intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Chính sách thuế với phát triển công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam

Chia sẻ: Vân Hi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:16

4
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Công nghiệp hỗ trợ góp phần gia tăng sức cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp chính, góp phần tạo ra các sản phẩm có đặc thù riêng của quốc gia, có sức cạnh tranh hơn hẳn các sản phẩm chỉ được tạo ra bởi các nguồn cung ứng toàn cầu, thúc đẩy sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam trong bối cảnh mới. Chính sách tài chính nói chung và chính sách thuế nói riêng có vai trò quan trọng phát triển công nghiệp hỗ trợ. Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng chính sách thuế với phát triển công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam; bài nghiên cứu này chỉ ra các kết quả đạt được, hạn chế và nguyên nhân, bài viết đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách thuế, tiền thuê đất phát triển công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam trong thời gian tới.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Chính sách thuế với phát triển công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam

  1. Kỷ yếu hội thảo Quốc gia “VAI TRÒ CỦA TÀI CHÍNH HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP XUẤT NHẬP KHẨU TRONG TÌNH HÌNH MỚI” CHÍNH SÁCH THUẾ VỚI PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ Ở VIỆT NAM PGS.TS Vương Thị Thu Hiền Th.s Nguyễn Thuỳ Trang Khoa Thuế và Hải Quan, Học viện Tài chính TÓM TẮT: Trong tiến trình phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa như Việt Nam hiện nay, công nghiệp hỗ trợ (CNHT) có vai trò nền tảng đối với các ngành công nghiệp nói riêng cũng như đối với cả nền kinh tế nói chung. Sản phẩm của công nghiệp hỗ trợ là phụ tùng, linh kiện, nguyên liệu, vật liệu, là hàng hóa trung gian, đầu vào cho hoạt động sản xuất sản phẩm cuối cùng. Do vậy, bất kỳ sản phẩm công nghiệp hỗ trợ nào cũng đều được lắp ráp vào một sản phẩm cuối cùng, bất kỳ doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ nào cũng đều phải tham gia chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị của một hay một vài doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp sản phẩm cuối cùng thông qua những hình thức khác nhau, có thể trở thành nhà cung ứng cho các doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp trong nước, hoặc xuất khẩu cho các doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp ở nước ngoài. Việc trở thành nhà cung cấp cho doanh nghiệp nào (nội địa, có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài - FDI, hay xuất khẩu) phụ thuộc vào năng lực của doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ. Phát triển CNHT là một trong những giải pháp quan trọng giúp Việt Nam cải thiện chất lượng nền kinh tế, phát triển bền vững; tăng khả năng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, đẩy mạnh tiếp nhận, chuyển giao công nghệ, thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nước. CNHT góp phần gia tăng sức cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp chính, góp phần tạo ra các sản phẩm có đặc thù riêng của quốc gia, có sức cạnh tranh hơn hẳn các sản phẩm chỉ được tạo ra bởi các nguồn cung ứng toàn cầu, thúc đẩy sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam trong bối cảnh mới. Chính sách tài chính nói chung và chính sách thuế nói riêng có vai trò quan trọng phát triển công nghiệp hỗ trợ. Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng chính sách thuế với phát triển công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam; chỉ ra các kết quả đạt được, hạn chế và nguyên nhân, bài viết đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách thuế, tiền thuê đất phát triển công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam trong thời gian tới. TỪ KHÓA: Chính sách thuế; công nghiệp hỗ trợ ĐẶT VẤN ĐỀ Trong gần ba thập niên qua, Việt Nam là một trong những quốc gia có độ mở nền 109
  2. Kỷ yếu hội thảo Quốc gia “VAI TRÒ CỦA TÀI CHÍNH HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP XUẤT NHẬP KHẨU TRONG TÌNH HÌNH MỚI” kinh tế lớn nhất trên thế giới. Mặc dù vậy, kim ngạch xuất khẩu phần lớn là các sản phẩm cuối, phụ thuộc nhiều vào nguyên liệu, phụ tùng và vật liệu nhập khẩu. Trong thời gian tới, cần có cách tiếp cận mới đối với khu vực này để hướng tới mục tiêu phát triển dài hạn và bền vững. Mặc dù tăng trưởng kinh tế có nhiều kết quả tích cực, song mức độ tham gia và hưởng lợi của doanh nghiệp trong nước chưa đạt như kỳ vọng. Doanh nghiệp trong nước chưa cải thiện được mạnh mẽ khả năng tham gia xuất khẩu trực tiếp, nhất là trong các ngành chế tạo. Ngay cả việc xuất khẩu gián tiếp thông qua cung ứng sản phẩm đầu vào cho khu vực FDI cũng vẫn còn là một thách thức không nhỏ đối với doanh nghiệp trong nước. Ngành công nghiệp hỗ trợ (CNHT) chưa phát huy được mạnh mẽ vai trò đáng lẽ phải đạt được trong điều kiện của một quốc gia đang dịch chuyển mạnh mẽ quá trình công nghiệp hóa như Việt Nam. Thực tế này đặt ra không ít khó khăn và thách thức cho doanh nghiệp trong nước nếu muốn tham gia và tiến sâu hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu, nhất là khi cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0 đã và đang tạo ra nhiều thay đổi nhanh và mạnh mẽ ở mọi khía cạnh và các công đoạn của chuỗi cung ứng toàn cầu. Vai trò của chính sách thuế với công nghiệp hỗ trợ là không thể phủ nhận. Để tận dụng tốt hơn dòng vốn FDI cho phát triển kinh tế, tạo ra sự liên kết với các doanh nghiệp trong nước, tác động lan tỏa tích cực hơn và nâng cao giá trị gia tăng cho khu vực kinh tế trong nước, tăng khả năng xuất khẩu các sản phẩm của Việt Nam, cần hoạch định chính sách thuế và chính sách ưu đãi để phát triển công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam trong bối cảnh mới. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Nhóm nghiên cứu chủ yếu sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử và các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: thống kê, so sánh, phân tích, mô hình hóa. NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU PHÂN TÍCH 1. Vai trò của chính sách thuế phát triển công nghiệp hỗ trợ - Chính sách thuế tác động mối quan hệ cung- cầu các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ. Để phát triển CNHT cần mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm. Sản phẩm CNHT là nguyên liệu đầu vào cho hoạt động sản xuất công nghiệp. Để mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm CNHT thì chất lượng và giá cả sản phẩm CNHT là những yếu tố quyết định. Chính sách thuế tác động vào mối quan hệ cung - cầu các sản phẩm CNHT thông qua tác động vào chi phí và giá cả sản phẩm sản xuất và tiêu thụ. Thông qua các sắc thuế cấu thành trong giá cả sản phẩm CNHT như: thuế xuất, nhập khẩu; thuế GTGT, thuế SDĐPNN... chính sách thuế đã tác động vào chi phí đầu vào và giá cả bán ra của sản phẩm CNHT. Với các quy định ưu đãi thuế xuất, nhập khẩu; thuế GTGT; thuế SDĐPNN đối với nguyên vật liệu, máy móc thiết bị, các ứng dụng công nghệ phục 110
  3. Kỷ yếu hội thảo Quốc gia “VAI TRÒ CỦA TÀI CHÍNH HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP XUẤT NHẬP KHẨU TRONG TÌNH HÌNH MỚI” vụ CNHT, các sản phẩm của CNHT..., chính sách thuế góp phần giảm chi phí sản xuất, giảm giá bán sản phẩm CNHT, qua đó đẩy mạnh việc tiêu thụ sản phẩm này. Việc mở rộng được thị trường tiêu thụ sẽ là yếu tố quan trọng thúc đầy sự phát triển của sản xuất CNHT. - Chính sách thuế khuyến khích việc ứng dụng khoa học và công nghệ cao, thu hút vốn đầu tư vào sản xuất công nghiệp hỗ trợ. Để phát triển CNHT cần có chính sách khuyến khích việc ứng dụng khoa học và công nghệ cao, thu hút vốn đầu tư vào CNHT. Việc đầu tư phát triển CNHT đòi hỏi chi phí đầu tư lớn, vì vậy chính sách thuế đã có những ưu đãi cho các doanh nghiệp, người sản xuất CNHT có đầu tư vốn, khoa học và công nghệ trong việc sản xuất kinh doanh. Hiện nay, phần lớn các chi phí đầu vào của sản xuất CNHT có nguồn gốc từ nhập khẩu, vì vậy việc quy định miễn thuế nhập khẩu đối với máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu thuộc loại trong nước chưa sản xuất được phục vụ cho hoạt động nghiên cứu khoa học thuộc loại trong nước chưa sản xuất được hoặc miễn thuế nhập khẩu cho máy móc, thiết bị vật tư nhập khẩu phục vụ cho các dự án CNHT, phát triển DNNVV... sẽ góp phần giảm bớt chi phí đầu tư cho việc đẩy mạnh ứng dụng khoa học và công nghệ trong sản xuất CNHT. Thuế GTGT là một trong những thuế cấu thành trong giá cả sản phẩm tiêu thụ. Việc đưa một số hàng hóa là chi phí đầu vào của sản xuất CNHT, đặc biệt là các hàng hóa liên quan đến ứng dụng khoa học và công nghệ áp dụng thuế suất thấp sẽ tạo điều kiện cho các sản phẩm CNHT giảm giá thành và nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường. Thuế TNDN điều chỉnh vào việc phân phối lợi nhuận giữa doanh nghiệp và nhà nước, do đó có vai trò quan trọng trong việc thu hút vốn đầu tư. Để gia tăng lợi nhuận cho các nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư phát triển CNHT, chính sách thuế TNDN đã đưa ra nhiều ưu đãi cho các doanh nghiệp đầu tư cho phát triển khoa học và công nghệ, ưu đãi cho các DNNVV, ưu đãi cho một số ngành CNHT trong Danh mục quy định.... - Chính sách thuế thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao hoạt động trong lĩnh vực CNHT. Để phát triển CNHT cần có nguồn nhân lực chất lượng cao hoạt động trong lĩnh vực này. Chính sách thuế tham gia vào việc khuyến khích thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao hoạt động trong lĩnh vực CNHT thông qua các quy định ưu đãi thuế TNCN đối với các cá nhân hoạt động trong lĩnh vực công nghệ cao (CNC) như: giảm thuế TNCN đối với cá nhân làm việc trong các doanh nghiệp ứng dụng CNC, các cá nhân khởi nghiệp trong lĩnh vực CNC; ưu đãi thuế TNCN đối với các khoản thu nhập liên quan đến phát minh, sáng chế, chuyển giao công nghệ trong lĩnh vực CNC... Các ưu đãi về thuế TNCN sẽ góp phần thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao, các nhà khoa học hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp CNC. 111
  4. Kỷ yếu hội thảo Quốc gia “VAI TRÒ CỦA TÀI CHÍNH HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP XUẤT NHẬP KHẨU TRONG TÌNH HÌNH MỚI” 2. Thực trạng chính sách thuế phát triển công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam thời gian qua 2.1 Những kết quả đạt được Thứ nhất, đã ban hành các quy định ưu đãi thuế áp dụng cho NNT trong đó có các doanh nghiệp CNHT với các hình thức ưu đãi khá đa dạng. Về chính sách thuế giá trị gia tăng: Căn cứ Luật quản lý thuế và Nghị định số 111/2015/NĐ-CP, tại Điều 3 Thông tư số 21/2016/TT-BTC ngày 5/2/2016 của Bộ Tài chính đã hướng dẫn về kê khai thuế GTGT theo hướng đơn giản, giảm tần suất kê khai thuế, cụ thể: Người nộp thuế là tổ chức khai thuế GTGT theo quý đối với doanh thu của sản phẩm công nghiệp hỗ trợ thuộc Danh mục sản phẩm công nghiệp hỗ trợ ưu tiên phát triển; người nộp thuế là cá nhân thực hiện khai thuế theo năm và nộp thuế GTGT theo quý. Thực hiện quy định trên thì doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ chỉ phải khai thuế GTGT 4 lần/năm, góp phần cắt giảm thủ tục hành chính và chi phí hành chính thuế. Miễn thuế nhập khẩu: Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu quy định một số trường hợp được miễn thuế nhập khẩu có liên quan đến CNHT và ưu đãi riêng cho CNHT. Theo đó, ưu đãi dành riêng cho CNHT là trường hợp: Nguyên liệu, vật tư, linh kiện nhập khẩu để sản xuất của dự án thuộc Danh mục lĩnh vực đặc biệt khuyến khích đầu tư được miễn thuế nhập khẩu trong thời hạn 5 năm, kể từ khi bắt đầu sản xuất. Theo Nghị định 149/2005/NĐ-CP, có 16 lĩnh vực thuộc Danh mục lĩnh vực đặc biệt khuyến khích đầu tư, trong đó, thuộc về CNHT có một lĩnh vực là sản xuất thép cao cấp, hợp kim, kim loại mầu, kim loại đặc biệt, phôi thép, sắt xốp, luyện gang. Nghị định 87/2010/NĐ-CP thay thế Nghị