Kinh tế VN trên đà tăng trưởng<br />
<br />
PGS. TS. NGUYỄN VĂN TRÌNH<br />
& THS. NGUYỄN SƠN HOA<br />
<br />
Trường ĐH Kinh tế - Luật,<br />
ĐHQG TP.HCM<br />
1. Đặt vấn đề<br />
<br />
Các lý thuyết kinh tế vĩ mô<br />
hiện đại đều chứng minh giữa tăng<br />
trưởng kinh tế và lạm phát có mối<br />
quan hệ thuận, nghĩa là, khi nền<br />
kinh tế tăng trưởng cao thì sẽ dẫn<br />
đến lạm phát. Vấn đề là mức lạm<br />
phát nào nền kinh tế chấp nhận<br />
được và không dẫn đến những<br />
xáo trộn trầm trọng tình hình kinh<br />
tế - xã hội, gây những bất ổn đến<br />
an ninh, trật tự xã hội. Trên cơ sở<br />
đánh giá tác động của lạm phát đến<br />
tình hình kinh tế - xã hội mà chính<br />
phủ sẽ quyết định can thiệp để điều<br />
chỉnh. Đồng thời, chính phủ cũng<br />
dựa vào mục tiêu của mình để đưa<br />
ra các quyết định điều chỉnh. Nếu<br />
vì mục tiêu tăng trưởng cao, giải<br />
quyết nạn thất nghiệp, chính phủ có<br />
thể phải duy trì mức lạm phát cao,<br />
và ngược lại, chính phủ muốn kiềm<br />
chế lạm phát thì phải hy sinh tốc độ<br />
tăng trưởng kinh tế, chịu mức thất<br />
<br />
2<br />
<br />
nghiệp cao. Một chính sách nhằm<br />
duy trì tốc độ tăng trưởng cao mà<br />
mức lạm phát thấp là rất khó khăn,<br />
nhất là trong điều kiện nguồn lực<br />
cho tăng trưởng đã tới hạn và nền<br />
kinh tế đã hội nhập, chịu tác động<br />
của thị trường thế giới và nền kinh<br />
tế toàn cầu. Vậy trong điều kiện<br />
hiện nay, VN phải chọn con đường<br />
nào? Chấp nhận tăng trưởng cao<br />
và lạm phát cao, thất nghiệp thấp?<br />
Hay tăng trưởng thấp, lạm phát<br />
thấp nhưng thất nghiệp gia tăng?<br />
Hoặc có chính sách nào vẫn đảm<br />
bảo tăng trưởng kinh tế cao và lạm<br />
phát thấp ở VN? Đây là những vấn<br />
đề kinh tế vĩ mô đang làm đau đầu<br />
các nhà lý luận cũng như các nhà<br />
lãnh đạo, hoạch định chính sách vĩ<br />
mô của VN hiện nay.<br />
2. Phân tích vấn đề<br />
<br />
Để có lời giải tương đối phù hợp<br />
cho các vấn đề trên, cần phân tích<br />
thực trạng tình hình tăng trưởng<br />
kinh tế và các nguyên nhân lạm<br />
phát của VN trong những năm vừa<br />
qua.<br />
2.1 Về tình hình tăng trưởng<br />
<br />
PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Số 6 - Tháng 8/2010<br />
<br />
kinh tế<br />
Kinh tế VN trong những năm<br />
qua đã đạt được nhiều thành tựu<br />
trong điều kiện tình hình kinh tế<br />
thế giới có nhiều biến động. Tăng<br />
trưởng kinh tế của VN luôn giữ ở<br />
mức cao thứ hai trong khu vực, chỉ<br />
sau Trung Quốc, mặc dù vào năm<br />
2009 do tác động của khủng hoảng<br />
kinh tế tài chính toàn cầu tốc độ<br />
tăng trưởng có giảm so với các năm<br />
trước. (Năm 2005 tăng trưởng kinh<br />
tế của VN là 8,44%; năm 2006 là<br />
8,23%; năm 2007 đạt 8,46%; năm<br />
2008 là 6,31% và năm 2009 là<br />
5,32%) [4, 69]. Xuất khẩu tăng cao<br />
là nhân tố quan trọng tác động đến<br />
tăng trưởng kinh tế. Trong những<br />
năm qua, tốc độ tăng kim ngạch<br />
xuất khẩu của VN cũng cao, tuy<br />
vào năm 2009, do ảnh hưởng của<br />
suy thoái kinh tế toàn cầu tốc độ<br />
tăng xuất khẩu có giảm, nhưng kim<br />
ngạch xuất khẩu vẫn giữ ở mức cao.<br />
(Tỷ lệ tăng kim ngạch xuất khẩu<br />
