Ngân Hàng Trung Ương: Một Viễn Cảnh Toàn Cầu<br />
Trong số người chơi quan trọng nhất trong các thị trường tài chính trên toàn thế <br />
giới là các ngân hàng trung ương, các cơ quan chính phủ chịu trách nhiệm về <br />
chính sách tiền tệ. Hành động của các ngân hàng trung ương ảnh hưởng đến lãi <br />
suất, khối lượng tín dụng và nguồn cung tiền, tất cả đều có ảnh hưởng trực tiếp <br />
không chỉ trên thị trường tài chính, mà còn về tổng sản lượng và lạm phát. Để <br />
hiểu rõ vai trò của các ngân hàng trung ương đóng tại các thị trường tài chính và <br />
nền kinh tế tổng thể, chúng ta cần phải cách thức hoạt động của những tổ chức <br />
này. Ai kiểm soát các ngân hàng trung ương và xác định hành động của họ? Điều <br />
gì khuyến khích hành vi của họ? Ai giữ dây cương của quyền lực?<br />
1.Nguồn gốc của cục dự trữ liên bang<br />
Trong tất cả các ngân hàng trung ương trên thế giới, Cục Dự Trữ Liên Bang có <br />
thể có cấu trúc khác thường. Để hiểu tại sao cấu trúc này phát sinh, chúng ta phải <br />
trở lại trước năm 1913, khi Cục Dự Trữ Liên Bang đã được tạo ra.<br />
Trước thế kỉ 20, một đặc điểm chính của nền chính trị Mỹ là sự lo sợ của quyền <br />
lực tập trung, được thể hiện trong việc kiểm tra và cân bằng của Hiến pháp và <br />
giữ gìn quyền của bang. Mối lo sợ về quyền lực tập trung là một lí do trong việc <br />
đề phòng của người Mĩ để thành lập một ngân hàng trung ương. Một nguồn khác <br />
là sự mất lòng tin truyền thống của Mỹ về lợi ích tiền bạc, những biểu tượng <br />
nổi bật nhất trong số đó là một ngân hàng trung ương. Thái độ thù địch của cộng <br />
đồng người Mỹ đến sự tồn tại của một ngân hàng trung ương dẫn đến sự sụp đổ <br />
của hai thử nghiệm đầu tiên trong ngành ngân hàng trung ương, có chức năng để <br />
giám sát hệ thống ngân hàng: Ngân hàng đầu tiên của Hoa Kỳ đã bị giải tán vào <br />
năm 1811, và các đặc quyền quốc gia của ngân hàng thứ hai của Hoa Kỳ hết hạn <br />
vào năm 1836 sau khi việc gia hạn được phủ quyết trong năm 1832 do Tổng <br />
thống Andrew Jackson.<br />
Viếc chấm dứt đặc quyền quốc gia của ngân hàng thứ hai vào năm 1836 đã tạo ra <br />
một vấn đề nghiêm trọng đối với thị trường tài chính Mỹ, vì không có người cho <br />
vay như phương kế cuối cùng mà có thể cung cấp dự trữ cho hệ thống ngân hàng <br />
để ngăn chặn một cuộc khủng hoảng ngân hàng. Do đó, trong thế kỷ XIX và XX, <br />
khủng hoảng ngân hàng trên toàn quốc đã trở thành một sự kiện thường xuyên, <br />
xảy ra mỗi hai mươi năm hoặc lâu hơn, mà đỉnh cao là cuộc khủng hoảng năm <br />
1907. Cuộc khủng hoảng năm 1907 dẫn đến kết quả sụp đổ ngân hàng trên diện <br />
rộng và gây thiệt hại đáng kể cho người gửi tiền, vì vậy công chúng cuối cùng đã <br />
được thuyết phục rằng một ngân hàng trung ương là cần thiết để ngăn ngừa <br />
những cuộc khủng hoảng trong tương lai.<br />
Sự thù địch của công chúng Mỹ đối với các ngân hàng và quyền lực tập trung <br />
tạo ra sự phản đối lớn trong việc thành lập một ngân hàng trung ương duy nhất <br />
như Ngân hàng Anh. Sự sợ hãi quá khích rằng nhóm tư bản tiền tệ trên Wall <br />
Street (bao gồm cả các tập đoàn lớn và các ngân hàng) sẽ có thể thao túng cơ <br />
quan đó để giành quyền kiểm soát nền kinh tế và hoạt động liên bang của ngân <br />
hàng trung ương có thể dẫn đến sự can thiệp quá nhiều của chính phủ vào công <br />
việc của các ngân hàng tư nhân. Bất đồng nghiêm trọng trong việc phân định các <br />
ngân hàng trung ương phải là một ngân hàng tư nhân hay là một cơ quan chính <br />
phủ. Bởi vì những cuộc tranh luận nóng bỏng về những vấn đề này, một thỏa <br />
hiệp đã được lập ra. Trong truyền thống vĩ đại của người Mỹ, Quốc hội đã viết <br />
và xây dựng hệ thống kiểm tra và cân đối vào Luật Dự trữ Liên bang năm 1913, <br />
trong đó tạo ra một Hệ thống Dự trữ Liên bang với mười hai ngân hàng Dự trữ <br />
Liên bang khu vực.<br />
<br />
<br />
2.Cấu trúc của Cục Dự Trữ Liên Bang<br />
Các nhà soạn thảo của Luật Dự trữ Liên bang muốn khuếch tán quyền lực dọc <br />
theo các đường khu vực, giữa các khu vực tư nhân và chính phủ, và giữa các chủ <br />
ngân hàng, doanh nhân, và công chúng. Điều phổ biến khởi đầu của quyền lực <br />
này đã dẫn đến sự phát triển của Cục Dự trữ Liên Bang bao gồm các đối tượng <br />
sau: các Ngân hàng Dự trữ Liên bang, Hội đồng Thống đốc Cục Dự trữ Liên <br />
bang, Ủy Ban Liên bang Thị Trường Tự do (FOMC) , Hội đồng tư vấn liên <br />
bang, và khoảng 2500 thành viên các ngân hàng thương mại.<br />
Ngân hàng dự trữ liên bang<br />
Mỗi mười hai khu vực dự trữ liên bang có một ngân hàng dự trữ liên bang <br />
chính, trong đó có thể có các chi nhánh ở các thành phố khác trong khu vực. Các <br />
địa điểm của các khu vực, các ngân hàng dự trữ liên bang, và các chi nhánh của nó <br />
được thể hiện trong Hình 1. Ba ngân hàng dự trữ liên bang lớn nhất về tài sản là <br />
của New York, Chicago và San Francisco cộng lại họ nắm giữ hơn 50% tài sản <br />
(cho vay chiết khấu, chứng khoán, và các tài sản khác) của Hệ thống Dự trữ Liên <br />
bang. Ngân hàng New York, với khoảng một phần tư của các tài sản, đóng vai trò <br />
quan trọng nhất của các ngân hàng dự trữ liên bang (xem Bên trong Fed, "Vai trò <br />
đặc biệt của Ngân hàng Dự trữ Liên bang New York").<br />
Mỗi ngân hàng dự trữ liên bang là một tổ chức báncông (một phần của tư <br />
nhân, một phần của chính phủ), thuộc sở hữu của các ngân hàng thương mại tư <br />
nhân trong khu vực là thành viên của Hệ thống Dự trữ Liên bang. Các ngân hàng <br />
thành viên đã mua cổ phiếu ở ngân hàng Dự trữ Liên bang trong khu vực của họ <br />
(một yêu cầu để làm thành viên), và cổ tức trả bằng cổ phiếu đó được giới hạn <br />