định 149/2005/NĐ-CP bổ sung thêm một số lĩnh vực thuộc CNHT vào diện miễn thuế nhập khẩu, đó là: (i) Sản xuất vật liệu composit, các loại vật liệu xây dựng nhẹ, vật liệu quý hiếm; (ii) Sản xuất chất bán dẫn và các linh kiện điện tử kỹ thuật cao; (iii) Đầu tư sản xuất, chế tạo thiết bị cơ khí chính xác. Như vậy, có thể thấy trước khi có chủ trương thúc đẩy phát triển CNHT năm 2007 đánh dấu bởi Quyết định 34/2007/QĐ-BCN của Bộ trưởng Bộ Công nghiệp (nay là Bộ Công Thương), việc ưu đãi thuế nhập khẩu đối với CNHT là rất ít, chỉ duy nhất áp dụng cho một lĩnh vực là sản xuất thép cao cấp, hợp kim, kim loại mầu, kim loại đặc biệt, phôi thép, sắt xốp, luyện gang. Năm 2010, đánh dấu thêm một bước bổ sung ưu đãi thuế nhập khẩu trực tiếp cho CNHT, trong đó đáng chú ý là sự bổ sung ưu đãi thuế cho CNHT cho ngành sản xuất, lắp ráp sản phẩm điện tử và CNHT cho ngành sản xuất, lắp ráp ô tô, xe máy với ưu đãi thuế cho lĩnh vực sản xuất, chế tạo thiết bị cơ khí chính xác. 112
  5. Kỷ yếu hội thảo Quốc gia “VAI TRÒ CỦA TÀI CHÍNH HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP XUẤT NHẬP KHẨU TRONG TÌNH HÌNH MỚI” Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu cũng quy định miễn thuế đối với hàng hóa nhập khẩu để sử dụng trực tiếp vào hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, bao gồm máy móc, thiết bị, phụ tùng, vật tư, phương tiện vận tải trong nước chưa sản xuất được, công nghệ trong nước chưa tạo ra được; tài liệu, sách báo khoa học. Quy định này nhằm thúc đẩy các doanh nghiệp thuộc mọi lĩnh vực trong đó có CNHT đầu tư cho nghiên cứu phát triển và nhập khẩu những máy móc, thiết bị quan trọng phục vụ sản xuất, kinh doanh mà trong nước chưa sản xuất được. Miễn thuế TNDN cho một số khoản thu nhập: Luật Thuế Thu nhập doanh nghiệp có quy định một số khoản thu nhập được miễn thuế TNDN. Trong số các khoản thu nhập được miễn thuế, không có khoản thu nhập nào trực tiếp thuộc lĩnh vực CNHT. Một khoản thu nhập thuộc diện được miễn thuế TNDN có liên quan đến nhiều lĩnh vực sản xuất công nghiệp trong đó có CNHT, đó là: Quy định miễn thuế đối với thu nhập từ việc thực hiện hợp đồng nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, sản phẩm đang trong thời kỳ sản xuất thử nghiệm, sản phẩm làm ra từ công nghệ mới lần đầu áp dụng tại Việt Nam. Trước năm 2014, thời gian miễn thuế tối đa đối với thu nhập từ hợp đồng nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ tối đa 1 năm; thu nhập từ sản xuất sản phẩm thử nghiệm và công nghệ mới tối đa 6 tháng. Từ năm 2014, theo Nghị định 91/2014/NĐ-CP, thời gian miễn thuế tối đa đối với các khoản thu nhập này được kéo dài tương ứng là 3 năm và 5 năm. Như vậy, có thể thấy, mức độ ưu đãi nhằm khuyến khích DN đầu từ cho nghiên cứu phát triển đã tăng lên đáng kể. Miễn và giảm thuế TNDN có thời hạn. Đối với chính sách ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp: Mặc dù đây được xem là một trong những biện pháp ưu đãi chủ yếu nhằm thu hút đầu tư, nhưng chính sách này không mang lại hiệu quả như mong muốn. Theo ý kiến phản hồi của các doanh nghiệp CNHT trong nước, không nhất thiết phải ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp lớn như hiện nay vì theo nguyên tắc khi doanh nghiệp hoạt động có lãi thì việc chia sẻ lợi nhuận ích với cộng đồng cũng là hợp lý. Còn khi hoạt động chưa có lãi thì ưu đãi này cũng không có ý nghĩa cho việc hỗ trợ phát triển doanh nghiệp. Bên cạnh đó, ưu đãi này có thể là kẽ hở cho một số doanh nghiệp lợi dụng, khi hết thời hạn ưu đãi họ có thể chuyển sang địa điểm khác, hoặc mở ra dự án mới để lại được hưởng giai đoạn ưu đãi mới. Theo Luật Thuế TNDN, hình thức miễn, giảm thuế có thời hạn chủ yếu áp dụng ưu đãi theo địa bàn đầu tư, không có miễn, giảm thuế có thời hạn áp dụng đối với CNHT nhưng có áp dụng cho lĩnh vực có liên quan đến CNHT. Theo đó, Luật Thuế TNDN quy định: Cơ sở kinh doanh đầu tư xây dựng dây chuyền sản xuất mới, mở rộng quy mô, đổi mới công nghệ được miễn thuế tối đa 4 năm và giảm 50% số thuế phải nộp tối đa 7 năm tiếp theo. Luật Thuế TNDN năm 2008 quy định: DN thành lập mới từ dự án đầu tư thuộc 113
  6. Kỷ yếu hội thảo Quốc gia “VAI TRÒ CỦA TÀI CHÍNH HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP XUẤT NHẬP KHẨU TRONG TÌNH HÌNH MỚI” lĩnh vực công nghệ cao, nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ được miễn thuế tối đa không quá 4 năm và giảm 50% số thuế phải nộp tối đa không quá 9 năm tiếp theo. Áp dụng thuế suất 10% thuế thu nhập doanh nghiệp trong thời gian 15 năm, miễn thuế tối đa 4 năm, giảm 50% số thuế phải nộp tối đa 9 năm tiếp theo được tính từ năm đầu tiên có thu nhập chịu thuế từ dự án đầu tư. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế TNDN năm 2013 có hai sự thay đổi quan trọng liên quan đến cách thức ưu đãi thuế đối với CNHT, đó là: (i) Chuyển từ ưu đãi cho DN mới thành lập từ dự án đầu tư sang ưu đãi cho phần thu nhập của DN có được từ dự án đầu tư thuộc diện được ưu đãi thuế; (ii) Ngoài việc ưu đãi thuế có liên quan đến CNHT, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế TNDN năm 2013 còn có riêng quy định miễn, giảm thuế có thời hạn cho một số lĩnh vực thuộc lĩnh vực CNHT, đó là sản xuất sản phẩm phần mềm, sản xuất vật liệu composit, sản xuất các loại vật liệu xây dựng nhẹ và vật liệu quý hiếm. Thuế suất thuế TNDN ưu đãi: Xét dưới góc độ ưu đãi cho CNHT, thuế suất thuế TNDN ưu đãi được áp dụng cả trực tiếp cho CNHT và liên quan đến CNHT và được áp dụng xuyên suốt qua các lần sửa đổi Luật Thuế TNDN từ năm 2003 đến năm 2013 với những điều chỉnh theo hướng tăng thêm và mở rộng dần ưu đãi cho CNHT. Cụ thể là: - Luật Thuế TNDN năm 2003 quy định: Cơ sở kinh doanh mới thành lập từ dự án đầu tư thuộc lĩnh vực ưu đãi đầu tư, tùy theo địa bàn đầu tư mà được áp dụng một trong các mức thuế suất ưu đãi 20%, 15% hoặc 10% tương ứng với các thời hạn 10 năm, 12 năm và 15 năm. Trong số các lĩnh vực ưu đãi đầu tư ban hành kèm theo Nghị định 164/2003/ NĐ- CP hướng dẫn thi hành Luật Thuế TNDN năm 2003 có những lĩnh vực