qua các năm như sau: Năm 2005<br />
là 22,5%; năm 2006: 22,7%; năm<br />
2007: 21,9%; năm 2008: 29,1% và<br />
năm 2009: -8,9%) [4, 76]. Đầu tư<br />
<br />
Kinh tế VN trên đà tăng trưởng<br />
nước ngoài vào VN cũng đánh dấu<br />
mức tăng trưởng nhảy vọt, với số<br />
vốn FDI đăng ký qua các giai đoạn<br />
luôn tăng, đặc biệt giai đoạn 2006<br />
– 2009 là giai đoạn thu hút vốn<br />
FDI mạnh nhất của VN, chẳng hạn<br />
như: Giai đoạn 2001 – 2005 tổng<br />
vốn đăng ký đạt 20,7 tỷ USD, tổng<br />
vốn giải ngân đạt 13,8 tỷ USD; giai<br />
đoạn 2006 – 2009 tổng vốn FDI<br />
đăng ký đạt 126,5 tỷ USD và tổng<br />
vốn FDI giải ngân đạt 33,6 tỷ USD<br />
[4,72 ]. Qua số liệu trên có thể thấy<br />
giai đoạn 2006 – 2009 tổng vốn<br />
FDI đăng ký tăng nhiều lần so với<br />
giai đoạn 2001 – 2005. Trong giai<br />
đoạn năm 2006 – 2009 vốn đầu tư<br />
gián tiếp (FII) vào VN cũng tăng<br />
cao, trong đó vốn đầu tư trên thị<br />
trường chứng khoán cũng gia tăng<br />
nhanh chóng. Lượng kiều hối vào<br />
VN cũng gia tăng cao: Năm 2005<br />
là 3,8 tỷ USD; năm 2006: 4,7 tỷ<br />
USD; năm 2007: 5,5 tỷ USD; năm<br />
2008: 7,2 tỷ USD và năm 2009 là<br />
6,3 tỷ USD [4,79]. Trong những<br />
năm qua, thị trường chứng khoán<br />
VN cũng phát triển mạnh, thể hiện<br />
cả ở số lượng các công ty niêm yết<br />
và số vốn hóa trên thị trường. Tính<br />
đến cuối năm 2009 đã có 455 công<br />
ty niêm yết trên thị trường chứng<br />
khoán (năm 2008 chỉ là 338 công<br />
ty), với vốn hóa chiếm trên 48%<br />
GDP cả nước (năm 2008 chỉ chiếm<br />
20% GDP năm 2008) [4,33], biến<br />
thị trường chứng khoán trở thành<br />
kênh huy động vốn chủ yếu cho<br />
đầu tư và phát triển các doanh<br />
nghiệp của VN.<br />
Tuy nhiên, những năm qua cũng<br />
đánh dấu nền kinh tế VN có nhiều<br />
hạn chế như: Lạm phát tăng cao<br />
(Lạm phát năm 2006: 6,6%; năm<br />
2007: 12,6%; năm 2008; 19,89%<br />
và năm 2009: 6,52%). Tình hình<br />
cán cân thương mại thâm hụt cũng<br />
<br />
tăng cao: Năm 2005 nhập siêu 4,3<br />
tỷ USD; năm 2006: 5 tỷ USD; năm<br />
2007: 14,2 tỷ USD; năm 2008: 18<br />
tỷ USD và năm 2009 12,8 tỷ USD.<br />
Trong đó, năm 2008 cũng là năm<br />
có mức nhập siêu cao nhất từ trước<br />
đến nay, đạt đến trên 18 tỷ USD,<br />
tăng hơn 4 lần so với mức trên 4,3<br />
tỷ USD của năm 2005 và chiếm<br />
trên 28,8% so với kim ngạch xuất<br />
khẩu của năm 2008. Bắt đầu từ năm<br />
2007 nền kinh tế VN ngày càng hội<br />
nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế<br />
giới, đánh dấu bởi sự kiện VN là<br />
thành viên chính thức của WTO,<br />
nên từ năm 2007 những biến động<br />
trên thị trường thế giới cũng như<br />
của nền kinh tế thế giới đều có tác<br />
động mạnh đến thị trường và nền<br />
kinh tế VN. Chẳng hạn, trong năm<br />
2007 giá dầu hỏa trên thị trường<br />
thế giới tăng cao đến mức trên dưới<br />
100 USD/thùng kéo theo giá nhiều<br />
mặt hàng nguyên, nhiên vật liệu<br />
khác lên giá, đã tác động đẩy giá<br />
cả trong nước tăng theo. Đồng thời<br />
trong những năm qua, nền kinh tế<br />
VN cũng luôn chịu nhiều tác động<br />
của thiên tai, dịch bệnh như dịch<br />
cúm gia cầm, dịch tiêu chảy cấp,<br />
bão, lũ, hạn, hán…<br />
