intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Chính sách phát huy vai trò người cao tuổi Việt Nam: Góc nhìn lịch sử và pháp lý

Chia sẻ: ViKakashi2711 ViKakashi2711 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:11

56
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết là sự nhìn nhận, đánh giá một cách khá toàn diện, đa chiều về tiến trình hình thành, phát triển của chính sách phát huy vai trò NCT ở góc độ lịch sử, pháp lý. Kết quả bài nghiên cứu này sẽ cung cấp những căn cứ lý luận và thực tiễn sinh động nhằm thúc đẩy, bổ sung và hoàn thiện chính sách này trong thời gian tới ở Việt Nam.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Chính sách phát huy vai trò người cao tuổi Việt Nam: Góc nhìn lịch sử và pháp lý

chính sách phát huy vai trò người cao tuổi Việt Nam...<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> CHÍNH SÁCH PHÁT HUY VAI TRÒ NGƯỜI CAO TUỔI<br /> VIỆT NAM: GÓC NHÌN LỊCH SỬ VÀ PHÁP LÝ<br /> Bùi Nghĩa*, Nguyễn Hữu Hoàng**<br /> TÓM TẮT<br /> Từ năm 2011, dân số Việt Nam chính thức thời, thúc đẩy giải quyết hiệu quả các vấn<br /> bước vào thời kỳ già hóa trong khi vẫn còn là đề vĩ mô khác của quốc gia. Thông qua việc<br /> một nước nghèo, đang phát triển. Đi ngược lại tìm hiểu, phân tích các tư liệu, dữ kiện và hệ<br /> cách tiếp cận phổ biến khi nghiên cứu chính thống văn bản gắn với các chủ thể chính sách<br /> sách người cao tuổi (NCT) là nhà nước với trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc, bài viết<br /> vai trò là chủ thể chính sách cần tăng cường là sự nhìn nhận, đánh giá một cách khá toàn<br /> cung cấp phúc lợi xã hội để người cao tuổi diện, đa chiều về tiến tình hình thành, phát<br /> thụ hưởng, tiếp nhận một cách thụ động. Bài triển của chính sách phát huy vai trò NCT ở<br /> viết tiếp cận ở góc độ tương đối mới mẻ khi góc độ lịch sử, pháp lý. Kết quả bài nghiên<br /> nhìn nhận NCT là nguồn lực to lớn của đất cứu này sẽ cung cấp những căn cứ lý luận và<br /> nước và việc có chính sách thúc đẩy, khuyến thực tiễn sinh động nhằm thúc đẩy, bổ sung<br /> khích, phát huy vai trò của họ trên các lĩnh và hoàn thiện chính sách này trong thời gian<br /> vực của đời sống xã hội hiện nay là việc làm tới ở Việt Nam.<br /> hết sức cần thiết, góp phần tạo ra thế hệ NCT Từ khóa: Chính sách người cao tuổi, lịch<br /> thích ứng chủ động với già hóa dân số; đồng sử, pháp lý, vai trò người cao tuổi, Việt Nam.<br /> <br /> VIETNAMESE PEOPLE’S COMMITTEE POLICY:<br /> HISTORY AND LEGAL VISIT<br /> ABSTRACT<br /> From 2011, Vietnam’s population officially resolution of other macroeconomic problems of<br /> entered the age of aging while still a poor, the country. Through researching and analyzing<br /> developing country. Contrary to popular data, data and textual systems associated<br /> approach, the elderly policy research (NCT) is with policy subjects throughout the history<br /> the state as the subject of policy to strengthen of the nation, the article is a comprehensive,<br /> the provision of social welfare for the elderly to Multi-dimensional development progress,<br /> receive, receive passive, the article approaches development of policies to promote the role of the<br /> a relatively new perspective when the NCT is elderly in the historical and legal. The results of<br /> a great resource of the country and the policy this study will provide theoretical and practical<br /> to promote, promote and promote their role in basis to promote, supplement and improve<br /> the fields of life It is necessary to contribute this policy in the coming time in Vietnam.<br /> to the generation of active adults with aging Keywords: Elderly policy, history,<br /> population; At the same time, promote effective juridical, role of the elderly, Vietnam<br /> * ThS. NCS, Học viện Chính trị khu vực II – 0919.330.555 – Email: buinghia72@gmail.com<br /> ** CN, học viên cao học, Học viện Chính trị khu vực II. ĐT: 016 335 13343;<br /> Email: huuhoang.hcma2@gmail.com<br /> <br /> 109<br /> Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật<br /> <br /> 1. LUẬN GIẢI VỀ TÍNH CẤP THIẾT là thách thức các nhà hoạch định chính sách?<br /> TRONG NGHIÊN CỨU CHÍNH SÁCH Bởi lẽ, nếu xét ở khía cạnh quản lý vĩ mô quốc<br /> PHÁT HUY VAI TRÒ NGƯỜI CAO TUỔI Ở gia, trong bối cảnh lực lượng lao động nước ta<br /> GÓC ĐỘ LỊCH SỬ, PHÁP LÝ tuy đông nhưng vẫn còn thấp, yếu về chuyên<br /> Theo dự báo, đến năm 2038, người cao môn thì việc tận dụng hợp lí đội ngũ nhân lực -<br /> tuổi ở Việt Nam sẽ chiếm khoảng 20% tổng NCT có tay nghề cao thực sự là điều cần thiết,<br /> dân số - tăng gấp ba lần trong vòng 24 năm, hợp lí và trở thành nhu cầu tất yếu trong quá<br /> đến năm 2050, nước ta sẽ trở thành nước trình phát triển bền vững kinh tế - xã hội. Theo<br /> “siêu già”. Trong khi NCT ở một số nước Báo cáo đánh giá của Ngân hàng Thế giới<br /> như Thái Lan, Xingapo, Nhật Bản, Hàn giai đoạn 2015 - 2016 thì chỉ số cạnh tranh<br /> Quốc,... sau khi về hưu vẫn có nhu cầu lao nguồn nhân lực của Việt Nam hiện mới chỉ<br /> động, có cơ hội, được khuyến khích tiếp tục đạt 3,39/10 điểm. Trong tổng số hơn 53,4 triệu<br /> cống hiến trí tuệ, kinh nghiệm, khẳng định lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc, chỉ<br /> vai trò của mình đối với xã hội và giảm đến có khoảng 49% qua đào tạo, trong đó