bởi pháp luật đến 6% hàng năm. Các ngân hàng thành viên bầu sáu giám đốc đối <br />
với từng ngân hàng khu vực; thêm ba giám đốc được chỉ định bởi Hội đồng <br />
Thống đốc. Các giám đốc của một ngân hàng khu vực được phân thành ba loại: <br />
A, B và C. Ba giám đốc A (được bầu bởi các ngân hàng thành viên) là nhà ngân <br />
hàng chuyên nghiệp, và ba giám đốc B (cũng được bầu bởi các ngân hàng thành <br />
viên) là các nhà lãnh đạo nổi bật từ ngành công nghiệp, lao động, nông nghiệp, <br />
hoặc lĩnh vực tiêu dùng. Ba giám đốc C, người được bổ nhiệm của Hội đồng <br />
Thống đốc đại diện cho lợi ích chung, không được phép là cán bộ, nhân viên, <br />
hoặc các cổ đông của ngân hàng. Các giám đốc điều hành hoạt động của các ngân <br />
hàng khu vực, nhưng công việc quan trọng nhất của họ là để bổ nhiệm chủ tịch <br />
của ngân hàng (tùy thuộc vào sự chấp thuận của Hội đồng Thống đốc). Cho đến <br />
năm 2010, tất cả chín giám đốc tham gia vào quyết định này, nhưng pháp luật <br />
DoddFrank có hiệu lực từ tháng 7 năm 2010 loại trừ ba giám đốc A ra khỏi sự <br />
tham gia trong việc lựa chọn chủ tịch của ngân hàng. Quốc hội cho rằng không <br />
phù hợp khi để các ngân hàng tham gia trong việc lựa chọn chủ tịch của ngân <br />
hàng dự trữ liên bang, việc đó sẽ dẫn đến sự giám sát của các ngân hàng đó.<br />
Mười hai ngân hàng dự trữ liên bang tham gia vào chính sách tiền tệ trong <br />
những cách sau:<br />
Các giám đốc của hệ thống "thiết lập" các tỷ lệ chiết khấu (mặc dù tỷ lệ chiết <br />
khấu trong từng huyện được xem xét và quyết định bởi Hội đồng Thống đốc).<br />
Họ quyết định ngân hàng nào (thành viên và phi thành viên như nhau) có thể có <br />
được các khoản vay chiết khấu từ ngân hàng dự trữ liên bang.<br />
Các giám đốc của hệ thống chọn một chủ ngân hàng thương mại từ mỗi khu <br />
vực để phục vụ trong Hội đồng tư vấn liên bang, trong đó tư vấn với Hội đồng <br />
thống đốc và cung cấp thông tin giúp cho việc điều hành chính sách tiền tệ.<br />
Năm trong mười hai chủ tịch ngân hàng được bầu chọn vào Ủy ban thị trường tự <br />
do liên bang (FOMC), cơ quan chỉ đạo các hoạt động của thị trường tự do <br />
(mua và bán chứng khoán của chính phủ dẫn đến ảnh hưởng đến cả lãi suất và <br />
số tiền dự trữ trong hệ thống ngân hàng). Như đã giải thích trong “Bên trong hộp <br />
Fed”, "Vai trò đặc biệt của Ngân hàng Dự trữ Liên bang New York", bởi vì chủ <br />
tịch của Cục Dự trữ Liên bang New York là một thành viên thường trực của <br />
FOMC, họ luôn luôn được bầu vào FOMC, làm cho nó quan trọng nhất trong các <br />
ngân hàng, bốn phiếu khác giao cho các ngân khu vực hàng năm luân phiên trong <br />
số mười một Chủ tịch còn lại.<br />
Mười hai ngân hàng dự trữ liên bang còn thực hiện các chức năng sau:<br />
Clear checks ???<br />
Phát hành tiền mới và rút tiền bị hư hỏng khỏi hệ thống lưu thông.<br />
quản lý và thực hiện các khoản vay chiết khấu cho các ngân hàng trên địa bàn <br />
khu vực.<br />
Đánh giá các đề xuất sáp nhập và các thỉnh cầu của các ngân hàng để mở rộng <br />
hoạt động của nó.<br />
Hoạt động như liên lạc viên giữa cộng đồng doanh nghiệp và Cục Dự Trữ Liên <br />
Bang.<br />
Kiểm tra các ngân hàng cổ phần và các ngân hàng thành viên được hưởng đặc <br />
quyền của bang.<br />
Thu thập số liệu về điều kiện kinh doanh địa phương<br />
Sử dụng đội ngũ chuyên gia về kinh tế của họ để nghiên cứu các chủ đề liên <br />
quan đến việc điều hành chính sách tiền tệ.<br />
1. Các ngân hàng thành viên<br />
Tất cả các ngân hàng quốc gia (ngân hàng thương mại được thành lập dưới <br />
hiến chương của Văn phòng Kiểm soát tiền tệ) bắt buộc phải là thành viên của <br />
Cục Dự trữ Liên bang. Các ngân hàng thương mại được thành lập bởi hiến <br />
chương của bang không bắt buộc phải là thành viên, nhưng họ có thể lựa chọn <br />
để tham gia. Hiện nay, khoảng một phần ba của các ngân hàng thương mại tại <br />
Hoa Kỳ là thành viên của Cục Dự trữ Liên bang, đã giảm từ con số cao nhất là <br />
49% vào năm 1947.<br />
Trước năm 1980, chỉ có các ngân hàng thành viên được yêu cầu phải giữ dự <br />
trữ tiền gửi tại các ngân hàng dự trữ liên bang. Ngân hàng phi thành viên xác định <br />
dự trữ bắt buộc tùy theo tình trạng (yêu cầu của bang???), thường cho phép họ <br />
giữ nhiều dự trữ bằng chứng khoán sinh lãi. Bởi vì vào thời điểm đó không có lợi <br />
nhuận được trả cho khoản dự trữ gửi tại các ngân hàng dự trữ liên bang, gây nên <br />
tốn kém khi làm một thành viên của hệ thống, và khi lãi suất tăng, chi phí tương <br />
đối của các thành viên tăng, và ngày càng nhiều các ngân hàng rời khỏi hệ thống.<br />
Suy giảm số lượng các thành viên Cục Dự Trữ Liên Bang là một mối quan <br />
tâm lớn của Hội đồng Thống đốc; một lý do là nó làm giảm đi sự kiểm soát của <br />
Cục Dự Trữ Liên Bang trong việc cung cấp tiền bạc, gây khó khăn cho cục khi <br />
thực hiện chính sách tiền tệ. Chủ tịch Hội đồng Thống đốc liên tục kêu gọi dự <br />
luật mới yêu cầu tất cả các ngân hàng thương mại phải là thành viên của Cục Dự <br />
trữ Liên bang. Một kết quả của áp lực của Cục vào Quốc hội là một điều khoản <br />
trong và Đạo luật phi điều tiết và kiểm soát tiền tệ năm 1980: Tất cả các tổ <br />
chức lưu ký tuân thủ chung yêu cầu về các khoản tiền gửi tại Cục Dự trữ Liêng <br />
bang, vì vậy các ngân hàng thành viên và phi thành viên sẽ được bình đẳng về các <br />
yêu cầu dự trữ. Ngoài ra, tất cả các tổ chức lưu ký được phép truy cập đến các <br />
cơ sở dự trữ liên bang, chẳng hạn như các cửa sổ chiết khấu (thảo luận trong <br />
Chương 16) và Cục kiểm tra thanh toán bù trừ trên cơ sở bình đẳng. Những quy <br />
