intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Chủ nghĩa xã hội và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam - Từ góc nhìn văn hóa

Chia sẻ: Tưởng Trì Hoài | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:11

3
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết "Chủ nghĩa xã hội và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam - Từ góc nhìn văn hóa" trình bày tổng quan về chủ nghĩa xã hội; thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam - từ góc nhìn văn hóa; đề xuất một số giải pháp xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;... Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Chủ nghĩa xã hội và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam - Từ góc nhìn văn hóa

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ THỰC TIỄN XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM - TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA Lê Thị Tâm Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Vĩnh Long Tác giả liên hệ: Lê Thị Tâm, email: tamlt@vlute.edu.vn Tóm tắt: Chủ nghĩa xã hội hiểu theo nghĩa sơ khai nhất, là những nhu cầu, nguyện vọng của các giai cấp, tầng lớp lao động bị áp bức, bóc lột. Chủ nghĩa xã hội còn là con đường, cách thức và phương pháp đấu tranh nhằm giải phóng con người, giải phóng xã hội khỏi tư hữu, áp bức, bóc lột xây dựng một xã hội mới tiến bộ, công bằng, bình đẳng. Ở Việt Nam, công cuộc đổi mới từ Đại hội lần thứ VI (1986) đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Sau hơn 35 năm đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã có những đóng góp to lớn vào thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong suốt quá trình thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng và Nhà nước ta luôn nhận thức sâu sắc về vị trí, vai trò và sức mạnh của văn hóa. Nền văn hóa Việt Nam hôm nay là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phản ánh sự phát triển hài hòa giữa truyền thống và hiện đại, giữa kinh tế với văn hóa, xã hội. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã nêu: Phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Do vậy, trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, văn hóa là sức mạnh to lớn góp phần xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Từ khóa: cách thức và phương pháp đấu tranh; công bằng; bình đẳng; sức mạnh của văn hóa; phát triển hài hòa giữa truyền thống và hiện đại; giao lưu và tiếp biến văn hóa; đậm đà bản sắc dân tộc; sức mạnh nội sinh. 1. Tổng quan về chủ nghĩa xã hội Tư tưởng (tiếng Hy Lạp được hiểu là Idéa - hình tượng) là một hình thái ý thức của con người phản ánh thế giới hiện thực. Tư tưởng chủ nghĩa xã hội xuất hiện với hàm ý là một hệ thống những quan niệm về những nhu cầu hoạt động thực tiễn và những ước mơ của các giai cấp lao động, bị thống trị; về con đường, cách thức và phương pháp đấu tranh nhằm thực hiện một chế độ xã hội mà trong đó, tư liệu sản 436
  2. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” xuất là thuộc về toàn xã hội, không có áp bức và bóc lột, bất công, mọi người được bình đẳng về mọi mặt và đều có cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc, văn minh. Những tư tưởng xã hội chủ nghĩa thời cổ đại chủ yếu được thể hiện mới chỉ là những ước mơ, niềm khát vọng của công chúng bị bóc lột, bị áp bức. Chúng được lan truyền, được phổ biến trong lúc đầu bằng những câu chuyện kể chưa thành văn, về sau là cả những áng văn chương cổ vũ cho các phong trào đấu tranh, những cuộc khởi nghĩa của những người nô lệ. Chủ nghĩa xã hội không tưởng thế kỷ XVI - XVII, đã xuất hiện nhiều đại biểu xuất sắc: Tômát Morơ (1478 - 1535); Tômađô Campanenla (1568 - 1639); Giêrắcdơ Uynxtenli (1609-1652). Với các mức độ và trình độ có khác nhau, nhưng nhìn chung các tư tưởng xã hội chủ nghĩa trong suốt các thời kỳ được xét đều thể hiện tinh thần phê phán, lên án chế độ quân chủ chuyên chế và chế độ tư bản chủ nghĩa. Chủ nghĩa xã hội không tưởng - phê phán đầu thế kỷ XIX, giai đoạn này trong triết học và khoa học xã hội, phải kể đến sự ra đời của triết học cổ điển Đức với tên tuổi của các nhà triết học vĩ đại: (1770 - 1831); Phoiơbắc (1804 - 1872); của kinh tế chính trị học cổ điển Anh: A. Smít (1723 - 1790) và Đ. Ricácđô (1772-1823); của chủ nghĩa xã hội không tưởng - phê phán: H. Xanh Ximông (1760 - 1825); S. Phuriê (1772 - 1837) và R. Ôoen (1771 - 1858). Những giá trị khoa học, cống hiến mà các ông để lại đã tạo ra tiền đề cho các nhà tư tưởng, các nhà khoa học thế hệ sau kế thừa xây dựng học thuyết của mình. C. Mác (1818-1883) và Ph. Ăngghen (1820-1895) trưởng thành ở một quốc gia có nền triết học phát triển rực rỡ, với thành tựu nổi bật là chủ nghĩa duy vật của L. Phoiơbắc và phép biện chứng của Hêghen. Bằng trí tuệ uyên bác, C. Mác và Ph. Ăngghen đã tiếp thu với một tinh thần phê phán đối với các giá trị của nền triết học cổ điển và với kho tàng tư tưởng lý luận mà các thế hệ trước để lại; sớm đắm mình trong phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động... tất cả những điều đó đã cho phép các ông gặp gỡ, trở thành đôi bạn cùng chí hướng, giúp các ông nhận thức được bản chất của những sự kiện kinh tế - xã hội, chính trị - xã hội đang diễn ra trong lòng chế độ tư bản. Đến thời đại của mình, V.I. Lênin (1870-1924) đã vận dụng và phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học thời kỳ sau Cách mạng Tháng Mười. Cách mạng Tháng Mười 437
  3. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG thành công, do yêu cầu của công cuộc xây dựng chế độ mới, V. I. Lênin đã tiến hành phân tích làm rõ nội dung, bản chất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, xác định cương lĩnh xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng và bắt tay tổ chức các chính sách kinh tế, xác định chính sách kinh tế mới nhằm sử dụng và học tập các kinh nghiệm tổ chức, quản lý kinh tế của chủ nghĩa tư bản để cải tạo nền kinh tế tiểu nông lạc hậu của nước Nga Xô viết. Sự vận dụng và phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học từ sau khi V.I. Lênin từ trần (từ 1924 đến nay). Mọi thắng lợi cơ bản, quan trọng của nhân dân lao động, của cách mạng thế giới trong thế kỷ XX đều có phần đóng góp trực tiếp, cơ bản và rất quan trọng của chủ nghĩa xã hội, của sự vận dụng thành công những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa xã hội khoa học vào thực tiễn phong trào cộng sản và công nhân quốc tế ở mỗi nước cũng như của cả hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới. Đảng Cộng sản Việt Nam với sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học. Lịch sử dân tộc Việt Nam từ khi có Đảng lãnh đạo cho thấy, những thành tựu luôn gắn liền với quá trình vận dụng sáng tạo, phát triển và hoàn thiện lý luận của chủ nghĩa xã hội khoa học trong những điều kiện lịch sử cụ thể của thời đại, trên cơ sở thực tiễn Việt Nam. 2. THỰC TIỄN XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM - TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA Ở Việt Nam, công cuộc đổi mới do đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo từ Đại hội lần thứ VI (1986), đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Từ thực tiễn cách mạng thế giới và từ kinh nghiệm cách mạng Việt Nam, Ðảng ta nhận thức sâu sắc rằng: Chỉ có con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Tổ quốc ta mới được độc lập tự do thực sự, nhân dân ta mới trở thành người làm chủ, tự quyết định vận mệnh của mình, quyết định con đường phát triển của đất nước. Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tăng cường vai trò kiến tạo, quản lý của Nhà nước. Giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa tăng trưởng, phát triển kinh tế với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội. Xây dựng và phát triển kinh tế phải đi đôi với giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái; Phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp 438
  4. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính trị, từng bước xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa bảo đảm toàn bộ quyền lực thuộc về nhân dân… Sau hơn 35 năm đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ thành công trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc mà còn có những đóng góp to lớn vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung, chủ nghĩa xã hội khoa học nói riêng. Trong đó, phải kể đến những thành tựu về kinh tế và văn hóa của Việt Nam. Ngoài tư tưởng Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là quy luật của cách mạng Việt Nam. Trong điều kiện thời đại ngày nay Đảng ta còn đóng góp lớn vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa xã hội khoa học đó là quan điểm “ba trụ cột”, “thực hiện gắn phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm và xây dựng Đảng là khâu then chốt với phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, tạo ra ba trụ cột cho sự phát triển nhanh và bền vững ở nước ta”. Đại hội XIII của Đảng xác định thêm: bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên. Có thể thấy vị trí, vai trò của văn hóa đã được xem trọng, và cũng đã được nhắc lại nhiều