qua đào<br /> mức tối thiểu sự phụ thuộc vào gia đình thì tạo nghề từ 3 tháng trở lên chỉ chiếm khoảng<br /> phần lớn NCT ở Việt Nam vẫn có tư duy “lão 19%1. Đây là dấu hiệu cho thấy Việt Nam<br /> lai tài tận” (già là hết tài), “lão giả an chi” (an đang thiếu lao động có trình độ tay nghề, công<br /> hưởng tuổi già); sau khi nghỉ hưu cần được nhân kỹ thuật bậc cao. Do vậy, các nhà hoạch<br /> nghỉ ngơi, dành thời gian cho con cháu, chăm định chính sách NCT Việt Nam cần có lộ trình<br /> sóc vườn tược, phải được con cháu phụng và giải pháp cụ thể để giải quyết bài toán lớn<br /> dưỡng, chăm sóc, được xã hội và nhà nước có vẻ mâu thuẫn giữa “việc gia tăng phúc lợi,<br /> quan tâm, kính trọng, chăm lo. Đây là thực thụ hưởng dành cho NCT” và “khuyến khích<br /> tế đáng quan tâm và cũng thách thức các nhà họ tiếp tục tham gia thị trường lao động, phát<br /> nghiên cứu chính sách NCT hiện nay. huy vai trò của mình” thời gian tới.<br /> Việt Nam là quốc gia mang đậm dấu ấn Hai là, ở góc độ đối với NCT, thực tế cho<br /> văn hóa Á Đông, vốn coi trọng vai trò, vị thế thấy, nhu cầu được tiếp tục tạo điều kiện để<br /> NCT. Đặc biệt, thời kỳ già hóa dân số ở nước tham gia lao động, cống hiến, truyền thụ tri<br /> ta diễn ra trong bối cảnh nền kinh tế vẫn còn thức, tinh hoa, kinh nghiệm,... và đóng góp<br /> lạc hậu, tăng trưởng chậm, lực lượng lao động, tích cực cho xã hội không phải quá “hiếm” ở<br /> nhất là lao động có tay nghề, kinh nghiệm và nước ta hiện nay. Theo kết quả điều tra của<br /> kỹ thuật cao đang khan hiếm,... thì tính bức Ủy ban quốc gia về người cao tuổi năm 2007,<br /> thiết của chính sách phát huy vai trò NCT cần có 15,4% NTC tham gia cấp ủy địa phương,<br /> phải được lưu tâm trên bàn nghị trình chính 60,3% NCT tham gia các cuộc họp với cộng<br /> sách. Điều này thể hiện ở các mặt sau: đồng nhằm xây dựng tổ chức Hội NCT, 3,7%<br /> Một là, NCT sẽ có vị trí, vai trò ra sao NCT đang tham gia quản lý cộng đồng 2,<br /> trong hành trình phát triển của đất nước luôn 28,9% NCT vẫn trực tiếp sản xuất, kinh doanh<br /> <br /> 1<br /> Đình Phương (2016), Xếp hạng chất lượng nguồn nhân lực thấp, lao động Việt Nam có thể thua ngay<br /> trên sân nhà, website: http://cafef.vn, http://cafef.vn/xep-hang-chat-luong-nguon-nhan-luc-thap-lao-<br /> dong-viet-nam-co-the-thua-ngay-tren-san-nha-20160815145048708.chn, ngày đăng tải: 15/8/2016<br /> 2<br /> Nguyễn Phương Lan (2000), Tiếp cận văn hóa người cao tuồi, Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội,<br /> tr.23-24.<br /> <br /> 110<br /> chính sách phát huy vai trò người cao tuổi Việt Nam...<br /> <br /> <br /> dịch vụ 1,... Điều này phản ánh tư duy mới, từ đó, vô hình chung đẩy NCT trở thành đối<br /> tiến bộ, hợp xu thế chung của NCT; đồng thời, tượng thụ hưởng chính sách này cùng các<br /> càng củng cố và thể hiện rõ vị thế, vai trò đặc thành quả kinh tế - xã hội một cách “bị động”<br /> biệt quan trọng của NCT trong sự nghiệp đổi mà chưa thấy hết vai trò và nguyện vọng của<br /> mới của đất nước hiện nay. họ mong muốn tiếp tục “cống hiến” của họ đối<br /> Ba là, chúng ta đều thừa nhận rằng hệ với sự nghiệp chung.<br /> thống phúc lợi cho NCT ở nước ta đang thực<br /> 2. CHÍNH SÁCH PHÁT HUY VAI TRÒ<br /> sự “quá tải”, chưa thực sự “phủ kín” bởi lẽ<br /> NGƯỜI CAO TUỔI Ở NƯỚC TA QUA GÓC<br /> mức đóng góp của người lao động vào quỹ<br /> NHÌN LỊCH SỬ, PHÁP LÝ<br /> lương hưu thấp do mức lương và thu nhập của<br /> người lao động thấp; các hoạt động bảo trợ xã 2.1. Giai đoạn từ các triều đại phong kiến<br /> hội chưa thực sự đáp ứng nhu cầu đông đảo Việt Nam đến những năm 30 của thế kỷ XX<br /> của NCT. Câu chuyện này đặt ra vấn đề rất Có thể thấy, sự trọng vọng, tôn kính đối với<br /> nan giải là Việt Nam vừa “eo hẹp” về ngân họ đã thành nếp và ăn sâu trong tiềm thức mọi<br /> sách chi trả cho NCT nhưng cũng đồng thời thành viên làng xã từ xa xưa nhưng về văn bản,<br /> cũng đang thiếu hụt (nếu không nói là “bỏ lỡ”) theo các tài liệu còn lưu giữ được, nó chỉ được<br /> nguồn lao động chất lượng cao này để có cơ đề cập một cách giản lược trong pháp luật thời<br /> hội gia tăng ngân sách và cải thiện phúc lợi Lý, được đưa thành những điều luật cụ thể trong<br /> xã hội (trong đó có việc tái phân bổ lại cho luật nhà nước từ thời Lê sơ (thế kỷ XV), đươc<br /> chính bản thân NCT). Do vậy, chính sách phát ghi chép tỉ mỉ trong các hương ước các làng xã<br /> huy, khuyến khích và tận dụng hợp lí nguồn từ thế kỷ XVII - XVIII đến đầu thế kỷ XX 2.<br /> lao động là NCT có kinh nghiệm, tay nghề,... Sử sách ghi lại, Lý Thái Tổ là vị vua đầu<br /> sẽ là chìa khóa quan trọng giải quyết tốt các tiên quan tâm và có chính sách ưu đãi với<br /> thách thức này cho Việt Nam trong tương lai. NCT. Ngay sau khi lên ngôi, mùa xuân tháng<br /> Bốn là, việc thiếu vắng các công trình 2 năm Canh Tuất (1010), năm 1010, vua Lý<br /> nghiên cứu, đánh giá ở góc nhìn chính sách Công Uẩn đại xa giá đến châu Cổ Pháp yết<br /> quốc gia về việc phát huy vai trò NCT thời lăng Thái hậu và “ban tiền, lụa cho các kỳ lão<br /> gian qua đã tạo nên lỗ hỏng lớn trong việc có thứ bậc khác nhau”3 mở đầu cho truyền<br /> hoạch định, điều chỉnh, bổ sung chính sách thống tốt đẹp “lụa tặng già” của Việt Nam tồn<br /> phát huy vai trò đội ngũ này trong hệ thống tại đến ngày nay. Đồng thời, tháng 12 năm<br /> chính sách NCT. Điều này làm cho chính sách ấy, nhà vua đã ban chiếu đại xá thiên hạ trong<br /> NCT hiện nay bị “khuyết”, “mất tính cân đối” 3 năm và “những người mồ côi, góa chồng,<br /> trong tư duy lẫn quá trình thực thi chính sách; già yếu, thiếu thuế lâu năm đều tha cho cả”4.