định này kết thúc sự suy giảm số lượng thành viên Fed và giảm sự phân biệt giữa <br />
các ngân hàng thành viên và các ngân hàng phi thành viên.<br />
Hội đồng Thống đốc Cục Dự trữ Liên bang:Tại đầu của Hệ thống Dự trữ <br />
Liên bang là Hội đồng gồm 7 thành viên của Thống đốc, có trụ sở tại <br />
Washington, DC. Mỗi đốc được bổ nhiệm bởi Tổng thống Hoa Kỳ và xác nhận <br />
bởi Thượng viện. Để hạn chế điều khiển của chủ tịch Fed trong và cách ly của <br />
Fed khỏi những áp lực chính trị khác, các thống đốc có thể phục vụ một toàn thể <br />
tái tạo hạn 14 năm cộng với một phần của một nhiệm kỳ nữa, nhiệm kỳ của mỗi <br />
thống đốc kết thúc vào mỗi tháng 1 khác nhau . Các thống đốc (phần nhiều là các <br />
chuyên gia kinh tế) là bắt buộc đến từ các dự trữ liên bang quận khác nhau để <br />
ngăn chặn các lợi ích của một khu vực của đất nước bị chiếm dụng. Chủ tịch <br />
Hội đồng Thống đốc được chọn từ một trong 7 thống đốc, phục vụ bốn năm, <br />
được gia hạn. Người ta cho rằng một khi một chủ tịch mới được chọn, chủ tịch <br />
cũ từ chức từ Hội đồng Thống đốc, ngay cả khi nhiệm kỳ thống đốc còn nhiều <br />
năm.<br />
Hội đồng thống đốc là tích cực tham gia vào việc điều hành chính sách tiền tệ <br />
trong những cách sau đây:<br />
Tất Cả 7 thống đốc là thành viên của FOMC và biểu quyết về việc tiến hành <br />
các hoạt động thị trường mở. Vì chỉ có mười hai thành viên có quyền biểu quyết <br />
của uỷ ban này (bảy thống đốc và năm Chủ tịch của ngân hàng quận), Hội đồng <br />
quản trị có đasố phiếu.<br />
Hội đồng quản trị cũng đặt ra yêu cầu dự trữ (trong giới hạn cho phép của pháp <br />
luật). <br />
Nó có hiệu quả kiểm soát tỷ lệ chiết khấu của quá trình "cân nhắc và quyết <br />
định", theo đó chấp thuận hoặc không chấp thuận lãi suất chiết khấu "được thiết <br />
lập" bởi các ngân hàng dự trữ liên bang.<br />
Các Chủ tịch Hội đồng cố vấn cho Tổng thống Mỹ về chính sách kinh tế, làm <br />
chứng trong Quốc hội, và phát biểu cho các hệ thống dự trữ liên bang để các <br />
phương tiện truyền thông.<br />
<br />
Ủy ban thị trường mở liên bang (FOMC)<br />
<br />
FOMC thường họp 8 lần một năm (khoảng sáu tuần một lần) và ra các quyết <br />
định liên quan đến việc thực hiện các nghiệp vụ thị trường mở và các thiết lập <br />
của chính sách lãi suất, tỷ lệ quỹ liên bang, đó là lãi suất cho vay qua đêm từ một <br />
ngân hàng này với ngân hàng khác . Thật vậy, các FOMC thường được gọi tắt là <br />
"Fed" trên báo chí: Ví dụ, khi các phương tiện truyền thông nói rằng Fed đang <br />
họp, họ thực sự có nghĩa là FOMC đang họp. Ủy ban gồm 7 thành viên của Hội <br />
đồng Thống đốc, Chủ tịch Ngân hàng Dự trữ Liên bang New York, và Chủ tịch <br />
của bốn ngân hàng dự trữ liên bang khác. Chủ tịch Hội đồng Thống đốc cũng chủ <br />
là chủ tịch của FOMC. Mặc dù chỉ có Chủ tịch của 5 trong số các ngân hàng dự <br />
trữ liên bang được bầu các thành viên của FOMC, 7 thống đốc khác của các ngân <br />
hàng tham gia cuộc họp FOMC quận và tham gia thảo luận. Do đó họ có một số <br />
đầu vào để ra quyết định của ban.<br />
Bởi vì các hoạt động thị trường mở là công cụ chính sách quan trọng nhất mà Fed <br />
đã cho kiểm soát cung tiền, và vì nó là nơi quyết định thực hiện việc thắt chặt <br />
chính sách tiền tệ (tăng tỷ lệ quỹ liên bang) hoặc nới lỏng chính sách tiền tệ (một <br />
giảm của tỷ lệ quỹ liên bang) .FOMC nhất thiết phải là tâm điểm cho hoạch định <br />
chính sách trong hệ thống dự trữ liên bang. Mặc dù dự trữ bắt buộc và lãi suất <br />
chiết khấu không thực sự thiết lập bởi FOMC, các quyết định liên quan đến các <br />
công cụ chính sách được thực hiện có hiệu quả ở đó, và đây là lý do tại sao Hình <br />
1 đường gạch chỉ ra rằng FOMC "tư vấn" về việc thiết lập các yêu cầu dự trữ và <br />
lãi suất chiết khấu. FOMC không thực sự thực hiện hoạt động mua bán chứng <br />
khoán. Thay vào đó, nó tạo ra chỉ thị tại quầy giao dịch tại Ngân hàng Dự trữ Liên <br />
bang New York, nơi mà các nhà quản lý cho các hoạt động thị trường mở trong <br />
nước giám sát một lượng người đã thực hiện các giao dịch mua bán của chính <br />
phủ hoặc cơ quan chứng khoán. Người quản lý liên lạc hàng ngày với các thành <br />
viên FOMC và nhân viên của họ liên quan đến các hoạt động của các bàn giao <br />
dịch.<br />
<br />
<br />
Cuộc họp FOMC:Cuộc họp FOMC diễn ra trong phòng họp trên tầng hai của <br />
tòa nhà chính của Hội đồng thống đốc ở Washington, DC. 7 thống đốc và 12 Chủ <br />
tịch Ngân hàng Dự trữ, cùng với thư ký của FOMC, các Ban của "Giám đốc Bộ <br />
phận nghiên cứu và thống kê và cấp phó, và Giám đ<br />
ốc c ủa vấn đề tiền tệ và Tài <br />
chính Quốc tế Phòng, ngồi vào bàn họp có quy mô lớn. Mặc dù chỉ có 5 Chủ tịch <br />
Ngân hàng Dự trữ có quyền biểu quyết về các FOMC tại bất kỳ thời điểm nào, <br />
tất cả tích cực tham gia vào các cuộc thảo luận. Ngồi xung quanh các mép của <br />
căn phòng là Giám đốc nghiên cứu tại mỗi Ngân hàng dự trữ và hội đồng quản trị <br />
cấp cao khác và các quan chức Ngân hàng dự trữ, người, không nói tại cuộc họp.<br />
Cuộc họp bắt đầu nhanh chóng với các biên bản cuộc họp trước của FOMC. Các <br />
chương trình họp khoản mục thứ nhất là báo cáo của người quản lý của hệ <br />
thống hoạt động thị trường mở về ngoại tệ và thị trường mở trong nước và các <br />
vấn đề khác liên quan đến các chủ đề này. Sau khi các thống đốc và Chủ tịch <br />
Ngân hàng Dự trữ kết thúc đặt câu hỏi và thảo luận về các báo cáo này, một cuộc <br />
bỏ phiếu được thực hiện để phê chuẩn chúng.<br />
Giai đoạn tiếp theo trong cuộc họp là một bài thuyết trình của các nhân viên Hội <br />
đồng quản trị "là dự báo kinh tế quốc gia của các Giám đốc Bộ phận Nghiên cứu <br />