thuộc CNHT như: Sản xuất chất bán dẫn và các linh kiện điện tử, sản xuất thiết bị viễn thông; sản xuất hóa chất cơ bản, hóa chất tinh khiết, hóa chất chuyên dụng, thuốc nhuộm; sản xuất thiết bị cơ khí chính xác; sản xuất thép cao cấp, hợp kim, kim loại màu. Nghị định 164/2003/ NĐ-CP còn quy định một số lĩnh vực không thuộc về CNHT nhưng có liên quan đến CNHT như: ứng dụng công nghệ cao; đào tạo nguồn nhân lực công nghệ thông tin; giáo dục, đào tạo… - Tiếp tục áp dụng thuế suất ưu đãi theo Luật Thuế TNDN năm 2003 nhưng Nghị định 24/2007/ NĐ-CP thay thế Nghị định 164/2003/NĐ-CP đã bổ sung thêm danh mục lĩnh vực đặc biệt ưu đãi đầu tư và áp dụng mức thuế suất ưu đãi 10% cho lĩnh vực này. Trong số các lĩnh vực đặc biệt ưu đãi đầu tư có một số lĩnh vực thuộc về CNHT, đó là: Sản xuất vật liệu composit, các loại vật liệu xây dựng nhẹ, vật liệu quý hiếm; sản xuất thép cao cấp, hợp kim, kim loại đặc biệt, sắt xốp, phôi thép; sản xuất chất bán dẫn và các linh kiện điện tử kỹ thuật cao; sản xuất, chế tạo thiết bị cơ khí chính xác. - Luật Thuế TNDN năm 2008 (thay thế Luật Thuế TNDN năm 2003) bỏ thuế suất ưu đãi đối với các lĩnh vực thuộc CNHT, chỉ tiếp tục cho áp dụng thuế suất ưu đãi đối với một 114
  7. Kỷ yếu hội thảo Quốc gia “VAI TRÒ CỦA TÀI CHÍNH HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP XUẤT NHẬP KHẨU TRONG TÌNH HÌNH MỚI” số lĩnh vực có liên quan như công nghệ cao, giáo dục, nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ… - Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế TNDN năm 2013, ngoài việc kế thừa áp dụng thuế suất ưu đãi đối với một số lĩnh vực có liên quan đến CNHT, còn bổ sung việc áp dụng thuế suất ưu đãi 10% trong thời hạn 15 năm đối với một số lĩnh vực thuộc CNHT, bao gồm: Sản xuất vật liệu composit, các loại vật liệu xây dựng nhẹ, vật liệu quý hiếm. Ngoài ra, tuy không trực tiếp ưu đãi cho CNHT nhưng những DN nhỏ và vừa (có doanh thu không quá 20 tỷ đồng/năm) thuộc lĩnh vực CNHT cũng được hưởng thuế suất ưu đãi 20% đối với DN nhỏ và vừa từ 1/7/2013 đến hết 31/12/2015. Tín dụng thuế đầu tư. Tín dụng thuế đầu tư là cách thức ưu đãi mà Nhà nước cho người nộp thuế được miễn thuế thu nhập thông qua hoàn thuế hoặc hoãn nộp thuế thu nhập thông qua một cách thức nào đó làm giảm số thuế phải nộp ở năm hiện tại và sẽ thu lại số thuế này trong những năm sau đó nhằm khuyến khích các DN đổi mới máy móc thiết bị; đầu tư mới hoặc đầu tư cho nghiên cứu khoa học. Như vậy, có thể thấy, tín dụng thuế đầu tư thường không áp dụng riêng cho CNHT mà áp dụng cho mọi DN trong đó có DN thuộc lĩnh vực CNHT. Luật Thuế TNDN năm 2003 duy trì một dạng tín dụng thuế đầu tư là cho phép DN được trích khấu hao nhanh tối đa 2 lần đối với một số loại tài sản cố định để nhanh chóng đổi mới công nghệ. Luật Thuế TNDN năm 2008 bổ sung một dạng tín dụng thuế đầu tư là cho phép DN được trích lập quỹ nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ với mức trích tối đa 10% trên thu nhập tính thuế để sử dụng chi cho nghiên cứu phát triển trong DN. Chính sách về đất đai và môi trường. - Nghị định số 111/2015/NĐ-CP quy định những ưu đãi về miễn giảm tiền thuê đất, tiền thuê mặt nước, cũng như việc xử lý ô nhiễm, bảo vệ môi trường của các Dự án sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ thuộc Danh mục sản phẩm công nghiệp hỗ trợ ưu tiên phát triển - đặc biệt là cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Tuy nhiên, trong pháp luật về đất đai và môi trường không có các quy định đặc thù và rõ ràng về các ưu đãi này cho các dự án CNHT, do đó, chưa có doanh nghiệp CNHT nào tiếp cận được với các ưu đãi nói trên. - Việc miễn, giảm tiền thuê đất ở Việt Nam thời gian qua chủ yếu áp dụng đối với dự án đầu tư thuộc lĩnh vực đặc biệt khuyến khích đầu tư thực hiện tại địa bàn kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn hoặc địa bàn kinh tế - xã hội khó khăn; miễn, giảm tiền thuê đất trong khu kinh tế, khu công nghệ cao. Gần đây nhất, Nghị định 46/2014/NĐ-CP có bổ sung một số trường hợp được miễn, giảm tiền thuê đất nhưng chỉ liên quan chứ không trực tiếp dành riêng cho CNHT, đó là các trường hợp: Đất xây dựng cơ sở nghiên cứu khoa học của DN khoa học và công nghệ; đất xây dựng kết cấu hạ tầng chung của khu công nghiệp, cụm công nghiệp, khu chế xuất. 115
  8. Kỷ yếu hội thảo Quốc gia “VAI TRÒ CỦA TÀI CHÍNH HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP XUẤT NHẬP KHẨU TRONG TÌNH HÌNH MỚI” - Dự án đầu tư “Sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ” được miễn thuế sử dụng đất phi nông nghiệp. Về lệ phí trước bạ: Đất thuê của Nhà nước; nhà xưởng của cơ sở sản xuất; nhà kho, nhà ăn, nhà để xe của cơ sở sản xuất, kinh doanh thuộc trường hợp không phải nộp lệ phí trước bạ. Thứ hai, Các ưu đãi thuế giành cho NNT, trong đó có ngành CNHT đã đưa lại hiệu quả tích cực. Trong giai đoạn trước năm 2007, khi chính sách phát triển CNHT chưa định hình rõ ràng thì chính sách ưu đãi thuế đối với CNHT cũng chưa thật sự rõ nét. Kể từ khi có Quyết định 34/2007/QĐ-BCN của Bộ trưởng Bộ Công nghiệp phê duyệt Quy hoạch phát triển CNHT đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2020 và đặc biệt là từ khi có quyết định số 12/2011/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành chính sách phát triển một số ngành CNHT thì chính sách phát triển CNHT được hình thành và hoàn thiện hơn. Trong những năm gần đây, Việt Nam đã dành những ưu đãi thuế riêng cho CNHT mà điển hình là hai hình thức ưu đãi sau: (i) Miễn thuế nhập khẩu đối với hàng hóa nhập khẩu của dự án đầu tư thuộc lĩnh vực CNHT cho CNHT cho ngành sản xuất, lắp ráp sản phẩm điện tử và ngành sản xuất, lắp ráp ô tô, xe máy; (ii) Áp dụng thuế suất thuế TNDN ưu đãi 10% trong thời hạn 10 năm đối với dự án sản xuất vật liệu composit, các loại vật liệu xây dựng nhẹ, vật liệu quý hiếm. Nhìn chung, sự chuyển biến chính sách ưu đãi thuế đối với CNHT là khá phù hợp với đòi hỏi thực tiễn khách quan và mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội do Đảng và Nhà nước đề ra. Theo