai đoạn, tƣơng ứng với từng hoàn cảnh khu vực và đặc biệt là
tƣơng ứng với chính sách của chính quyền Iraq với Mỹ mà từng công cụ cụ
thể đƣợc sử dụng phù hợp. Hiệu quả và triển vọng của từng giai đoạn của
chính sách này sẽ đƣợc xem xét và đánh giá trong chƣơng sau.
53
CHƢƠNG III: TÁC ĐỘNG VÀ TRIỂN VỌNG CHÍNH SÁCH
NGOẠI GIAO DẦU MỎ CỦA MỸ VỚI IRAQ
3.1. Tác độn củ chính sách ầu mỏ củ Mỹ vớ Ir q
3.1.1 Tác động đến an ninh dầu mỏ thế giới
Chính sách ngoại giao dầu mỏ của Mỹ gây ra những tác động lớn đến
sản lƣợng khai thác dầu mỏ của Iraq. Với cuộc chiến tranh Iran – Iraq, sản
lƣợng khai thác dầu mỏ của Iraq sụt giảm nghiêm trong. Tuy nhiên, trong 2
năm giữa cuộc chiến này và chiến tranh vùng Vịnh 1990, sản lƣợng khai thác
của Iraq tăng từ từ và đạt đỉnh vào năm 1989 là thời điểm trƣớc khi Mỹ tấn
công Iraq. Sau đó, do hậu quả của chiến tranh vùng Vịnh cộng với các lệnh
cấm vận kinh tế nghiêm ngặt của Liên Hiệp Quốc trong suốc thập kỉ 1990,
sản lƣợng dầu mỏ Iraq luôn ở mức rất thấp so với mốc 1989 và với tiềm năng
của ngành dầu mỏ của quốc gia này. Ngay sau khi chính quyền Mỹ giành
đƣợc quyền kiểm soát Iraq sau cuộc tấn công năm 2003, sản lƣợng khai thác
dầu mỏ của Iraq liên tục tăng vì kiểm soát và tận dụng nguồn dầu mỏ dồi dào
của Iraq là một trong những mục tiêu chính của chính sách ngoại giao dầu mỏ
mà Mỹ triển khai tại Iraq từ trƣớc đến nay.Tuy nhiên, sản lƣợng dầu của Iraq
đã không tăng nhanh sau cuộc chiến nhƣ nhiều ngƣời kỳ vọng. Hàng chục tỉ
đô la cần có để đƣa tổng sản lƣợng của nƣớc này trở lại mức đỉnh điểm 3,5
triệu thùng mỗi ngày nhƣ năm 1978 đã không đƣợc đầu tƣ do những cuộc tấn
công không ngừng nhằm vào cơ sở hạ tầng và lực lƣợng lao động, lẫn sự bất
ổn của hệ thống pháp luật và chính trị Iraq cũng nhƣ khuôn khổ pháp lý hợp đồng cho việc đầu tƣ64.
64 Daniel Yergin. “Ensuring Energy Security”, Foreign Affairs, Vol. 85, No. 2 (Mar – Apr) 2006, pp. 69-82
54
Biểu đồ 3.1: Sản lượng khai thác dầu mỏ của Iraq trong giai đoạn
1980 – 2015
Đây là tác động lớn nhất và cũng dễ nhận thấy nhất của chính sách ngoại
giao năng lƣợng của Mỹ với Iraq. Chính sách này cũng tác động đến giá dầu
mỏ trên thế giới. Các thời điểm giá dầu leo thang đếu liên quan đến việc sản
lƣợng khai thác dầu mỏ từ Iraq (và cả Iran trong cuộc chiến Iran – Iraq năm
1980 – 1988) bị cắt giảm do ảnh hƣởng của chiến tranh khiến cho nguồn cung
từ khu vực Trung Đông bị thiếu hụt. Cụ thể, trong cuộc chiến tranh vùng
Vịnh năm 1990-1991, khi Mỹ cùng với liên quân 34 nƣớc khác tiến hành
chiến dịch Lá chắn sa mạc và Bão táp sa mạc đã đẩy giá dầu leo thang từ 28 đôla/thùng lên 46 đôla/thùng (tăng 64%)65. Sau cuộc chiến, lệnh cấm vận Liên
Hợp Quốc áp dụng lệnh cấm xuất khẩu dầu toàn phần đối với Iraq và Kuwait
do Mỹ khởi xƣớng đã lấy đi của thị trƣờng dầu mỏ thế giới gần 5 triệu thùng
65 Gaurav Agnihotri, A brief history of oil, tại địa chỉ http://energymaverick.com/a-brief-history-of-oil/ truy cập ngày 25/10/2015
55
mỗi ngày, khiến giá dầu tăng cao. Sau khi Mỹ tiến hành tấn công Iraq vào
năm 2003, giá dầu thô cũng leo thang dần lên đến mốc cao nhất là hơn 147 đôla/thùng vào năm 200866. Mức giá dầu mỏ tăng cao khiến cho tình hình an
ninh dầu mỏ nói riêng và an ninh năng lƣợng trên thế giới bị đe doạ.
3.1.2 Tác động đến an ninh khu vực Trung Đông
Chính sách ngoại giao dầu mỏ của Mỹ với Iraq đã gây ra những tác động
tiêu cực với tình hình an ninh khu vực Trung Đông với 2 cuộc chiến tranh
vùng Vịnh năm 1990-1991 và 2003. Tình hình bất ổn này còn kéo dài thêm
bởi cuộc chiến giữa quân đội Mỹ và các lƣợc lƣợng nổi dậy chống lại sự
chiếm đóng của Mỹ tại Iraq trƣớc khi Mỹ rút quân khỏi Iraq vào năm 2011.
Không chỉ trực tiếp gây ra bất ổn bằng lƣc lƣợng quân sự, thái độ chia rẽ về
quan điểm của các nƣớc Trung Đông trong hai cuộc chiến này cũng là một tác
động tiêu cực của chính sách này lên an ninh khu vực Trung Đông.
Chính sách ngoại giao dầu mỏ của Mỹ với Iraq còn làm mất đi sự cân
bằng chiến lƣợc tại Trung Đông. Trƣớc cuộc chiến tranh Iraq năm 2003,
chính quyền Saddam Hussein của ngƣời Sunni vốn là đối trọng với chính
quyền Shi‟ite của Iran. Sau cuộc chiến, ảnh hƣởng của Tehran đối với đa số
ngƣời Shi‟ite lên nắm quyền ở Iraq đã tăng lên khi Mỹ thất bại trong việc đảm
bảo an ninh và sự ổn định tại Iraq. Iran đã bắt đầu củng cố đƣợc quan hệ của
mình ở nƣớc này, tạo ra vùng ảnh hƣởng ngƣời Shi‟ite từ các đƣờng biên giới
phía Đông Địa Trung Hải. Iraq là điểm then chốt trong "Chiến lƣợc Trung
Đông" của Iran, là bàn đạp cho nƣớc này tiến vào thế giới Arập. Điều này giải
thích tại sao Tehran đã bắt đầu can dự quân sự trực tiếp ở Iraq và các lực
lƣợng cách mạng Hồi giáo Iran đang tham gia với những chiến binh ngƣời
Shi'ite do Iran hậu thuẫn và các lực lƣợng quân đội Iraq trong trận chiến
chống IS ở Tikrit hiện nay.
66 Gaurav Agnihotri, Sđd
56
Hơn thê nữa, việc lật đổ Tổng thống Iraq Saddam Hussein đã tạo khoảng
trống quyền lực cho chủ nghĩa khủng bố phát triển mạnh chƣa từng có ở tại
khu vực Trung Đông khiến cho khu vực vốn đã bất ổn này trở nên hỗn loạn
hơn nữa. Đây là điều mà Mỹ không mong muốn và hoàn toàn trái với mục
tiêu “dân chủ hóa” Iraq nhƣ đã đƣợc đề ra trong “Đề án Đại Trung Đông” của
Mỹ. Trƣớc cuộc chiến, al-Qaeda không có lực lƣợng ở Iraq, nhƣng sau cuộc
chiến, al-Qaeda đã hiện diện ở đây. Al-Qaeda và các lƣợc lƣợng khủng bố
khác, tiêu biểu là IS đã và đang lợi dụng sự oán giận của ngƣời Iraq đối với
quân Mỹ để tập hợp lực lƣợng, kêu gọi thánh chiến, mở các vụ tấn công
khủng bố ngày càng nhiều, dẫn tới tình trạng bạo lực diễn ra triền miên khiến
nhiều ngƣời chuyển từ lo ngại sang chỉ trích khả năng duy trì trật tự - an ninh
của các lực lƣợng an ninh Iraq. Iraq trở thành “thiên đƣờng” của các lực
lƣợng thánh chiến hồi giáo Jihad chuyên coi khủng bố là công cụ phát huy
ảnh hƣởng ra khắp thế giới. Nguy cơ khủng bố nổi lên khắp thế giới, thậm chí
cả trong lòng nƣớc Mỹ nhƣ đã đƣợc ghi nhận trong Chiến lƣợc an ninh quốc
gia Mỹ năm 2010.
