intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Chủ đề 3: Ngân hàng trung ương - Một viễn cảnh toàn cầu

Chia sẻ: In The End | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:35

68
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trong số người chơi quan trọng nhất trong các thị trường tài chính trên toàn thế giới là các ngân hàng trung ương, các cơ quan chính phủ chịu trách nhiệm về chính sách tiền tệ. Hành động của các ngân hàng trung ương ảnh hưởng đến lãi suất, khối lượng tín dụng và nguồn cung tiền, tất cả đều có ảnh hưởng trực tiếp không chỉ trên thị trường tài chính, mà còn về tổng sản lượng và lạm phát. Tham khảo bài viết chủ đề 3 "Ngân hàng trung ương - Một viễn cảnh toàn cầu" để hiểu hơn về vấn đề này.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Chủ đề 3: Ngân hàng trung ương - Một viễn cảnh toàn cầu

Ngân Hàng Trung Ương: Một Viễn Cảnh Toàn Cầu<br /> Trong số  người chơi quan trọng nhất trong các thị  trường tài chính trên toàn thế <br /> giới là các ngân hàng trung  ương, các cơ  quan chính phủ  chịu trách nhiệm về <br /> chính sách tiền tệ. Hành động của các ngân hàng trung  ương  ảnh hưởng đến lãi <br /> suất, khối lượng tín dụng và nguồn cung tiền, tất cả đều có ảnh hưởng trực tiếp  <br /> không chỉ  trên thị  trường tài chính, mà còn về  tổng sản lượng và lạm phát. Để <br /> hiểu rõ vai trò của các ngân hàng trung  ương đóng tại các thị trường tài chính và  <br /> nền kinh tế tổng thể, chúng ta cần phải cách thức hoạt động của những tổ chức <br /> này. Ai kiểm soát các ngân hàng trung ương và xác định hành động của họ? Điều <br /> gì khuyến khích hành vi của họ? Ai giữ dây cương của quyền lực?<br /> 1.Nguồn gốc của cục dự trữ liên bang<br /> Trong tất cả  các ngân hàng trung  ương trên thế  giới, Cục Dự  Trữ  Liên Bang có <br /> thể có cấu trúc khác thường. Để hiểu tại sao cấu trúc này phát sinh, chúng ta phải  <br /> trở lại trước năm 1913, khi Cục Dự Trữ Liên Bang đã được tạo ra.<br /> Trước thế kỉ 20, một đặc điểm chính của nền chính trị Mỹ là sự lo sợ của quyền  <br /> lực tập trung, được thể  hiện trong việc kiểm tra và cân bằng của Hiến pháp và <br /> giữ gìn quyền của bang. Mối lo sợ về quyền lực tập trung là một lí do trong việc  <br /> đề phòng của người Mĩ để thành lập một ngân hàng trung ương. Một nguồn khác <br /> là sự  mất lòng tin truyền thống của Mỹ  về  lợi ích tiền bạc, những biểu tượng  <br /> nổi bật nhất trong số đó là một ngân hàng trung ương. Thái độ thù địch của cộng <br /> đồng người Mỹ đến sự tồn tại của một ngân hàng trung ương dẫn đến sự sụp đổ <br /> của hai thử nghiệm đầu tiên trong ngành ngân hàng trung ương, có chức năng để <br /> giám sát hệ  thống ngân hàng: Ngân hàng đầu tiên của Hoa Kỳ  đã bị  giải tán vào <br /> năm 1811, và các đặc quyền quốc gia của ngân hàng thứ hai của Hoa Kỳ hết hạn  <br /> vào năm 1836 sau khi việc gia hạn được phủ  quyết trong năm 1832 do Tổng <br /> thống Andrew Jackson.<br /> Viếc chấm dứt đặc quyền quốc gia của ngân hàng thứ hai vào năm 1836 đã tạo ra  <br /> một vấn đề nghiêm trọng đối với thị trường tài chính Mỹ, vì không có người cho  <br /> vay như phương kế cuối cùng mà có thể cung cấp dự trữ cho hệ thống ngân hàng <br /> để ngăn chặn một cuộc khủng hoảng ngân hàng. Do đó, trong thế kỷ XIX và XX, <br /> khủng hoảng ngân hàng trên toàn quốc đã trở  thành một sự  kiện thường xuyên, <br /> xảy ra mỗi hai mươi năm hoặc lâu hơn, mà đỉnh cao là cuộc khủng hoảng năm  <br /> 1907. Cuộc khủng hoảng năm 1907 dẫn đến kết quả sụp đổ  ngân hàng trên diện  <br /> rộng và gây thiệt hại đáng kể cho người gửi tiền, vì vậy công chúng cuối cùng đã <br /> được thuyết phục rằng một ngân hàng trung  ương là cần thiết để  ngăn ngừa <br /> những cuộc khủng hoảng trong tương lai.<br /> Sự  thù địch của công chúng Mỹ  đối với các ngân hàng và quyền lực tập trung <br /> tạo ra sự phản đối lớn trong việc thành lập một ngân hàng trung  ương duy nhất <br /> như  Ngân hàng Anh. Sự  sợ  hãi quá khích rằng nhóm tư  bản tiền tệ  trên Wall  <br /> Street (bao gồm cả  các tập đoàn lớn và các ngân hàng) sẽ  có thể  thao túng cơ <br /> quan đó để  giành quyền kiểm soát nền kinh tế  và hoạt động liên bang của ngân  <br /> hàng trung  ương có thể dẫn đến sự can thiệp quá nhiều của chính phủ  vào công <br /> việc của các ngân hàng tư nhân. Bất đồng nghiêm trọng trong việc phân định các <br /> ngân hàng trung  ương phải là một ngân hàng tư  nhân hay là một cơ  quan chính <br /> phủ. Bởi vì những cuộc tranh luận nóng bỏng về  những vấn đề  này, một thỏa  <br /> hiệp đã được lập ra. Trong truyền thống vĩ đại của người Mỹ, Quốc hội đã viết <br /> và xây dựng hệ  thống kiểm tra và cân đối vào Luật Dự trữ  Liên bang năm 1913,  <br /> trong đó tạo ra một Hệ  thống Dự trữ Liên bang với mười hai ngân hàng Dự  trữ <br /> Liên bang khu vực.<br /> <br /> <br /> 2.Cấu trúc của Cục Dự Trữ Liên Bang<br /> Các nhà soạn thảo của Luật Dự trữ Liên bang muốn khuếch tán quyền lực dọc <br /> theo các đường khu vực, giữa các khu vực tư nhân và chính phủ, và giữa các chủ <br /> ngân hàng, doanh nhân, và công chúng. Điều phổ  biến khởi đầu của quyền lực <br /> này đã dẫn đến sự phát triển của Cục Dự trữ Liên Bang bao gồm các đối tượng <br /> sau: các Ngân hàng Dự trữ Liên bang, Hội đồng Thống đốc Cục Dự trữ Liên <br /> bang,  Ủy Ban Liên bang Thị  Trường Tự  do (FOMC) , Hội đồng tư  vấn liên <br /> bang, và khoảng 2500 thành viên các ngân hàng thương mại.<br /> Ngân hàng dự trữ liên bang<br /> Mỗi mười hai khu vực dự trữ liên bang có một ngân hàng dự trữ liên bang  <br /> chính, trong đó có thể  có các chi nhánh  ở  các thành phố  khác trong khu vực. Các <br /> địa điểm của các khu vực, các ngân hàng dự trữ liên bang, và các chi nhánh của nó  <br /> được thể hiện trong Hình 1. Ba ngân hàng dự trữ liên bang lớn nhất về tài sản là <br /> của New York, Chicago và San Francisco ­ cộng lại họ nắm giữ hơn 50% tài sản <br /> (cho vay chiết khấu, chứng khoán, và các tài sản khác) của Hệ thống Dự trữ Liên <br /> bang. Ngân hàng New York, với khoảng một phần tư của các tài sản, đóng vai trò <br /> quan trọng nhất của các ngân hàng dự trữ liên bang (xem Bên trong Fed, "Vai trò <br /> đặc biệt của Ngân hàng Dự trữ Liên bang New York").