Tâm điểm chú ý của các nhà<br />
lý luận cũng như các nhà quản lý<br />
kinh tế vĩ mô là vấn đề lạm phát<br />
tăng cao ở VN trong các năm 2007,<br />
2008 và tình hình suy giảm kinh tế<br />
năm 2008, 2009 do tác động của<br />
khủng hoảng tài chính toàn cầu.<br />
Vậy giải quyết vấn đề này như thế<br />
nào? Theo chúng tôi, cần phải xác<br />
định quan điểm nhìn nhận về lạm<br />
phát và nguyên nhân của lạm phát<br />
để có giải pháp điều chỉnh đúng<br />
đắn.<br />
2.2 Quan điểm nhìn nhận lạm<br />
phát<br />
Lạm phát đi kèm với tăng<br />
<br />
trưởng là hiện tượng kinh tế có tính<br />
quy luật, được nhiều nhà kinh tế<br />
học phát hiện trong học thuyết của<br />
mình. J.M. Keynes (1883 – 1946)<br />
là một trong những nhà kinh tế học<br />
phát hiện ra tính quy luật này và<br />
cho rằng cần phải tạo ra mức lạm<br />
phát “có kiểm soát” để thúc đẩy<br />
kinh tế tăng trưởng. Quan điểm của<br />
Keynes đã được phát triển thành<br />
một trường phái thống trị trong<br />
một thời gian dài cả trong lý luận<br />
lẫn trong thực tiễn, với nhiều nhà<br />
kinh tế học ở nhiều quốc gia trên<br />
thế giới tham gia, trong đó trường<br />
phái Keynes ở Mỹ là phát triển đa<br />
dạng nhất. Ngày nay, quan điểm về<br />
lạm phát của trường phái này vẫn<br />
còn ý nghĩa trong điều hành chính<br />
sách lạm phát ở nhiều nước, mặc<br />
dù có những biến thái nhất định để<br />
phù hợp với điều kiện kinh tế - xã<br />
hội của từng nước.<br />
Các nhà điều hành chính sách ở<br />
VN hiện nay đang thực hiện quan<br />
điểm của trường phái Keynes trong<br />
điều kiện VN. Điều này có thể nhận<br />
biết qua cách điều hành nền kinh<br />
tế của Chính phủ VN hiện nay.<br />
Chính phủ VN đã chấp nhận mức<br />
lạm phát “vừa phải”, dưới hai con<br />
số, để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế<br />
(mức lạm phát năm 2004 là 9,5%;<br />
năm 2005 là 8,4% và năm 2006<br />
khoảng 7%). Như vậy, lý luận và<br />
thực tiễn đã chứng minh mối quan<br />
hệ thuận giữa tăng trưởng kinh tế<br />
và lạm phát, không thể có một tỷ<br />
lệ tăng trưởng cao mà lạm phát ở<br />
mức thấp được. Tăng trưởng kinh<br />
tế cao thì mức lạm phát phải cao.<br />
Vấn đề là mức lạm phát có thể<br />
vượt mức tăng trưởng kinh tế hay<br />
không? Vượt ở mức nào thì chấp<br />
nhận được? Theo quan điểm của<br />
chúng tôi, mức lạm phát có thể<br />
vượt mức tăng trưởng kinh tế, mức<br />
<br />
Số 6 - Tháng 8/2010 PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP<br />
<br />
3<br />
<br />
Kinh tế VN trên đà tăng trưởng<br />
vượt trong khoảng từ 1-2% là có thể<br />
chấp nhận được. Do đó, mức lạm<br />
phát trong năm 2007 cao hơn mức<br />
tăng trưởng kinh tế khoảng trên 4%<br />
là tương đối cao, nhưng vẫn có thể<br />
chấp nhận được. Tuy nhiên, trong<br />
năm 2008 lạm phát đã tăng quá<br />
cao so với mức tăng trưởng kinh<br />
tế (tăng trưởng kinh tế là 6,31%,<br />
trong khi mức lạm phát là ở mức<br />
19,89%). Muốn kiềm chế lạm phát<br />
phải tìm hiểu nguyên nhân đã dẫn<br />
đến mức lạm phát cao trong năm<br />
2007 và năm 2008 để từ đó có thể<br />
điều hành chính sách giữ cho mức<br />
lạm phát vừa phải nhằm đảm bảo<br />
kích thích tăng trưởng kinh tế một<br />