đó, những ưu đãi thuế riêng cho CNHT đã góp phần giải quyết một trong những điểm yếu của DN Việt Nam là thiếu vốn do chủ yếu quy mô nhỏ và vừa. Những ưu đãi này cũng bước đầu thúc đẩy phát triển CNHT ở những lĩnh vực mà Việt Nam có lợi thế so sánh như sản xuất sản phẩm điện tử. Các hình thức miễn thuế nhập khẩu, miễn và giảm thuế TNDN có thời hạn, khấu hao nhanh là những hình thức ưu đãi đã góp phần khuyến khích DN đầu tư cho nghiên cứu phát triển, đổi mới công nghệ và tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu trong bối cảnh nền kinh tế tri thức ngày càng phát triển mạnh mẽ. Rất tiếc, trong thời gian vừa qua, các cơ quan quản lý nhà nước chưa có thống kê đầy đủ về số thuế đã ưu đãi mà các DN và DN CNHT được hưởng làm cơ sở đánh giá thực sự chính xác tác động của chính sách này. 2.2 Hạn chế Thứ nhất, nhận thức về tầm quan trọng của CNHT còn chậm so với đòi hỏi thực tiễn nên chính sách ưu đãi thuế chưa kịp thời. Hiện nay các ưu đãi về thuế cho CNHT còn mờ nhạt, tiêu thức không rõ ràng dẫn đến các doanh nghiệp CNHT rất khó tiếp cận với những ưu đãi này vì chủ yếu doanh nghiệp 116
  9. Kỷ yếu hội thảo Quốc gia “VAI TRÒ CỦA TÀI CHÍNH HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP XUẤT NHẬP KHẨU TRONG TÌNH HÌNH MỚI” CNHT tại Việt Nam là DNNVV. Chính sách ưu đãi thuế hiện hành áp dụng thống nhất cho các thành phần kinh tế, phù hợp với thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, tiêu chí áp dụng các ưu đãi thuế hiện hành dựa trên lĩnh vực và địa bàn chính phủ thu hút đầu tư thì để hoạt động hiệu quả ở các lĩnh vực và địa bàn này đòi hỏi doanh nghiệp phải có vốn đầu tư lớn. Trong khi đó, hiện nay ở Việt Nam chủ yếu lại là DNNVV. Nghị định số 111/2015/NĐ-CP quy định những ưu đãi về miễn giảm tiền thuê đất, tiền thuê mặt nước, cũng như việc xử lý ô nhiễm, bảo vệ môi trường của các Dự án sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ thuộc Danh mục sản phẩm công nghiệp hỗ trợ ưu tiên phát triển - đặc biệt là cho các DNNVV. Tuy nhiên, trong pháp luật về đất đai và môi trường không có các quy định đặc thù và rõ ràng về các ưu đãi này cho các dự án CNHT, do đó, chưa có doanh nghiệp CNHT nào tiếp cận được với các ưu đãi nói trên. Thứ hai, chính sách ưu đãi thuế nói chung và đối với CNHT nói riêng chưa thực sự tính toán đầy đủ các lợi thế so sánh của Việt Nam để thúc đẩy các DN tham gia hợp lý nhất vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Đối với chính sách ưu đãi thuế TNDN: Mặc dù đây được xem là một trong những biện pháp ưu đãi chủ yếu nhằm thu hút đầu tư, nhưng chính sách này không mang lại hiệu quả như mong muốn. Chính sách ưu đãi thuế TNDN không gắn với tỷ lệ nội địa hóa của sản phẩm, nên chưa thúc đẩy các doanh nghiệp FDI chuyển giao công nghệ và đầu tư vào ngành CNHT. Mặt khác, theo các ý kiến các doanh nghiệp CNHT trong nước, khi doanh nghiệp hoạt động chưa có lãi ưu đãi miễn, giảm thuế không có ý nghĩa cho việc hỗ trợ phát triển doanh nghiệp. Bên cạnh đó, ưu đãi này có thể là kẽ hở cho một số doanh nghiệp lợi dụng, khi hết thời hạn ưu đãi họ có thể chuyển sang địa điểm khác, hoặc mở ra dự án mới để lại được hưởng giai đoạn ưu đãi mới. Đối với chính sách về thuế giá trị gia tăng (GTGT): doanh nghiệp CNHT có nhu cầu rất lớn về đầu tư mua sắm máy móc, thiết bị mới và đổi mới công nghệ. Tuy nhiên, những thay đổi về phương thức khấu trừ thuế giá trị gia tăng đối với máy móc thiết bị nhập khẩu phục vụ sản xuất khiến doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp CNHT gặp khó khăn do thời gian khấu trừ bị kéo dài hơn so với quy định trước đây. Hơn nữa, thời gian khấu trừ sẽ càng bị kéo dài hơn đối với những doanh nghiệp mới sản xuất, có doanh thu và quy mô sản xuất còn nhỏ. Điều này vô hình trung khiến nhà nước giữ một phần vốn lưu động của doanh nghiệp, khiến doanh nghiệp gặp khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh, từ đó giảm sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Đối với chính sách về thuế nhập khẩu: Trong một số ngành công nghiệp hiện nay thuế nhập khẩu vật tư, linh kiện cao hơn thuế nhập khẩu sản phẩm nguyên chiếc, do đó đã không khuyến khích được các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm cuối cùng tại Việt Nam, vì phải chịu chi phí sản xuất cao hơn so với đối thủ cạnh tranh ở nước ngoài. 117
  10. Kỷ yếu hội thảo Quốc gia “VAI TRÒ CỦA TÀI CHÍNH HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP XUẤT NHẬP KHẨU TRONG TÌNH HÌNH MỚI” Thứ ba, chính sách ưu đãi thuế nói chung và đối với đối với CNHT nói riêng chưa chú ý đầy đủ đặc thù về môi trường kinh doanh và quy mô kinh doanh của các DN Việt Nam. Cụ thể, đối với các dự án thuộc danh mục lĩnh vực được ưu đãi về thuế nhập khẩu tại Phụ lục I ban hành kèm theo Nghị định số 87/2010/NĐ-CP ngày 13/8/2010 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hoặc đầu tư vào địa bàn được ưu đãi về thuế nhập khẩu theo quy định tại khoản 18 Điều 12 của Nghị định số 87/2010/NĐ-CP được hưởng ưu đãi về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Nghị định số 134/2016/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, theo đó, để được miễn thuế nhập khẩu, doanh nghiệp phải trực tiếp xuất khẩu hoặc ủy thác xuất khẩu. Quy định này khiến cho các doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm CNHT cung cấp cho các doanh nghiệp khác để sản xuất ra sản phẩm xuất khẩu gặp rất nhiều khó khăn. Trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay, việc xuất khẩu một sản phẩm cần có sự tham gia của nhiều nhà sản xuất. Do đó, hầu hết tất cả các doanh nghiệp CNHT không thể đáp ứng điều kiện trực tiếp xuất khẩu. Việc không được miễn thuế đối với nguyên liệu, vật tư, linh kiện nhập khẩu làm tăng giá thành hàng hóa xuất khẩu, giảm tính cạnh tranh của các doanh nghiệp CNHT trong nước. - Thứ tư, việc thực thi chính sách ưu đãi thuế còn khá phức tạp, liên quan đến nhiều thủ tục hành chính. Việc thực hiện chính sách ưu đãi thuế trong một số trường hợp đòi hỏi sự tham gia của nhiều bộ, ngành khác nhau. Ví dụ, để thực