<br /> Mỗi ngân hàng dự trữ liên bang là một tổ chức bán­công (một phần của tư <br /> nhân, một phần của chính phủ), thuộc sở hữu của các ngân hàng thương mại tư <br /> nhân trong khu vực là thành viên của Hệ thống Dự trữ Liên bang. Các ngân hàng <br /> thành viên đã mua cổ phiếu  ở ngân hàng Dự trữ Liên bang trong khu vực của họ <br /> (một yêu cầu để  làm thành viên), và cổ tức trả bằng cổ phiếu đó được giới hạn <br /> bởi pháp luật đến 6% hàng năm. Các ngân hàng thành viên bầu sáu giám đốc đối  <br /> với  từng ngân hàng khu vực; thêm ba giám đốc  được chỉ  định bởi Hội  đồng <br /> Thống đốc. Các giám đốc của một ngân hàng khu vực được phân thành ba loại: <br /> A, B và C. Ba giám đốc A (được bầu bởi các ngân hàng thành viên) là nhà ngân <br /> hàng chuyên nghiệp, và ba giám đốc B (cũng được bầu bởi các ngân hàng thành <br /> viên) là các nhà lãnh đạo nổi bật từ  ngành công nghiệp, lao động, nông nghiệp, <br /> hoặc lĩnh vực tiêu dùng. Ba giám đốc C, người được bổ  nhiệm của Hội đồng  <br /> Thống đốc đại diện cho lợi ích chung, không được phép là cán bộ, nhân viên,  <br /> hoặc các cổ đông của ngân hàng. Các giám đốc điều hành hoạt động của các ngân <br /> hàng khu vực, nhưng công việc quan trọng nhất của họ là để  bổ  nhiệm chủ tịch <br /> của ngân hàng (tùy thuộc vào sự chấp thuận của Hội đồng Thống đốc). Cho đến  <br /> năm 2010, tất cả  chín giám đốc tham gia vào quyết định này, nhưng pháp luật <br /> Dodd­Frank có hiệu lực từ  tháng 7 năm 2010 loại trừ  ba giám đốc A ra khỏi sự <br /> tham gia trong việc lựa chọn chủ  tịch của ngân hàng. Quốc hội cho rằng không <br /> phù hợp khi để  các ngân hàng tham gia trong việc lựa chọn chủ  tịch của ngân <br /> hàng dự trữ liên bang, việc đó sẽ dẫn đến sự giám sát của các ngân hàng đó.<br /> Mười hai ngân hàng dự trữ liên bang tham gia vào chính sách tiền tệ  trong <br /> những cách sau:<br /> Các giám đốc của hệ thống "thiết lập" các tỷ lệ chiết khấu (mặc dù tỷ lệ chiết <br /> khấu trong từng huyện được xem xét và quyết định bởi Hội đồng Thống đốc).<br /> Họ  quyết định ngân hàng nào (thành viên và phi thành viên như nhau) có thể có  <br /> được các khoản vay chiết khấu từ ngân hàng dự trữ liên bang.<br /> Các giám đốc của hệ  thống chọn một chủ  ngân hàng thương mại từ  mỗi khu  <br /> vực để phục vụ trong Hội đồng tư  vấn liên bang, trong đó tư  vấn với Hội đồng <br /> thống đốc và cung cấp thông tin giúp cho việc điều hành chính sách tiền tệ.<br /> Năm trong mười hai chủ tịch ngân hàng được bầu chọn vào Ủy ban thị trường tự <br /> do liên bang (FOMC), cơ  quan chỉ  đạo  các hoạt động của thị  trường tự  do  <br /> (mua và bán chứng khoán của chính phủ  dẫn đến  ảnh hưởng đến cả  lãi suất và <br /> số tiền dự trữ trong hệ thống ngân hàng). Như đã giải thích trong “Bên trong hộp  <br /> Fed”, "Vai trò đặc biệt của Ngân hàng Dự  trữ  Liên bang New York", bởi vì chủ <br /> tịch của Cục Dự  trữ  Liên bang New York là một thành viên thường trực của <br /> FOMC, họ luôn luôn được bầu vào FOMC, làm cho nó quan trọng nhất trong các <br /> ngân hàng, bốn phiếu khác giao cho các ngân khu vực hàng năm luân phiên trong <br /> số mười một Chủ tịch còn lại.<br /> Mười hai ngân hàng dự trữ liên bang còn thực hiện các chức năng sau:<br /> Clear checks ???<br /> Phát hành tiền mới và rút tiền bị hư hỏng khỏi hệ thống lưu thông.<br /> quản lý và thực hiện các khoản vay chiết khấu cho các ngân hàng trên địa bàn <br /> khu vực.<br /> Đánh giá các đề xuất sáp nhập và các thỉnh cầu của các ngân hàng để  mở  rộng <br /> hoạt động của nó.<br /> Hoạt động như liên lạc viên giữa cộng đồng doanh nghiệp và Cục Dự Trữ Liên <br /> Bang.<br /> Kiểm tra các ngân hàng cổ  phần và các ngân hàng thành viên được hưởng đặc <br /> quyền của bang.<br /> Thu thập số liệu về điều kiện kinh doanh địa phương<br /> Sử  dụng đội ngũ chuyên gia về  kinh tế  của họ  để  nghiên cứu các chủ  đề  liên  <br /> quan đến việc điều hành chính sách tiền tệ.<br /> 1. Các ngân hàng thành viên<br /> Tất cả  các ngân hàng quốc gia (ngân hàng thương mại được thành lập dưới <br /> hiến chương của Văn phòng Kiểm soát tiền tệ) bắt buộc phải là thành viên của <br /> Cục  Dự  trữ  Liên bang. Các ngân hàng  thương  mại  được thành lập bởi  hiến  <br /> chương của bang không bắt buộc phải là thành viên, nhưng họ  có thể  lựa chọn  <br /> để  tham gia. Hiện nay, khoảng một phần ba của các ngân hàng thương mại tại <br /> Hoa Kỳ  là thành viên của Cục Dự  trữ  Liên bang, đã giảm từ  con số  cao nhất là <br /> 49% vào năm 1947.<br /> Trước năm 1980, chỉ  có các ngân hàng thành viên được yêu cầu phải giữ  dự <br /> trữ tiền gửi tại các ngân hàng dự trữ liên bang. Ngân hàng phi thành viên xác định <br /> dự  trữ  bắt buộc tùy theo tình trạng (yêu cầu của bang???), thường cho phép họ <br /> giữ nhiều dự trữ bằng chứng khoán sinh lãi. Bởi vì vào thời điểm đó không có lợi  <br /> nhuận được trả cho khoản dự trữ gửi tại các ngân hàng dự trữ liên bang, gây nên  <br /> tốn kém khi làm một thành viên của hệ thống, và khi lãi suất tăng, chi phí tương <br /> đối của các thành viên tăng, và ngày càng nhiều các ngân hàng rời khỏi hệ thống.