cách bền vững.<br />
2.3 Nguyên nhân dẫn đến lạm<br />
phát<br />
Theo lý thuyết kinh tế học, có<br />
hai nguyên nhân chủ yếu dẫn đến<br />
lạm phát là do cầu kéo và chi phí<br />
đẩy. Lý thuyết lạm phát do cầu kéo<br />
chỉ đúng khi nền kinh tế đạt mức<br />
sản lượng tiềm năng, khi nền kinh tế<br />
đã sử dụng hết hoặc gần hết nguồn<br />
lực sẵn có. Khi đó, nếu tổng cầu gia<br />
tăng thì sẽ làm giá cả gia tăng vì<br />
nền kinh tế không còn tiềm năng<br />
để tăng trưởng, nên tổng cầu tăng<br />
không làm tổng cung tăng, mà chỉ<br />
làm tăng giá cả. Tổng cầu bao gồm<br />
các thành phần: cầu chi tiêu của cá<br />
nhân, cầu chi tiêu của chính phủ,<br />
cầu đầu tư của các doanh nghiệp và<br />
cầu chi tiêu của người nước ngoài<br />
(xuất khẩu). Tổng cầu phải thể hiện<br />
thông qua tổng cầu tiền mặt. Bởi vì<br />
trong nền kinh tế thị trường, muốn<br />
mua hoặc bán được hàng hóa phải<br />
có một lượng tiền tương ứng với<br />
giá cả hàng hóa (lượng tiền cần<br />
thiết cho lưu thông). Các nhà lý<br />
luận kinh tế gọi đây là lưu thông<br />
hàng hoá – tiền tệ. Vì vậy, khi tổng<br />
tiền mặt trong lưu thông tăng lên<br />
<br />
4<br />
<br />
cũng thể hiện tổng cầu tăng lên.<br />
Trong trường hợp Ngân hàng trung<br />
ương có chính sách làm cho khối<br />
tiền trong lưu thông tăng lên, điều<br />
đó đồng nghĩa với việc sẽ làm cho<br />
tổng cầu gia tăng. Nếu nền kinh tế<br />
còn dưới mức tiềm năng, tổng cầu<br />
tăng sẽ tác động làm tổng cung<br />
tăng, nền kinh tế tăng trưởng, lúc<br />
này lạm phát sẽ không cao, nền<br />
kinh tế sẽ chịu đựng được mức lạm<br />
phát này. Ngược lại, nếu nền kinh<br />
tế đã ở mức tiềm năng thì tổng cầu<br />
tăng sẽ làm giá tăng, mà sản lượng<br />
không tăng nổi, lạm phát sẽ tăng<br />
cao.<br />
Nguyên nhân lạm phát do chi<br />
phí đẩy được thể hiện trong nền<br />
kinh tế còn nằm dưới mức sản<br />
lượng tiềm năng. Lúc này lạm phát<br />
cao xảy ra do giá các yếu tố đầu vào<br />
của nền sản xuất tăng cao (nguyên,<br />
nhiên vật liệu chủ yếu trong nền<br />
kinh tế như xăng dầu, lương thực<br />
thực phẩm…tăng cao) làm cho chi<br />
phí sản xuất hàng hóa tăng cao và<br />
đẩy giá cả hàng hóa trên thị trường<br />
tăng cao. Lạm phát cao xảy ra.<br />
Từ các nguyên nhân về mặt lý<br />
thuyết ở trên, xuất phát từ thực tiễn<br />
VN, có thể phân tích nguyên nhân<br />
lạm phát ở VN trong năm 2007,<br />
2008 có cả yếu tố cầu kéo và chi<br />
phí đẩy.<br />
Trước hết, nguyên nhân do<br />
cầu kéo. Mặc dù nền kinh tế VN<br />
chưa đạt mức sản lượng tiềm năng,<br />
vẫn còn nhiều nguồn lực cho tăng<br />
trưởng: Nguồn nhân lực dồi dào và<br />
trẻ, nguồn vốn trong và ngoài nước<br />
phong phú, nguồn tự nhiên chưa<br />
khai thác hết, nhưng lạm phát năm<br />
2007, 2008 vẫn có nguyên nhân từ<br />
phía cầu. Có thể trình bày những<br />
nguyên nhân từ phía cầu như sau:<br />
- Thu nhập quốc dân tăng lên do<br />
kết quả tăng trưởng kinh tế nhiều<br />
<br />
PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Số 6 - Tháng 8/2010<br />
<br />
năm liền trước đó làm cho thu nhập<br />
của dân cư tăng lên (năm 2001:<br />
6,89%, năm 2002: 7,08%, năm<br />
2003: 7,34%, năm 2004: 7,79%,<br />