<br /> <br /> 1<br /> Tham khảo Đề tài của Viện Khoa học xã hội Việt Nam - Một số vấn đề cơ bản về người cao tuổi Việt<br /> Nam giai đoạn 2011 - 2020, tr.98, tr.107 - 108, Hà Nội, 2010.<br /> 2<br /> Nguyễn Phương Lan (2000), Tiếp cận văn hóa người cao tuồi, Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội,<br /> tr.23-24.<br /> 3<br /> Quốc sử quán triều Nguyên (2007): Khâm định Việt sử thông giám Cương mục, t.1, Nxb Giáo dục,<br /> Hà Nội, tr.268.<br /> 4<br /> Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê (1993), Đại việt sử ký toàn thư (dịch theo bản khắc năm Chính<br /> Hòa thứ 18 (1697), t.1, Nxb. Khoa hoc xã hội, Hà Nội, tr.242.<br /> <br /> 111<br /> Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật<br /> <br /> Năm 1042, vua Lý Thái Tông ban hành Luật giúp vua Trần 3 lần đánh bại quân Nguyên<br /> Hình thư. Luật có quy định rõ thể lệ cho phép - Mông 2.<br /> chuộc tôi bằng tiền đối với những người trên Đến thời Lê sơ, tinh thần “trọng lão” tiếp<br /> 70 tuổi trừ khi người đó phạm phải những tội tục được pháp luật hóa, lan toả đến tận các<br /> trong “thập ác”, đến năm 1051, Lý Thái Tông thôn làng. Trong Hồng Đức thiện chính thư ghi<br /> đã quy định các quan văn võ nếu làm lâu năm rõ: “Trong hương thôn có người già mà không<br /> mà không có tội lỗi thì được phong chức tước kính nể, dám tự ngồi ăn uống cùng một mâm,<br /> theo thứ bậc khác nhau. Năm 1162, vua Lý một chiếu, thì lấy tội khinh nhờn mà luận tội<br /> Anh Tông ra quy định chung người 60 tuổi<br /> phạt 300 trượng”3. Ngoài ra, những NCT khi<br /> trở lên được gọi là “lão liệt” để miễn sưu dịch,<br /> mắc tội như “từ 70 tuổi trở lên trừ khi phạm tội<br /> đến năm 1179, thời vua Lý Cao Tông cho tiến<br /> thập ác còn nếu phạm tội từ lưu trở xuống đều<br /> hành một cuộc đề bạt, chấn chỉnh quan lại, xét<br /> cho chuộc bằng tiền. Từ 80 tuổi trở lên, phạm<br /> công trạng các quan trong quá trình làm việc,<br /> tội phản nghịch, giết người đáng phải tội chết<br /> chia làm 03 loại để trao chức vụ. Trong đó,<br /> thì cũng phải tâu vua để xét định, ăn trộm và<br /> vua có dành cho loại nhiều tuổi, có đức hạnh,<br /> đánh người bị thương thì cho chuộc, ngoài ra<br /> thông hiểu việc xưa nay 1...<br /> thì miễn luận...”4.<br /> Đến thời nhà Trần, năm 1242, Trần<br /> Trọng lão trong dân gian cũng được ghi<br /> Thái Tông trong khi tiến hành cải cách hành<br /> kỹ trong các hương ước làng xã. Trước tiên là<br /> chính địa phương làm sổ hộ khẩu đã quyết<br /> miễn mọi sưu thuế, phu đài, tạp dịch. Đối với<br /> định công nhận bô lão là người 60 tuổi, long<br /> việc làng xã, người già cũng thường xuyên<br /> lão là người trên 60 tuổi. Đến năm 1262,<br /> là thành phần tham gia tích cực vì người già<br /> nhân sự kiện Thượng hoàng nhà Trần vê quê<br /> cũ xây phủ Thiên trường, Thượng hoàng luôn được nhà nước và làng xã coi trọng.<br /> đã khen thưởng cho người già và phụ nữ. Thời vua Lê Thánh Tông (1460 - 1497) đã ra<br /> Ngoài ra, sự kiện có thể coi là điểm nhấn để một đạo dụ (24 điều) về việc sửa đổi phong<br /> thấy rõ vai trò của NCT trong lịch sử nước tục các làng, trong đó có điều khoản nhắc đến<br /> ta đấy là vào năm 1285, trong cuộc kháng việc lựa chọn người già giữ các chức trưởng<br /> chiến chống quân Nguyên - Mông, vua Trần thôn, trưởng xã. Trong những công việc<br /> Thánh Tông đã mở Hội nghị Diên Hồng mời mang tính chất hành chính của làng xã, các<br /> các bô lão về kinh thành Thăng Long xin ý cụ cũng được tham dự như việc bầu lý dịch,<br /> kiến quyết định kế sách, động viên toàn dân các cụ cũng được coi như là cử tri và được ký<br /> đánh giặc. Sử cũ ghi có nhiều cụ già trên 90 vào đơn bầu. Ngoài việc được tham gia vào<br /> tuổi cũng hăng hái chống gậy về kinh thành các việc làng nước, trong những dịp lễ hội,<br /> góp ý kiến, đồng thanh hô “Sát Thát” góp người già bao giờ cũng được đặt ở vị trí cao<br /> phần tạo nên khí thế, sức mạnh của dân tộc, hơn so với các thành viên khác.<br /> <br /> 1<br /> Chính sách của nhà nước Việt Nam trong lịch sử đối với người cao tuổi, Tap chí Dân số và Phát triển,<br /> số 11/2005.<br /> 2<br /> Khắc Minh (2005), Phép nước lệ làng xưa với người cao tuổi, Báo sông Bé.<br /> 3<br /> Dẫn theo Nguyễn Đức Nghinh: Người giá trong làng xã. Trong cuốn Nông thôn Việt Nam trong lịch<br /> sử, t.2, Viện sử học, 1978, tr.164.<br /> 4<br /> Quốc triều hình luật (1991), Nxb. Pháp lý, Hà Nội, tr.41.<br /> <br /> 112<br /> chính sách phát huy vai trò người cao tuổi Việt Nam...<br /> <br /> <br /> Tiếp nối truyền thống tôn trọng, đánh giá mà vua không đồng ý, lưu lại làm việc thì họ<br /> cao vai trò của NCT của các triều đại trước được hưởng thêm nhiều ưu đãi của triều đình,<br /> đó, Nhà Nguyễn cũng đã dành nhiều sự quan đặc biệt là đối với những quan viên sống thọ<br /> tâm của mình đối với thành phần đặc biệt đang tại chức3. Bên cạnh đó, chẳng hạn, năm<br /> này, phản ánh thông qua các luật lệ và chiếu Tự Đức thứ 5 (1852), vua định lệ an ban cho<br /> chỉ của nhà vua. Thời trị vì của vua Minh các thọ quan và dân quan như sau: Thọ dân<br /> Mệnh thì vị trí, vai trò của người cao tuổi bắt hạng 70 tuổi trở lên: vải 2 tấm; hạng 80 tuổi<br /> đầu được xem trọng bởi “tuổi tác là cái quý trở lên: lụa và vải mỗi thứ 1 tấm,...; thọ quan<br /> trong thiên hạ từ lâu. Chính sách của vương đã hưu trí (văn, võ) theo phẩm hàm và bậc<br /> giả lấy việc dưỡng lão làm đầu”1. Tháng 6 tuổi từ 70 đến trên 100 tuổi,....4.