<br /> Suy giảm số  lượng các thành viên Cục Dự  Trữ  Liên Bang là một mối quan  <br /> tâm lớn của Hội đồng Thống đốc; một lý do là nó làm giảm đi sự kiểm soát của  <br /> Cục Dự  Trữ  Liên Bang trong việc cung cấp tiền bạc, gây khó khăn cho cục khi <br /> thực hiện chính sách tiền tệ. Chủ  tịch Hội đồng Thống đốc liên tục kêu gọi dự <br /> luật mới yêu cầu tất cả các ngân hàng thương mại phải là thành viên của Cục Dự <br /> trữ Liên bang. Một kết quả của áp lực của Cục vào Quốc hội là một điều khoản  <br /> trong   và  Đạo luật phi điều tiết và kiểm soát tiền tệ  năm 1980: Tất cả  các tổ <br /> chức lưu ký tuân thủ chung yêu cầu về các khoản tiền gửi tại Cục Dự trữ Liêng <br /> bang, vì vậy các ngân hàng thành viên và phi thành viên sẽ được bình đẳng về các  <br /> yêu cầu dự trữ. Ngoài ra, tất cả  các tổ  chức lưu ký được phép truy cập đến các  <br /> cơ  sở  dự  trữ  liên bang, chẳng hạn như  các cửa sổ  chiết khấu (thảo luận trong  <br /> Chương 16) và Cục kiểm tra thanh toán bù trừ  trên cơ  sở  bình đẳng. Những quy <br /> định này kết thúc sự suy giảm số lượng thành viên Fed và giảm sự phân biệt giữa <br /> các ngân hàng thành viên và các ngân hàng phi thành viên.<br /> Hội đồng Thống đốc  Cục Dự  trữ  Liên bang:Tại  đầu  của  Hệ  thống Dự  trữ <br /> Liên   bang  là   Hội   đồng  gồm  7  thành   viên  của  Thống   đốc,  có   trụ   sở   tại <br /> Washington, DC. Mỗi đốc được bổ  nhiệm bởi Tổng thống Hoa Kỳ và xác nhận <br /> bởi Thượng viện. Để  hạn chế điều khiển của chủ  tịch Fed trong và cách ly của <br /> Fed khỏi những áp lực chính trị khác, các thống đốc có thể phục vụ một toàn thể <br /> tái tạo hạn 14 năm cộng với một phần của một nhiệm kỳ nữa, nhiệm kỳ của mỗi <br /> thống đốc kết thúc vào mỗi tháng 1 khác nhau . Các thống đốc (phần nhiều là các <br /> chuyên gia kinh tế) là bắt buộc đến từ  các dự  trữ  liên bang  quận khác nhau để <br /> ngăn chặn  các  lợi ích của một  khu vực  của đất nước  bị  chiếm  dụng.  Chủ  tịch <br /> Hội đồng Thống đốc  được chọn từ  một trong  7  thống đốc,  phục vụ  bốn năm, <br /> được gia hạn. Người ta cho rằng một khi một chủ tịch mới được chọn, chủ  tịch <br /> cũ từ  chức từ Hội đồng Thống đốc, ngay cả  khi nhiệm kỳ  thống đốc còn nhiều <br /> năm.<br /> Hội đồng thống đốc là tích cực tham gia vào việc điều hành chính sách tiền tệ <br /> trong những cách sau đây:<br />   ­Tất Cả  7 thống đốc là thành viên của FOMC và biểu quyết về  việc tiến hành <br /> các hoạt động thị trường mở. Vì chỉ có mười hai thành viên có quyền biểu quyết <br /> của uỷ ban này (bảy thống đốc và năm Chủ tịch của ngân hàng quận), Hội đồng <br /> quản trị có đasố phiếu.<br /> ­ Hội đồng quản trị cũng đặt ra yêu cầu dự trữ (trong giới hạn cho phép của pháp  <br /> luật).    <br /> ­Nó có hiệu quả kiểm soát tỷ lệ chiết khấu của quá trình "cân nhắc và quyết <br /> định", theo đó chấp thuận hoặc không chấp thuận lãi suất chiết khấu "được thiết <br /> lập" bởi các ngân hàng dự trữ liên bang.<br /> ­Các Chủ tịch Hội đồng cố vấn cho Tổng thống Mỹ về chính sách kinh tế, làm <br /> chứng trong Quốc hội, và phát biểu cho các hệ thống dự trữ liên bang để các <br /> phương tiện truyền thông.<br /> <br /> Ủy ban thị trường mở liên bang (FOMC)<br /> <br /> FOMC thường họp  8  lần một năm (khoảng sáu tuần một lần) và  ra  các quyết <br /> định liên quan đến việc thực hiện các nghiệp vụ  thị  trường mở và các thiết lập  <br /> của chính sách lãi suất, tỷ lệ quỹ liên bang, đó là lãi suất cho vay qua đêm từ một  <br /> ngân hàng này với ngân hàng khác . Thật vậy, các FOMC thường được gọi tắt là <br /> "Fed" trên báo chí: Ví dụ, khi các phương tiện truyền thông nói rằng Fed đang <br /> họp, họ  thực sự  có nghĩa là FOMC đang họp.  Ủy ban gồm 7 thành viên của Hội <br /> đồng Thống đốc, Chủ  tịch Ngân hàng Dự  trữ  Liên bang New York, và Chủ  tịch  <br /> của bốn ngân hàng dự trữ liên bang khác. Chủ tịch Hội đồng Thống đốc cũng chủ <br /> là chủ tịch của FOMC. Mặc dù chỉ  có Chủ  tịch của 5 trong số các ngân hàng dự <br /> trữ liên bang được bầu các thành viên của FOMC, 7  thống đốc khác của các ngân <br /> hàng tham gia cuộc họp FOMC quận và tham gia thảo luận. Do đó họ có một số <br /> đầu   vào  để   ra  quyết   định  của   ban.<br /> Bởi vì các hoạt động thị trường mở là công cụ chính sách quan trọng nhất mà Fed <br /> đã cho kiểm soát cung tiền, và vì nó là nơi quyết định thực hiện việc thắt chặt <br /> chính sách tiền tệ (tăng tỷ lệ quỹ liên bang) hoặc nới lỏng chính sách tiền tệ (một  <br /> giảm của tỷ lệ quỹ liên bang) .FOMC nhất thiết phải là tâm điểm cho hoạch định <br /> chính sách trong hệ  thống dự trữ liên bang. Mặc dù dự  trữ  bắt buộc và lãi suất  <br /> chiết khấu không thực sự thiết lập bởi FOMC, các quyết định liên quan đến các <br /> công cụ chính sách được thực hiện có hiệu quả ở đó, và đây là lý do tại sao Hình  <br /> 1 đường gạch chỉ ra rằng FOMC "tư vấn" về việc thiết lập các yêu cầu dự trữ và <br /> lãi suất chiết khấu. FOMC không thực sự  thực hiện hoạt động mua bán chứng <br /> khoán. Thay vào đó, nó tạo ra chỉ thị tại quầy giao dịch tại Ngân hàng Dự trữ Liên  <br /> bang New York, nơi mà các nhà quản lý cho các hoạt động thị  trường mở  trong <br /> nước giám sát một  lượng  người đã thực hiện các giao dịch mua bán của chính <br /> phủ  hoặc cơ quan chứng khoán. Người quản lý liên lạc hàng ngày với các thành <br /> viên FOMC và nhân viên của họ  liên quan đến các hoạt động của các bàn giao <br /> dịch.<br /> <br /> <br /> Cuộc họp FOMC:Cuộc họp  FOMC diễn ra trong phòng họp  trên tầng hai của <br /> tòa nhà chính của Hội đồng thống đốc ở Washington, DC. 7 thống đốc và 12 Chủ <br /> tịch Ngân hàng Dự  trữ, cùng với thư  ký của FOMC, các Ban của "Giám đốc Bộ <br /> phận nghiên cứu và thống kê và cấp phó, và Giám đ<br />   ốc  c  ủa vấn đề     tiền tệ   và Tài <br /> chính Quốc tế Phòng, ngồi vào bàn họp có quy mô lớn. Mặc dù chỉ có 5 Chủ tịch <br /> Ngân hàng Dự trữ có quyền biểu quyết về các FOMC tại bất kỳ thời điểm nào, <br /> tất cả tích cực tham gia vào các cuộc thảo luận. Ngồi xung quanh các mép của <br /> căn phòng là Giám đốc nghiên cứu tại mỗi Ngân hàng dự trữ và hội đồng quản trị <br /> cấp cao khác và các quan chức Ngân hàng dự trữ, người, không nói tại cuộc họp.