Đặc biệt, một trong những hậu quả lớn nhất của chính sách ngoại giao
dầu mỏ của Mỹ tại Iraq là sự ra đời và phát triển nhanh nhƣ nấm độc của tổ
chức “Nhà nƣớc Hồi giáo Iraq và Syria” (IS). Chính chính sách ngoại giao
dầu mỏ với việc ủng hộ các phe đối lập để lật đổ chính quyền Iraq từ bên
trong và chính sách chia rẽ tôn giáo của Mỹ ở Trung Đông là những nguyên
nhân chính dẫn đến sự ra đời của Nhà nƣớc Hồi giáo IS do Abu Bakr al
Baghdadi thành lập. Đây là một nhóm chiến binh ngƣời Hồi giáo dòng Sunni
đƣợc phát triển từ tổ chức “Nhà nƣớc Hồi giáo Iraq”, một nhánh của al-Qaeda
ra đời năm 2003 sau khi Mỹ bắt đầu cuộc chiến Iraq. Chính thức đƣợc thành
lập cuối năm 2012 sau khi sát nhập với một đối thủ liên kết với al-Qaeda hoạt
động tại Syria là Mặt trận al-Nusra, IS đã chiếm một số khu vực ở Syria làm
57
căn cứ, treo cờ thánh chiến ở khắp mọi nơi họ kiểm soát đồng thời áp đặt các
đạo luật Hồi giáo cực đoan tại những nơi này. Ƣớc tính hiện IS có khoảng
7.000 đến 10.000 thành viên, vốn là các cựu chiến binh al-Qaeda, cựu chiến
binh quân đội Saddam Hussien và các cựu thành viên đảng Batth. IS đƣợc cho
là cực đoan, tàn bạo còn hơn al-Qaeda nên những nguy cơ an ninh nó nhƣ gây
mất ổn định cho toàn bộ Trung Đông, tác động đến thị trƣờng dầu mỏ thế giới
và có thể tạo ra một làn sóng khủng bố toàn cầu mới còn nguy hiểm hơn vụ
tấn công khủng bố 11/9/2001 trƣớc đây.
3.1.3 Tác động đến Iraq
Chính sách ngoại giao dầu mỏ của Mỹ vốn hƣớng đến việc xây dựng
một chính quyền Iraq thân Mỹ đã để lại một xã hội Iraq phân hoá sâu sắc với
các xung đột sắc tộc, tôn giáo ngày càng dữ dội. Trong quá khứ, Mỹ đã liên
tiếp sử dụng công cụ ủng hộ cả tài chính và vũ khí quân sự cho các phe đối
lập để lật đổ chính quyền chống Mỹ tại Iraq. Chính điều này đã tạo điều kiện
cho các phe phái lớn mạnh trong lòng Iraq, gây nên sự chia rẽ sâu sắc giữa
các nhóm sắc tộc và tôn giáo. Ngay cả khi Mỹ trao quyền kiểm soát Iraq lại
cho ngƣời dân Iraq để rút quân về nƣớc năm 2011, những bất đồng trong việc
phân chia quyền lợi kinh tế và chính trị của các phe cánh vẫn là nguyên nhân
chính không thể gắn kết các đảng phái lớn để đƣa đất nƣớc thoát khỏi khó
khăn. Thủ tƣớng Iraq Nouri Al Maliki, một ngƣời Hồi giáo dòng Shi‟ite, đã
tƣớc bỏ chức vụ của rất nhiều chính trị gia Hồi giáo dòng Sunni, tạo ra một
bất đồng mang tính sắc tộc lớn tại Iraq.Mỹ đã lật đổ một chế độ Mỹ gọi là độc
tài của Saddam Hussein và dựng lên một chế độ của một nhà độc tài mới -
Nuri Al Maliki.
Bất chấp một chính phủ chia sẻ quyền lực giữa ngƣời Hồi giáo dòng
Sunni, ngƣời Hồi giáo dòng Shi‟ite và ngƣời Kurd, vẫn còn nhiều vụ tranh
giành quyền lực giữa các phe phái tại Iraq. Ngƣời dân Iraq lo ngại những
58
xung đột tiềm tàng giữa 3 sắc tộc trên và cả các hoạt động bạo loạn liên quan
đến Al-Qaeda sẽ có cơ hội bùng lên sau khi Mỹ rút đi. Chƣa kể là khu vực
phía Bắc của ngƣời Kurd luôn đòi tự trị, điều mà Mỹ chƣa thể giải quyết
trong cuộc chiến dù đã hứa xem xét khi Mỹ thuyết phục ngƣời Kurd ủng hộ
mình lật đổ ông Saddam. Sau 10 năm, ngƣởi Kurd trên thực tế đã thành lập
đƣợc nhà nƣớc độc lập ở phía bắc Iraq là Kurdistan. Đây là quốc gia khá thịnh
vƣợng với quốc kỳ, quốc ca và chính phủ riêng cũng nhƣ các lực lƣợng vũ
trang riêng với quân số khá đông và đƣợc trang bị khá hiện đại. Nền kinh tế của Kurdistan dựa trên cơ sở khai thác và xuất khẩu dầu mỏ. Ai đến Iraq vào
lúc này có thể cảm nhận thấy rất rõ sự chia cắt không thể đảo ngƣợc của đất
nƣớc này thành nhiều khu vực khác nhau, trong đó khu vực của Kurdistan
đƣợc phân định bằng hàng rào dây thép gai, có các chòi canh và các trạm
kiểm soát với các đơn vị vũ trang thƣờng trực sẵn sàng đáp trả bất cứ hành
động nào của Iraq có ý định tiến công từ hƣớng phía nam lên.
Chính sự chia rẽ sâu sắc từ bên trong này khiến cho an ninh Iraq trở nên
tồi tệ và vƣợt quá tầm kiểm soát của cả Mỹ và chính phủ Iraq sau khi Mỹ rút
đi. Các quan chức cấp cao quân đội Mỹ nói thẳng ra là họ lo ngại cho khả
năng bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ của Iraq, kể cả an ninh của các khu vực khai
thác dầu trên đất liền và ngoài khơi vịnh Persic. Ngay cả buổi lễ đánh dấu sự
rút quân ra khỏi Iraq, Mỹ cũng phải huy động trực thăng bảo vệ an ninh. Các
cuộc bàn giao các căn cứ quân sự của Mỹ cho phía Iraq cũng diễn ra âm thầm,
tránh trở thành mục tiêu tấn công của các tay súng nổi dậy.
Nhà nƣớc Hồi giáo IS, sản phẩm của chính sách ngoại giao dầu mỏ của
Mỹ cũng gây ra những tác động vô cùng nghiêm trọng lên Iraq. Nhà nƣớc Hồi
giáo IS ra đời từ làn sóng bạo lực giữa ngƣời Sunni và ngƣời Shiite tại Iraq
bùng ra sau khi Saddam Hussein bị lật đổ vào năm 2003. Quyền hành đƣợc
trao cho ngƣời Shiite từ lâu bị nằm ngoài rìa và ngƣời Sunni bị đẩy ra khỏi
59
guồng máy chính quyền và quân đội. Gần đây hơn, chính sách mạnh mẽ của
Thủ tƣớng Al-Maliki đã khiến ngƣời Sunni xa lánh và quay sang hàng ngũ IS.
IS gây bất ổn định nghiêm trọng đối với Iraq, gây ra sự xáo trộn lớn và dòng
chảy tị nạn khổng lồ. Khu tự trị của ngƣời Kurd đang bị đe dọatrong khi sức
mạnh của các lực lƣợng thánh chiến đang ngày càng gia tăng. Hơn thế nữa,
Nhà nƣớc IS đã đánh chiếm các mỏ dầu lớn và tấn công các cơ sở khai thác
và chế biến dầu mỏ nằm trong tay chính quyền Iraq khiến cho nền kinh tế mới
hồi phục sau chiến tranh của Iraq vốn dựa vào dầu mỏ trở nên lung lay hơn
bao giờ hết. Rõ ràng, Nhà nƣớc Hồi giáo IS là hệ luỵ nguy hiểm và khó đối
phó nhất của chính sách ngoại giao dầu mỏ của Mỹ với Iraq hiện nay.