và thống kê tại các Ban. Sau khi các thống đốc và Chủ tịch Ngân hàng Dự trữ đã <br />
hỏi các giám đốc bộ phận về các dự báo, vòng đàm phán xảy ra: Mỗi chủ tịch <br />
ngân hàng trình bày tổng quan về điều kiện kinh tế của mình quận mình và các <br />
ngân hàng "vì những đánh giá về triển vọng quốc gia, và mỗi đốc , gồm Chủ tịch, <br />
cho một cái nhìn về triển vọng quốc gia. Theo thông lệ, tránh nhận xét các chủ <br />
đề về chính sách tiền tệ tại thời điểm này.<br />
Chương trình họp sau đó chuyển sang chính sách tiền tệ hiện tại và chỉ thị chính <br />
sách trong nước. Giám đốc Bộ phận Tiền tệ giao dịch của Hội đồng dẫn tắt các <br />
cuộc thảo luận bằng cách đưa ra các kịch bản khác nhau cho hành động của chính <br />
sách tiền tệ và có thể mô tả một vấn đề liên quan đến chính sách tiền tệ như thế <br />
nào nên được tiến hành. Sau một thời gian câu hỏi và trả lời, mỗi người trong số <br />
các thành viên FOMC, cũng như Chủ tịch ngân hàng không bỏ phiếu, biểu lộ quan <br />
điểm của mình về chính sách tiền tệ, và trên các tuyên bố chính sách tiền tệ. Chủ <br />
tịch sau đó tóm tắt các cuộc thảo luận và đề xuất diễn đạt rõ ràng cụ thể cho các <br />
hướng dẫn mục tiêu lãi suất liên bang chuyển đến thị trường mở và các tuyên bố <br />
chính sách tiền tệ. Thư ký của FOMC chính thức đọc báo cáo đề xuất và các <br />
thành viên của FOMC bỏ phiếu.<br />
Sau đó, có một bữa ăn trưa tự chọn thức, và trong khi ăn, các đại biểu được nghe <br />
một bài thuyết trình về những diễn biến mới nhất trong Quốc hội về luật ngân <br />
hàng và pháp luật khác có liên quan đến dự trữ liên bang. Khoảng 14:15, hội nghị <br />
kết thúc và thông báo công khai được thực hiện về các kết quả của cuộc họp: <br />
cho dù các mục tiêu lãi suất liên bang và lãi suất chiết khấu đã được nâng lên, hạ <br />
xuống, hoặc không thay đổi, và đánh giá của các "cân bằng rủi ro "trong tương <br />
lai, cho dù đối với lạm phát cao hoặc hướng tới một nền kinh tế yếu. Thông báo <br />
về cuộc họp là một sự đổi mới được khởi xướng vào năm 1994. Trước đó, chưa <br />
có thông báo nào được thực hiện, và các thị trường đã phải đoán những gì hành <br />
động chính sách đã được thực hiện. Quyết định công bố thông tin này là một <br />
bước theo hướng cởi mở hơn của Fed. Một bước việc góp theo hướng này bắt <br />
đầu vào tháng 4 năm 2011: Sau các cuộc họp FOMC vào tháng tư, tháng sáu, tháng <br />
mười một và tháng 1, chủ tịch Cục Dự trữ liên bang cho một cuộc họp báo trong <br />
đó ông tóm tắt về quyết định của FOMC<br />
3.Fed độc lập như thế nào?<br />
Khi chúng ta nhìn, trong 3 chương tiếp theo, cách dự trữ liên bang tiến hành chính <br />
sách tiền tệ, chúng ta sẽ muốn biết lý do tại sao nó quyết định để có những hành <br />
động chính sách nhất định, nhưng không phải người khác. Để hiểu được h oạt <br />
động của nó, chúng ta phải hiểu động cơ mà thúc đẩy hành động của Fed. Làm <br />
thế nào miễn là Fed không bị áp lực của tổng thống và quốc hội? Đừng quan tâm <br />
kinh tế, hành chính, chính trị hay hướng dẫn nó? Là Fed thực sự độc lập của các <br />
áp lực bên ngoài?<br />
Stanley Fischer, là một giáo sư tại MIT và bây giờ là thống đốc Ngân hàng Israel, <br />
đã xác định hai loại khác nhau của nền độc lập của ngân hàng trung ương: công <br />
cụ độc lập, khả năng của các ngân hàng trung ương để thiết lập công cụ chính <br />
sách tiền tệ, và mục tiêu độc lập, các khả năng của ngân hàng trung ương để <br />
thiết lập các mục tiêu của chính sách tiền tệ. Cục Dự trữ Liên bang có cả hai loại <br />
độc lập và là đáng kể do những áp lực chính trị có ảnh hưởng đến các cơ quan <br />
khác của chính phủ. Không chỉ có các thành viên của Hội đồng Thống đốc bổ <br />
nhiệm có thời hạn 14 năm (và do đó không thể bị đẩy ra khỏi văn phòng), nhưng <br />
cũng hạn về mặt kỹ thuật không thể tái bổ nhiệm, loại bỏ một số ưu đãi cho các <br />
thống đốc để thiên vị (bợ đỡ)mang lại lợi với tổng thống và Quốc hội.<br />
Có lẽ thậm chí còn quan trọng hơn để giành được độc lập từ ý tưởng bất chợt <br />
của Quốc hội là các Fed nguồn độc lập và đáng kể của doanh thu từ cổ phần của <br />
mình trong chứng khoán, và ở một mức độ thấp hơn, từ các khoản vay cho các <br />
ngân hàng. Trong những năm gần đây, ví dụ, Fed đã có thu nhập ròng sau khi chi <br />
phí khoảng 40 tỉ USD mỗi năm không phải là một sống tồi tệ nếu bạn có thể đạt <br />
được nó! Bởi vì nó sẽ thu hồi về số lượng lớn của các khoản thu nhập cho Kho <br />
bạc , nó không có được nhi<br />
ều hơn t<br />
ừ các hoạt động của mình, nhưng thu nhập <br />
này cho phép Fed một lợi thế quan trọng trong các cơ quan chính phủ khác: Nó <br />
không phải là đối tượng của quá trình được dành riêng thường được kiểm soát <br />
bởi Quốc hội. Thật vậy, các Văn phòng Kế toán tổng hợp, các cơ quan kiểm toán <br />
của chính phủ liên bang, không thể kiểm tra các chính sách tiền tệ hoặc các chức <br />
năng của thị trường ngoại hối của Cục Dự trữ Liên bang. Bởi vì sức mạnh để <br />
kiểm soát thắt chặt là thường đồng nghĩa với sức mạnh kiểm soát tổng thể, tính <br />
năng này của hệ thống dự trữ liên bang đóng góp cho sự độc lập của mình hơn <br />
bất kỳ yếu tố nào khác.<br />
Tuy nhiên, Fed vẫn chịu ảnh hưởng của Quốc hội, bởi vì luật đã được cấu trúc <br />
nó được viết bởi Quốc hội và có thể thay đổi bất cứ lúc nào. Khi các nhà lập <br />
pháp đang lo lắng với thực hiện chính sách tiền tệ cuae Fed, họ thường xuyên đe <br />
dọa kiểm soát của tài chính của Fed và buộc nó để gửi nhu cầu ngân sách như các <br />
cơ quan khác của chính phủ. Một ví dụ gần đây là cuộc gọi của Thượng nghị sĩ <br />