<br /> năm Nhâm Ngọ (1822), vua Minh Mệnh ban<br /> 2.2. Giai đoạn từ sau năm 1930 đến năm<br /> dụ rằng: “Ta nghe trăm tuổi là kỳ, thật là 1945<br /> điềm tốt của nước. Vua trọng người già thì<br /> 30 năm đầu thế kỷ XX, truyền thống<br /> dân không dám thờ ơ với cha mẹ, ấy là dạy<br /> “trọng lão” dù vẫn tồn tại vững bền trong dòng<br /> dân biết hiếu vậy... Từ xưa kính trọng tuổi<br /> chảy bất tận của lịch sử dân tộc nhưng chính<br /> tác, ưu đãi bậc già, cất nhắc người hiếu, nêu<br /> sách của nhà nước không thực sự tiêu biểu, rõ<br /> khen người liêm, đều là để rèn luyện phong<br /> nét, cứ liệu thu thập cũng không thực sự nhiều.<br /> hoá cho dân, sáng tỏ trị giáo của nước, để dẫn<br /> Năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời.<br /> cuộc đời đến chốn nhân thọ.... Từ nay, quan<br /> Từ đây, sự nghiệp giải phóng dân tộc có sự<br /> các thành dinh trấn đều phải dụng tâm tìm hỏi<br /> dẫn dắt của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh vì<br /> dân gian, có ai trăm tuổi trở lên, cùng là con<br /> mục tiêu xây dựng nhà nước vô sản của nhân<br /> hiếu thờ cha mẹ, có thực trạng rõ rệt, như tối<br /> dân lao động. Trong đó, nhà nước kiểu mới<br /> hỏi, sớm thăm, đón trước ý muốn, noi theo chí<br /> phải có trọng trách chăm lo, phát huy vai trò,<br /> hướng, sống nuôi thờ, chết chôn cất, hết đạo<br /> vị thế của NCT.<br /> làm con, mà châu xã đều khen là hiếu, người<br /> nghĩa thì thấy lợi không động lòng, như bắt Sau khi trở về nước trực tiếp lãnh đạo cách<br /> được vàng mà trả lại chủ, của không muốn có mạng, tại hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành<br /> vì may, lợi không muốn được hú hoạ, từ hay Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương<br /> nhận, lấy hay cho, đều là hợp nghĩa, già trẻ (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam) từ ngày 10<br /> đều tin là liêm, thì đều cho hương lý kết trình đến ngày 19/5/1941, Chủ tịch Hồ Chí Minh<br /> quan sở tại, kể đủ thực trạng, làm sách tâu đã chủ trì hội nghị và đi đến quyết định thành<br /> lên, do bộ Lễ đề đạt để chờ ban thưởng, để lập Mặt trận Việt Minh. Tuy nghị quyết này<br /> biểu dương điềm tốt thanh bình, chấn hưng không đề cập đến duy nhất NCT, nhưng có<br /> thói tốt hiếu đễ, cho xứng cái ý thiết tha dạy khẳng định nhóm đối tượng này là một trong<br /> bảo và sửa tục của trẫm” 2. Ngoài ra, đối với những bộ phận của Mặt trận Việt Minh và các<br /> những vị quan nào đến tuổi 70, xin về hưu đoàn thể cứu quốc.<br /> 1<br /> Quốc sử quán triều Nguyễn (2006), Đại Nam thực lục, tập 2, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr.263-264.<br /> 2<br /> Đại Nam thực lục, tập 2, sđd, tr.222<br /> 3<br /> Chính sách của Nhà Nguyễn đối với người cao tuổi (giai đoạn 1802 - 1884), Tạp chí Khoa học xã hội<br /> Việt Nam, số 4 (77) - 2014, tr.79.<br /> 4<br /> Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục chính biên, Nxb. Khoa hoc xã hội, 1960 - 1970, t.27,<br /> tr.354.<br /> <br /> 113<br /> Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật<br /> <br /> Tiếp tục triển khai Nghị quyết Trung Nam Dân chủ cộng hoà), Chủ tịch Hồ Chí<br /> ương, ngày 6/6/1941, tại chiến khu Việt Bắc, Minh khuyên các cụ già “Chúng ta là bậc phụ<br /> Người đã viết thư “Kính cáo đồng bào” và lão, cần phải tinh thành đoàn kết trước để làm<br /> mở đầu bằng câu: “Cùng các vị phụ lão”, rồi gương cho con cháu ta. Vậy tôi mong các vị<br /> kêu gọi: “Toàn dân đồng bào hãy mau mau phụ lão ở Hà thành ra xung phong tổ chức<br /> đứng dậy. Hãy đoàn kết nhau, thống nhất hành “Phụ lão cứu quốc Hội” để cho các phụ lão cả<br /> động đánh đổ Nhật, Pháp… Mong các ngài nước bắt chước và để hùn sức giữ gìn nền độc<br /> sẽ noi gương phụ lão đời nhà Trần trước họa lập của nước nhà”2.<br /> giặc Nguyên xâm lấn, đã nhiệt liệt hô hào con Đặc biệt, từ khi lập quốc năm 1945, quyền<br /> em tham gia sự nghiệp cứu nước”. Điều đó và địa vị chính trị của người cao tuổi đã được<br /> chứng tỏ Bác coi trọng vị thế người cao tuổi ghi nhận trong các bản hiến pháp - là căn cứ<br /> trong cộng đồng, trong xã hội. Cũng trong pháp lí vững chắc, cao nhất cho việc thực hiện<br /> tháng 6/1941, Nguyễn Ái Quốc lại gởi riêng chính sách người cao tuổi trên thực tế. Tại<br /> một bức thư cho phụ lão bằng chữ Hán với Điều 14, Hiến pháp năm 1946 đã hiến định:<br /> tiêu đề rất trân trọng: “Nguyễn Ái Quốc ký “Những người công dân già cả hoặc tàn tật<br /> thư chư thị ái chư phụ lão 6/1941” (dịch nghĩa: không làm được việc thì được giúp đỡ”. Tuy<br /> Cụ Nguyễn Ái Quốc gởi các vị phụ lão trong quy định ngắn gọn trong một (01) điều duy<br /> cả nước tháng 6/1941). Đây là lời hiệu triệu nhất, với 17 từ nhưng tư tưởng, tuyên ngôn<br /> đoàn kết, vận động các vị phụ lão. Trong thư, pháp lý cao nhất đối với người cao tuổi có ý<br /> Bác đề cao vị thế, vai trò của NCT khi cho nghĩa đặc biệt quan trọng.