<br /> Cuộc họp bắt đầu nhanh chóng với các biên bản cuộc họp trước của FOMC. Các <br /> chương trình  họp khoản mục  thứ  nhất là  báo cáo của  người quản lý của  hệ <br /> thống hoạt động thị trường mở về  ngoại tệ  và thị trường mở trong nước và các <br /> vấn đề  khác liên quan đến  các chủ  đề  này.  Sau khi  các thống đốc và  Chủ  tịch <br /> Ngân hàng Dự trữ kết thúc đặt câu hỏi và thảo luận về các báo cáo này, một cuộc <br /> bỏ phiếu được thực hiện để phê chuẩn chúng.<br /> Giai đoạn tiếp theo trong cuộc họp là một bài thuyết trình của các nhân viên Hội <br /> đồng quản trị "là dự báo kinh tế quốc gia của các Giám đốc Bộ phận Nghiên cứu <br /> và thống kê tại các Ban. Sau khi các thống đốc và Chủ tịch Ngân hàng Dự trữ đã <br /> hỏi  các  giám đốc bộ  phận  về  các dự  báo, vòng đàm phán xảy ra: Mỗi chủ  tịch <br /> ngân hàng trình bày tổng quan về điều kiện kinh tế của mình quận mình và các <br /> ngân hàng "vì những đánh giá về triển vọng quốc gia, và mỗi đốc , gồm Chủ tịch, <br /> cho một cái nhìn về  triển vọng quốc gia. Theo thông lệ, tránh nhận xét các chủ <br /> đề về chính sách tiền tệ tại thời điểm này.<br /> Chương trình họp sau đó chuyển sang chính sách tiền tệ hiện tại và chỉ thị chính <br /> sách trong nước. Giám đốc  Bộ phận Tiền tệ giao dịch của Hội đồng dẫn tắt các <br /> cuộc thảo luận bằng cách đưa ra các kịch bản khác nhau cho hành động của chính <br /> sách tiền tệ và có thể mô tả một vấn đề liên quan đến chính sách tiền tệ như thế <br /> nào nên được tiến hành. Sau một thời gian câu hỏi và trả lời, mỗi người trong số <br /> các thành viên FOMC, cũng như Chủ tịch ngân hàng không bỏ phiếu, biểu lộ quan <br /> điểm của mình về chính sách tiền tệ, và trên các tuyên bố chính sách tiền tệ. Chủ <br /> tịch sau đó tóm tắt các cuộc thảo luận và đề xuất  diễn đạt rõ ràng cụ thể cho các <br /> hướng dẫn mục tiêu lãi suất liên bang chuyển đến thị trường mở và các tuyên bố <br /> chính sách  tiền tệ.  Thư  ký của  FOMC  chính thức  đọc  báo cáo  đề  xuất và  các <br /> thành viên của FOMC bỏ phiếu.<br /> Sau đó, có một bữa ăn trưa tự chọn thức, và trong khi ăn, các đại biểu được nghe <br /> một bài thuyết trình về  những diễn biến mới nhất trong Quốc hội về luật ngân <br /> hàng và pháp luật khác có liên quan đến dự trữ liên bang. Khoảng 14:15, hội nghị <br /> kết thúc  và  thông báo công khai  được  thực hiện về  các  kết quả  của  cuộc họp: <br /> cho dù các mục tiêu lãi suất liên bang và lãi suất chiết khấu đã được nâng lên, hạ <br /> xuống, hoặc không thay đổi, và đánh giá của các "cân bằng  rủi ro "trong tương <br /> lai, cho dù đối với lạm phát cao hoặc hướng tới một nền kinh tế yếu. Thông báo <br /> về cuộc họp là một sự đổi mới được khởi xướng vào năm 1994. Trước đó, chưa <br /> có thông báo nào được thực hiện, và các thị  trường đã phải đoán những gì hành <br /> động  chính sách  đã được  thực hiện.  Quyết định  công bố  thông tin  này  là  một <br /> bước theo hướng cởi mở  hơn của Fed. Một bước việc góp theo hướng này bắt <br /> đầu vào tháng 4 năm 2011: Sau các cuộc họp FOMC vào tháng tư, tháng sáu, tháng <br /> mười một và tháng 1, chủ tịch Cục Dự trữ liên bang cho một cuộc họp báo trong <br /> đó ông tóm tắt về quyết định của FOMC<br /> 3.Fed độc lập như thế nào?<br /> Khi chúng ta nhìn, trong 3 chương tiếp theo, cách dự trữ liên bang tiến hành chính <br /> sách tiền tệ, chúng ta sẽ muốn biết lý do tại sao nó quyết định để có những hành <br /> động chính sách nhất định, nhưng không phải người khác. Để  hiểu được h oạt <br /> động của nó, chúng ta phải hiểu động cơ mà thúc đẩy hành động của Fed. Làm <br /> thế nào miễn là Fed không bị áp lực của tổng thống và quốc hội? Đừng quan tâm <br /> kinh tế, hành chính, chính trị hay hướng dẫn nó? Là Fed thực sự độc lập của các <br /> áp   lực   bên   ngoài?<br /> Stanley Fischer, là một giáo sư tại MIT và bây giờ là thống đốc Ngân hàng Israel, <br /> đã xác định hai loại khác nhau của nền độc lập của ngân hàng trung ương: công <br /> cụ  độc lập, khả năng của các ngân hàng trung  ương để  thiết lập công cụ  chính <br /> sách tiền tệ, và mục tiêu độc lập, các khả  năng của ngân hàng trung  ương để <br /> thiết lập các mục tiêu của chính sách tiền tệ. Cục Dự trữ Liên bang có cả hai loại  <br /> độc lập và là đáng kể  do những áp lực chính trị  có  ảnh hưởng đến các cơ  quan  <br /> khác của chính phủ. Không chỉ  có các thành viên của Hội đồng Thống đốc bổ <br /> nhiệm có thời hạn 14 năm (và do đó không thể bị  đẩy ra khỏi văn phòng), nhưng <br /> cũng hạn về mặt kỹ thuật không thể tái bổ nhiệm, loại bỏ một số ưu đãi cho các <br /> thống đốc để thiên vị (bợ đỡ)mang lại lợi với tổng thống và Quốc hội.<br /> Có lẽ  thậm chí còn quan trọng hơn để  giành được độc lập từ  ý tưởng bất chợt  <br /> của Quốc hội là các Fed nguồn độc lập và đáng kể của doanh thu từ cổ phần của  <br /> mình trong chứng khoán, và  ở  một mức độ  thấp hơn, từ  các khoản vay cho các  <br /> ngân hàng. Trong những năm gần đây, ví dụ, Fed đã có thu nhập ròng sau khi chi  <br /> phí khoảng 40 tỉ USD mỗi năm không phải là một sống tồi tệ nếu bạn có thể đạt  <br /> được  nó! Bởi vì nó sẽ  thu hồi về số lượng lớn của các khoản thu nhập cho Kho  <br /> bạc , nó không có được  nhi<br />    ều hơn  t<br />   ừ  các hoạt động của mình, nhưng thu nhập <br /> này cho phép Fed một lợi thế  quan trọng trong các cơ  quan chính phủ  khác: Nó  <br /> không phải là đối tượng của quá trình được dành riêng thường được kiểm soát <br /> bởi Quốc hội. Thật vậy, các Văn phòng Kế toán tổng hợp, các cơ quan kiểm toán <br /> của chính phủ liên bang, không thể kiểm tra các chính sách tiền tệ hoặc các chức  <br /> năng của thị  trường ngoại hối của Cục Dự trữ Liên bang. Bởi vì sức mạnh để <br /> kiểm soát thắt chặt là thường đồng nghĩa với sức mạnh kiểm soát tổng thể, tính <br /> năng này của hệ  thống dự  trữ  liên bang đóng góp cho sự độc lập của mình hơn <br /> bất kỳ yếu tố nào khác.