lần trong chiến lược của Đảng qua các thời kỳ. Chúng ta coi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc; xác định phát triển văn hóa đồng bộ, hài hòa với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội là một định hướng căn bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, một nền văn hoá thống nhất trong đa dạng, dựa trên các giá trị tiến bộ, nhân văn. Trong tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, quan niệm về “văn hóa” không chỉ là mối quan hệ với tự nhiên của con người mà còn là bản chất lao động xã hội của mỗi cá nhân, “hành vi lịch sử đầu tiên”. Văn hóa là khái niệm phản ánh tổng thể, sự thể hiện ra và sự phát huy những năng lực bản chất người, trong tất cả các dạng thứ tồn tại hoạt động của con người và là sự phản ánh tổng thể các hệ thống giá trị do con người sáng tạo ra trong quá trình thực tiễn - lịch sử - xã hội của mình. Ph.Ăngghen viết: “Mỗi bước tiến lên trên con đường văn hoá lại là một bước tiến tới tự do” (C.Mác và Ph.Ăngghen, 1999, 136-137). Nói văn hóa là nói tới con người, nói tới việc phát huy “những năng lực bản chất” của con người nhằm hoàn thiện con người và hoàn thiện xã hội. 439
  5. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: “Thói quen và truyền thống lạc hậu cũng là kẻ địch to; nó ngấm ngầm ngăn trở cách mạng tiến bộ” (Hồ, 2011b, 287), những yếu tố của “tam tòng, tứ đức” trong hệ tư tưởng của xã hội phong kiến xưa, có những yếu tố nay đã lỗi thời, lạc hậu cũng cần gạt. Người đã từng dạy: “Trong công cuộc kiến thiết nước nhà có bốn vấn đề cùng phải chú ý đến, cùng phải coi trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa”. “Văn hóa không thể đứng ngoài, mà phải trong kinh tế và chính trị” (Hồ, 2002, 367-369). Kinh tế là nền tảng vật chất, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội; kinh tế và văn hóa trong Tư tưởng Hồ Chí Minh cuối cùng đều phục vụ nhiệm vụ chính trị là xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, đạo đức, văn minh. Sự hài hòa giữa phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội tạo cơ sở cho sự phát triển bền vững. Sau ngày Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ (ngày 3-9-1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên 6 nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trong đó có 3 nhiệm vụ cấp bách thuộc về văn hóa: Một là, cùng với diệt giặc đói phải diệt giặc dốt; hai là, phải giáo dục tinh thần cho nhân dân; ba là, thực hiện tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước, phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị, việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đã không ngừng được củng cố, phát triển. Gắn nhiệm vụ xây dựng văn hóa với nhiệm vụ xây dựng và phát triển đất nước. Nhận thức về vai trò của văn hóa trong sự nghiệp cách mạng, ngay từ đầu năm 1943, Đảng Cộng sản Đông Dương đã công bố Đề cương văn hóa Việt Nam. Đề cương khẳng định: “Mặt trận văn hoá là một trong ba mặt trận (kinh tế, chính trị, văn hoá) ở đó người cộng sản phải hoạt động. Không phải chỉ làm cách mạng chính trị mà còn phải làm cách mạng văn hoá nữa” (Hồ, 2011b, 316) . Đề cương văn hóa của Đảng năm 1943 đã đưa ra ba nguyên tắc vận động cách mạng trên mặt trận văn hóa: “Dân tộc hóa”; “Đại chúng hóa” và “Khoa học hóa”. Ba nguyên tắc đó gắn bó một cách mật thiết với nhau và tác động biện chứng, tạo nên một nền văn hóa mới với những phẩm chất mới của con người Việt Nam. Văn kiện Đại hội III của Đảng (9-1960), nêu rõ đường lối xây dựng nền văn hóa có nội dung xã hội chủ nghĩa và tính dân tộc. Trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng xác định văn hóa, tư tưởng là một cuộc cách mạng, tiến hành đồng thời 440
  6. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” gắn bó chặt chẽ với cách mạng quan hệ sản xuất và cách mạng khoa học kỹ thuật. Đường lối tiến hành cuộc cách mạng văn hóa, tư tưởng, xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa mang đặc trưng dân tộc, khoa học, đại chúng tiếp tục được phát triển, bổ sung trong những năm đầu cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (12-1976), xác định xây dựng con người mới, xây dựng nền văn hóa mới, tiến hành đấu tranh chống tư tưởng và sản phẩm văn hóa phản động, độc hại. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng (3-1982) chỉ rõ nền văn hóa mới mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa có nội dung xã hội chủ nghĩa và tính dân tộc, có tính đảng và tính nhân dân sâu sắc, thấm nhuần chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế vô sản. Đại hội V của Đảng cũng trình bày sâu sắc nội hàm khái niệm “Con người mới xã hội chủ nghĩa” và đưa ra phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm văn hóa”. Tại đại hội VI của Đảng, sau khi tổng hợp nhiều bài tham luận của các đại biểu dự đại hội, Đảng ta đã chính thức đưa vào Nghị quyết Xây dựng một nền văn hóa, văn nghệ xã hội chủ nghĩa đậm đà bản sắc dân tộc. Tư tưởng về xây dựng một nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc luôn được Đảng ta chú trọng trong đường lối văn hóa, văn nghệ của Đảng. Bước sang đại hội VII, vấn đề xây dựng một nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc một lần nữa lại được Đảng ta quan tâm, kiên trì với quan điểm Xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Đảng ta tiếp tục quan điểm Xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đảng xác định, đó là một trong mười nội dung quan trọng mà Đảng và nhân dân ta phải tập trung xây dựng. Quan điểm này cũng được Đảng ta duy trì xuyên suốt trong các kỳ đại hội Đảng tiếp theo. Điều đó thể hiện sự quan tâm của đảng ta trong lĩnh vực văn hóa, quyết tâm xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xứng tầm với lịch sử hàng ngàn năm của dân tộc ta. Có thể thấy: Bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam chính là những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng 54 dân tộc anh em, được vun đắp qua hàng ngàn năm lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước. Trong đó, hệ giá trị tinh thần cốt lõi được vun đắp cho các thế hệ mai sau, được thể hiện trong Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương khóa VIII (1998). Đó là: Lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc; lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý, 441
  7. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống... Bản sắc dân tộc còn đậm nét trong các hình thức biểu hiện mang tính dân tộc độc đáo. Đại hội Đảng lần thứ IX cũng tiếp tục khẳng định: “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh” (Đinh, 2021). Báo cáo chính trị tại Đại hội lần thứ X (2006) của Đảng khẳng định nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ngày càng sáng tỏ hơn với 8 đặc trưng cơ bản; đồng thời, nhấn mạnh bài học số một là: Trong quá trình đổi mới, phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Tại Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng (01/2011) trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), chúng ta một lần nữa khẳng định: “Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định định hướng về phát triển văn hóa là: “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển. Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực và thẩm mỹ ngày càng cao” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2015). Trong văn kiện trình Đại hội XII của Đảng cũng nhấn mạnh, nhiệm vụ làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực, mọi mặt hoạt động, mọi quan hệ xã hội, thành sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển bền vững. Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, tạo điều kiện để xây dựng con người Việt Nam đẹp về nhân cách, đạo đức, tâm hồn; cao về trí tuệ, năng lực, kỹ năng sáng tạo; khỏe về thể chất; nâng cao trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tôn trọng, tuân thủ pháp luật, phát huy tốt vai trò chủ thể sáng tạo trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. 442
  8. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” Trong báo cáo chính trị tại Đại hội XII của Đảng đã xác định: “Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, phù hợp với bối cảnh phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2016, 127). Tại Hội nghị ngoại giao lần thứ 25, tháng 11 năm 2006, Đảng đã xác định: ngoại giao văn hóa cùng với ngoại giao chính trị và ngoại giao kinh tế được xác định là ba trụ cột của ngoại giao Việt Nam. Trên cơ sở những kinh nghiệm đạt được, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược ngoại giao văn hóa đến năm 2020, xác định ngoại giao văn hóa là nhiệm vụ chung của cả nước. Đại hội XIII của Đảng xác định, phát triển nhanh và bền vững đất nước chủ yếu dựa vào việc phát huy tối đa nhân tố con người; lấy con người là trung tâm, mục tiêu và động lực phát triển quan trọng nhất của đất nước. Vì vậy, “Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa giá trị truyền thống và giá trị hiện đại” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021a) là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam được xem là nguồn lực nội sinh quan trọng góp phần làm nên sức mạnh tổng hợp