năm 2005: 8,44%, năm 2006:<br />
8,23%; năm 2007: 8,46%). Điều<br />
đó làm cho cầu tiêu dùng cá nhân<br />
tăng cao trong năm 2007.<br />
- Tốc độ tăng đầu tư trong toàn<br />
bộ nền kinh tế (bao gồm khu vực<br />
kinh tế trong nước và nước ngoài)<br />
cao trong nhiều năm liền (khoảng<br />
20%/năm), nhất là đầu tư nước<br />
ngoài tăng cao trong các năm 2006<br />
(vốn FDI đăng ký trên 12 tỷ USD);<br />
năm 2007 là 21 tỷ USD và đặc biệt<br />
nhảy vọt trong năm 2008 (vốn FDI<br />
đăng ký trên 71 tỷ USD), làm cho<br />
cầu đầu tư tăng lên nhanh chóng,<br />
đẩy giá nguyên, nhiên vật liệu và<br />
nhân công tăng cao. Tiền lương tối<br />
thiểu trong khu vực hành chính, sự<br />
nghiệp đã tăng lên kéo tiền lương<br />
trong khu vực sản xuất cũng tăng<br />
theo, làm gia tăng thu nhập bằng<br />
tiền và tiêu dùng trong dân cư cũng<br />
tăng theo.<br />
- Xuất khẩu tăng nhanh qua<br />
nhiều năm, riêng năm 2006 là 39,8<br />
tỷ USD, năm 2007 là 48,5 tỷ USD<br />
và năm 2008 đã đạt đến trên 62,6<br />
tỷ USD làm cho việc tiêu dùng sản<br />
xuất xuất khẩu như mua nguyên<br />
nhiên vật liệu, thuê mướn nhân<br />
công….tăng nhanh, đẩy tổng cầu<br />
tăng nhanh.<br />
- Đồng thời, với chính sách đẩy<br />
mạnh đầu tư và xuất khẩu nhằm<br />
duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế<br />
cao, Chính phủ VN đã thực hiện<br />
chính sách tiền tệ mở rộng, khi giữ<br />
mức lãi suất thị trường thấp, tỷ giá<br />
hối đoái VND cao. Điều đó thể<br />
hiện trong năm 2007 Ngân hàng<br />
Nhà nước đã phát hành khối lượng<br />
tiền mặt tăng thêm 30%, chủ yếu<br />
để mua ngoại tệ nhằm giữ giá trị<br />
<br />
Kinh tế VN trên đà tăng trưởng<br />
VND thấp, với mục đích thúc đẩy<br />
xuất khẩu. Bên cạnh đó, do lãi suất<br />
thị trường thấp nên lượng tín dụng<br />
từ các ngân hàng cũng tăng lên<br />
đến trên 35%, nhất là cho vay mua<br />
chứng khoán và kinh doanh bất<br />
động sản, nhưng thiếu biện pháp<br />
để thu hút tiền về ngân hàng. Riêng<br />
trong năm 2008, do thực hiện các<br />
gói giải cứu nền kinh tế thoát khỏi<br />
suy thoái kinh tế nên lượng tiền<br />
trong lưu thông tăng lên rất nhanh;<br />
điều này cũng làm gia tăng lạm<br />
phát trong năm 2008.<br />
Thứ hai, nguyên nhân do chi<br />
phí đẩy. Nguyên nhân về phía chi<br />
phí đẩy có thể phân tích ở những<br />
điểm sau:<br />
- Trong năm 2007 VN đã trở<br />
thành thành viên chính thức thứ 150<br />
của WTO, đánh dấu sự hội nhập<br />
của nền kinh tế VN vào nền kinh tế<br />
thế giới. Do đó, các biến động trên<br />
thị trường thế giới đều ảnh hưởng<br />
đến thị trường trong nước. Chẳng<br />
hạn như giá dầu trên thị trường thế<br />
giới tăng cao ảnh hưởng rất lớn<br />
đến nền kinh tế VN; mặc dù, VN là<br />
nước xuất khẩu dầu, nhưng khi giá<br />
dầu lên lại ảnh hưởng xấu đến nền<br />
kinh tế, bởi vì,VN chưa có công<br />
nghiệp hóa dầu mạnh nên chủ yếu<br />
phải nhập xăng dầu và các nguyên<br />
liệu sản xuất từ dầu hỏa với giá cao,<br />
trong khi phải xuất khẩu dầu thô với<br />
giá thấp. Giá dầu tăng cao và giá<br />
cả các hàng hóa nguyên, nhiên vật<br />
liệu khác trên thế giới tăng cao quả<br />
thật đã đè nặng lên chi phí sản xuất<br />
của VN, do VN phải nhập nhiều<br />