Với những tác động sâu sắc lên tình hình nội bộ đất nƣớc Iraq cũng nhƣ
khu vực Trung Đông về nhiều mặt và đặc biệt là tác động đến an ninh dầu mỏ
toàn cầu, chính sách ngoại giao dầu mỏ của Mỹ với Iraq cần đƣợc đánh giá
một cách toàn diện về thành tựu và tồn tại trƣớc khi đƣa ra những dự báo về
triển vọng của chính sách này trong tƣơng lai.
3.2 Đánh á và tr ển vọn củ chính sách n o o ầu mỏ củ
Mỹvớ Ir q
3.2.1 Đánh giá về chính sách ngoại giao dầu mỏ của Mỹ với Iraq
3.2.1.1 Thành tựu
Thành công đầu tiên và dễ nhận thấy nhất của chính sách ngoại giao dầu
mỏ của Mỹ là Mỹ đã gia tăng sự tham gia vào ngành công nghiệp khai thác
dầu mỏ tại Iraq. Từ việc không hề có cổ phần nào trong công ty khai thác dầu
mỏ Iraq vào những năm 1920, hiện nay Mỹ đã tiến đến việc kiểm soát phần
lớn ngành công nghiệp này tại Iraq. Các công ty Mỹ cũng nắm giữ hầu hết
các hợp đồng tái thiết và phát triển ngành công nghiệp khai thác dầu mỏ tại
Iraq từ sau cuộc chiến năm 2003. Các tập đoàn dầu mỏ Mỹ đã trúng thầu xây
dựng và khai thác dầu tại các khu vực thuận lợi ở Iraq, chẳng hạn tập đoàn
60
Exxon đã thắng thầu khai thác mỏ dầu Qurna, một trong những nơi có trữ
lƣợng dầu lớn nhất Iraq, tại thành phố Basra. Năm 2013, bốn tập đoàn dầu mỏ
hàng đầu thế giới của Mỹ (gồm Halliburton, Baker Hughes, Weatherford
International và Schlumberger) hiện đã thắng đƣợc phần lớn nhất trong toàn
bộ các gói thầu phát triển ngành dầu mỏ Iraq. Các gói thầu này bao gồm việc
khoan mỏ dầu, xây dựng các giếng dầu và tái tạo các thiết bị cũ hoặc hƣ hỏng.
Tờ New York Times (Mỹ) dẫn đánh giá của giới phân tích Mỹ ƣớc tính
khoảng phân nửa tổng nguồn đầu tƣ trị giá 150 tỉ đôla Mỹ mà các tập đoàn
quốc tế dự kiến đổ vào ngành dầu mỏ Iraq trong 10 năm tới đã rơi vào tay bốn tập đoàn nói trên67. Chính điều này khiến chính quyền Mỹ không lo ngại quá
lớn với việc xuất hiện ngày càng nhiều các công ty của Nga, Trung Quốc,
Iran, hay bất kỳ quốc gia nào khác tham gia tranh đoạt “miếng bánh” Iraq của
mình.
Ngoài ra, Mỹ còn đảm bảo đƣợc việc đồng đôla đƣợc sử dụng để thanh
toán các hợp đồng mua bán dầu mỏ tại Iraq. Mỹ đã tiến hành nhiều biện pháp
khác nhau để đảm bảo điều nay, bao gồm cả việc tiến hành chiến tranh iraq
năm 2003 khi Iraq tuyên bố dùng đồng Euro để thay đồng đôla thanh toán các
hợp đồng dầu mỏ theo chƣơng trình Đổi dầu lấy lƣơng thực của Liên Hiệp
Quốc. Và Mỹ đã thành công khi vị thế đồng đôla dầu mỏ đƣợc đảm bảo tại
Iraq và trên thị trƣờng dầu mỏ thế giới đúng nhƣ mục tiêu của chính sách
ngoại giao dầu mỏ tại Iraq.
Một thành công đáng ghi nhận khác của chính sách ngoại giao dầu mỏ
của Mỹ với Iraq là Mỹ đã tiến hành thay đổi thành công các chính quyền
chống Mỹ tại Iraq. Tuy tiêu tốn rất nhiều thời gian, tiền bạc lẫn uy tín quốc tế
nhƣng nhìn về tổng thể, Mỹ đã can dự thành công vào việc thay đổi chính
67 Andrew E. Kramer, In Rebuilding Iraq’s Oil Industry, U.S. Subcontractors Hold Sway, The New York Times, tại địa chỉ http://www.nytimes.com/2011/06/17/business/energy-environment/17oil.html?_r=0 truy cập ngày 25/10/2015
61
quyền Iraq thông qua nhiều công cụ từ ủng hộ phe đối lập cho đến đích thân
tiến hành các hành động quân sự. Mỹ tích cực hỗ trợ đảng Baath tại Iraq tiến
hành đảo chính thành công để xây dựng một chính quyền thân Mỹ do nhà
lãnh đạo Iraq Abdel Karim Kassem đang nắm quyền tại Iraq lúc đó có thái độ
thân Liên Xô đồng thời công khai chống lại chủ trƣơng đoàn kết các nƣớc
Ảrập của Tổng thống Ai Cập Nasser thập kỷ 1960. Tiếp theo đó, khi chính
quyền của Tổng thống Saddam Hussein thể hiện khuynh hƣớng chống Mỹ,
Mỹ đã tiến hành 2 cuộc chiến tranh để trừng phạt và lật đổ chính quyền Iraq
vào năm 1990 và 2003. Ngay cả chính quyền của Thủ tƣớng Nouri al-Maliki
dù là do Mỹ hậu thuẫn trong cuộc bầu cử năm 2010 nhƣng khi chính quyền
này thể hiện xu thế khác biệt với Mỹ trong các vấn đề đối nội và đối ngoại,
Mỹ đã không ngần ngại ra điều kiện ông Nouri al-Maliki phải từ chức để Mỹ
tham gia chiến đấu chống lại tổ chức IS tại Iraq.
3.2.1.2 Tồn tại
Chính sách ngoại giao dầu mỏ của Mỹ hƣớng đến mục tiêu chính là đảm
bảo an ninh dầu mỏ của Mỹ nói riêng và an ninh dầu mỏ toàn thế giới nói
chung tuy nhiên trong thực tế triển khai lại khiến nó càng tệ đi khi sản lƣợng
khai thác tại Iraq sụt giảm nghiêm trọng trong thời gian chiến tranh. Mỹ cũng
không thể ngăn chặn việc các công ty Nga và Trung Quốc chen chân vào
ngành công nghiệp dầu mỏ tại Iraq. Năm 2009, chính quyền Iraq đã cho đấu
thầu 10 mỏ dầu. Kết quả là hai công ty của Nga là Lukoil và Statoil đƣợc
phép khai thác khu mỏ Tây Qurna-2, còn khu mỏ Badra thuộc về một số công
ty khác cũng của Nga. Hai mỏ Kayara và Neumann ở miền Trung Iraq cũng
thuộc quyền khai thác của các công ty Nga. Còn về phía Trung Quốc, cƣờng
quốc này hiện mua gần một nửa số dầu thô do Iraq khai thác, khoảng 1.5 triệu
thùng dầu một ngày, và nay đang tìm cách gia tăng nguồn cung cấp vô cùng
quan trọng cho công nghiệp sản xuất của mình bằng cách mua lại cổ phần của
62
công ty Exxon Mobil trong khu mỏ dầu lớn nhất của Iraq. “Trung Quốc là
nƣớc đƣợc lợi nhất trong việc gia tăng sản xuất dầu mỏ ở Iraq sau thời kỳ
Hussein. Họ cần nhiên liệu và họ muốn vào thị trƣờng này”- theo nhận định
của Denise Natali, một chuyên gia về Trung Đông tại Đại học Quốc phòng ở Washington68. Các công ty quốc doanh Trung Quốc nay đổ hơn 2 tỉ đôla Mỹ
mỗi năm và đƣa hàng trăm công nhân đến các mỏ dầu ở Iraq, sẵn sàng tuân
theo các quy luật của chính quyền Baghdad và chịu mức lời thấp để đƣợc thầu
khai thác dầu thô nơi đây. Ở sa mạc gần biên giới Iran, Trung Quốc mới đây
đã xây một sân bay của họ để chở công nhân đến các mỏ dầu ở phía Nam
Iraq. Ngoài ra cũng có các kế họach mở đƣờng bay trực tiếp từ Bắc Kinh và
Thƣợng Hải đến Banghdad trong thời gian ngắn sắp tới. Michael Makovsky,
một cựu viên chức quốc phòng thời Tổng thống George W. Bush từng phụ
trách về chính sách dầu mỏ ở Iraq đã nói: “Chúng ta (Mỹ) coi nhƣ bị gạt ra
ngoài. Phía Trung Quốc chẳng có đóng góp gì trong cuộc chiến, nhƣng nếu
nhìn từ góc cạnh kinh tế thì họ đang hƣởng lợi rất nhiều, và Hạm đội Năm của
chúng ta cũng nhƣ Không quân Mỹ đang giúp bảo đảm nguồn cung cấp dầu thô của họ”69.