<br /> Tuy nhiên, Fed vẫn chịu  ảnh hưởng của Quốc hội, bởi vì luật đã được cấu trúc  <br /> nó được viết bởi Quốc hội và có thể  thay đổi bất cứ  lúc nào. Khi các nhà lập <br /> pháp đang lo lắng với  thực hiện chính sách tiền tệ cuae Fed, họ thường xuyên đe <br /> dọa kiểm soát của tài chính của Fed và buộc nó để gửi nhu cầu ngân sách như các <br /> cơ quan khác của chính phủ. Một ví dụ  gần đây là cuộc gọi của Thượng nghị sĩ <br /> Reid Dorgan và năm 1996 cho Quốc hội có thẩm quyền ngân sách đối với hoạt <br /> động phi tiền tệ của Cục Dự trữ Liên bang. Đây là một tổ  chức  mạnh mẽ để <br /> vận dụng, và nó chắc chắn có một số  tác dụng trong việc giữ  Fed   trong tầm <br /> kiểm soát như mong muốn của Quốc hội.<br /> Quốc hội cũng đã thông qua luật để  thực hiện dự  trữ  liên bang có trách nhiệm  <br /> hơn đối với hành động của mình. Theo Đạo luật Humphrey­Hawkins năm 1978, <br /> Cục Dự  trữ  Liên bang phải phát hành một báo cáo chính sách tiền tệ  cho Quốc  <br /> hội sáu tháng một lần, có kèm theo các chứng do Chủ tịch Hội đồng Thống đốc, <br /> để  giải thích cách điều hành chính sách tiền tệ  phù hợp với các mục tiêu được  <br /> đưa ra bởi Luật Dự trữ Liên bang.<br /> Tổng thống cũng có thể   ảnh hưởng đến dự  trữ  liên bang. Bởi vì pháp luật của  <br /> Quốc hội có thể   ảnh hưởng đến Fed trực tiếp hoặc  ảnh hưởng đến khả  năng  <br /> của mình để  thực hiện chính sách tiền tệ, tổng thống có thể  là một đồng minh <br /> mạnh mẽ  thông qua  ảnh hưởng của mình vào Quốc hội. Thứ  hai, mặc dù bề <br /> ngoài là một tổng thống có thể  có thể  chỉ  định chỉ  có một hoặc hai thành viên <br /> trong Hội đồng Thống đốc trong mỗi nhiệm kỳ  tổng thống, trong thực tế  các <br /> Tổng thống bổ nhiệm các thành viên thường xuyên hơn. Một lý do là hầu hết các <br /> thống đốc không phục vụ  ra một hạn 14 năm đầy đủ. (Thống đốc lương  thấp <br /> hơn đáng kể những gì họ có thể kiếm được trong khu vực tư nhân hoặc thậm chí <br /> tại các trường đại học, do đó thêm một động lực để họ trở lại học viện hoặc làm <br /> khu vực tư nhân trước khi nhiệm kỳ của họ hết hạn.) Ngoài ra, tổng thống là có  <br /> thể  chỉ  định một chủ  tịch mới của Hội đồng Thống đốc mỗi bốn năm, và một  <br /> chủ tịch người không được bổ nhiệm lại dự kiến sẽ từ chức khỏi hội đồng quản  <br /> trị để một thành viên mới có thể được bổ nhiệm lại.<br /> Fed có nên độc lập?<br /> <br /> <br /> Như chúng ta đã thấy, Cục Dự trữ Liên bang có lẽ là cơ quan chính phủ độc lập <br /> nhất tại Hoa Kỳ. Cứ vài năm, câu hỏi đặt ra trong Quốc hội liệu độc lập cho Fed  <br /> cần được cắt giảm. Các chính trị  gia người mạnh mẽ  phản đối một chính sách  <br /> Fed thường muốn mang nó dưới sự giám sát của mình để  áp đặt một chính sách  <br /> theo ý họ. Nên FED được độc lập, hoặc chúng tôi sẽ được tốt hơn với một ngân <br /> hàng trung ương dưới sự kiểm soát của tổng thống hay Quốc hội?<br /> Trường hợp đồng ý với NHTW Độc lập<br /> Các luận cứ  mạnh nhất cho một dự  trữ  liên bang độc lập dựa trên quan điểm <br /> rằng phải chịu Fed nhiều áp lực chính trị sẽ truyền đạt một thiên vị lạm phát cho <br /> chính sách tiền tệ. Theo quan điểm của nhiều nhà quan sát, chính trị gia trong một <br /> xã hội dân chủ là thiển cận, vì họ được thúc đẩy bởi sự cần thiết để giành chiến  <br /> thắng cuộc bầu cử tiếp theo của họ. Với điều này là mục tiêu chính, họ không có <br /> khả  năng tập trung vào các mục tiêu dài hạn, chẳng hạn như việc thúc đẩy một  <br /> mức giá  ổn định. Thay vào đó, họ  sẽ  tìm kiếm các giải pháp ngắn hạn cho các <br /> vấn đề, chẳng hạn như  tỷ  lệ  thất nghiệp cao và lãi suất cao, thậm chí nếu các <br /> giải pháp ngắn hạn có hậu quả  lâu dài không mong muốn. Ví dụ, chúng ta đã <br /> thấy trong Chương 5 là tăng cung tiền cao có thể dẫn ban đầu để  giảm lãi suất,  <br /> nhưng có thể  gây ra sự gia tăng sau khi lạm phát nóng lên. Một dự  trữ liên bang  <br /> dưới sự  kiểm soát của Quốc hội hoặc Chủ  tịch sẽ  có nhiều khả  năng để  theo  <br /> đuổi một chính sách tăng trưởng cung tiền quá mức khi lãi suất cao, mặc dù nó  <br /> cuối cùng sẽ dẫn đến lạm phát và lãi suất cao hơn trong tương lai? Những người  <br /> ủng hộ của một dự trữ liên bang độc lập nói có. Họ tin rằng Fed cách nhiệt chính <br /> trị có nhiều khả năng được quan tâm với mục tiêu dài hạn và do đó là một lá chắn <br /> của đồng đô la và một mức giá ổn định.<br /> Một biến thể của đối số trước là quá trình chính trị ở Mỹ có thể dẫn tới một chu <br /> kỳ  kinh tế  chính trị, trong đó ngay trước khi cuộc bầu cử, chính sách mở  rộng <br /> đang theo đuổi để tỷ lệ thất nghiệp và lãi suất thấp hơn. Sau cuộc bầu cử, các tác <br /> động xấu của các chính sách cao lạm phát và lãi suất cao giá ai đến nhà để  ngủ, <br /> đòi hỏi phải có chính sách thu hẹp các chính trị  gia hy vọng công chúng sẽ  quên <br /> trước khi cuộc bầu cử  tiếp theo. Có một số  bằng chứng cho thấy một chu kỳ <br /> kinh tế chính trị như vậy tồn tại ở Hoa Kỳ, và một dự trữ liên bang dưới sự kiểm  <br /> soát của Quốc hội hoặc Chủ tịch có thể làm cho chu kỳ thậm chí còn rõ hơn.<br /> Đặt ngân hàng trung  ương dưới sự  điều khiển của bộ  tài chính hay đại lý tài  <br /> chính của chính phủ (nhiều vấn đề sẽ bị ảnh hưởng bởi Tổng thống) cũng được  <br /> xem là khá nguy hiểm bởi vì ngân hàng trung  ương có thể  được sử  dụng để  bù <br /> đắp tài chính của thâm hụt ngân sách lớn bằng cách mua lại chứng khoán chính  <br /> phủ. Áp lực của chính phủ  trong vấn đề  yêu cầu một sự  giúp đỡ  đến từ  Ngân <br /> hàng trung ương có thể dẫn đến lạm phát tăng cao trong nền kinh tế. Một sự độc <br /> lập của ngân hàng trung ương sẽ ngăn ngừa áp lực đến từ chính phủ một cách tốt  <br /> hơn.