thứ hàng hóa máy móc, thiết bị,<br />
nguyên, nhiên vật liệu cho sản xuất<br />
kinh doanh trong nước và cho xuất<br />
khẩu. Từ năm 2007 mức nhập siêu<br />
của VN luôn tăng cao, trong đó,<br />
đến 80% là nhập khẩu máy móc,<br />
thiết bị, nguyên, nhiên vật liệu phục<br />
<br />
vụ sản xuất. Giá nhập khẩu tăng đã<br />
đẩy giá thành sản xuất trong nước<br />
tăng cao; để không bị lỗ, nhà sản<br />
xuất, kinh doanh phải nâng giá bán<br />
lên, đẩy mức giá cả chung tăng lên<br />
(các nhà lý luận kinh tế gọi đây là<br />
hiện tượng nhập khẩu lạm phát).<br />
Trong khi đó, năng suất lao động<br />
của VN còn thấp, việc ứng dụng<br />
khoa học – công nghệ nhằm nâng<br />
cao năng suất lao động, tiết kiệm<br />
chi phí, giảm giá thành sản phẩm<br />
còn ít, nên cũng không thể hạ giá<br />
bán sản phẩm hàng hóa.<br />
- Từ năm 2007 đến nay VN<br />
thường xuyên chịu nhiều thiệt hại<br />
do thiên tai, dịch bệnh gây ra. Bão,<br />
lũ các tỉnh miền Bắc, miền Trung đã<br />
làm tình hình sản xuất lương thực,<br />
thực phẩm của các địa phương này<br />
gặp khó khăn, kèm theo dịch bệnh<br />
liên tục đã làm cho giá lương thực,<br />
thực phẩm tăng cao. Đồng thời, các<br />
cơn sốt nhà đất, bất động sản trong<br />
những năm qua cũng đã đẩy giá<br />
nhà, giá căn hộ, giá thuê nhà ở, giá<br />
văn phòng cho thuê tăng cao. Bên<br />
cạnh đó, giá các dịch vụ khác cũng<br />
đều gia tăng: giá điện, giá nước,<br />
chi phí học tập….Tất cả đều ảnh<br />
hưởng đến chi phí sản xuất, nhất là<br />
đến giá trị sức lao động, gây sức ép<br />
đẩy giá nhân công tăng cao, và làm<br />
cho chi phí sản xuất tăng cao, góp<br />
phần đẩy mức giá chung tăng lên.<br />
- Với chủ trương điều hành<br />
nền kinh tế theo cơ chế thị trường,<br />
Chính phủ đã quyết định thực hiện<br />
cơ chế giá các mặt hàng thiết yếu<br />
của nền kinh tế như xăng, dầu,<br />
điện, nước, lương thực, thực phẩm<br />
theo giá thị trường. Tuy nhiên, việc<br />
điều chỉnh tăng giá các mặt hàng<br />
xăng, dầu, điện, nước không đúng<br />
thời điểm đã góp phần làm tăng<br />
giá trong nền kinh tế, đẩy tỷ lệ lạm<br />
phát tăng cao.<br />
<br />
2.4 Những giải pháp kiềm chế<br />
lạm phát<br />
Những nguyên nhân của lạm<br />
phát trong thời gian qua về cơ bản<br />
đã được nhận diện, vậy cần phải<br />
làm gì để lạm phát trong những<br />
năm tới được kềm giữ ở mức<br />
mong muốn nhằm đảm bảo tốc độ<br />
tăng trưởng kinh tế, nhất là thời<br />
kỳ hậu khủng hoảng kinh tế, trong<br />
khi những nhân tố làm gia tăng<br />
lạm phát có tác động với cường<br />
độ mạnh hơn như: Đầu tư toàn xã<br />
hội phải tăng cao hơn, tiền lương<br />
trong tất cả các khu vực đã tăng<br />
cao hơn (từ 01/05/2010 tiền lương<br />
cơ bản của khu vực hành chính, sự<br />
nghiệp đã tăng lên 730.000 VNĐ/<br />
tháng so với trước đây là 650.000<br />
VND/tháng); giá dầu trên thế giới<br />
còn nhiều bí ẩn, và có thể vẫn giữ<br />
ở mức cao như hiện nay, thậm chí<br />
còn có thể cao hơn hiện nay (hiện<br />
nay là khoảng 82 USD/thùng)….<br />
Theo chúng tôi, cần phải thực<br />
hiện đồng loạt nhiều biện pháp một<br />
cách thông minh, khôn khéo mới<br />
có thể kiềm chế lạm phát ở mức<br />
mong muốn mà không ảnh hưởng<br />