Reid Dorgan và năm 1996 cho Quốc hội có thẩm quyền ngân sách đối với hoạt <br />
động phi tiền tệ của Cục Dự trữ Liên bang. Đây là một tổ chức mạnh mẽ để <br />
vận dụng, và nó chắc chắn có một số tác dụng trong việc giữ Fed trong tầm <br />
kiểm soát như mong muốn của Quốc hội.<br />
Quốc hội cũng đã thông qua luật để thực hiện dự trữ liên bang có trách nhiệm <br />
hơn đối với hành động của mình. Theo Đạo luật HumphreyHawkins năm 1978, <br />
Cục Dự trữ Liên bang phải phát hành một báo cáo chính sách tiền tệ cho Quốc <br />
hội sáu tháng một lần, có kèm theo các chứng do Chủ tịch Hội đồng Thống đốc, <br />
để giải thích cách điều hành chính sách tiền tệ phù hợp với các mục tiêu được <br />
đưa ra bởi Luật Dự trữ Liên bang.<br />
Tổng thống cũng có thể ảnh hưởng đến dự trữ liên bang. Bởi vì pháp luật của <br />
Quốc hội có thể ảnh hưởng đến Fed trực tiếp hoặc ảnh hưởng đến khả năng <br />
của mình để thực hiện chính sách tiền tệ, tổng thống có thể là một đồng minh <br />
mạnh mẽ thông qua ảnh hưởng của mình vào Quốc hội. Thứ hai, mặc dù bề <br />
ngoài là một tổng thống có thể có thể chỉ định chỉ có một hoặc hai thành viên <br />
trong Hội đồng Thống đốc trong mỗi nhiệm kỳ tổng thống, trong thực tế các <br />
Tổng thống bổ nhiệm các thành viên thường xuyên hơn. Một lý do là hầu hết các <br />
thống đốc không phục vụ ra một hạn 14 năm đầy đủ. (Thống đốc lương thấp <br />
hơn đáng kể những gì họ có thể kiếm được trong khu vực tư nhân hoặc thậm chí <br />
tại các trường đại học, do đó thêm một động lực để họ trở lại học viện hoặc làm <br />
khu vực tư nhân trước khi nhiệm kỳ của họ hết hạn.) Ngoài ra, tổng thống là có <br />
thể chỉ định một chủ tịch mới của Hội đồng Thống đốc mỗi bốn năm, và một <br />
chủ tịch người không được bổ nhiệm lại dự kiến sẽ từ chức khỏi hội đồng quản <br />
trị để một thành viên mới có thể được bổ nhiệm lại.<br />
Fed có nên độc lập?<br />
<br />
<br />
Như chúng ta đã thấy, Cục Dự trữ Liên bang có lẽ là cơ quan chính phủ độc lập <br />
nhất tại Hoa Kỳ. Cứ vài năm, câu hỏi đặt ra trong Quốc hội liệu độc lập cho Fed <br />
cần được cắt giảm. Các chính trị gia người mạnh mẽ phản đối một chính sách <br />
Fed thường muốn mang nó dưới sự giám sát của mình để áp đặt một chính sách <br />
theo ý họ. Nên FED được độc lập, hoặc chúng tôi sẽ được tốt hơn với một ngân <br />
hàng trung ương dưới sự kiểm soát của tổng thống hay Quốc hội?<br />
Trường hợp đồng ý với NHTW Độc lập<br />
Các luận cứ mạnh nhất cho một dự trữ liên bang độc lập dựa trên quan điểm <br />
rằng phải chịu Fed nhiều áp lực chính trị sẽ truyền đạt một thiên vị lạm phát cho <br />
chính sách tiền tệ. Theo quan điểm của nhiều nhà quan sát, chính trị gia trong một <br />
xã hội dân chủ là thiển cận, vì họ được thúc đẩy bởi sự cần thiết để giành chiến <br />
thắng cuộc bầu cử tiếp theo của họ. Với điều này là mục tiêu chính, họ không có <br />
khả năng tập trung vào các mục tiêu dài hạn, chẳng hạn như việc thúc đẩy một <br />
mức giá ổn định. Thay vào đó, họ sẽ tìm kiếm các giải pháp ngắn hạn cho các <br />
vấn đề, chẳng hạn như tỷ lệ thất nghiệp cao và lãi suất cao, thậm chí nếu các <br />
giải pháp ngắn hạn có hậu quả lâu dài không mong muốn. Ví dụ, chúng ta đã <br />
thấy trong Chương 5 là tăng cung tiền cao có thể dẫn ban đầu để giảm lãi suất, <br />
nhưng có thể gây ra sự gia tăng sau khi lạm phát nóng lên. Một dự trữ liên bang <br />
dưới sự kiểm soát của Quốc hội hoặc Chủ tịch sẽ có nhiều khả năng để theo <br />
đuổi một chính sách tăng trưởng cung tiền quá mức khi lãi suất cao, mặc dù nó <br />
cuối cùng sẽ dẫn đến lạm phát và lãi suất cao hơn trong tương lai? Những người <br />
ủng hộ của một dự trữ liên bang độc lập nói có. Họ tin rằng Fed cách nhiệt chính <br />
trị có nhiều khả năng được quan tâm với mục tiêu dài hạn và do đó là một lá chắn <br />
của đồng đô la và một mức giá ổn định.<br />
Một biến thể của đối số trước là quá trình chính trị ở Mỹ có thể dẫn tới một chu <br />
kỳ kinh tế chính trị, trong đó ngay trước khi cuộc bầu cử, chính sách mở rộng <br />
đang theo đuổi để tỷ lệ thất nghiệp và lãi suất thấp hơn. Sau cuộc bầu cử, các tác <br />
động xấu của các chính sách cao lạm phát và lãi suất cao giá ai đến nhà để ngủ, <br />
đòi hỏi phải có chính sách thu hẹp các chính trị gia hy vọng công chúng sẽ quên <br />
trước khi cuộc bầu cử tiếp theo. Có một số bằng chứng cho thấy một chu kỳ <br />
kinh tế chính trị như vậy tồn tại ở Hoa Kỳ, và một dự trữ liên bang dưới sự kiểm <br />
soát của Quốc hội hoặc Chủ tịch có thể làm cho chu kỳ thậm chí còn rõ hơn.<br />
Đặt ngân hàng trung ương dưới sự điều khiển của bộ tài chính hay đại lý tài <br />
chính của chính phủ (nhiều vấn đề sẽ bị ảnh hưởng bởi Tổng thống) cũng được <br />
xem là khá nguy hiểm bởi vì ngân hàng trung ương có thể được sử dụng để bù <br />
đắp tài chính của thâm hụt ngân sách lớn bằng cách mua lại chứng khoán chính <br />
phủ. Áp lực của chính phủ trong vấn đề yêu cầu một sự giúp đỡ đến từ Ngân <br />
hàng trung ương có thể dẫn đến lạm phát tăng cao trong nền kinh tế. Một sự độc <br />
lập của ngân hàng trung ương sẽ ngăn ngừa áp lực đến từ chính phủ một cách tốt <br />
hơn.<br />
Một sự tranh cãi khác của việc ngân hàng trung ương độc lập là việc điều hành <br />
chính sách tiền tệ quá trọng yếu để có thể phó mặc cho các chính trị gia, một <br />
nhóm người đã giải thích rằng việc thiếu chuyên môn trong việc đưa ra quyết <br />
định là một vấn đề quan trọng của nền kinh tế, điển hình là việc giảm thâm hụt <br />
ngân sách và sắp xếp lại hệ thống ngân hàng. Một cách khác để nói rõ lập luận <br />
này là trong nhiệm kỳ của vấn đề ông chủ và người đại diện thảo luận trong <br />