Chính sách này cũng vấp phải thất bại khi không thể xây dựng một chính
phủ Iraq thân Mỹ để đảm bảo việc tiếp cận và kiểm soát nguồn dầu mỏ của
quốc gia này. Khi sử dụng các lực lƣợng đối lập để xây dựng một chính
quyền thân Mỹ trƣớc thời Saddam Hussein, Mỹ đã vô tình giúp đỡ để xây
dựng một chính quyền chống Mỹ gay gắt và dai dẳng mãi cho đến chính Mỹ
phải dùng chiến tranh để lật đổ vào năm 2003. Sau cuộc bầu cử Quốc hội Iraq
năm 2010 mâu thuẫn giữa Mỹ và I-rắc bắt đầu lộ diện khi Quốc hội Iraq bị
phân chia quyền lực giữa các liên minh giành đƣợc đa số ghế không nằm dƣới 68 Tim Arango và Clifford Krauss, China Is Reaping Biggest Benefits of Iraq Oil Boom, tại địa chỉ http://www.nytimes.com/2013/06/03/world/middleeast/china-reaps-biggest-benefits-of-iraq-oil- boom.html?_r=0 truy cập ngày 25/10/2015 69 Tim Arango và Clifford Krauss, Tlđd
63
sự kiểm soát hoàn toàn của Mỹ. Thủ tƣớng Nouri al-Maliki ra sức củng cố
quyền lực bằng cách, loại bỏ các thủ lĩnh Hồi giáo dòng Sunni và bộ tộc
ngƣời Cuốc; đồng thời, cải thiện quan hệ với I-ran – quốc gia đã từng là thù
địch với Mỹ. Trong khi đó, Mỹ lại ủng hộ ngƣời Kurd ở Iraq, khuyến khích
họ thành lập nhà nƣớc Kurdistan độc lập mà không có sự đồng ý của Chính
quyền Iraq. Chính phủ của Thủ tƣớng Nouri al-Maliki kiên quyết chống lại
chủ trƣơng này và cho rằng, Mỹ đang thực hiện chủ trƣơng muốn chia nhỏ đất
nƣớc Iraq thành ba quốc gia độc lập, trong đó có một nhà nƣớc dành cho
ngƣời Kurd. Không chỉ ở trong nƣớc, chính quyền Iraq còn thể hiện những
quan điểm trái ngƣợc với Mỹ trong các vấn đề đối ngoại. Thủ tƣớng Nouri al-
Maliki bắt đầu hành động và bày tỏ quan điểm phản đối Mỹ trong vấn đề
Syria. Biểu hiện cho sự chuyển hƣớng chiến lƣợc này là Chính quyền Iraq đã
cho phép máy bay vận tải của Iran chở hàng quân sự đi qua không phận Iraq
để viện trợ cho Syria. Ngoài ra, trên một vùng lãnh thổ ở phía Bắc Iraq hiện
có một cơ quan chỉ huy thuộc các lực lƣợng vũ trang Iran hoạt động dƣới
danh nghĩa của Iraq để đối phó với ngƣời Kurd. Trong bối cảnh ấy, tháng
10/2012, Thủ tƣớng Nouri al-Maliki đã có chuyến thăm lịch sử tới Nga và đã
ký nhiều hợp đồng và thoả thuận quan trọng với Chính phủ Nga, trong đó có
hợp đồng mua vũ khí trị giá hàng tỷ đôla Mỹ. Theo giới phân tích, kể từ sau
chuyến thăm Nga lần này của Thủ tƣớng Nouri al-Maliki, Iraq đã trở thành một đồng minh mới của Nga ở Trung Đông70.
3 Tr ển vọn củ chính sách n o o ầu mỏ củ Mỹ vớ Ir q
3.2.2.1 Thời gian triển hai
Trong tƣơng lai, bất chấp việc Mỹ đẩy mạnh việc nghiên cứu và sử dụng
các nguồn nhiên liệu thay thế khác cũng nhƣ tìm kiếm nguồn dầu mỏ từ các
70 Alberto Riva, More Arms For Baghdad: Iraq Buys $4.2 Billion In Russian Weapons, International Business Times tại địa chỉ http://www.ibtimes.com/more-arms-baghdad-iraq-buys-42-billion-russian- weapons-843785 truy cập ngày 25/10/2015
64
khu vực khác, Mỹ vẫn sẽ tiếp tục phụ thuộc vào nguồn dầu mỏ từ Iraq và
Trung Đông. Do đó, chính sách ngoại giao dầu mỏ của Mỹ với Iraq sẽ đƣợc
tiếp tục triển khai tiếp tục ở các đời Tổng thống sau ông Obama. Chiến lƣợc
này xuất phát từ những lợi ích và gắn kết lâu dài của Mỹ với Iraq nói riêng và
khu vực Trung Đông nói chung chứ không phải từ những điều kiện nhất thời
hay tƣ duy đối ngoại của cá nhân Tổng thống do đó nó vẫn sẽ đƣợc duy trì bởi
chính quyền nƣớc Mỹ vốn nổi tiếng bởi tính thực dụng và duy lý. Ngay từ
những ngày đầu công bố chiến lƣợc ngoại giao năng lƣợng, chính quyền Mỹ
đã khẳng định đặc điểm quan trọng của chiến lƣợc này là những cam kết của
Mỹ mang tính lâu dài, thậm chí sẽ đƣợc thực hiện qua nhiều thế hệ khác nhau.
Điều này có nghĩa các tổng thống Mỹ sau này sẽ tiếp tục triển khai tƣ duy
này, tuy mỗi bƣớc đi có thể đƣợc điều chỉnh cho phù hợp với thực tiễn.
Tuy nhiên, chính trị Mỹ có đặc điểm là chịu ảnh hƣởng lớn bởi các cá
nhân trong xã hội, nhất là tầng lớp lãnh đạo nên quá trình tái xác định khu vực
ƣu tiên cũng có vai trò của những nhân vật quan trọng, nhất là Tổng thống,
cũng nhƣ đội ngũ hoạch định chính sách đối ngoại, an ninh, quốc phòng.
Trong tƣơng lai gần, khu vực châu Á – Thái Bình Dƣơng với tầm quan trọng
không chỉ với nƣớc Mỹ mà còn với cả thế giới sẽ vẫn nhận đƣợc sự quan tâm
xứng đáng. Tuy nhiên từng thời Tổng thống sẽ có những ƣu tiên riêng về từng
khu vực, ví dụ nhƣ Tổng thống Bush nghiêng về Trung Đông còn Tổng thống
Obama nghiên về châu Á Thái Bình Dƣơng. Với vai trò quan trọng và chƣa
thể thay thế của dầu mỏ trong tƣơng lai gần cũng nhƣ nguồn dầu mỏ còn rất
dồi dào của Iraq thì cho dù chính sách ngoại giao dầu mỏ với Iraq trong tƣơng
lai không còn là ƣu tiên khu vực số 1 của các Tổng thống đời sau thì nó vẫn
sẽ tiếp tục đƣợc duy trì với một vị trí quan trọng trong chính sách đối ngoại
của Mỹ.
65
3.2.2.2 H nh thức triển hai
Chính sách ngoại giao dầu mỏ của Mỹ với Iraq trong thời gian tới sẽ
đƣợc triển khai tập trung vào các công cụ kinh tế và ngoại giao nhiều hơn là
các công cụ quân sự.
Các công cụ kinh tế sẽ sẽ tập trung vào việc thúc đẩy sự tham gia về cả
chiều rộng và chiều sâu của Mỹ vào ngành công nghiệp khai thác dầu mỏ tại
Iraq. Nổi bật nhất là một tầm nhìn đầy tham vọng nhƣng khả thi: một đƣờng
ống dẫn dầu chiến lƣợc từ các mỏ dầu khổng lồ ở Basra (nơi chiếm tới 80
phần trăm trữ lƣợng dầu mỏ của Iraq) đến nhà máy lọc dầu ở Haditha tỉnh
Anbar; đƣờng ống phía tây nam xuyên qua Jordan đến Biển Đỏ; và đƣờng
ống kết nối miền Bắc, Thổ Nhĩ Kỳ và Địa Trung Hải. Ba đƣờng ống xuất
khẩu - Vịnh Ả Rập, Biển Đỏ và Địa Trung Hải - sẽ xây thêm phần dự phòng
cho cơ sở hạ tầng xuất khẩu quốc gia của Iraq, tạo thuận lợi cho sự phát triển
của tất cả các vùng miền của Iraq và sắp xếp các lợi ích của các đối tác khu vực trong một đất nƣớc Iraq ổn định và thịnh vƣợng71.