đến tăng trưởng kinh tế cao. Có thể<br />
gợi ý một vài biện pháp sau:<br />
- Không thể giảm tổng cầu để<br />
kiềm chế lạm phát được, bởi vì, nó<br />
sẽ có tác động làm giảm tỷ lệ tăng<br />
trưởng. Tuy nhiên, có thể thông qua<br />
chính sách tiền tệ để vẫn giữ lãi suất<br />
ở mức vừa phải nhằm thúc đẩy đầu<br />
tư mà vẫn kiềm chế dược mức tổng<br />
cầu tiền tệ, nhất là đối với những<br />
khoản cầu tiền tệ không cần thiết<br />
cho nền kinh tế. Chính sách tiền tệ<br />
cần thực hiện một cách linh hoạt và<br />
kịp thời theo thực tế diễn biến của<br />
nền kinh tế. Ngân hàng Nhà nước<br />
đưa tiền ra và rút tiền về một cách<br />
hợp lý sẽ góp phần kiềm chế lạm<br />
phát và kích thích tăng trưởng kinh<br />
<br />
Số 6 - Tháng 8/2010 PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP<br />
<br />
5<br />
<br />
Kinh tế VN trên đà tăng trưởng<br />
tế. Năm 2009, thông qua các chính<br />
sách vĩ mô, Chính phủ đã thực hiện<br />
một cách thành công kiềm chế<br />
lạm phát và thúc đẩy tăng trưởng<br />
kinh tế, giúp nền kinh tế phục hồi<br />
nhanh sau khủng hoảng. Lạm phát<br />
năm 2009 được giữ ở mức 6,52%,<br />
trong khi tăng trưởng kinh tế đạt<br />
5,32%, được xem là mức tăng<br />
trưởng nhanh trong khu vực. Tuy<br />
nhiên, những tháng đầu năm 2010,<br />
chính sách tiền tệ của Ngân hàng<br />
Nhà nước có những điểm hạn chế<br />
khi vẫn giữ chủ trương hạn chế hạn<br />
mức dư nợ tín dụng, làm cho tổng<br />
phương tiện thanh toán bị hạn chế,<br />
ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế,<br />
thay vì, Ngân hàng Nhà nước phải<br />
tiếp tục thực hiện chính sách tiền<br />
tệ nới lỏng để duy trì đà phục hồi<br />
tăng trưởng kinh tế của năm 2009.<br />
Nói cách khác, Ngân hàng Nhà<br />
nước nên điều hành chính sách tiền<br />
tệ một cách khôn khéo và linh hoạt<br />
hơn, nên sử dụng một cách tốt hơn<br />
và kịp thời các công cụ của chính<br />
sách tiền tệ như: lãi suất chiết khấu,<br />
tỷ lệ dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị<br />
trường mở…để điều hành chính<br />
sách tiền tệ ở VN.<br />
- Về chi tiêu công: Chính phú<br />
cần chú ý giải ngân kịp thời cho<br />
các dự án đầu tư có nguồn vốn từ<br />
ngân sách của Chính phủ, nhằm<br />
hạn chế tình trạng gây sức ép tăng<br />
giá vào cuối năm khi đầu năm thì<br />
chậm hoặc không giải ngân, để<br />
đến gần cuối năm mới đẩy mạnh<br />
giải ngân làm cho một lượng tiền<br />
mặt lớn đi vào lưu thông, tác động<br />
làm tăng giá mạnh vào cuối năm.<br />
Chính phủ nên kiểm soát chặt chẽ<br />
các khoản chi tiêu của chính phủ<br />
trên tinh thần sử dụng một cách có<br />
hiệu quả đồng vốn ngân sách, tránh<br />
lãng phí, thất thoát trong đầu tư xây<br />
dựng cơ bản. Để đạt yêu cầu này,<br />
Chính phủ cần tập trung phát huy<br />
<br />
6<br />
<br />
chức năng của đội ngũ các bộ phận<br />
hoạch định dự án, phân bổ nguồn<br />
vốn và kiểm tra, giám sát việc thực<br />
hiện dự án thuộc Chính phủ. Chính<br />
phủ nên tập trung chú ý đến quản<br />
trị tài chính công, tránh vết xe đổ<br />
của khủng hoảng nợ công của<br />
Chính phủ Hy Lạp và một số nước<br />
khác ở châu Âu.<br />
- Chính phủ cần tăng cường<br />
năng lực của bộ máy dự báo để<br />