<br /> Một sự tranh cãi khác của việc ngân hàng trung ương độc lập là việc điều hành  <br /> chính sách tiền tệ  quá trọng yếu để  có thể  phó mặc cho các chính trị  gia, một  <br /> nhóm người đã giải thích rằng việc thiếu chuyên môn trong việc đưa ra quyết <br /> định là một vấn đề  quan trọng của nền kinh tế, điển hình là việc giảm thâm hụt <br /> ngân sách và sắp xếp lại hệ thống ngân hàng. Một cách khác để  nói rõ lập luận  <br /> này là trong nhiệm kỳ  của  vấn đề  ông chủ  và người đại diện  thảo luận trong <br /> chương 8,9,12, cả ngân hàng trung ương và nhà chính trị đều có động cơ để hành  <br /> động vì lợi ích của chính họ  chứ  không phải vì lợi ích của công chúng. Quan  <br /> điểm  ủng hộ  ngân hàng trung  ương độc lập cho rằng vấn đề  ông chủ  và người <br /> đại diện tồi tệ hơn đối với các chính trị  gia vì họ  có ít động cơ  để  hành động vì <br /> lợi ích công cộng hơn.<br /> Phân tích sâu hơn, một số nhà chính trị có thể thích có một ngân hàng trung ương  <br /> độc lập vì họ có thể đổ lỗi một cách chính đáng. Nó có thể là một chính trị gia có  <br /> tư  tưởng phản đối một chính sách tiền tệ  lạm phát sẽ  bị  buộc phải hỗ  trợ  như <br /> một chính sách công khai vì sợ  không được tái đắc cử.   Fed độc lập kéo theo <br /> những chính sách không được ưa chuộng về mặt chính trị trong lợi ích công cộng.<br /> Các trường hợp chống lại Ngân hàng TW độc lập <br /> Những người đề xướng có một Ngân hàng trung ương đặt dưới sự điều hành của <br /> tổng thống hoặc chính phủ  tranh luận rằng sẽ  không dân chủ  nếu có một chính <br /> sách tiền tệ  (ảnh hưởng đến hầu hết mọi người trong nền kinh tế) được điều <br /> khiển bởi một nhóm người giàu có và có quyền lực trong xã hội mà không phải <br /> chịu trách nhiệm trước ai. Sự  thiếu trách nhiệm của ngân hàng trung  ương cũng <br /> gây nên một hậu quả  nghiêm trọng: nếu ngân hàng trung  ương hoạt động kém <br /> hiệu quả sẽ không có một sự thay thế thành viên (giống như các chính trị gia). <br /> Công chúng kiểm soát tổng thống, nội các và quốc hội­ những người chịu trách  <br /> nhiệm về  kinh tế  thịnh vượng của đất nước, nhưng họ  thiếu kiểm soát các cơ <br /> quan chính phủ mà những cơ quan này cũng là yếu tố quan trọng nhất trong việc  <br /> xác định tình trạng của nền kinh tế. Thêm nữa,  để  đạt được một chương trình <br /> gắn kết  thúc đẩy sự ổn định kinh tế, chính sách tiền tệ phải được phối hợp với <br /> các chính sách tài khóa. Chỉ  bằng cách đặt tiền tệ  dưới sự  kiểm soát của các  <br /> chính trị  gia­những người cũng kiểm soát chính sách tài khóa­ là hai chính sách <br /> này có thể được ngăn chặn sự bất hòa trầm trọng của hai chính sách này.<br /> Một lập luận chống lại sự độc lập của ngân hàng trung ương là một ngân hàng  <br /> trung  ương độc lập không phải lúc nào cũng  sử  dụng quyền tự quyết của mình <br /> thành công. Trích dẫn một ví dụ, FED đã thất bại trong vai trò đề ra là người cho  <br /> vay cuối cùng trong cuộc Đại suy thoái, và sự    độc lập của nó chắc chắn đã  <br /> không ngăn được nó theo đuổi một chính sách tiền tệ  nới lỏng quá mức trong  <br /> những năm 1960 và 1970 và góp phần vào lạm phát nhanh chóng trong khoảng <br /> thời gian này.<br /> Thảo luận trước đó của chúng tôi cũng cho thấy cục dự trữ liên bang cũng không <br /> tránh khỏi những áp lực chính trị. Sự độc lập của nó có thể  khuyến khích nó để <br /> theo đuổi một tiến trình tư lợi hơn là lợi ích công cộng.<br /> Không có sự đồng nhất đạt được về  việc liệu ngân hàng trung  ương độc lập là  <br /> một điều tốt, mặc dù vậy sự  hỗ  trợ  công cộng cho sự  độc lập của ngân hàng <br /> trung  ương dường như  đã được phát triển  ở  cả  Hoa Kỳ  và  ở  nước ngoài. Như <br /> bạn có thể mong đợi, nhiều người thích chính sách của ngân hàng trung ương có  <br /> nhiều khả  năng  ủng hộ  sự  độc lập của NHTW, trong khi những người không <br /> thích chính sách của NHTW ủng hộ cho một ngân hàng trung ương ít độc lập.<br /> Độc lập của ngân hàng trung ương và kinh tế vĩ mô trên khắp thế giới<br /> Chúng ta đã thấy rằng những người  ủng hộ của một ngân hàng trung  ương độc <br /> lập tin rằng hiệu suất kinh tế  vĩ mô sẽ  được cải thiện bằng cách làm cho các <br /> ngân hàng trung ương độc lập hơn. Bằng chứng thực nghiệm dường như  ủng hộ <br /> giả  thuyết này: khi các ngân hàng trung  ương được xếp hạng từ ít độc lập nhất  <br /> đến độc lập nhất, tình trạng lạm phát được tìm thấy là tốt nhất cho các nước với <br /> các ngân hàng trung  ương độc lập nhất. Mặc dù một ngân hàng trung  ương độc  <br /> lập nhiều hơn xuất hiện dẫn dắt một tỷ lệ lạm phát thấp hơn, điều này là không <br /> đạt được với chi phí của nền kinh tế  thực sự  nghèo. Quốc gia với ngân hàng <br /> trung  ương độc lập không có nhiều khả  năng có thất nghiệp cao hoặc sự  dao  <br /> động về  sản lượng lớn hơn so với các nước với các ngân hàng trung  ương độc  <br /> lập ít.<br /> Trong vài năm qua duy trì mức lạm phát thấp đã trở  thành một mục tiêu xã hội <br /> quan trọng. Trong thực tế, kể từ những năm 1990, ngân hàng của israel đã được <br /> cấp độc lập hơn để nhắm đến mục tiêu lạm phát, nơi mà chỉ  số  CPI được phép <br /> tăng chỉ trong vòng khoảng 1% và 3% mỗi năm. Lạm phát đã trở  thành một vấn  <br /> đề đáng kinh ngạc từ giữa những năm 1980 cho israel, mà bị chu kỳ lạm phát phi <br /> thường trong những năm 1980, buộc phải chấp nhận sự mới mới sheqel để  thay  <br /> thế sheqel theo tỷ lệ 1: 1000. Mức độ cao của tính độc lập của các ngân hàng của <br /> israel cấp các thống đốc là trách nhiệm duy nhất của việc quản lý lãi suất sau khi <br /> tham vấn với các giám đốc và các nhà kinh tế  của ngân hàng. Mức độ  độc lập <br /> mong muốn là gì? chúng ta phải nhớ rằng không phải chỉ  là mục tiêu kinh tế  vĩ  <br /> mô. Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu hiện nay đã tiết lộ rằng chính sách tiền  <br /> tệ có thể có tác động tàn phá đối với biến số kinh tế khác. Trong khi số lượng các <br /> quốc gia cấp cho các ngân hàng trung  ương độc lập ngày càng gia tăng với hy  <br /> vọng duy trì lạm phát thấp và  ổn định, luôn luôn có những nguy hiểm mà ngân <br /> hàng trung  ương độc lập sẽ  không chịu trách nhiệm. Do đó, ủy quyền thực hiện  <br /> các chính sách  ảnh hưởng sâu rộng đến một tổ  chức độc lập đòi hỏi phải đảm <br /> bảo trách nhiệm giải trình của nó. Vì lý do này, nhiều nhà hoạch định chính sách  <br /> đã kêu gọi cải cách bằng cách  cấp cho các ngân hàng trung  ương công cụ  độc <br /> lập, trong khi vẫn giữ quyền của chính phủ  trong việc thiết lập mục tiêu chính  <br /> sách. Chỉ  bằng cách làm cho các ngân hàng trung  ương có trách nhiệm với quốc <br /> hội, chúng ta sẽ  có thể  theo dõi hiệu quả  của họ  trong việc đạt được các mục  <br /> tiêu chính sách.<br /> 4.Giải thích hành vi của NHTW<br /> Một quan điểm về hành vi quan liêu của chính phủ là quan liêu phục vụ lợi ích <br /> công cộng. Nhưng một số  nhà kinh tế  đã phát triển một lý thuyết về  hành vi  <br /> quan liêu mà nhấn mạnh đến các yếu tố khác ảnh hưởng như thế nào hoạt động <br /> quan liêu. Lý thuyết về  hành vi quan liêu (bureaucratic) đưa ra rằng mục tiêu <br /> của quan liêu là tối đa hóa  phúc lợi (welfare)  của họ, cũng như  hành vi của <br /> người tiêu dùng được thúc đẩy bởi tối đa hóa phúc lợi cá nhân, và hành vi của <br /> một doanh nghiệp được thúc đẩy bởi tối đa hóa lợi nhuận,  phúc lợi  của bọn <br /> quan liêu  liên quan đến quyền lực và uy thế. Chính vì vậy lý thuyết này cho  <br /> rằng nhân tố  quan trọng  ảnh hưởng đến hành vi của ngân hàng trung  ương <br /> (NHTW) đó là sự cố gắng của nó trong việc gia tăng quyền lực và uy thế. Điều <br /> gì dự  báo được viễn cảnh của một NHTW? Một là NHTW sẽ  đánh mạnh để <br /> bảo vệ  quyền tự  trị, mặt khác có một sự  dự  đoán cho rằng một NHTW sẽ  cố <br /> gắng tránh xung đột giữa các nhóm quyền lực mà có thể  sẽ  đe dọa đến việc  <br /> tước đi quyền lực của họ  và làm giảm đi quyền tự  trị  của họ. Hành vi này có <br /> thể thuộc một vài dạng.<br /> Sự  mong muốn của các NHTW là nắm giữ  nhiều quyền lực nhất có thể  cũng <br /> như giải thích tại sao họ cố gắng hết sức để dành quyền kiểm soát nhiều ngân <br /> hàng hơn. Chúng ta phải nhận ra rằng  quan điểm của một NHTW chỉ được kết <br /> nối với tính tư lợi của họ là quá mạnh. Tối đa hóa lợi ích của họ không phải là  <br /> điều ngoại lệ (altruism­chủ nghĩa vị tha). (bạn phải cho đi một cách hào phóng <br /> rộng lượng giống như  lòng từ  thiện bởi vì  nó làm bạn cảm thấy tốt hơn). <br /> NHTW chắc chắn liên quan đến việc họ kiểm soát chính sách tiền tệ trong mức  <br /> lãi suất công khai. Tuy nhiên, tồn tại nhiều điều không chắc chắn và bất đồng  <br /> liên quan đến chính sách tiền tệ  sẽ  như  thế  nào. Khi mà điều gì trong lãi suất  <br /> công khai không được rõ ràng, nhiều lý do khác có thể   ảnh hưởng đến hành vi  <br /> của NHTW. Trong những trường hợp như  vậy, lý thuyết hành vi quan liêu có <br /> thể là một chỉ dẫn có ích để tiên đoán được động cơ của Fed và các NHTW.<br /> 5.CẤU TRÚC VÀ SỰ ĐỘC LẬP CỦA CÁC NHTW CHÂU ÂU<br /> Cho tới bây giờ, cục dự trữ liên bang (FED) không có đối thủ về tầm quan trọng  <br /> trong NHTW thế giới. Tuy nhiên, tình hình đã thay đổi vào tháng 1/1999 với sự <br /> ra đời của NHTW Châu Âu (ECB) và hệ  thống NHTW  ở Châu Âu (ESCB), nơi  <br /> quản lý chính sách tiền tệ  của các nước thành viên Khối Tiền Tệ  Châu Âu, <br /> những quốc gia này, liên kết với nhau, có mức dân số vượt mức Hoa Kỳ và GDP  <br /> có thể so sánh được với Hoa Kỳ. Hiệp ước Maastricht được thành lập giữa ECB <br /> và ESCB, là khuôn mẫu cho sự  ra đời của Deutsche Bundesbank, NHTW Đức, <br /> mỗi NHTW của mỗi quốc gia ( đề cập đến NHTW quốc gia, hoặc NCBs) có vai  <br /> trò tương tự  như  Lander Banks (cho một cái nhìn tổng thể  làm thế  nào mà  <br /> Lander Banks vận hành, có thể  thấy phần này về  Bundesbank). Sự  quyết định <br /> trong hệ thống Châu Âu chịu sự kiểm soát tập trung của ECB, nhưng thực hiện  <br /> theo NCBs trong cách không tập trung hóa.<br /> Bây giờ  chúng ta làm quen với bản thân mình với sự  thành lập của Liên minh <br /> Châu Âu. ESCB hoàn thiện ECB và NHTW quốc gia, của 27 nước thành viên <br /> Châu Âu về  việc có hay không họ  sử  dụng đồng EURO là đồng tiền quốc gia <br /> họ, mặt khác, hệ thống Châu Âu, gồm có ECB và NCBs của 17 nước chấp nhận  <br /> đồng EURO; Estonia là thành viên cuối cùng gia nhập liên minh tiền tệ Châu Âu <br /> vào 1/2011. Như khu vực Châu Âu, nó đề  cập đến chỉ những quốc gia Châu Âu <br /> sử  dụng đồng EURO như  đơn vị  tiền tệ  của họ. ECB sở  hữu 17 NCBs và nó <br /> thành lập như  một khối hệ  thống ngân hàng trung  ương Châu Âu (ESCB) và <br /> EUROsystem. Trong khi ECB mang tính hợp pháp cá nhân dưới hệ  thống luật <br /> quốc gia chung thì ESCB lại không như  vậy. Nó dự  kiến rằng hệ  thống Châu  <br /> Âu và ESCB cùng tồn tại như là các quốc gia thành viên Châu Âu ngoài khu vực  <br /> Châu Âu. Khi tất cả  27 thành viên của ESCB chấp nhận đồng euro, cả  những  <br /> nước mới thành lập sẽ đươc sáp nhập. Hình 2 cho thấy quốc gia thành viên của  <br /> ECB và ESCB.<br /> Quy trình ra quyết định tại EMU được chia làm 3 cấp: Hội đồng quản trị, Ban <br /> giám đôc, Ban tham vấn. Hội đồng quản trị là người ra quyết định thực tê. Ban  <br /> giám đốc là người chịu trách nhiệm thi hành các quyết đinh của Hội đồng quản  <br /> tri. Trong khi Ban phổ  biến đảm nhận vai trò thứ  yếu hơn như  một bộ  phận <br /> tham vấn<br /> Hội đồng quản trị, Ban giám đôc, Ban tham vấn<br /> Hội đồng quản trị, bộ  phận làm quyết định tối cao của ECB, bao gồm 6 thành <br /> viên của Ban giám đốc, thêm những thống đốc của NCBs của 17 quốc gia khu  <br /> vực Châu Âu. Trách nhiệm chính của Hội đồng quản trị là đưa ra chính sách tiền  <br /> tệ  cho khu vực Châu Âu. Quyết định chính sách tiền tệ  của Hội đồng quản trị <br /> liên quan đến việc đáp ứng mục tiêu tiền tệ chung của khu vực Châu Âu, sự cho <br /> phép của NCBs để  được phát hành tiền, sự  thay đổi trong lãi