Cùng với tầm nhìn này là một thỏa thuận chia sẻ doanh thu để đảm bảo
các khoản thu từ dầu mỏ đƣợc chia sẻ một cách công bằng, và, về dài hạn,
hƣớng đến một hệ thống pháp luật mới để quản lý lĩnh vực khai thác dầu mỏ
và đảm bảo khả năng dự báo pháp lý để các bên tham gia thị trƣờng. Mỹ
muốn nguồn dầu từ tất cả các vùng miền Iraq, từ Bắc vào Nam, tiếp cận với
thị trƣờng toàn cầu trong thời gian sớm nhất có thể và theo cách tăng cƣờng
sự ổn định. Hiện nay Iraq sản xuất 3 triệu thùng dầu mỗi ngày, nhƣng theo
kịch bản trung tâm của các dự án của IEA thì con số này có thể tăng lên đến 6
triệu thùng mỗi ngày vào năm 2020, và sẽ là 8 triệu thùng mỗi ngày vào năm
71 Testimony of Brett McGurk, Deputy Assistant Secretary for Iraq and Iran, Near Eastern Affairs House Foreign Affairs Committee, Subcommittee on the Middle East and North Africa, U.S. Foreign Policy Toward Iraq, bản online tại địa chỉ http://www.state.gov/p/nea/rls/rm/217546.htm truy cập ngày 4/11/2015
66
2035, với doanh thu trong giai đoạn này khoảng 5 nghìn tỷ đôla72.
Mỹ sẽ không đứng về phía nào trong các tranh chấp nội bộ liên quan đến
việc phân bổ nguồn thu và quản lý nguồn tài nguyên dầu mỏ. Thay vào đó,
Mỹ tập trung vào các nguyên tắc đƣợc ghi trong hiến pháp Iraq và châm ngôn
rằng phân chia hòa bình một chiếc bánh lớn luôn luôn là tốt hơn chiến đấu để
giành lấy chiếc bánh nhỏ. Vì vậy, Mỹ sẽ tập trung vào việc tăng cƣờng sản
xuất và xuất khẩu, khắc phục các rào cản mà các công ty Mỹ phải đối mặt khi
hoạt động tại Iraq cũng nhƣ hỗ trợ chuyên môn và kỹ thuật cho ngành khai
thác dầu mỏ tại Iraq phù hợp theo Hiệp định chiến lƣợc khung giữa hai nƣớc.
Những nỗ lực này sẽ đẩy nhanh trong thời gian tới sau khu Ủy ban điều phối chung về hợp tác năng lƣợng vào đầu năm 2014 đƣợc thành lập73.
Các công cụ quân sự cũng sẽ đƣợc Mỹ sử dụng một các giới hạn trong
các trƣờng hợp cần thiết. Mỹ sẽ tiến hành các cuộc tấn công từng phần với
các mục tiêu và ranh giới rõ ràng để tránh sa vào một cuộc chiến “hao ngƣời,
tốn của” thay cho một cuộc tấn công quan sự toàn diện nhƣ Mỹ đã từng thực
hiện năm 1990 và 2003. Ông Obama đã mạnh mẽ phủ nhận khả năng Mỹ đƣa
quân quay trở lại Iraq để tiêu diệu Nhà nƣớc Hồi giáo IS rằng “Chúng ta sẽ
không đƣa quân Mỹ đến chiến đấu ở Iraq một lần nữa. Và chúng ta sẽ duy trì
điều này, bởi vì chúng ta đã học đƣợc một bài học từ sự tham chiến lâu dài và vô cùng tốn kém của chúng ta ở Iraq trƣớc đây”74. Điều này xuất phát từ yếu
tố cả bên ngoài và bên trong khi tình hình Iraq và khu vực Trung Đông phức
tạp còn ngân sách tài chính Mỹ thì trong tình trạng “giật gấu vá vai” và những
lời kêu gọi chống chiến tranh ở nội bộ Mỹ lên cao.
Tình hình Iraq và khu vực Trung Đông hiện nay rất phức tạp và khó giải
72 International Energy Agency, Iraq Energy Outlook, Oct. 9, 2012, p. 11 73 The U.S. Embassy in Baghdad, Joint Statement of the Iraq-U.S. Joint Coordination Committee on Energy, bản online tại địa chỉ http://iipdigital.usembassy.gov/st/english/texttrans/2014/02/20140205292353.html - ixzz3qVikqwb8 truy cập ngày 4/11/2015 74 The White House, Statement by the President on Iraq, tại địa chỉ https://www.whitehouse.gov/the-press- office/2014/08/09/statement-president-iraqtruy cập ngày 4/11/2015
67
quyết trong ngắn hạn. Hiện nay, nguyên nhân của tình hình bất ổn ở Iraq rất
phức tạp: hậu quả từ việc Mỹ bỏ qua Liên hợp quốc phát động chiến tranh
Iraq, các nƣớc phƣơng Tây ủng hộ phe đối lập Syria, trong nội bộ Iraq, chính
quyền dòng Shi‟ite thực hiện chính sách chèn ép dòng Sunni không thỏa đáng
đem lại cơ hội cho các lực lƣợng khủng bố nhƣ Nhà nƣớc Hồi giáo IS, do tiến
hành cuộc chiến chống khủng bố, các phần tử cực đoan trên thế giới ngày
càng nhiều… Trong tình hình này, một loạt nỗ lực xây dựng môi trƣờng an
ninh, hòa bình, ổn định khu vực của Chính phủ Mỹ đều rơi vào kết cục không
tích cực. Tình hình “thế chân vạc” giữa chính quyền dòng Shi‟ite, ngƣời Kurd
và IS ở Iraq hiện nay dần dần hình thành. Mỹ đã nhận thức đầy đủ rằng, việc
can thiệp quân sự từ bên ngoài một cách đơn thuần khó mà mang lại sự ổn
định cho khu vực, nên việc điều động lƣợc lƣợng quân sự “quay trở lại” Iraq
sẽ không mang lại hiệu quả cao.
Bên cạnh đó, thực lực tài chính của Mỹ khó lòng kham nổi việc đƣa
quân quay lại “vùng lầy Iraq”. Bản thân nƣớc Mỹ cũng đang Mỹ sa lầy vào
các cuộc xung đột kéo dài hơn 1 thập kỷ ở Afghanistan (từ năm 2001 đến nay) và Iraq (từ 2003-2011) và tiêu tốn 6.000 tỉ đôla Mỹ75. Trƣớc đó, chính
quyền ông Bush từng quả quyết cuộc chiến ở Iraq tự cung cấp tài chính nhờ
vào nguồn lợi dầu mỏ của quốc gia Trung Đông này. Thế nhƣng trên thực tế,
Washington đã vay mƣợn khoảng 2.000 tỉ đôla Mỹ, phần lớn từ các tổ chức
tài chính nƣớc ngoài, để trang trải cho cả 2 cuộc chiến. Với các khoản vay này, mỗi năm nƣớc Mỹ sẽ phải chi 260 tỉ đôla Mỹ tiền lãi76. Các chuyên gia
cảnh báo di sản từ cuộc chiến tranh Iraq và Afghanistan còn ảnh hƣởng lớn
đến ngân sách liên bang trong nhiều thập niên sau này. Trong bối cảnh kinh tế
Mỹ suy yếu với cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính xuất hiện từ năm 2008
và bị ảnh hƣởng rất lớn bởi suy thoái kinh tế tại các nƣớc khác khi châu Âu
75 Linda Bilmes, Joseph E. Stiglitz (2008), The Three Trillion Dollar War: The True Cost of the Iraq Conflict, Nxb W. W. Norton, New York, tr. 34 76 Linda Bilmes, Joseph E. Stiglitz (2008), Sđd, tr. 56
68
vƣớng phải cuộc khủng hoảng nợ công, Trung Quốc phát triển kinh tế quá
nhanh và quá nóng với nhiều bất ổn tiềm ẩn, Nhật Bản vừa hứng chịu thảm
hoạ động đất – sóng thần… thì khả năng nƣớc Mỹ có thể xoay sở cho một
cuộc chiến mới tại Iraq là không thể.