chương 8,9,12, cả ngân hàng trung ương và nhà chính trị đều có động cơ để hành <br />
động vì lợi ích của chính họ chứ không phải vì lợi ích của công chúng. Quan <br />
điểm ủng hộ ngân hàng trung ương độc lập cho rằng vấn đề ông chủ và người <br />
đại diện tồi tệ hơn đối với các chính trị gia vì họ có ít động cơ để hành động vì <br />
lợi ích công cộng hơn.<br />
Phân tích sâu hơn, một số nhà chính trị có thể thích có một ngân hàng trung ương <br />
độc lập vì họ có thể đổ lỗi một cách chính đáng. Nó có thể là một chính trị gia có <br />
tư tưởng phản đối một chính sách tiền tệ lạm phát sẽ bị buộc phải hỗ trợ như <br />
một chính sách công khai vì sợ không được tái đắc cử. Fed độc lập kéo theo <br />
những chính sách không được ưa chuộng về mặt chính trị trong lợi ích công cộng.<br />
Các trường hợp chống lại Ngân hàng TW độc lập <br />
Những người đề xướng có một Ngân hàng trung ương đặt dưới sự điều hành của <br />
tổng thống hoặc chính phủ tranh luận rằng sẽ không dân chủ nếu có một chính <br />
sách tiền tệ (ảnh hưởng đến hầu hết mọi người trong nền kinh tế) được điều <br />
khiển bởi một nhóm người giàu có và có quyền lực trong xã hội mà không phải <br />
chịu trách nhiệm trước ai. Sự thiếu trách nhiệm của ngân hàng trung ương cũng <br />
gây nên một hậu quả nghiêm trọng: nếu ngân hàng trung ương hoạt động kém <br />
hiệu quả sẽ không có một sự thay thế thành viên (giống như các chính trị gia). <br />
Công chúng kiểm soát tổng thống, nội các và quốc hội những người chịu trách <br />
nhiệm về kinh tế thịnh vượng của đất nước, nhưng họ thiếu kiểm soát các cơ <br />
quan chính phủ mà những cơ quan này cũng là yếu tố quan trọng nhất trong việc <br />
xác định tình trạng của nền kinh tế. Thêm nữa, để đạt được một chương trình <br />
gắn kết thúc đẩy sự ổn định kinh tế, chính sách tiền tệ phải được phối hợp với <br />
các chính sách tài khóa. Chỉ bằng cách đặt tiền tệ dưới sự kiểm soát của các <br />
chính trị gianhững người cũng kiểm soát chính sách tài khóa là hai chính sách <br />
này có thể được ngăn chặn sự bất hòa trầm trọng của hai chính sách này.<br />
Một lập luận chống lại sự độc lập của ngân hàng trung ương là một ngân hàng <br />
trung ương độc lập không phải lúc nào cũng sử dụng quyền tự quyết của mình <br />
thành công. Trích dẫn một ví dụ, FED đã thất bại trong vai trò đề ra là người cho <br />
vay cuối cùng trong cuộc Đại suy thoái, và sự độc lập của nó chắc chắn đã <br />
không ngăn được nó theo đuổi một chính sách tiền tệ nới lỏng quá mức trong <br />
những năm 1960 và 1970 và góp phần vào lạm phát nhanh chóng trong khoảng <br />
thời gian này.<br />
Thảo luận trước đó của chúng tôi cũng cho thấy cục dự trữ liên bang cũng không <br />
tránh khỏi những áp lực chính trị. Sự độc lập của nó có thể khuyến khích nó để <br />
theo đuổi một tiến trình tư lợi hơn là lợi ích công cộng.<br />
Không có sự đồng nhất đạt được về việc liệu ngân hàng trung ương độc lập là <br />
một điều tốt, mặc dù vậy sự hỗ trợ công cộng cho sự độc lập của ngân hàng <br />
trung ương dường như đã được phát triển ở cả Hoa Kỳ và ở nước ngoài. Như <br />
bạn có thể mong đợi, nhiều người thích chính sách của ngân hàng trung ương có <br />
nhiều khả năng ủng hộ sự độc lập của NHTW, trong khi những người không <br />
thích chính sách của NHTW ủng hộ cho một ngân hàng trung ương ít độc lập.<br />
Độc lập của ngân hàng trung ương và kinh tế vĩ mô trên khắp thế giới<br />
Chúng ta đã thấy rằng những người ủng hộ của một ngân hàng trung ương độc <br />
lập tin rằng hiệu suất kinh tế vĩ mô sẽ được cải thiện bằng cách làm cho các <br />
ngân hàng trung ương độc lập hơn. Bằng chứng thực nghiệm dường như ủng hộ <br />
giả thuyết này: khi các ngân hàng trung ương được xếp hạng từ ít độc lập nhất <br />
đến độc lập nhất, tình trạng lạm phát được tìm thấy là tốt nhất cho các nước với <br />
các ngân hàng trung ương độc lập nhất. Mặc dù một ngân hàng trung ương độc <br />
lập nhiều hơn xuất hiện dẫn dắt một tỷ lệ lạm phát thấp hơn, điều này là không <br />
đạt được với chi phí của nền kinh tế thực sự nghèo. Quốc gia với ngân hàng <br />
trung ương độc lập không có nhiều khả năng có thất nghiệp cao hoặc sự dao <br />
động về sản lượng lớn hơn so với các nước với các ngân hàng trung ương độc <br />
lập ít.<br />
Trong vài năm qua duy trì mức lạm phát thấp đã trở thành một mục tiêu xã hội <br />
quan trọng. Trong thực tế, kể từ những năm 1990, ngân hàng của israel đã được <br />
cấp độc lập hơn để nhắm đến mục tiêu lạm phát, nơi mà chỉ số CPI được phép <br />
tăng chỉ trong vòng khoảng 1% và 3% mỗi năm. Lạm phát đã trở thành một vấn <br />
đề đáng kinh ngạc từ giữa những năm 1980 cho israel, mà bị chu kỳ lạm phát phi <br />
thường trong những năm 1980, buộc phải chấp nhận sự mới mới sheqel để thay <br />
thế sheqel theo tỷ lệ 1: 1000. Mức độ cao của tính độc lập của các ngân hàng của <br />
israel cấp các thống đốc là trách nhiệm duy nhất của việc quản lý lãi suất sau khi <br />
tham vấn với các giám đốc và các nhà kinh tế của ngân hàng. Mức độ độc lập <br />
mong muốn là gì? chúng ta phải nhớ rằng không phải chỉ là mục tiêu kinh tế vĩ <br />
mô. Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu hiện nay đã tiết lộ rằng chính sách tiền <br />
tệ có thể có tác động tàn phá đối với biến số kinh tế khác. Trong khi số lượng các <br />
quốc gia cấp cho các ngân hàng trung ương độc lập ngày càng gia tăng với hy <br />
vọng duy trì lạm phát thấp và ổn định, luôn luôn có những nguy hiểm mà ngân <br />
hàng trung ương độc lập sẽ không chịu trách nhiệm. Do đó, ủy quyền thực hiện <br />
các chính sách ảnh hưởng sâu rộng đến một tổ chức độc lập đòi hỏi phải đảm <br />