dự báo chính xác sự biến động giá<br />
cả trên thị trường thế giới, nhất là<br />
giá cả của các mặt hàng chiến lược<br />
như xăng, dầu, sắt, thép, lương<br />
thực, thực phẩm…để kịp thời điều<br />
chỉnh giá trong nước, tránh tình<br />
trạng phải đối phó bị động như<br />
trong năm 2007, 2008. Tập trung<br />
toàn bộ lực lượng quản lý, điều<br />
chỉnh giá cả một cách nhanh nhạy,<br />
bằng các biện pháp hành chính lẫn<br />
biện pháp kinh tế đối với giá cả thị<br />
trường. Chống đầu cơ nâng giá đối<br />
với mọi khu vực kinh tế, kể cả kinh<br />
tế nhà nước.<br />
- Chính phủ cần phải tăng<br />
cường quản lý các doanh nghiệp<br />
nhà nước, nhất là các tập đoàn kinh<br />
tế, các tổng công ty mạnh để các<br />
doanh nghiệp này tập trung nguồn<br />
lực phát triển các ngành nghề chủ<br />
lực mà Nhà nước giao. Kiên quyết<br />
sắp xếp lại các tập đoàn kinh tế nhà<br />
nước có vấn đề trong hoạt động sản<br />
xuất kinh doanh như trường hợp<br />
tập đoàn Vinashin thời gian qua.<br />
Nguyên tắc chung là Chính phủ chỉ<br />
nên phát triển các tập đoàn nhà nước<br />
trong các lĩnh lực kinh tế trọng yếu<br />
của nền kinh tế như: năng lượng,<br />
lương thực, khoáng sản…còn các<br />
lĩnh vực khác thì nên để cho các<br />
thành phần kinh tế khác hoạt động.<br />
Chính phủ nên kiên quyết biến các<br />
tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà<br />
nước thành các đơn vị kinh tế chủ<br />
lực, “các nắm đấm chủ lực” trong<br />
<br />
PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Số 6 - Tháng 8/2010<br />
<br />
việc thực hiện nhiệm vụ ổn định và<br />
tăng trưởng kinh tế, tham gia kiềm<br />
chế lạm phát khi Chính phủ yêu<br />
cầu. Trong thời gian qua, có một<br />
thực tế là chính các tập đoàn kinh<br />
tế nhà nước đã góp phần làm gia<br />
tăng lạm phát. Đó là trường hợp<br />
tăng giá xăng, dầu, giá điện, giá<br />
than của các tập đoàn kinh tế nhà<br />
nước không đúng thời điểm. Thay<br />
vì để thực hiện nhiệm vụ kiềm chế<br />
lạm phát của Chính phủ, các tập<br />
đoàn này phải giữ giá, thậm chí là<br />
phải giảm giá thì họ đã làm ngược<br />
lại, tăng giá hàng loạt, làm cho mức<br />
giá cả chung trong nền kinh tế càng<br />
tăng cao.<br />
3. Kết luận<br />
<br />
Trong thực tế điều hành đất<br />
nước, bất cứ chính phủ của quốc<br />
gia nào cũng muốn nền kinh tế<br />
nước mình có tốc độ tăng trưởng<br />
kinh tế cao và mức lạm phát thấp,<br />
mức thất nghiệp thấp. Tuy nhiên,<br />
thực tế hoạt động của nền kinh tế<br />
cũng chỉ rõ kinh tế tăng trưởng<br />
cao đồng hành với mức lạm phát<br />
cao. Do đó, nếu VN muốn có mức<br />
tăng trưởng cao mà đặt mục tiêu<br />
duy trì mức lạm phát thấp là khó<br />
thực hiện. Muốn đạt được điều<br />
đó đòi hỏi phải có một chính sách<br />
cực kỳ thông minh, trên cơ sở phải<br />
có được một chính phủ giỏi và sử<br />
dụng thành thạo các công cụ kinh<br />
tế vĩ mô lẫn các công cụ quản lý<br />
hành chính nhà nước. Điều đó hy<br />
vọng sẽ đạt được đối với VN trong<br />
năm 2010 và những năm tiếp theo<br />
để VN nhanh chóng trở thành một<br />
nước công nghiệp phát triển, với<br />
nền kinh tế tăng trưởng và phát<br />
triển bền vữngl<br />
(Xem tiếp trang 21 )<br />
<br />