<br /> rằng: “Trách nhiệm của các vị phụ lão chúng<br /> Hiến pháp 1959 đã có quan điểm pháp lý<br /> ta đối với nhiệm vụ đất nước thật là trọng đại.<br /> hết sức tiến bộ về vị trí, vai trò và hệ thống<br /> Đất nước hưng thịnh do phụ lão gây dựng. Đất<br /> chính sách dành cho NCT. Tại điều 32, Hiến<br /> nước tồn tại do phụ lão giúp sức. Nước bị mất,<br /> pháp 1959 quy định: “Người lao động có<br /> phụ lão cứu. Nước suy sụp phụ lão phù trì.<br /> quyền được giúp đỡ về vật chất khi già yếu,<br /> Nước nhà hưng, suy, tồn, vong, phụ lão đều<br /> bệnh tật, hoặc mất sức lao động. Nhà nước mở<br /> gánh trách nhiệm rất nặng nề”, “Đối với gia<br /> rộng dần các tổ chức bảo hiểm xã hội, cứu tế<br /> đình, đối với Tổ quốc, phụ lão có trọng trách<br /> và y tế để bảo đảm cho người lao động được<br /> là bậc tôn trưởng, đối với bà con, phụ lão có sự<br /> hưởng quyền đảm bảo cho người lao động<br /> tín nhiệm lớn lao”1.<br /> được hưởng quyền đó”. Ở góc độ chính sách<br /> 2.3. Giai đoạn từ khi thành lập Nhà nước phát huy vai trò NCT, so với Hiến pháp 1946,<br /> Việt Nam Dân chủ cộng hòa (1945) đến nay Hiến pháp 1959 dù chưa thể hiện rõ ràng về<br /> 2.3.1. Chính sách phát huy vai trò người câu chữ nhưng bước đầu đã nhấn mạnh đến<br /> cao tuổi từ khi thành lập nước Việt Nam việc “đảm bảo điều kiện” để NCT thực hiện<br /> Dân chủ cộng hòa đến trước thời kỳ Đổi mới quyền của mình và cũng tức là gián tiếp khẳng<br /> (1986) định vai trò của họ trên các lĩnh vực này.<br /> Trong Thư gửi các vị phụ lão ngày Tại Điều 59, Hiến pháp 1980 nhấn mạnh:<br /> 21/9/1945 (19 ngày sau khi Bác Hồ đọc bản “Công nhân, viên chức khi về hưu, già yếu,<br /> Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt bệnh tật hoặc mất sức lao động được hưởng<br /> 1<br /> Hội Người cao tuổi Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1996, tr.7-8.<br /> 2<br /> Hồ Chí Minh (2009): Toàn tập, t.4, tr.24.<br /> <br /> 114<br /> chính sách phát huy vai trò người cao tuổi Việt Nam...<br /> <br /> <br /> quyền lợi bảo hiểm xã hội. Nhà nước mở rộng thông lệ của quốc tế. Trên cục diện quốc tế,<br /> dần sự nghiệp bảo hiểm xã hội theo trình độ năm 1982, lần đầu tiên Liên Hợp quốc đã tiến<br /> phát triển của nền kinh tế quốc dân và bảo đảm hành Đại hội Thế giới về NCT tại Cộng hòa<br /> cho người lao động được hưởng quyền lợi đó”. Áo, Việt Nam đã cử thành viên tham dự. Ngày<br /> Về nội hàm chính sách NCT, Hiến pháp năm 17/9/1992, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay<br /> 1980 vẫn kế thừa, thống nhất với các bản Hiến là Thủ tướng Chính phủ) đã ban hành Chỉ thị<br /> pháp trước đó. Tuy nhiên, có 2 điểm nổi bật số 332 về việc tổ chức Ngày Quốc tế người cao<br /> dưới góc độ chính sách, cần lưu ý: tuổi, đã chỉ ra những việc các ngành, các cấp,<br /> –– Đối tượng thụ hưởng, thực hiện chính các cơ quan đoàn thể phải làm trong dịp này<br /> sách người cao tuổi chú trọng hơn đến giai cấp (ngày 1 tháng 10) hàng năm, trong đó đã xác<br /> công nhân, đội ngũ viên chức, trí thức xã hội - định “Ngày Quốc tế người cao tuổi cần được<br /> vốn là lực lượng nòng cốt cách mạng. tổ chức tốt, có sự chỉ đạo của các cơ quan Nhà<br /> nước, các đoàn thể nhân dân, dưới sự chỉ đạo<br /> –– Phương thức đảm bảo thực hiện quyền<br /> của các cấp uỷ Đảng”.<br /> thụ hưởng lợi ích từ chính sách NCT của Nhà<br /> nước có phần thu hẹp so với các bản Hiến pháp Hiến pháp 1992 chứa đựng nhiều nội dung<br /> trước đó (duy nhất chỉ được đảm bảo thông tiến bộ về chính sách NCT. Tại Điều 61, Hiến<br /> qua “bảo hiểm xã hội” theo trình độ phát triển pháp 1992 quy định: “Công dân có quyền được<br /> của nền kinh tế). hưởng chế độ bảo vệ sức khoẻ. Nhà nước quy<br /> Như vậy, dù là chính quyền non trẻ nhưng định chế độ viện phí, chế độ miễn, giảm viện<br /> ngay sau khi giành chính quyền, Đảng và phí” và tại Điều 67 ghi: “Người già, người tàn<br /> Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa đã rất tật, trẻ mồ côi không nơi nương tựa được Nhà<br /> chú trọng đảm bảo và thực hiện nghiêm túc nước và xã hội giúp đỡ”. Có thể thấy, qua đây<br /> về quyền, địa vị cho cho NCT thông qua đạo nhiều điểm tiến bộ về chính sách NCT ở nước<br /> luật có giá trị pháp lý cao nhất - hiến pháp. ta giai đoạn này:<br /> Điều này vừa phản ánh giá trị văn hóa, đạo lí –– Hiến pháp xác định rõ đối tượng thụ<br /> của dân tộc ta nhưng cũng thể hiện chính sách hưởng và tham gia thực thi chính sách người<br /> giàu tính nhân văn của nước ta đối với đội ngũ cao tuổi là “công dân”. Điều này có nhiều ý<br /> NCT trong suốt quá trình cách mạng. nghĩa, bởi lẽ, với tư cách công dân - người<br /> 2.3.2. Chính sách phát huy vai trò người cao tuổi ngoài việc được hưởng đầy đủ quyền<br /> cao tuổi từ sau thời kỳ Đổi mới (1986) đến nay của công dân thì quyền được thụ hưởng phúc<br /> Từ năm 1986 trở đi, chính sách dành cho lợi của người cao tuổi tiếp tục được đảm bảo.<br /> người cao tuổi được đặt trong bối cảnh mới Điều này thì Hiến pháp 1992 kế thừa tính tiến<br /> của đất nước. Đó là quá trình đẩy mạnh thực bộ, hạt nhân hợp lí từ Hiến pháp 1946.<br /> hiện công cuộc đổi mới toàn diện mà trước hết –– Điểm nổi bật nhất chính là việc Hiến<br /> là đổi mới kinh tế, chủ động hội nhập quốc tế, pháp 1992 xác định rõ vai trò của các chủ thể<br /> xóa thế bao vây cấm vận và giữ vững thành có trách nhiệm trong thực hiện quyền cơ bản<br /> quả cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong giai NCT và chính sách NCT đó chính là Nhà nước<br /> đoạn này, chính sách người cao tuổi có những và xã hội.