bảo trách nhiệm giải trình của nó. Vì lý do này, nhiều nhà hoạch định chính sách <br />
đã kêu gọi cải cách bằng cách cấp cho các ngân hàng trung ương công cụ độc <br />
lập, trong khi vẫn giữ quyền của chính phủ trong việc thiết lập mục tiêu chính <br />
sách. Chỉ bằng cách làm cho các ngân hàng trung ương có trách nhiệm với quốc <br />
hội, chúng ta sẽ có thể theo dõi hiệu quả của họ trong việc đạt được các mục <br />
tiêu chính sách.<br />
4.Giải thích hành vi của NHTW<br />
Một quan điểm về hành vi quan liêu của chính phủ là quan liêu phục vụ lợi ích <br />
công cộng. Nhưng một số nhà kinh tế đã phát triển một lý thuyết về hành vi <br />
quan liêu mà nhấn mạnh đến các yếu tố khác ảnh hưởng như thế nào hoạt động <br />
quan liêu. Lý thuyết về hành vi quan liêu (bureaucratic) đưa ra rằng mục tiêu <br />
của quan liêu là tối đa hóa phúc lợi (welfare) của họ, cũng như hành vi của <br />
người tiêu dùng được thúc đẩy bởi tối đa hóa phúc lợi cá nhân, và hành vi của <br />
một doanh nghiệp được thúc đẩy bởi tối đa hóa lợi nhuận, phúc lợi của bọn <br />
quan liêu liên quan đến quyền lực và uy thế. Chính vì vậy lý thuyết này cho <br />
rằng nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến hành vi của ngân hàng trung ương <br />
(NHTW) đó là sự cố gắng của nó trong việc gia tăng quyền lực và uy thế. Điều <br />
gì dự báo được viễn cảnh của một NHTW? Một là NHTW sẽ đánh mạnh để <br />
bảo vệ quyền tự trị, mặt khác có một sự dự đoán cho rằng một NHTW sẽ cố <br />
gắng tránh xung đột giữa các nhóm quyền lực mà có thể sẽ đe dọa đến việc <br />
tước đi quyền lực của họ và làm giảm đi quyền tự trị của họ. Hành vi này có <br />
thể thuộc một vài dạng.<br />
Sự mong muốn của các NHTW là nắm giữ nhiều quyền lực nhất có thể cũng <br />
như giải thích tại sao họ cố gắng hết sức để dành quyền kiểm soát nhiều ngân <br />
hàng hơn. Chúng ta phải nhận ra rằng quan điểm của một NHTW chỉ được kết <br />
nối với tính tư lợi của họ là quá mạnh. Tối đa hóa lợi ích của họ không phải là <br />
điều ngoại lệ (altruismchủ nghĩa vị tha). (bạn phải cho đi một cách hào phóng <br />
rộng lượng giống như lòng từ thiện bởi vì nó làm bạn cảm thấy tốt hơn). <br />
NHTW chắc chắn liên quan đến việc họ kiểm soát chính sách tiền tệ trong mức <br />
lãi suất công khai. Tuy nhiên, tồn tại nhiều điều không chắc chắn và bất đồng <br />
liên quan đến chính sách tiền tệ sẽ như thế nào. Khi mà điều gì trong lãi suất <br />
công khai không được rõ ràng, nhiều lý do khác có thể ảnh hưởng đến hành vi <br />
của NHTW. Trong những trường hợp như vậy, lý thuyết hành vi quan liêu có <br />
thể là một chỉ dẫn có ích để tiên đoán được động cơ của Fed và các NHTW.<br />
5.CẤU TRÚC VÀ SỰ ĐỘC LẬP CỦA CÁC NHTW CHÂU ÂU<br />
Cho tới bây giờ, cục dự trữ liên bang (FED) không có đối thủ về tầm quan trọng <br />
trong NHTW thế giới. Tuy nhiên, tình hình đã thay đổi vào tháng 1/1999 với sự <br />
ra đời của NHTW Châu Âu (ECB) và hệ thống NHTW ở Châu Âu (ESCB), nơi <br />
quản lý chính sách tiền tệ của các nước thành viên Khối Tiền Tệ Châu Âu, <br />
những quốc gia này, liên kết với nhau, có mức dân số vượt mức Hoa Kỳ và GDP <br />
có thể so sánh được với Hoa Kỳ. Hiệp ước Maastricht được thành lập giữa ECB <br />
và ESCB, là khuôn mẫu cho sự ra đời của Deutsche Bundesbank, NHTW Đức, <br />
mỗi NHTW của mỗi quốc gia ( đề cập đến NHTW quốc gia, hoặc NCBs) có vai <br />
trò tương tự như Lander Banks (cho một cái nhìn tổng thể làm thế nào mà <br />
Lander Banks vận hành, có thể thấy phần này về Bundesbank). Sự quyết định <br />
trong hệ thống Châu Âu chịu sự kiểm soát tập trung của ECB, nhưng thực hiện <br />
theo NCBs trong cách không tập trung hóa.<br />
Bây giờ chúng ta làm quen với bản thân mình với sự thành lập của Liên minh <br />
Châu Âu. ESCB hoàn thiện ECB và NHTW quốc gia, của 27 nước thành viên <br />
Châu Âu về việc có hay không họ sử dụng đồng EURO là đồng tiền quốc gia <br />
họ, mặt khác, hệ thống Châu Âu, gồm có ECB và NCBs của 17 nước chấp nhận <br />
đồng EURO; Estonia là thành viên cuối cùng gia nhập liên minh tiền tệ Châu Âu <br />
vào 1/2011. Như khu vực Châu Âu, nó đề cập đến chỉ những quốc gia Châu Âu <br />
sử dụng đồng EURO như đơn vị tiền tệ của họ. ECB sở hữu 17 NCBs và nó <br />
thành lập như một khối hệ thống ngân hàng trung ương Châu Âu (ESCB) và <br />
EUROsystem. Trong khi ECB mang tính hợp pháp cá nhân dưới hệ thống luật <br />
quốc gia chung thì ESCB lại không như vậy. Nó dự kiến rằng hệ thống Châu <br />
Âu và ESCB cùng tồn tại như là các quốc gia thành viên Châu Âu ngoài khu vực <br />
Châu Âu. Khi tất cả 27 thành viên của ESCB chấp nhận đồng euro, cả những <br />
nước mới thành lập sẽ đươc sáp nhập. Hình 2 cho thấy quốc gia thành viên của <br />
ECB và ESCB.<br />
Quy trình ra quyết định tại EMU được chia làm 3 cấp: Hội đồng quản trị, Ban <br />
giám đôc, Ban tham vấn. Hội đồng quản trị là người ra quyết định thực tê. Ban <br />
giám đốc là người chịu trách nhiệm thi hành các quyết đinh của Hội đồng quản <br />
tri. Trong khi Ban phổ biến đảm nhận vai trò thứ yếu hơn như một bộ phận <br />
tham vấn<br />
Hội đồng quản trị, Ban giám đôc, Ban tham vấn<br />
Hội đồng quản trị, bộ phận làm quyết định tối cao của ECB, bao gồm 6 thành <br />
viên của Ban giám đốc, thêm những thống đốc của NCBs của 17 quốc gia khu <br />
vực Châu Âu. Trách nhiệm chính của Hội đồng quản trị là đưa ra chính sách tiền <br />
tệ cho khu vực Châu Âu. Quyết định chính sách tiền tệ của Hội đồng quản trị <br />
liên quan đến việc đáp ứng mục tiêu tiền tệ chung của khu vực Châu Âu, sự cho <br />
phép của NCBs để được phát hành tiền, sự thay đổi trong lãi suất, sự giám sát <br />
quản lý chính dự trữ ngoại tệ, đưa ra đường lối để NCBs thi hành những quyết <br />