hiện các chính sách ưu đãi về thuế nhập khẩu quy định trong Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 2016 thì ngoài Bộ Tài chính còn có 11 bộ và cơ quan thuộc Chính phủ khác cũng phải ban hành các văn bản hướng dẫn. Theo quy định của Luật thuế TNDN hiện hành, thu nhập của doanh nghiệp từ đầu tư mới sản xuất sản phẩm thuộc Danh mục sản phẩm công nghiệp hỗ trợ ưu tiên phát triển sẽ được hưởng ưu đãi thuế TNDN khá cao nếu sản phẩm của dự án đó là sản phẩm hỗ trợ các ngành công nghiệp khác mà trong nước chưa sản xuất được tính đến ngày 01/01/2015 hoặc trong nước sản xuất được nhưng phải đáp ứng tiêu chuẩn kỹ thuật của Liên minh châu Âu hoặc tương đương. Như vậy, để thực hiện được quy định này đòi hỏi phải có sự tham gia của các bộ liên quan. Vì vậy, việc tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan liên quan để thực thi chính sách ưu đãi thuế là rất quan trọng bởi vì một khi chính sách ưu đãi thuế đã được ban hành thì việc bãi bỏ chính sách đó là rất khó, ngay cả khi chính sách ưu đãi thuế gây thất thu ngân sách và không hiệu quả đối với thu hút đầu tư. 2.3 Nguyên nhân củ hạn chế - Sản xuất công nghiệp hỗ trợ bao trùm nhiều lĩnh vực mới, danh mục sản phẩm công nghiệp hỗ trợ ưu tiên phát triển đã được xây dựng khá rộng nhưng thiếu cụ thể. 118
  11. Kỷ yếu hội thảo Quốc gia “VAI TRÒ CỦA TÀI CHÍNH HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP XUẤT NHẬP KHẨU TRONG TÌNH HÌNH MỚI” Để tránh bỏ sót, danh mục sản phẩm CNHT được ưu tiên xây dựng khá rộng, nhưng lại thiếu cụ thể vì không thể liệt kê hàng ngàn chi tiết sản phẩm. Nhiều doanh nghiệp khi đầu tư sản xuất công nghiệp hỗ trợ băn khoăn không biết sản phẩm của mình có được hưởng ưu đãi và hỗ trợ của Chính phủ không. Điều này dẫn tới thực tế là doanh nghiệp có thể phải mất thêm các chi phí và thời gian (thuê tư vấn, xin ý kiến các cơ quan có thẩm quyền…) trong việc đề nghị xác nhận ưu đãi. Thêm vào đó, các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ có độ phức tạp khác nhau về công nghệ sản xuất, hiện đang được hưởng cùng mức ưu đãi. Để tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài vào các ngành tạo ra nhiều giá trị gia tăng, cần phải có các mức ưu đãi khác nhau đối với các loại sản phẩm khác nhau. Mặt khác, thuật ngữ “sản phẩm công nghiệp hỗ trợ ưu tiên phát triển” cũng chưa bao quát hết các ngành và lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ. Nhiều doanh nghiệp chuyên xử lý các công nghệ như mạ, tráng, sơn, nhuộm, thuộc da… là công đoạn quan trọng quyết định chất lượng của sản xuất công nghiệp hỗ trợ, nhưng do không chế tạo ra sản phẩm cụ thể nên hiện không nằm trong danh mục được hưởng ưu đãi. - Những cơ chế chính sách cũng chưa đủ mạnh về việc tạo điều kiện hỗ trợ sản phẩm đầu ra được áp dụng rộng rãi trong thực tế, chưa có cơ chế chính sách hỗ trợ bảo đảm bù đắp rủi ro trong nghiên cứu, ứng dụng các kết quả nghiên cứu. Điều này đã phần nào hạn chế khả năng ứng dụng của các doanh nghiệp công nghệ cao trong lĩnh vực CNHT. - Các doanh nghiệp CNHT hiện nay ở Việt Nam chủ yếu là DNNVV, nhiều DNNVV thiếu chiến lược kinh doanh, phương án kinh doanh chưa khả thi; sản phẩm thiếu tính cạnh tranh, chưa tạo vị thế, thương hiệu trên thị trường; chủ yếu thanh toán tiền mặt nên ngân hàng khó kiểm soát dòng tiền. DNNNV thường thiếu tài sản đảm bảo, chưa có thói quen mua bảo hiểm rủi ro, thiếu hiểu biết về cơ chế, chính sách, sản phẩm - dịch vụ và các gói của các định chế tài chính, các chương trình bảo lãnh, hỗ trợ của Chính phủ/hiệp hội. - Khái niệm và phạm vi về CNHT ở Việt Nam chưa rõ ràng và chưa phù hợp với thông lệ quốc tế. Công nghiệp hỗ trợ không phải là một ngành cụ thể được phân loại trong hệ thống ngành kinh tế. Do vậy, phạm vi của công nghiệp hỗ trợ được xác định rất khác nhau, tùy thuộc vào khái niệm và mục đích sử dụng của các nhà hoạch định chính sách. Phạm vi được xác định càng cụ thể thì việc hoạch định chính sách càng trở nên dễ dàng hơn và các chính sách đó cũng minh bạch và có tính khả thi cao hơn. Định nghĩa và phạm vi công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam đang được giới hạn trong khái niệm chuỗi cung ứng, do đó, các biện pháp ưu đãi, hỗ trợ cũng chỉ giới hạn đối với các hoạt động sản xuất trong chuỗi cung ứng. Trong khi đó, để tăng giá trị gia tăng trong nước, ngoài các hoạt động trong chuỗi cung ứng, còn có thể mở rộng ra nhiều hoạt động khác trong chuỗi giá trị, như các hoạt động thiết kế, nghiên cứu phát triển... nhưng hiện nay, những hoạt động này nằm 119
  12. Kỷ yếu hội thảo Quốc gia “VAI TRÒ CỦA TÀI CHÍNH HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP XUẤT NHẬP KHẨU TRONG TÌNH HÌNH MỚI” ngoài phạm vi hỗ trợ của các chương trình, chính sách ưu đãi, hỗ trợ dành cho công nghiệp hỗ trợ. 3. Giải pháp về chính sách thuế, tiền thuê đất phát triển công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam trong thời gian tới Thứ nhất, ổn định chính sách ưu đãi thuế hiện hành. Tiếp tục duy trì ổn định chính sách ưu đãi chung cho các doanh nghiệp trong đó có doanh nghiệp thuộc lĩnh vực CNHT, theo hướng thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư cho nghiên cứu phát triển và đổi mới mới công nghệ, đảm bảo mặt bằng công nghệ của các doanh nghiệp Việt Nam đáp ứng được yêu cầu về nguyên liệu và linh kiện của các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực công nghiệp sản xuất, lắp ráp các sản phẩm hoàn chỉnh là tư liệu sản xuất hoặc sản phẩm tiêu dùng. Thứ hai, hoàn thiện các chính sách ưu đãi về thuế nói chung. - Đối với thuế giá trị gia tăng: Giảm thuế giá trị gia tăng đối với một số sản phẩm quan trọng trong ngành CNHT nhằm kích cầu thị trường trong nước. Các sản phẩm này sẽ được áp dụng mức thuế suất thấp hơn so với thông thường. - Đối với thuế nhập khẩu: Bước đầu, giảm thuế nhập khẩu đối với một số mặt hàng trong nước chưa sản xuất được như: Vật liệu phục vụ sản xuất chế tạo, máy móc thiết bị ngành cơ khí chế tạo và công nghiệp công nghệ cao… nhằm khuyến khích đầu tư sản xuất trong nước. - Một