suất, sự  giám sát <br /> quản lý chính dự trữ ngoại tệ, đưa ra đường lối để NCBs thi hành những quyết  <br /> định này. Hội đồng quản trị  thường triệu tập cơ  bản là 2 tuần một lần tại <br /> Eurotower  ở  Frankurt, Đức. Vào cuộc gặp đầu tiên của tháng, thành viên hội <br /> đồng quản trị đánh giá tình hình kinh tế và tiền tệ, sự phát triển của EMU để có <br /> quyết định về  chính sách tiền tệ  trong tháng. Trong cuộc gặp lần thứ hai, thảo <br /> luận vấn đề  liên quan đến các trách nhiệm của ECB và tiến trình thi hành chi <br /> tiết của mỗi quốc gia NCBs<br /> Hội đồng quản trị  đã quyết định rằng mặc dù các thành viên của nó có quyền <br /> biểu quyết, không biểu quyết thì sẽ  được bỏ  qua, thay vào đó, hội đồng thông <br /> qua bởi sự  nhất trí. Một lý do mà hội đồng quản trị  đã quyết định không cần <br /> biểu quyết bởi vì lo lắng việc đưa ra ý kiến mang tính cá nhân có thể  dẫn tới <br /> người cầm quyền của các NCBs để hỗ trợ cho chính sách tiền tệ sẽ chỉ phù hợp  <br /> với riêng quốc gia của họ nhưng không phù hợp cho khối liên minh tiền tệ Châu  <br /> Âu<br /> Cục dữ trữ liên bang đưa ra quyết định của FOMC về việc thiết lập chính sách <br /> tỷ lệ lãi suất, lập tức sau đó cuộc họp kết thúc. ECB đã tiến hành giống vậy sau  <br /> đó hội đồng quản kết luận (thông báo mục tiêu cho tỉ  lệ  lãi suất ngắn hạn cho  <br /> những khoản nợ  xấu ngân hàng). Tuy nhiên, trong khi Fed đưa ra tuyên bố  về <br /> việc thành lập các công cụ chính sách tiền tệ, thì ECB đi xa hơn bởi những cuộc <br /> họp khẩn cấp mà trong đó chủ  tịch và phó chủ  tịch nhận những câu hỏi từ  giới <br /> truyền thông tin tức. Tiến hành một cuộc họp khẩn cấp cho thấy cuộc họp khá <br /> tế nhị, nó đòi hỏi chủ tịch và phó chủ tịch phải giải quyết một cách nhanh chóng <br /> các vấn đề  đặt ra. Chủ  tịch đầu tiên của ECB Willam F Duisenberg, đã rơi vào <br /> tình huống khó xử  trong cuộc họp khẩn và ECB đã phải hứng chịu những lời <br /> phê bình gay gắt. Người kế  thừa anh  ấy, Jean­Claude Trichet phải chịu sự chỉ <br /> trích cay nghiệt bởi việc nhấn mạnh mục tiêu ổn định giá cả trên tăng trưởng và <br /> ổn định. Anh  ấy đã kế  tục Mario Draght, thống đốc trước đây của Ngân hàng  <br /> Italia.  Trong những lý do cho việc lựa chọn Draghi là vì kiến thức của ông về <br /> những bí mật của ngân hàng đầu tư  trong nhiệm kỳ  của ông là giám đốc điều <br /> hành của Goldman Sachs, đó là thuận lợi cho ông để có khả năngg điều khiển và <br /> giám sát các ngân hàng châu Âu thận trọng hơn. <br /> Ban điều hành bao gồm chủ  tịch, phó chủ  tịch và bốn thành viên khác, những <br /> người được chỉ  định bởi thỏa thuận chung của chính phủ  các nước khu vực  <br /> Euro. Nhiệm vụ chính của nó là để bảo đảm thực hiện đầy đủ hằng ngày chính <br /> sách tiền tệ thông qua việc hướng dẫn chi tiết cho tất cả các NCBs theo hướng <br /> dẫn của Hội đồng. Hơn nữa, ban chấp hành có trách nhiệm quản lý công việc <br /> kinh doanh hàng ngày của ECB. <br /> Cuối cùng, Đại hội đồng bao gồm  chủ  tịch và phó chủ  tịch của ECB, các đại  <br /> diện của 17 nước khu vực Euro và 11 nước thành viên không thuộc khu vực châu <br /> Âu EU. Chủ  tịch Hội đồng EU và một thành viên của  Ủy ban châu Âu có thể <br /> tham dự các cuộc họp của Hội đồng, nhưng họ không có quyền biểu quyết. Đại  <br /> Hội đồng là cơ quan chuyển tiếp sẽ được xóa bỏ một khi tất cả các nước thành <br /> viên EU sủ dụng đồng tiền chung. Nó thực hiện nhiệm vụ tư vấn cho ECB, thu  <br /> thập thông tin thống kê và chuẩn hóa các hoạt động kế toán của NCBs. <br /> Với nhiều quốc gia lựa chọn để tham gia liên minh tiền tệ châu Âu trở nên khó <br /> khăn hơn để  đạt được một sự  đồng thuận. Để  đối phó với các vấn đề  tiềm  <br /> năng này, hội đồng quản trị đã quyết định chọn một hệ thống phức tạp của các  <br /> vòng xoay, phần nào như  thế  cho FOMC, trong đó các ngân hàng Trung uong <br /> quốc gia từ các nước lớn sẽ bỏ phiếu thường xuyên hơn so với ngân hàng trung <br /> ương quốc gia từ các nước nhỏ  hơn. Hơn nữa, một khi các quốc gia thành viên  <br /> của khu vực đồng euro có thể đạt 18, hai phần ba số đông sẽ tuân theo thay vì sự <br /> đồng thuận hiện hành.<br /> <br /> <br /> Làm thế  nào để  các ngân hàng trung  ương quốc gia hoạt động trong các <br /> EUROSYSTEM? <br /> NCBs đóng một vai trò thiết yếu trong ESCB và thực hiện quyền hạn được giao <br /> bởi Hội đồng quản trị. Nhưng câu hỏi đó ngay lập tức xuất hiện  là làm thế nào <br /> để mỗi một ngân hàng trung ương quốc gia hành động phù hợp với hướng dẫn  <br /> ECB? Để  có một sự  hiểu biết tốt hơn của hệ  thống này, bài nghiên cứu tập  <br /> trung vào một trong những thành viên quan trọng nhất của ECB, cụ thể là ngân <br /> hàng Bundesbank, Deutsche. Lý do cho việc lựa chọn ngân hàng Bundesbank đó <br /> là nó là ngân hàng trung ương quốc gia lớn nhất trong ECB và cũng hơn một nửa <br /> khoản cho vay liên ngân hàng ngắn hạn của các ngân hàng Euro từ  các ngân  <br /> hàng trung  ương là do Bundesbank. Nó cũng đóng góp gần 20% vốn của ECB.  <br /> Hơn nữa, ECB đã được mô hình hóa sau khi Bundesbank deutsche với cùng một  <br /> cách thức để đảm bảo hoàn toàn độc lập.<br /> Deursche Budesbank. <br /> Năm 1948, các lực lượng đồng minh tạo ra các ngân hàng Deutscher lander (BdL)  <br /> để hoạt động như ngân hàng trung ương của nước cộng hòa liên bang Đức (Tây <br /> Đức). Một hệ thống ngân hàng trung ương hai tầng được thành lập gồm BdL và <br /> các ngân hàng trung ương Lander (hoặc bang) mà Chủ tịch đã được chỉ định bởi <br /> các chính phủ Lander. Hội đồng cao hơn bao gồm các thống đốc ngân hàng trung <br /> ương Lander, một tổng thống liên bang bổ nhiệm và chủ tịch của BdL. Trong hệ <br /> thống ngân hàng trung  ương phân cấp mạnh mẽ  này, các BdL giả  định các <br /> nhiệm vụ chủ yếu của tiến hành chính sách tiền tệ, phối hợp 
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2