Thay thế cho việc sử dụng công cụ quân sự tiến hành một cuộc tấn công
toàn diện Iraq, Mỹ có thể sử dụng một số công cụ khác để ổn định tình hình
Iraq nhƣ sử dụng các công cụ ngoại gia để ổn định tình hình Iraq. Nỗ lực đạt
đƣợc một giải pháp ngoại giao giữa các lực lƣợng tại Iraq bao gồm các phe
đối lập lẫn các quốc gia bên ngoài có thể đƣợc xem là mục tiêu trung tâm.
Chính Iraq phải tự mình sắp xếp lại cục diện đất nƣớc. Tổng thống Obama
cũng đã khẳng định “Mỹ sẽ làm phần việc của mình. Tuy nhiên cuối cùng
mọi việc vẫn phụ thuộc vào chính ngƣời dân Iraq, với tƣ cách là một quốc gia có chủ quyền, để giải quyết vấn đề của họ”77.
Ngoài ra, Mỹ vẫn duy trì việc sử dụng công cụ ủng hộ các phe đối lập để
tiến hành lật đổ chính quyền không thân thiện với Mỹ từ bên trong. Đây là
một công cụ quen thuộc, đƣợc Mỹ sử dụng có hiệu quả trong thời gian dài
triển khai chính sách ngoại giao dầu mỏ tại Iraq. Trong hoàn cảnh Mỹ chƣa
thể triển khai một cuộc tấn công quân sự toàn diện để xoá bỏ chính quyền
Iraq khi chính quyền này có những hành động hoặc thái độ cản trở các lợi ích
liên quan đến an ninh dầu mỏ của Mỹ thì việc Mỹ tác động thay đổi chính
quyền từ bên trong thông qua việc ủng hộ các phe phái đối lập nổi dậy sẽ giúp
Mỹ giữ gìn đƣợc cả hình ảnh đất nƣớc lẫn tiết kiệm đƣợc cả về tài chính và
nhân lực. Hơn thế nữa, việc giúp đỡ các phe đối lập còn làm tình hình Iraq
thêm rối ren, chính phủ Iraq non yếu chƣa thể kiểm soát càng phải dựa dẫm
vào Mỹ. Con bài mặc cả về sự tham gia sâu rộng hơn của Mỹ vào ngành công
nghiệp khai thác dầu mỏ tại Iraq và nhiều vấn đề khác từ đó mà trở nên có sức
nặng hơn nhiều.
77 The Huffington Post, Obama: The U.S. Won't Send Troops Back Into Combat In Iraq tại địa chỉ http://www.huffingtonpost.com/2014/06/13/obama-iraq_n_5492117.html truy cập ngày 25/10/2015
69
Tiểu kết
Tóm lại, chính sách ngoại giao dầu mỏ của Mỹ tại Iraq đƣợc triển khai từ
những năm 1920 của thế kỉ trƣớc đến nay đã gây ra những tác động lớn đến
cả Iraq, an ninh khu vực Trung Đông và an ninh dầu mỏ thế giới. Chính sách
này để lại hậu quả là một Iraq hoang tàn bởi chiến tranh và phân hoá sâu sắc
với các xung đột sắc tộc, tôn giáo ngày càng dữ dội. An ninh khu vực Trung
Đông thì xấu đi thấy rõ với các cuộc chiến tranh do Mỹ khởi xƣớng lẫn sự
chia rẽ trong thái độ của các nƣớc trong khu vực về chính sách ngoại giao dầu
mỏ của Mỹ với Iraq. An ninh dầu mỏ thế giới cũng bị tác động bởi các cuộc
chiến tại đây đã đẩy giá dầu tăng cao một cách kỉ lục. Đặc biệt, Nhà nƣớc Hồi
giáo IS ra đời và gây ra những tác động to lớn không chỉ với riêng Iraq mà
còn với cả khu vực Trung Đông. Đƣợc xem là một đứa con do chính chính
sách ngoại giao dầu mỏ của Mỹ tại Iraq hình thành và nuôi dƣỡng, Nhà nƣớc
Hồi giáo IS lại đang quay trở lại đe doạ chính nƣớc Mỹ và cả thế giới. Chính
sách đối phó với tổ chức khủng bố nguy hiểm này cần phải có sự phối hợp
của nhiều công cụ và sự hợp tác của nhiều quốc gia. Rõ ràng, đây là hệ luỵ
nguy hiểm và khó đối phó nhất của chính sách ngoại giao dầu mỏ của Mỹ với
Iraq. Đối với chính bản thân nƣớc Mỹ, chính sách này đƣợc đánh giá là thất
bại nhiều hơn thành công. Mỹ đã trả một chi phí quá đắt về cả tài chính, nhân
lực lẫn uy tín quốc gia nhƣng thành quả thu đƣợc lại không nhƣ kỳ vọng. Bất
chấp những thành công đáng ghi nhận về sự tham gia của Mỹ và ngành công
nghiệp dầu mỏ Iraq, Mỹ hiện nay vẫn chƣa thể kiểm soát hoàn toàn ngành
công nghiệp này. Tuy Mỹ thành công khi lật đổ đƣợc các chính quyền có
khuynh hƣớng chống Mỹ tại Iraq nhƣng chính quyền mới dựng lên do Mỹ
hậu thuẫn vẫn không phải là thân Mỹ hoàn toàn. Mỹ chi trả chi phí cho các
cuộc chiến tranh nhƣng các nƣớc đứng ngoài cuộc chiến nhƣ Nga và Trung
Quốc lại thu đƣợc lợi ích lớn. Do những hạn chế này mà trong tƣơng lai,
70
chính sách này sẽ tiếp tục đƣợc triển khai với các công cụ chính là kinh tế và
chính trị chứ Mỹ sẽ không tiến hành một cuộc tấn công quân sự toàn diện nhƣ
trong quá khứ. Tuy vậy, với vai trò quan trọng và khó thay thế của dầu mỏ
cũng nhƣ nguồn cung dồi dào của Iraq thì chính sách này vẫn sẽ đƣợc tiếp tục
triển khai dƣới các đời Tổng thống trong tƣơng lai của Mỹ.
71
KẾT LUẬN
Là cƣờng quốc dẫn đầu thế giới nhƣng bản thân Mỹ lại là một nƣớc nhập
khẩu dầu mỏ, phụ thuộc chủ yếu vào nguồn dầu mỏ từ bên ngoài. Bị tác động
bởi yếu tố nguồn cung hạn chế và nguồn cầu ngày càng gia tăng ở cả trong và
ngoài nƣớc, sự bất ổn về an ninh của nguồn cung dầu mỏ và đặc biệt là sự
xung đột về quan niệm của các chủ thể trong mối quan hệ cung – cầu dầu mỏ,
Mỹ đã đƣa ra chính sách ngoại giao dầu mỏ với mục tiêu chính là đảm bảo
nguồn dầu mỏ từ các nguồn cung bên ngoài, đặc biệt là khu vực Trung Đông.
Chính sách này còn hƣớng đến việc đảm bảo vai trò và ảnh hƣởng của Mỹ tại
các “cửa ô” của quá trình khai thác và vận chuyển dầu mỏ trên toàn thế giới.
Là một phần của chính sách ngoại giao dầu mỏ của Mỹ trên toàn cầu,
chính sách ngoại giao dầu mỏ của Mỹ tại Iraq cũng mang những đặc điểm
chung của chính sách này. Tuy nhiên, Iraq lại là một khu vực với nhiều điểm
khác biệt nhƣ đây là nguồn dầu mỏ dồi dào tại Trung Đông, nội bộ đất nƣớc
chia rẽ vì xung đột tôn giáo và sắc độc đồng thời Iraq cũng là nơi tranh
giành ảnh hƣởng của các cƣờng quốc suốt chiều dài lịch sử. Do đó, chính
sách ngoại giao dầu mỏ của Mỹ với đất nƣớc này cũng có nhiều điểm khác
biệt. Lợi ích của Mỹ tại khu vực này không chỉ gói gọn trong việc đảm bảo
quyền tiếp cận nguồn tài nguyên thiên nhiên có trữ lƣợng lớn thứ 2 thế giới
này mà còn mở rộng ra rộng lớn hơn nhiều với lợi ích về an ninh tiền tệ, ảnh
hƣởng chiến lƣợc lẫn cân bằng quyền lực tại khu vực Trung Đông đầy bất
ổn. Mục tiêu của chính sách xuất phát từ những lợi ích này và và tình hình
thực tế tại Iraq đƣợc xác định gồm 2 điểm chính là đảm bảo dòng chảy ổn
định của dầu mỏ từ Iraq đồng thời ngăn chặn việc Iraq sử dụng nguồn lợi từ
dầu mỏ này để phát triển quân sự và trở thành nguy cơ đe doạ an ninh khu
vực. Để thực hiện mục tiêu trên, Mỹ triển khai chính sách bằng cách kết hợp
72
các công cụ quân sự, cấm vận kinh tế, ủng hộ các phe đối lập... Đặc biệt,
Mỹ không ngần ngại sử dụng công cụ quân sự để tiến hành chiến tranh để
đạt đƣợc các mục tiêu trên. Trong thực tế triển khai, Mỹ đã 2 lần tiến hành
chiến tranh với Iraq: lần đầu tiên vào năm 1991 khi Iraq tấn công Kuwait và
lần thứ 2 vào năm 2003 khi Mỹ tuyên bố Iraq sở hữu vũ khí huỷ diệt hàng
loạt WMD. Đây là 2 cuộc chiến đƣợc nhận định là “sặc mùi dầu mỏ”. Dù
các nhà lãnh đạo Mỹ có sử dụng bất cứ lý do nào để lý giải cho nguyên nhân
của 2 cuộc chiến tranh này đi chăng nữa thì dầu mỏ rõ ràng vẫn là nguyên
nhân lớn nhất và là mục tiêu cuối cùng của 2 cuộc chiến này. Tuy nhiên, bất
chấp việc nhận đƣợc sự quan tâm triển khai của các đời Tổng thống Mỹ,
chính sách ngoại giao dầu mỏ của Mỹ với Iraq vẫn đƣợc đánh giá là thất bại
nhiều hơn thành công. Các mục tiêu của chính sách vẫn chƣa thể đạt đƣợc
dù cho chính quyền Mỹ đã sử dụng linh hoạt rất nhiều công cụ triển khai
trên thực tế.