số ưu đãi thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu cũng như miễn giảm tiền thuê đất, thuê mặt nước đối với các DN đầu tư vào ngành CNHT cần sớm được ban hành để khuyến khích DN nước ngoài vào Việt Nam đầu tư làm ăn. - Đối với thuế TNDN: Việt Nam có thể Ban hành chính sách thuế TNDN ưu đãi vượt khung (thuế suất thấp nhất hoặc thấp hơn mức thấp nhất của luật thuế) đối với dự án CNHT trọng điểm từng giai đoạn; Chính sách thuế thu nhập cá nhân ưu đãi vượt khung (thuế suất thấp nhất hoặc thấp hơn mức thấp nhất của luật thuế) đối với chủ doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ trọng điểm từng giai đoạn; Thứ ba, có các chính sách ưu đãi thuế nhằm phát triển hạ tầng CNHT chuyên dụng. Cần xếp các doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm phụ trợ vào nhóm các doanh nghiệp được ưu đãi về thuế, để các doanh nghiệp này khi thành lập được hưởng thời gian miễn giảm thuế như các doanh nghiệp được ưu đãi đầu tư khác. Cần xây dựng các chính sách ưu đãi thuế phù hợp nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp trong các khu/cụm công nghiệp đẩy mạnh chiến lược tăng trưởng dựa vào việc cung ứng cho các khách hàng trong nước và hướng tới xuất khẩu. Hướng phát triển các khu/cụm 120
  13. Kỷ yếu hội thảo Quốc gia “VAI TRÒ CỦA TÀI CHÍNH HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP XUẤT NHẬP KHẨU TRONG TÌNH HÌNH MỚI” CNHT trở thành hạt nhân thúc đẩy sự phát triển của các ngành công nghiệp chế tạo - ngành sản xuất đòi hỏi vốn lớn, nguồn nhân lực có kỹ năng cao để mở rộng và phát triển năng lực sản xuất, tăng cường khả năng hợp tác, liên kết với các tập đoàn đa quốc gia… Chính sách phát triển khu/cụm công nghiệp cần sớm chuyển từ đầu tư thí điểm sang nâng cao chất lượng các khu/cụm công nghiệp bằng việc tập trung xây dựng các khu công nghệ cao, kết hợp chặt chẽ giữa khoa học - công nghệ với công nghiệp, khuyến khích hoạt động nghiên cứu và phát triển trong các ngành công nghiệp… Cùng với các chính sách ưu đã thuế ở trên, thời gian tới, các cơ quan hữu quan cần rà soát sửa đổi, bổ sung các chính sách ưu đãi thuế đối với ngành CNHT theo hướng: - Đối với thuế TNDN: Có thể áp dụng mức thuế suất ưu đãi 10% trong 15 năm, kể từ khi dự án bắt đầu hoạt động sản xuất kinh doanh; Được miễn thuế TNDN trong 4 năm kể từ khi có thu nhập chịu thuế và giảm 50% số thuế phải nộp cho 9 năm tiếp theo. - Có thể Ban hành chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp ưu đãi vượt khung (thuế suất thấp nhất hoặc thấp hơn mức thấp nhất của luật thuế) đối với dự án CNHT trọng điểm từng giai đoạn; - Chính sách thuế thu nhập cá nhân ưu đãi vượt khung (thuế suất thấp nhất hoặc thấp hơn mức thấp nhất của luật thuế) đối với chủ doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ trọng điểm từng giai đoạn; - Về chính sách đất đai, Nhà nước cần tạo điều kiện thuận lợi về quỹ đất cho các DN sản xuất các sản phẩm phụ trợ được thuê lâu dài và ổn định theo luật định. Các DN này được thuê đất với mức giá ưu đãi để các chủ DN có điều kiện thuận lợi hơn trong việc đầu tư mở rộng quy mô sản xuất. Thứ tư, chính sách ưu đãi thuế cần hướng đến phát huy tốt những lợi thế so sánh của Việt Nam, kể cả lợi thế so sánh tĩnh và lợi thế so sánh động. Theo đó, cần hoàn thiện chiến lược phát triển công nghiệp Việt Nam theo hướng xác định rõ những ngành công nghiệp mà Việt Nam có lợi thế so sánh để phát triển. Cần xác định rõ rằng, CNHT không chỉ nhằm mục tiêu cung cấp linh kiện và bán thành phẩm cho các DN có cơ sở sản xuất ở Việt Nam, mà còn cung ứng cho các DN thuộc lĩnh vực này ở các nước khác trong khu vực và trên thế giới theo nguyên tắc tham gia tích cực vào phân công lao động quốc tế và chuỗi cung ứng toàn cầu trên cơ sở phát huy tối đa các lợi thế so sánh của Việt Nam. Điều này cho thấy, những ưu đãi riêng cho CNHT hiện nay mới tập trung vào lĩnh vực sản xuất sản phẩm điện tử là đúng nhưng chưa đủ, cần bổ sung thêm những lĩnh vực khác mà Việt Nam có lợi thế so sánh. Việc xác định những lĩnh vực cụ thể mà Việt Nam có lợi thế so sánh cần thực hiện một cách khoa học trên cơ sở khảo sát thực tiễn mà tác giả bài viết này chưa có điều kiện nghiên cứu đầy đủ. 121
  14. Kỷ yếu hội thảo Quốc gia “VAI TRÒ CỦA TÀI CHÍNH HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP XUẤT NHẬP KHẨU TRONG TÌNH HÌNH MỚI” Thứ năm, cần điều chỉnh chính sách ưu đãi thuế đối với CNHT theo hướng chú ý đầy đủ đến đặc thù môi trường kinh doanh ở Việt Nam và quy mô kinh doanh của phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam. Theo đó, cần bổ sung ưu đãi thuế nhằm thúc đẩy liên kết quốc tế của các doanh nghiệp Việt Nam theo hướng trở thành thành viên của các công ty đa quốc gia và được chuyển giao đầy đủ về công nghệ hiện đại nhằm phát triển sản xuất, kinh doanh. Đối với chính sách cho trích lập quỹ nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, nên nâng mức trích lập tối đa đối với DN nhỏ và vừa cao hơn mức trích của DN lớn, bởi vì với mức trích 10% thu nhập tính thuế, số tiền thuế được hoãn của DN nhỏ và vừa là quá nhỏ để thúc đẩy đầu tư cho nghiên cứu phát triển. Theo đó, mức trích quỹ nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ của DN nhỏ và vừa nên nâng lên mức 30% thu nhập tính thuế. Thứ sáu, xây dựng chính sách ưu đãi thuế đối với CNHT đồng bộ với các chính sách khác. Chính sách ưu đãi thuế đối với CNHT chỉ có thể phát huy tác dụng nếu các chính sách khác đối với CNHT được xây dựng đồng bộ, hợp lý và tổ chức thực hiện nghiêm túc trong thực tiễn, bởi lẽ, chính sách ưu đãi thuế chỉ là một bộ phận cấu thành trong chính sách chung của Nhà nước và chỉ có tác động trong những phạm vi, điều kiện nhất định mà thôi. Thứ bảy, cho phép áp dụng chuyển tiếp ưu đãi thuế TNDN đối với các dự án đầu tư trước năm 2015 thuộc ngành CNHT được ưu đãi theo quy định hiện hành. Cần có những sửa đổi, bổ sung Nghị định 12/2015/NĐ-CP theo hướng chuyển tiếp ưu đãi thuế TNDN cho dự án đầu tư thuộc các ngành nghề, lĩnh vực khác trước 01/01/2015 không thuộc diện hưởng ưu đãi (trong đó có dự án sản xuất sản phẩm CNHT) nay đáp ứng điều kiện ưu đãi theo Luật số 71. Riêng đối với các dự án sản xuất sản phẩm CNHT trước 01/01/2015, nên sửa đổi Thông tư 21/2015/TT-BTC theo hướng quy định rõ việc cho phép áp dụng ưu đãi thuế đối với các Dự án sản xuất sản phẩm CNHT trước 01/01/2015, đồng thời đưa ra ví dụ cụ thể về chuyển tiếp ưu đãi cho các dự án đầu tư này. Việc sửa đổi này sẽ có tác động tích cực tới các DN đã và đang đầu tư triển khai Dự án sản xuất sản phẩm CNHT, đã có nhiều kinh nghiệm sản xuất sẽ tiếp tục tăng cường đầu tư máy móc thiết bị, nâng cao công suất. Trên thực tế, việc đầu tư của các DN đã có nhiều kinh nghiệm trong sản xuất sản phẩm CNHT sẽ hiệu quả hơn nhiều so với các DN mới bắt đầu tham gia lĩnh vực này, qua đó góp phần thúc đẩy nền CNHT của Việt Nam phát triển. 122