<br /> nét đặc trưng cơ bản như sau: Tuy nhiên, so với các bản Hiến pháp trước<br /> Một là, chính sách đối với NCT mới bắt đây, Hiến pháp 1992 vẫn chưa có đổi mới về<br /> đầu được định hình rõ nét hơn và phù hợp với tư duy, dự báo trong xây dựng chính sách phát<br /> <br /> 115<br /> Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật<br /> <br /> huy vai trò NCT - vẫn hướng đến đảm bảo so với giai đoạn trước, trong đó, phát huy vai<br /> phúc lợi và phân phối trong việc thụ hưởng trò của đội ngũ NCT bắt đầu được quan tâm<br /> thành quả cách mạng, thành tựu tăng trưởng không chỉ ở góc độ thực tiễn mà còn pháp lý<br /> kinh tế cho NCT hơn là phát huy vai trò to lớn hóa trong các văn bản quy phạm pháp luật; từ<br /> của lực lượng này. đó, đưa lực lượng NTC nước ta có thể thích<br /> Sau khi Hội người cao tuổi Việt Nam ứng, chủ động hơn trong bối cảnh mới của<br /> được thành lập (10/5/1995), Ban Bí thư TW đất nước.<br /> ban hành Chỉ thị 59/CT-TW “Về chăm sóc Năm 2004 cũng là năm có nhiều bước tiến<br /> người cao tuổi”, trong đó nhấn mạnh: “Hội trong chính sách người cao tuổi. Quyết định<br /> người cao tuổi Việt Nam mới được thành lập, của Thủ tướng Chính phủ số 141 “Về việc<br /> cần được nhanh chóng ổn định về tổ chức và thành lập Ủy ban Quốc gia về người cao tuổi<br /> mở rộng hoạt động ở cơ sở. Đảng đoàn Mặt Việt Nam”. Sự kiện thành lập Ủy ban quốc gia<br /> trận Tổ quốc, các ban đảng, các đoàn thể nhân về người cao tuổi có thể được xem là một bước<br /> dân cần giúp đỡ Hội hoạt động có hiệu quả tiến bộ trong tư duy hành động của Chính phủ<br /> thiết thực, phối hợp với Hội trong việc vận về chính sách đối với NCT nói chung trong đó<br /> động gia đình và xã hội chăm sóc, bồi dưỡng, có việc tăng cường hiệu quả công tác thực hiện<br /> phát huy người cao tuổi phục vụ công cuộc chính sách phát huy vai trò NCT trên thực tế.<br /> đổi mới.<br /> Ngày 26/3/2006, Thủ tướng Chính phủ<br /> Đặc biệt, năm 2000, lần đầu tiên, một văn đã ra quyết định số 772/QĐ-TTg lấy ngày 6/6<br /> bản có giá trị pháp lý cao nhất về chính sách hàng năm là “Ngày truyền thống người cao<br /> của NCT do cơ quan quyền lực ban hành - Uỷ tuổi Việt Nam” nhằm tiếp tục giáo dục truyền<br /> ban Thường vụ Quốc hội - Pháp lệnh Người thống tốt đẹp của thế hệ đi trước làm gương<br /> cao tuổi. Điều này đã chính thức khẳng định cho lớp trẻ đi sau tiếp tục đóng góp công sức,<br /> vị thế, vai trò của NCT đồng thời gắn trách trí tuệ để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc giàu<br /> nhiệm của nhà nước và xã hội trong sự nghiệp đẹp, văn minh, dân chủ bền vững, trong đó<br /> chăm lo đối với NCT ở nước ta giai đoạn phát vận động toàn dân tham gia phong trào chăm<br /> triển mới của đất nước. Ngay Phần mở đầu, sóc và phát huy vai trò người cao tuổi, kêu gọi<br /> Pháp lệnh có đoạn: “Người cao tuổi có công sự đóng góp của cộng đồng chăm sóc NCT,<br /> sinh thành, nuôi dưỡng, giáo dục con cháu về tạo điều kiện để NCT sống vui, sống khỏe,<br /> nhân cách và giữ vai trò quan trọng trong gia sống có ích và nghĩa tình.<br /> đình và xã hội” và tại Điều 2, 4, Chương 3,...<br /> Đặc biệt, năm 2009, Luật Người cao tuổi<br /> đã đề cập trực tiếp đến nội dung mang tầm<br /> ra đời và đi vào thực tế từ tháng 7/2010 đã làm<br /> chính sách là việc phát huy vai trò NCT trong<br /> nên nền tảng vững chắc cho việc xây dựng tổ<br /> sự nghiệp cách mạng. Tiếp đó, Chính phủ đã<br /> chức Hội Người cao tuổi Việt Nam, chăm lo<br /> ban hành Nghị định số 30/2002/NĐ-CP ngày<br /> và phát huy vai trò, vị thế của NCT trong giai<br /> 26/03/2002 nhằm quy định và hướng dẫn thi<br /> đoạn mới. Theo đó, Luật đã dành nhiều phần<br /> hành một số điều của Pháp lệnh Người cao<br /> quy định về khẳng định chính sách nhất quán<br /> tuổi, đảm bảo tính thống nhất, khả thi thực<br /> trong việc phát huy vị thế, vai trò của NCT<br /> hiện trên thực tế.<br /> trong xã hội hiện nay một cách đầy đủ và hoàn<br /> Có thể thấy, chính sách đối với người cao thiện nhất như tại Điều 4, 5, 7 và Chương III.<br /> tuổi trong thời gian này có bước tiến bộ hơn Đồng thời, quyết định chọn ngày 6/6 hàng<br /> <br /> 116<br /> chính sách phát huy vai trò người cao tuổi Việt Nam...<br /> <br /> <br /> năm - “Ngày truyền thống Người cao tuổi Việt người cao tuổi trong xã hội, đặc biệt trong xã<br /> Nam” đồng thời là ngày “Toàn xã hội chăm hội hiện đại. Đó là kiên quyết chống tư duy cổ<br /> sóc và phát huy vai trò người cao tuổi”. Bên xưa, lạc hậu, không hợp thời: “lão lai tài tận,<br /> cạnh đó, Quyết định số 1781/QĐ-TTg ngày lão giả an chi” và khẳng định, NCT có vai trò<br /> 22 tháng 11 năm 2012 về phê duyệt Chương quan trọng, và vai trò ấy cần có chính sách,<br /> trình hành động quốc gia về người cao tuổi cơ chế thu hút, phát huy, tận dụng trong sự<br /> Việt Nam giai đoạn 2012 - 2020 trong mục nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam<br /> tiêu tổng thể và chi tiết đều nhấn mạnh: “Phát hiện nay.<br /> huy vai trò của người cao tuổi;.... phát huy<br /> Như vậy, từ sau đổi mới đến nay, chính<br /> vai trò người cao tuổi phù hợp với tiềm năng<br /> sách phát huy vai trò NCT đã được thể hiện<br /> và trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất<br /> ngày càng rõ nét, được cụ thể hóa thành mục<br /> nước” là yếu tố hàng đầu trong thực thi chính<br /> tiêu, nội dung, chương trình hành động trong<br /> sách quốc gia về NCT thời gian tới.