Hiện nay, Mỹ đang từng bƣớc tham gia vào 1 cuộc chiến mới tại Iraq
chống lại Nhà nƣớc Hồi giáo tự xƣng IS. Đƣợc sinh ra từ 1 đất nƣớc Iraq
hoang tàn bởi chiến tranh, một dân tộc chia rẽ sâu sắc bởi sắc tộc, tôn giáo
và một nền kinh tế suy yếu sau nhiều năm bị bao vậy cấm vận, Nhà nƣớc
Hồi giáo IS đƣợc xem là hệ luỵ của chính sách ngoại giao dầu mỏ của Mỹ
tại Iraq đồng thời cũng là phần tiếp theo của chính sách này tại đây. IS từ
một đứa con sinh ra từ các hệ quả chính sách của Mỹ bây giờ lại quay trở lại
đe doạ chính Iraq, nƣớc Mỹ cũng nhƣ an ninh khu vực và thế giới. Mặc dù
Mỹ và các nƣớc khác nhƣ Nga và Iran đã có những hành động cụ thể để tiêu
diệt Nhà nƣớc Hồi giáo IS nhƣng có vẻ nhƣ càng nhiều quốc gia tham gia thì
độ tán độc và hung hăng của nó càng tăng lên. Tổng thống Obama sau khi
rút quân khỏi Iraq đã nhiều lần tuyên bố sẽ không đƣa quân quay lại Iraq với
một cuộc chiến đấu toàn diện nhƣng rõ ràng Mỹ vẫn không thể đứng ngoài
73
khu vực này với những gắn bó lợi ích sát sƣờn của Mỹ. Mỹ đã và sẽ tiếp tục
can dự vào việc tiêu diệt Nhà nƣớc Hồi giáo IS nhƣng vấn đề khiến thế giới
quan tâm là hiệu quả của sự can dự này hay đúng hơn là sự quyết tâm của
Mỹ. Về phần Iraq, muốn tiêu diệt IS càng nhanh thì chính quyền Iraq cần
thúc đẩy sự gắn kết lợi ích của Mỹ với Iraq càng chặt chẽ hơn, đặc biệt là về
các lợi ích dầu mỏ. Rõ ràng ngày nào Mỹ còn phụ thuộc vào nguồn tài
nguyên dầu mỏ thì Iraq vẫn sẽ là điểm đến của chính sách ngoại giao dầu mỏ
của Mỹ./.
74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tham khảo tiếng Việt
1. Đặng Minh Đức (Cb) (2011), Cộng đồng các quốc gia độc lập
(SNG) - Những vấn đề chính trị, kinh tế nổi bật, Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội
2. Hiệp hội xăng dầu Việt Nam, Dầu mỏ, tại địa chỉ
http://www.hiephoixangdau.org/nd/kien-thuc/dau-mo.html
3. Hồ Quang Lợi, Nam Hồng và Ngô Huy Hoà (2001), Khủng bố&
chống khủng bố - Tập III: Cuộc chiến không giới hạn, Nxb. Lao Động, Hà
Nội, , tr. 326
4. Nguyễn Minh Mẫn (2011), “An ninh năng lƣợng những năm đầu thế
kỉ 21”, Tạp chí khoa học ĐH Sư phạm Tp Hồ Chí Minh, số 32, tr. 42 - 46
5. Nguyễn Minh Mẫn (2012), Chính sách an ninh năng lượng của
Trung Quốc trong những năm đầu thế kỉ XXI, Luận án Tiến sĩ Lịch sử tại Đại
học KHXH-NV TP.HCM
6. Ngô Chí Nguyện và Nguyễn Tú Hoa (2007), “Cuộc cạnh tranh dầu
mỏ giữa Trung Quốc với các cƣờng quốc hiện nay và tác động của nó đến
quan hệ quốc tế”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á số 07 năm 2007.
7. Đỗ Trọng Quang (2007), “Quan hệ Mỹ - Iran trong nửa thế kỉ”, Tạp
chí Châu Mỹ ngày nay số 03/2007, tr. 23-32
8. Thông Tấn xã Việt Nam (2003), Mỹ - Iraq cuộc đối đầu hai thế kỷ
(Cuộc chiến tranh vùng Vịnh lần thứ hai), Nxb. Thông Tấn, Hà Nội
Tài liệu tham khảo tiếng Anh
9. Jim Acosta, Kevin Liptak and Josh Levs, Obama, Kerry: No U.S.
troops will be sent into combat against ISIS in Iraq, Syria, CNN, tại địa chỉ
75
http://edition.cnn.com/2014/09/17/politics/obama-isis/
10. Gaurav Agnihotri, A brief history of oil, tại địa chỉ
http://energymaverick.com/a-brief-history-of-oil/
11. Tim Arango and Clifford Krauss, China Is Reaping Biggest Benefits
of Iraq Oil Boom, The New York Times, tại địa chỉ
http://www.nytimes.com/2013/06/03/world/middleeast/china-reaps-biggest-
benefits-of-iraq-oil-boom.html?_r=0
12. Gawdat Bahgat, American Oil Diplomacy in the Persian Gulf and
the Caspian Sea, University Press of Florida, Florida 2003
13. Peter Baker and Josh White, Bush Calls Iraq War Moral Equivalent
Of Allies' WWII Fight Against the Axis, tại địa chỉ
http://www.washingtonpost.com/wpdyn/content/article/2005/08/30/AR20050
83001078.html
14. Richard Becker, 1958-1963, Iraq: Revolution and the U.S.
Response, Press for Conversion, tại địa chỉ
http://coat.ncf.ca/our_magazine/links/issue51/articles/51_20-21.pdf
15. Lionel Beehner, What good is a terrorism list?, The Los Angeles
Times, tại địa chỉ http://articles.latimes.com/2008/oct/20/opinion/oe-
beehner20
16. Biên bản phiên Điều trần trƣớc Uỷ ban đối ngoại Thƣợng viện Mỹ,
Oil Diplomacy: The Facts and Myths Behind Foreign Oil Dependency, tại địa
chỉ
http://commdocs.house.gov/committees/intlrel/hfa80291.000/hfa80291_0.htm
- 0
17. Linda Bilmes, Joseph E. Stiglitz (2008), The Three Trillion Dollar
War: The True Cost of the Iraq Conflict, Nxb W. W. Norton, New York
18. Gary M. Boutz and Kenneth H. Williams, U.S. Relations with Iraq:
76
From the Mandate to Operation Iraqi Freedom, Engaging the World,
Washington, D.C 2015
19. George H.W. Bush, President George H.W. Bush's Address on
Iraq's Invasion of Kuwait, 1990, tại địa chỉ http://www.cfr.org/iraq/president-
george-hw-bushs-address-iraqs-invasion-kuwait-1990/p24117
20. Jimmy Carter, The State of the Union Address Delivered Before a
Joint Session of the Congress, tại địa chỉ
http://www.presidency.ucsb.edu/ws/?pid=33079
21. Dick Cheney, Full text of Dick Cheney's speech, The Guardian, tại
địa chỉ http://www.theguardian.com/world/2002/aug/27/usa.iraq
22. Bill Clinton, Transcript: President Clinton explains Iraq strike,
CNN, tại địa chỉ
http://edition.cnn.com/ALLPOLITICS/stories/1998/12/16/transcripts/clinton.