  15. Kỷ yếu hội thảo Quốc gia “VAI TRÒ CỦA TÀI CHÍNH HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP XUẤT NHẬP KHẨU TRONG TÌNH HÌNH MỚI” Bộ Công Thương cần nghiên cứu, xem xét hướng dẫn chi tiết về các tiêu chí xác định đối tượng hưởng ưu đãi theo diện Dự án mở rộng có năng lực sản xuất tăng ít nhất 20% tại Nghị định 111/2015/NĐ-CP. Theo đó, cần nghiên cứu sử dụng 01 trong 03 tiêu chí xác định dự án đầu tư mở rộng quy định tại pháp luật thuế TNDN hiện hành (ví dụ: tăng giá trị nguyên giá tài sản cố định; tăng tỷ trọng nguyên giá tài sản cố định hoặc tăng công suất) để có sự thống nhất chung. Thứ tám, hoàn thiện ưu đãi thuế chú trọng phát triển doanh nghiệp có quy mô nhỏ và vừa, khuyến khích chuyển đổi hộ kinh doanh lên doanh nghiệp. Doanh nghiệp có quy mô nhỏ và vừa vẫn luôn là mục tiêu trọng tâm của các chính sách phát triển kinh tế ở nhiều quốc gia. Chính phủ nhiều nước đã thông qua các chính sách và chương trình hỗ trợ trên nhiều phương diện khác nhau nhằm tạo điều kiện thuận lợi và thúc đẩy sự phát triển doanh nghiệp có quy mô nhỏ, trong đó chính sách hỗ trợ về thuế cũng là công cụ thường được các nước sử dụng theo hướng quy định mức thuế suất ưu đãi (có thể là mức thuế suất cố định hoặc mức thuế suất lũy tiến theo quy mô thu nhập) dành cho các doanh nghiệp có quy mô nhỏ. Thực tế là phần lớn các nước áp dụng mức thuế suất thuế TNDN thấp hơn mức thuế suất phổ thông cho các doanh nghiệp có quy mô nhỏ, có phân biệt theo quy mô doanh thu, thu nhập chịu thuế. Nghiên cứu bổ sung quy định về mức thuế suất đối với doanh nghiệp thuộc nhóm doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ thấp hơn mức thuế suất thông thường để đồng bộ với Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa. Từ đó, góp phần thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp nhỏ và vừa và khuyến khích chuyển đổi hộ kinh doanh lên doanh nghiệp. Theo đó, áp dụng thuế suất 15% áp dụng đối với doanh nghiệp có tổng doanh thu năm dưới 3 tỷ đồng và có số lao động tham gia bảo hiểm xã hội bình quân năm không quá 10 người. Thuế suất 17% áp dụng đối với doanh nghiệp có tổng doanh thu năm từ 3 tỷ đồng đến dưới 50 tỷ đồng và có số lao động tham gia bảo hiểm xã hội bình quân năm không quá 100 người. Đồng thời, miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong 2 năm, kể từ khi có thu nhập chịu thuế đối với doanh nghiệp thành lập mới từ hộ, cá nhân kinh doanh. Thứ chín, về công tác quản lý thuế. Cần tiếp tục đơn giản hóa thủ tục hành chính thuế theo hướng nhanh chóng, tạo thuận lợi cho người nộp thuế tự nguyện tuân thủ pháp luật thuế, giảm chi phí tuân thủ cho người nộp thuế; Chuẩn hóa quy trình quản lý thuế dựa trên cơ sở ứng dụng công nghệ thông tin đảm bảo thống nhất, có tính liên kết cao; ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý không chỉ giúp giảm thiểu chi phí quản lý hành chính đối với hoạt động quản lý thuế mà còn giảm thiểu các hoạt động hành chính khác, rút gọn quy trình quản lý. Bên cạnh đó, cần xây dựng và áp dụng chế độ kế toán thuế giản đơn đảm bảo ghi chép đầy đủ, kịp thời nghĩa vụ thuế của người nộp thuế; nâng cao ý thức của đội ngũ cán 123
  16. Kỷ yếu hội thảo Quốc gia “VAI TRÒ CỦA TÀI CHÍNH HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP XUẤT NHẬP KHẨU TRONG TÌNH HÌNH MỚI” bộ quản lý thuế trong công việc, đặc biệt là cán bộ quản lý thuế trực tiếp tiếp xúc với người nộp thuế; tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính thuế theo hướng đơn giản, tạo thuận lợi cho người nộp thuế kinh doanh dưới “ngưỡng tính thuế giá trị gia tăng”. KẾT LUẬN Phát triển công nghiệp hỗ trợ là giải pháp quan trọng nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Trong thời gian qua, Việt Nam cũng đã có rất nhiều nỗ lực trong việc phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ. Xuất phát từ những tồn tại của chính sách thuế đối với phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ, và mục tiêu, định hướng phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam trong thời gian tới, bài viết đã đề xuất các giải pháp hoàn thiện chính sách thuế nhằm thực hiện mục tiêu thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030. Trong đó các giải pháp chủ yếu có thể kể đến như: Hoàn thiện chính sách ưu đãi thuế nhằm phát triển công nghiệp hỗ trợ và các chính sách về quản lý thuế…. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO: 1. Vương Thị Thu Hiền, Nguyễn Thị Minh Hằng, (2019), Hoàn thiện chính sách tài chính phát triển công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam, Đề tài NCKH cấp Học viện. 2. Phạm Thị Oanh (2019), Phát triển công nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam, Tạp chí Tài chính, (2/2019). 3. Đỗ Thắng Hải (2019), Vai trò của công nghiệp hỗ trợ, thực trạng, định hướng và giải pháp thu hút đầu tư nước ngoài phát triển công nghiệp hỗ trợ, Kỷ yếu Hội thảo 30 năm thu hút đầu tư nước ngoài tại Việt Nam - Tầm nhìn và cơ hội mới trong kỷ nguyên mới, Bộ Kế hoạch và Đầu tư. 4. Nguyễn Đình Quyết (2021), Phát triển công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam gắn với chuỗi giá trị toàn cầu , Tạp chí Cộng sản. 124
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2