<br /> luật, văn bản pháp quy của các cơ quan nhà<br /> Đặc biệt, tại Khoản 3, Điều 37, Hiến pháp nước. Đây là sự chuẩn bị quan trọng, có ý<br /> 2013 lần đầu tiên quy định rất rõ và tiến bộ về nghĩa và thực sự cần thiết cho việc triển khai<br /> các chính sách đối với NCT ở khía cạnh quyền các chính sách cụ thể nhằm phát huy vai trò<br /> công dân, quyền con người: “Người cao tuổi NCT ở các giai đoạn tiếp theo.<br /> được Nhà nước, gia đình và xã hội tôn trọng,<br /> chăm sóc và phát huy vai trò trong sự nghiệp 3. MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA TỪ KẾT QUẢ<br /> xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Tại điều, khoản NGHIÊN CỨU VỀ CHÍNH SÁCH PHÁT<br /> này đáng chú ý nhất là: HUY VAI TRÒ NGƯỜI CAO TUỔI TỪ GÓC<br /> –– Lần đầu tiên, sau hơn 75 năm lập quốc NHÌN LỊCH SỬ, PHÁP LÝ Ở VIỆT NAM<br /> và xây dựng Hiến pháp, quyền của người cao<br /> tuổi được ghi thành một điểu khoản riêng, tách Thứ nhất, chính sách phát huy vai trò NCT<br /> hẳn với các đối tượng khác như người tàn tật, trong các lĩnh vực đời sống xã hội trải dài<br /> trẻ em mồ côi,… Đây không phải là sự hiển qua suốt chiều dài lịch sử Việt Nam. Do đó,<br /> nhiên mà khẳng định của Đảng, Nhà nước về nhà cầm quyền cần có tư duy, chính sách và<br /> quyền tối cao và vai trò ngày càng quan trọng cách thức khơi dậy, huy động, tập hợp và phát<br /> của người cao tuổi trong sự nghiệp xây dựng, huy giá trị, sức mạnh tiềm ẩn trong lực lượng<br /> phát triển đất nước và vì vậy, đã đến lúc, vị NCT góp phần giải quyết các vấn đề đang đặt<br /> trí người cao tuổi cần đúng, tương xứng với ý ra trong quá trình phát triển quốc gia. Đối với<br /> nghĩa vốn có của nó. Việt Nam hiện nay, chính sách này gắn liền với<br /> –– Lần đầu tiên, quyền của người cao tuổi việc giải quyết bài toán chính sách vô cùng hóc<br /> được quy định đầy đủ nhất không chỉ được búa - “NCT sẽ ở đâu và có vị thế ra sao trong<br /> thụ hướng giá trị vật chất, cơ bản nhất là chăm tiến trình phát triển bền vững của đất nước?”,<br /> sóc sức khỏe và trọn vẹn các quyền công dân, “Đâu là giải pháp hợp lí nhất giải quyết vấn đề<br /> quyền con người khác và đồng thời được đảm có tính vĩ mô giữa xây dựng chính sách già hóa<br /> bảo các giá trị tinh thần - được tôn trọng, được dân số chủ động với thực trạng thiếu hụt ngày<br /> công nhận, ghi nhận sự cống hiến và khẳng càng trầm trọng nhân lực lao động chất lượng<br /> định vai trò của mình trong xã hội. cao khi Việt Nam sắp sửa trở thành quốc gia<br /> –– Lần đầu tiên, Hiến pháp phản ánh đầy “siêu già” khi vẫn còn đang “nghèo” và các rào<br /> đủ, rõ nét tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò cản văn hóa đang hiện hữu”.<br /> <br /> 117<br /> Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật<br /> <br /> Thứ hai, qua nghiên cứu chặng đường Thứ ba, phải khẳng định, chính sách phát<br /> rất dài của chính sách phát huy vai trò NCT huy vai trò NCT trong suốt chiều dài lịch sử<br /> ở nước ta, có thể khẳng định sự chuyển biến như đã phân tích có tác dụng tích cực, to lớn,<br /> mạnh mẽ về mặt tư duy, quan điểm và pháp lý vừa khẳng định tính đúng đắn về mặt chính<br /> hóa trong thực hiện chính sách này ở nước ta là sách, chủ trương của nhà cầm quyền nhưng<br /> dấu hiệu rất đáng mừng. Tuy nhiên, đều đáng đồng thời cũng phán ánh đúng truyền thống,<br /> phải quan tâm như tác giả cũng đã ít nhiều đề đạo lí và yêu cầu thực tế của đất nước ở mỗi<br /> cập trong bài viết này chính là (i). mức độ thể chặng đường phát triển của đất nước. Ở đâu<br /> hiện (lồng ghép) chính sách này trong tổng thể và chừng nào, khi nào chính sách phát huy vai<br /> chính sách NCT ở nước ta thời gian qua và trò NCT được coi trọng, thực hiện bài bản,<br /> (ii). mức độ triển khai, hiệu quả thực thi mục thực chất và mạnh mẽ thì lúc đó, sức mạnh<br /> tiêu, giải pháp và nội dung phát huy vai trò<br /> của NCT được huy tập một cách tốt nhất và<br /> NCT theo Luật trên thực tế đang là vấn đề hết<br /> là động lực thúc đẩy đất nước phát triển, vượt<br /> sức trăn trở. Hiện nay, việc triển khai chính<br /> qua khó khăn, cam go nhất. Nghiên cứu điều<br /> sách NCT ở nước ta vẫn đang gặp phải các trở<br /> này giúp cho chúng ta nhận thấy rằng, việc<br /> ngại sau và đây chính là thách thức cho bản<br /> quan tâm và sớm ban hành chính sách phát<br /> thân chính sách phát huy vai trò chủ thể này<br /> huy vai trò NCT trên các lĩnh vực đời sống<br /> thời gian tới. Đó là:<br /> xã hội là cực kỳ cần thiết, bức thiết, có tính<br /> –– Nhà nước dường như vẫn đang loay then chốt trong hành trình phát triển bền vững<br /> hoay, có vẻ như chưa tìm ra được các giải<br /> quốc gia, ít nhất trong 1/2 thế kỷ tiếp theo của<br /> pháp hữu hiệu, hài hòa nhất để có chính sách<br /> thế kỷ XXI. Việc chuẩn bị hành trang chính<br /> cư xử với NCT sao cho vừa vẫn giữ được<br /> sách càng chính xác, đầy đủ, chu đáo nhằm<br /> nét văn hóa truyền thống vừa phù hợp xu thế,<br /> giải quyết các thách thức từ việc già hóa dân<br /> yêu cầu thời đại mới. Điều này thể hiện ở sự<br /> số ngày càng nhanh ở Việt Nam cũng như phát<br /> lúng túng là nên hay không nên thực thi hệ<br /> huy vai trò NCT trong giai đoạn mới là đảm<br /> thống chính sách phúc lợi đối với NCT ở khía<br /> bảo cho sự phát triển kinh tế - xã hội nước ta<br /> cạnh đặt NCT vào thế “bị động”, hay “chủ<br /> ổn định trong vài thập niên tiếp theo.