định này. Hội đồng quản trị thường triệu tập cơ bản là 2 tuần một lần tại <br />
Eurotower ở Frankurt, Đức. Vào cuộc gặp đầu tiên của tháng, thành viên hội <br />
đồng quản trị đánh giá tình hình kinh tế và tiền tệ, sự phát triển của EMU để có <br />
quyết định về chính sách tiền tệ trong tháng. Trong cuộc gặp lần thứ hai, thảo <br />
luận vấn đề liên quan đến các trách nhiệm của ECB và tiến trình thi hành chi <br />
tiết của mỗi quốc gia NCBs<br />
Hội đồng quản trị đã quyết định rằng mặc dù các thành viên của nó có quyền <br />
biểu quyết, không biểu quyết thì sẽ được bỏ qua, thay vào đó, hội đồng thông <br />
qua bởi sự nhất trí. Một lý do mà hội đồng quản trị đã quyết định không cần <br />
biểu quyết bởi vì lo lắng việc đưa ra ý kiến mang tính cá nhân có thể dẫn tới <br />
người cầm quyền của các NCBs để hỗ trợ cho chính sách tiền tệ sẽ chỉ phù hợp <br />
với riêng quốc gia của họ nhưng không phù hợp cho khối liên minh tiền tệ Châu <br />
Âu<br />
Cục dữ trữ liên bang đưa ra quyết định của FOMC về việc thiết lập chính sách <br />
tỷ lệ lãi suất, lập tức sau đó cuộc họp kết thúc. ECB đã tiến hành giống vậy sau <br />
đó hội đồng quản kết luận (thông báo mục tiêu cho tỉ lệ lãi suất ngắn hạn cho <br />
những khoản nợ xấu ngân hàng). Tuy nhiên, trong khi Fed đưa ra tuyên bố về <br />
việc thành lập các công cụ chính sách tiền tệ, thì ECB đi xa hơn bởi những cuộc <br />
họp khẩn cấp mà trong đó chủ tịch và phó chủ tịch nhận những câu hỏi từ giới <br />
truyền thông tin tức. Tiến hành một cuộc họp khẩn cấp cho thấy cuộc họp khá <br />
tế nhị, nó đòi hỏi chủ tịch và phó chủ tịch phải giải quyết một cách nhanh chóng <br />
các vấn đề đặt ra. Chủ tịch đầu tiên của ECB Willam F Duisenberg, đã rơi vào <br />
tình huống khó xử trong cuộc họp khẩn và ECB đã phải hứng chịu những lời <br />
phê bình gay gắt. Người kế thừa anh ấy, JeanClaude Trichet phải chịu sự chỉ <br />
trích cay nghiệt bởi việc nhấn mạnh mục tiêu ổn định giá cả trên tăng trưởng và <br />
ổn định. Anh ấy đã kế tục Mario Draght, thống đốc trước đây của Ngân hàng <br />
Italia. Trong những lý do cho việc lựa chọn Draghi là vì kiến thức của ông về <br />
những bí mật của ngân hàng đầu tư trong nhiệm kỳ của ông là giám đốc điều <br />
hành của Goldman Sachs, đó là thuận lợi cho ông để có khả năngg điều khiển và <br />
giám sát các ngân hàng châu Âu thận trọng hơn. <br />
Ban điều hành bao gồm chủ tịch, phó chủ tịch và bốn thành viên khác, những <br />
người được chỉ định bởi thỏa thuận chung của chính phủ các nước khu vực <br />
Euro. Nhiệm vụ chính của nó là để bảo đảm thực hiện đầy đủ hằng ngày chính <br />
sách tiền tệ thông qua việc hướng dẫn chi tiết cho tất cả các NCBs theo hướng <br />
dẫn của Hội đồng. Hơn nữa, ban chấp hành có trách nhiệm quản lý công việc <br />
kinh doanh hàng ngày của ECB. <br />
Cuối cùng, Đại hội đồng bao gồm chủ tịch và phó chủ tịch của ECB, các đại <br />
diện của 17 nước khu vực Euro và 11 nước thành viên không thuộc khu vực châu <br />
Âu EU. Chủ tịch Hội đồng EU và một thành viên của Ủy ban châu Âu có thể <br />
tham dự các cuộc họp của Hội đồng, nhưng họ không có quyền biểu quyết. Đại <br />
Hội đồng là cơ quan chuyển tiếp sẽ được xóa bỏ một khi tất cả các nước thành <br />
viên EU sủ dụng đồng tiền chung. Nó thực hiện nhiệm vụ tư vấn cho ECB, thu <br />
thập thông tin thống kê và chuẩn hóa các hoạt động kế toán của NCBs. <br />
Với nhiều quốc gia lựa chọn để tham gia liên minh tiền tệ châu Âu trở nên khó <br />
khăn hơn để đạt được một sự đồng thuận. Để đối phó với các vấn đề tiềm <br />
năng này, hội đồng quản trị đã quyết định chọn một hệ thống phức tạp của các <br />
vòng xoay, phần nào như thế cho FOMC, trong đó các ngân hàng Trung uong <br />
quốc gia từ các nước lớn sẽ bỏ phiếu thường xuyên hơn so với ngân hàng trung <br />
ương quốc gia từ các nước nhỏ hơn. Hơn nữa, một khi các quốc gia thành viên <br />
của khu vực đồng euro có thể đạt 18, hai phần ba số đông sẽ tuân theo thay vì sự <br />
đồng thuận hiện hành.<br />
<br />
<br />
Làm thế nào để các ngân hàng trung ương quốc gia hoạt động trong các <br />
EUROSYSTEM? <br />
NCBs đóng một vai trò thiết yếu trong ESCB và thực hiện quyền hạn được giao <br />
bởi Hội đồng quản trị. Nhưng câu hỏi đó ngay lập tức xuất hiện là làm thế nào <br />
để mỗi một ngân hàng trung ương quốc gia hành động phù hợp với hướng dẫn <br />
ECB? Để có một sự hiểu biết tốt hơn của hệ thống này, bài nghiên cứu tập <br />
trung vào một trong những thành viên quan trọng nhất của ECB, cụ thể là ngân <br />
hàng Bundesbank, Deutsche. Lý do cho việc lựa chọn ngân hàng Bundesbank đó <br />
là nó là ngân hàng trung ương quốc gia lớn nhất trong ECB và cũng hơn một nửa <br />
khoản cho vay liên ngân hàng ngắn hạn của các ngân hàng Euro từ các ngân <br />
hàng trung ương là do Bundesbank. Nó cũng đóng góp gần 20% vốn của ECB. <br />
Hơn nữa, ECB đã được mô hình hóa sau khi Bundesbank deutsche với cùng một <br />
cách thức để đảm bảo hoàn toàn độc lập.<br />
Deursche Budesbank. <br />
Năm 1948, các lực lượng đồng minh tạo ra các ngân hàng Deutscher lander (BdL) <br />
để hoạt động như ngân hàng trung ương của nước cộng hòa liên bang Đức (Tây <br />
Đức). Một hệ thống ngân hàng trung ương hai tầng được thành lập gồm BdL và <br />
các ngân hàng trung ương Lander (hoặc bang) mà Chủ tịch đã được chỉ định bởi <br />
các chính phủ Lander. Hội đồng cao hơn bao gồm các thống đốc ngân hàng trung <br />
ương Lander, một tổng thống liên bang bổ nhiệm và chủ tịch của BdL. Trong hệ <br />
thống ngân hàng trung ương phân cấp mạnh mẽ này, các BdL giả định các <br />
nhiệm vụ chủ yếu của tiến hành chính sách tiền tệ, phối hợp