html
23. Barbara Crossette, Pressing for Iraqi’s Overthrow, U.S. Appeals for
Arab Support, The New York Times, tại địa chỉ
http://www.nytimes.com/1998/12/09/world/pressing-for-iraqi-s-overthrow-
us-appeals-for-arab-support.html
24. Irene Gendzier, Oil, Iraq and US foreign policy in the Middle East”,
Situation Analysis, Issue 2 Spring 2003, p. 18-28, March 2003
25. Helga Graham, “Exposed: Washington's Role in Saddam's Oil Plot”,
London Observer, October 21, 1990
26. Peter Hahn, A Century of U.S. Relations with Iraq, Origins,
http://origins.osu.edu/article/century-us-relations-iraq
27. Geoffrey Heard, Not Oil, But Dollars vs. Euros, Global Policy
Forum, tại địa chỉ
https://www.globalpolicy.org/component/content/article/173/30447.html
77
28. International Energy Agency, Iraq Energy Outlook: World Energy
Outlook Special Report, bản online tại địa chỉ
http://www.worldenergyoutlook.org/media/weowebsite/2012/iraqenergyoutlo
ok/Fullreport.pdf
29. Greg Ip, For Russia,Oil Collapse Has Soviet Echoes, The Wall
Street Journal, tại địa chỉ http://www.wsj.com/articles/for-russia-oil-collapse-
has-soviet-echoes-1441215966
30. Jaffe, Amy Myers and Lewis, Steven W. (2002) “Beijing‟s oil
diplomacy”, Survival, 441, pp. 115 – 134
31. Ian James, Venezuela's oil exports to US decline, CNS News, tại địa
chỉ http://www.cnsnews.com/news/article/venezuelas-oil-exports-us-decline
32. Nayna J Jhaveri (2004), “Petroimperialism: US Oil Interests and the
Iraq War”, Antipode Volume 36, Issue 1 January 2004, pages 2–11
33. Michael Klare (2004), Blood and oil: The Dangers and
Consequences of America’s Growing Dependency on Imported Petroleum,
Metropolitan Books
34. Andrew E. Kramer, In Rebuilding Iraq’s Oil Industry, U.S.
Subcontractors Hold Sway, tại địa chỉ
http://www.nytimes.com/2011/06/17/business/energyenvironment/17oil.html?
_r=0
35. Lý Quang Diệu, Middle East: A Spring without a Summer, trong
cuốn L.K. Yew, One Man‟s View of the World, pp. 238- 257, Straits Times
Press, Singapore 2013
36. Chris Mansur, The Secret War Between China and the US for
Africa's Oil Riches, tại địa chỉ http://oilprice.com/Geopolitics/Africa/The-
Secret-War-Between-China-and-the-US-for-Africas-Oil-Riches.html
37. Thomas L. McNaugher, “Arms Sales and Arms Embargoes in the
78
Persian Gulf: The Real Dilemmas of Dual Containment” in Powder Keg in
the Middle East, Rowman & Littlefield Publishers Inc. 1995, Chapter 14, pp.
337-360
38. Middle East Monitor, “OPEC Ministers Approve Huge 1.7 Million
B/D Production Cuts.” Vol 29, no. 3 (March 1999) p.22.
39. National Energy Policy Development Group, National energy
policy: Reliable, Affordable, and Environmentally Sound Energy for
America’s Future, U.S Government Printing Office 2001, Washington D.C.
40. Oil and Gas Journal, U.S. Crude Reserves Plunged 7 Percent in
1998, tại địa chỉ http://www.ogj.com/articles/print/volume-98/issue-1/in-this-
issue/exploration/us-crude-reserves-plunged-7-in-1998.html
41. Gonzalo Ortiz, Latin America Has One-Fifth of Global Oil
Reserves, IPS New agency, tại địa chỉ http://www.ipsnews.net/2011/07/latin-
america-has-one-fifth-of-global-oil-reserves/
42. Tobias N. Rasmussen and Agustin Roitman, Oil Shocks in a Global
Perspective: Are they Really that Bad?, IMF working paper August 2011
43. Charles Recknagel, Iraq: Baghdad Moves to Euro, Radio Free
Europe, tại địa chỉ
http://www.rferl.org/nca/features/2000/11/01112000160846.asp
44. Jeff Reed, Persian Pride: The History of the Iranian Oil Sector, tại
địa chỉ http://oilpro.com/post/668/persian-pride-the-history-of-the-iranian-oil-
sector-part-2
45. Report of an Independent Task Force Cosponsored by the James A.
Baker III Institute for Public Policy of Rice University and the Council on
Foreign Relations, Strategic Energy Policy Challenges for the 21st Century,
Council on Foreign Relations Press
46. Rice University, US - Russia Commercial Energy Summit, James A.
79
Baker Institute for public policy, tại địa chỉ
http://bakerinstitute.org/media/files/Research/5df1ecd6/study_21.pdf
47. Alberto Riva, More Arms For Baghdad: Iraq Buys $4.2 Billion In
Russian Weapons, International Business Times tại địa chỉ
http://www.ibtimes.com/more-arms-baghdad-iraq-buys-42-billion-russian-
weapons-843785
48. Carol R. Saivetz (2000), “Caspian Geopolitics: The View from
Moscow”, The Brown Journal of World Affairs, Volume VII, Issue 253, pp
53-57
49. Ken Jr Schortgen, Dollar no longer primary oil currency as China
begins to sell oil using Yuan, bản online tại địa chỉ
http://www.examiner.com/article/dollar-no-longer-primary-oil-currency-as-
china-begins-to-sell-oil-using-yuan
50. Michael Schwartz (2007), “Why Did We Invade Iraq Anyway?”
The Nation Institute , October 30 2007
51. Stephen Stec and Besnik Baraj (2007), Energy and Environmental
Challenges to Security, NATO Science for Peace and Security Series C:
Environmental Security, Springer
52. Vincent Summers, The Origin of Crude Oil or Petroleum: Biotic or
Abiotic?, Decoded Science, tại địa chỉ
http://www.decodedscience.com/origin-crude-oil-petroleum-biotic-
abiotic/54008
53. Testimony of Brett McGurk, Deputy Assistant Secretary for Iraq
and Iran, Near Eastern Affairs House Foreign Affairs Committee,
Subcommittee on the Middle East and North Africa, U.S. Foreign Policy
Toward Iraq, tại địa chỉ http://www.state.gov/p/nea/rls/rm/217546.htm
54. The Huffington Post, Obama: The U.S. Won't Send Troops Back
Into Combat In Iraq tại địa chỉ
http://www.huffingtonpost.com/2014/06/13/obama-iraq_n_5492117.html
80
55. The U.S government, Country Reports on Terrorism 2014, tại địa
chỉ http://www.state.gov/j/ct/rls/crt/2014/239410.htm
56. The U.S. Embassy in Baghdad, Joint Statement of the Iraq-U.S.
Joint Coordination Committee on Energy, bản online tại địa chỉ
http://iipdigital.usembassy.gov/st/english/texttrans/2014/02/20140205292353.
html - ixzz3qVikqwb8
57. The White House, National Security Directive 26 (October 2 1989),
bản online tại địa chỉ https://fas.org/irp/offdocs/nsd/nsd26.pdf
58. The White House, Remarks by the President at the National
Defense University, tại địa chỉ https://www.whitehouse.gov/the-press-
office/2013/05/23/remarks-president-national-defense-university
59. The White House, Statement by the President on Iraq, tại địa chỉ
https://www.whitehouse.gov/the-press-office/2014/08/09/statement-president-
iraq
60. Lisa Trei, Roundtable addresses global security and the challenges
of climate change, tại địa chỉ
http://news.stanford.edu/news/2007/october17/round-101707.html
61. Patrick E. Tyler, Officers say U.S aided Iraq in was despite use of
gas, The New York Times tại địa chỉ
http://www.nytimes.com/2002/08/18/world/officers-say-us-aided-iraq-in-war-
despite-use-of-gas.html?pagewanted=all
62. U.S Energy Information Administration, Definitions, Sources and
Explanatory Notes of petroleum and other liquid, tại địa chỉ
http://www.eia.gov/dnav/pet/tbldefs/pet_crd_crpdn_tbldef2.asp
63. Xu (2000), “China and the Middle East: Cross Investment in the
Energy Sector”, Middle East Policy, vol. vii, no. 3, June 2000
64. Daniel Yergin (2006). “Ensuring Energy Security”, Foreign Affairs,
Vol. 85, No. 2 (Mar – Apr), pp. 69-82