<br /> động”, “vai trò NCT ra sao” trong tổng thể<br /> chính sách. Thứ tư, việc nghiên cứu chính sách phát<br /> –– Dường như có độ “lệch” trong mục tiêu, huy vai trò NCT ở khía cạnh lịch sử, pháp lý<br /> nôi dung và ưu tiên nguồn lực khi phần lớn trong chiều dài lịch sử dân tộc góp phần củng<br /> các chính sách dành cho NCT hiện nay đều cố, làm sáng tỏ cơ sở lý luận, lịch sử và pháp<br /> hướng đến cung cấp ngày càng gia tăng, cải lý cho việc thúc đẩy mạnh mẽ tiến trình xây<br /> thiện phúc lợi của Nhà nước dành cho NCT dựng, ban hành và thực hiện hiệu quả chính<br /> thông qua các chính sách bảo hiểm, chính sách sách này trong thời gian tới. Cùng với luận<br /> bảo trợ xã hội, chính sách chăm sóc sức khỏe, cứ có được trong thời gian qua gắn với bối<br /> hay chính sách tài chính,.... cho NCT. Trong cảnh kinh tế - xã hội mới của đất nước, các kết<br /> khi đó, chính sách phát huy vai trò NCT trong quả nghiên cứu của bài viết sẽ làm sáng tỏ và<br /> giai đoạn hiện nay dù rất cấp thiết (như đã gợi mở nhiều ý tưởng cho quá trình thúc đẩy<br /> phân tích ở trên) nhưng thường dễ bị bỏ quên, hình thành, hiện thực hóa hệ thống chính sách<br /> hoặc được lồng ghép một cách không thực sự nhằm phát huy vai trò NCT ở Việt Nam sớm<br /> đầy đủ trong các chính sách NTC khác. nhất có thể.<br /> <br /> 118<br /> chính sách phát huy vai trò người cao tuổi Việt Nam...<br /> <br /> <br /> 4. KẾT LUẬN<br /> Việc nghiên cứu chính sách quốc gia, viết. Bằng việc thống kê, chắt lọc dựa trên<br /> trong đó có chính sách phát huy vai trò NCT triều đại, giai đoạn điển hình, phù hợp, tác giả<br /> dưới góc nhìn lịch sử, pháp lý không phải bao đã bước đầu hệ thống, phân tích một cách khái<br /> giờ cũng là công việc dễ dàng. Bởi lẽ, lịch quát, khá toàn diện, có logic trước - sau nhằm<br /> sử là chặng đường dài với nét thăng trầm rất làm bật nổi sự tồn tại trên thực tế chính sách<br /> khác nhau và ở đó, pháp luật với tư cách là vật phát huy vai trò NCT trong suốt chiều dài lịch<br /> chuyên chở các giá trị, tinh thần cho các chính sử dân tộc Việt Nam từ góc nhìn lịch sử và soi<br /> sách ấy lại được phản ảnh thông qua các triều rọi dựa trên căn cứ pháp lý; từ đó, thúc đẩy<br /> đại, nhà nước (dù ở các hình thức chính thể đổi mới tư duy, hành động nhằm giúp các nhà<br /> khác nhau) cũng đậm, nhạt qua các giai đoan hoạch định có thêm chất liệu xây dựng, ban<br /> khác nhau làm cho việc tìm tòi, chắt lọc và đúc hành và tổ chức thực thi hệ thống chính sách<br /> kết, lý giải, phân tích đảm bảo tính hợp lí của này một cách thực chất, đầy đủ, khả thi trên<br /> các dữ kiện về chính sách này ở phương diện thực tế, góp phần khắc phục trở ngại trong quá<br /> lịch sử, pháp lý là thách thức đối với người trình phát triển của Việt Nam thời gian tới.<br /> <br /> TÀI LIỆU THAM KHẢO:<br /> [1]. Lê Quang Chấn (2014), Chính sách của Nhà [10]. Nguyễn Mộc Lan, Những vấn đề tâm lý -<br /> Nguyễn đối với người cao tuổi (giai đoạn xã hội của người cao tuổi Việt Nam:Thực<br /> 1802 - 1884), Tạp chí Khoa học xã hội Việt trạng - giải pháp trợ giúp và phát huy vai<br /> Nam, số 4 (77) -2014. trò người cao tuổi tại cộng đồng, Nxb. Đại<br /> [2]. Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.<br /> - Hình Luật chí, t.3, Bản dịch của Viện sử học. [11]. Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê (1993),<br /> [3]. Chính sách của nhà nước Việt Nam trong Đại việt sử ký toàn thư (dịch theo bản khắc<br /> lịch sử đối với người cao tuổi, Tạp chí Dân năm Chính Hòa thứ 18 (1697), t.1, Nxb.<br /> số và Phát triển, số 11/2005. Khoa học xã hội, Hà Nội<br /> [4]. Đào Văn Dũng, Nguyễn Kim Phương [12]. Khắc Minh (2005), Phép nước lệ làng xưa<br /> (2017), Giải pháp, chính sách an sinh xã với người cao tuổi, Báo sông Bé.<br /> hội cho người cao tuổi, Tạp chí Tuyên giáo, [13]. Hồ Chí Minh (2009): Toàn tập, t.3, Nxb.<br /> số 8/2017. Chính trị quốc gia, Hà Nội.<br /> [5]. Đề tài của Viện Khoa học xã hội Việt Nam - [14]. Hồ Chí Minh (2009): Toàn tập, t.4, Nxb.<br /> Một số vấn đề cơ bản về người cao tuổi Việt Chính trị quốc gia, Hà Nội.<br /> Nam giai đoạn 2011-2020, Hà Nội, 2010. [15]. Dẫn theo Nguyễn Đức Nghinh: Người già<br /> [6]. Lê Văn Hảo (2017), Cảm nhận đa chiều của trong làng xã. Trong cuốn Nông thôn Việt<br /> người cao tuổi về già hóa, Tạp chí Tâm lý Nam trong lịch sử, t.2, Viện sử học, 1978.<br /> học, số 4/2017. [16]. Đình Phương (2016), Xếp hạng chất lượng<br /> [7]. Lê Văn Hảo (2017), Cảm nhận về già hóa nguồn nhân lực thấp, lao động Việt Nam<br /> ở người cao tuổi, Tạp chí Tâm lý học, số có thể thua ngay trên sân nhà, website:<br /> 12/2016. http://cafef.vn.<br /> [8]. Hội Người cao tuổi Việt Nam, Nxb. Quân [17]. Nguyễn Văn Tiến (2001), Chính sách chăm<br /> đội nhân dân, Hà Nội, 1996. sóc sức khỏe người già Việt Nam và mô<br /> [9]. Nguyễn Phương Lan (2000), Tiếp cận văn hình chăm sóc sức khỏe người già ở nông<br /> hóa người cao tuổi, Nxb. Văn hóa Thông thôn, Tạp chí Y học thực hành, số 4/2001.<br /> tin, Hà Nội.<br /> <br /> 119<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
12=>0