quốc gia: “… Phát triển toàn diện, đồng bộ các lĩnh vực văn hóa, môi trường văn hóa, đời sống văn hóa phong phú, đa dạng, văn minh, lành mạnh; vừa tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại để văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần, nguồn lực nội sinh và động lực đột phá cho phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021b, 47). Từ sau “Thập kỷ thế giới về phát triển văn hóa” (1986-1995), trên hành trình tìm kiếm con đường phát triển của mình, các quốc gia trên thế giới đã quan tâm đến vấn đề văn hóa trên tinh thần mới. Bởi văn hóa là sức mạnh nội sinh liên kết các cộng đồng người, là cội nguồn của một dân tộc. Giữ gìn văn hóa dân tộc là sự cần thiết mang tính tất yếu, khách quan, bởi lẽ xuất phát từ vị trí, vai trò, tầm quan trọng đặc biệt của văn hóa và bản sắc văn hóa đối với sự tồn tại, phát triển đất nước. Ngoài ra, đứng trước nhiều nguy cơ, thách thức do mặt trái của kinh tế thị trường, của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, của toàn cầu hóa..., con người ngày càng phải chú trọng tới việc giữ gìn văn hóa dân tộc. Ngày nay văn hóa, xã hội có mối quan hệ biện chứng với kinh tế, an ninh, chính trị của mỗi quốc gia. Có thể thấy khi xã hội không công bằng sẽ đe dọa đến sự phát triển kinh tế, châm ngòi nổ cho các xung đột về an ninh, chính trị. Văn hóa 443
  9. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG chính là hành trang của mỗi người, dân tộc, quốc gia, khu vực, con người không ngừng tạo ra các giá trị văn hóa, biến đổi văn hóa phù hợp với từng hoàn cảnh, từng thời đại để phát triển xã hội. Trong thế kỷ XXI, cùng với những thay đổi về kinh tế, chính trị, xã hội, đặc biệt là sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, kỹ thuật, công nghệ thông tin… sự phát triển mất cân bằng, thiếu hài hòa càng làm cho loài người nhận thức sâu sắc hơn bao giờ hết vai trò, vị trí của văn hóa trong mọi hoạt động sáng tạo của con người. Văn hóa có vai trò thúc đẩy to lớn đối với sự phát triển kinh tế, chính trị của đất nước. Vai trò của văn hóa thực chất là nhằm nâng cao tố chất đạo đức tư tưởng và tố chất văn hóa khoa học của toàn dân tộc, tạo ra động lực tinh thần, trí tuệ và tư tưởng cho phát triển kinh tế, tiến bộ xã hội. Giá trị này của văn hóa ngày càng nổi bật trong thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay. 3. GIẢI PHÁP XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN NỀN VĂN HÓA VIỆT NAM TIÊN TIẾN, ĐẬM ĐÀ BẢN SẮC DÂN TỘC Thứ nhất, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng trong việc xây dựng và phát triển vǎn hóa, con người Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tăng cường công tác phối hợp các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội nghề nghiệp trong tuyên truyền, nâng cao nhận thức toàn xã hội về vị trí, vai trò của xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, trong huy động các nguồn lực tham gia phát triển sự nghiệp văn hóa. Cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến các đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật Nhà nước về công tác giữ gìn các giá trị văn hóa dân tộc, nhất là Nghị quyết TW5, khóa VIII về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” nhằm nâng cao nhận thức, ý thức của mọi người dân về giữ gìn, bảo vệ, phát huy các giá trị văn hóa của đất nước. Thứ hai, tăng cường công tác tuyên truyền, tạo sự hiểu biết của xã hội về phát huy văn hóa dân tộc. Tổ chức các hoạt động giao lưu văn hóa, kinh tế, thể dục thể thao thiết thực, hiệu quả, gắn với điều kiện thực tế của đất nước. Thường xuyên tổ chức các hoạt động giáo dục truyền thống, những giá trị vật chất, tinh thần độc đáo của đất nước, giúp nhân dân có dịp giới thiệu những giá trị đó với bạn bè thế giới. Thông qua các hoạt động lễ hội phát huy hơn nữa lòng yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tinh thần đoàn kết, niềm tự hào, ý chí tự cường của dân tộc, củng 444
  10. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” cố và tăng cường niềm tin của Nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng; qua đó, tạo chuyển biến mạnh mẽ về hiểu biết sâu sắc, tự hào, tôn vinh lịch sử, văn hóa dân tộc. Thứ ba, thường xuyên rà soát lại nguồn nhân lực, liên kết, phối hợp tổ chức đào tạo, đặc biệt quan tâm đến chất lượng nguồn nhân lực đảm bảo ổn định. Rà soát, bổ sung quy hoạch, đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa, có đủ tiêu chuẩn, tài đức, đủ sức đảm đương công việc được giao. Ngoài ra, cũng cần phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, đội ngũ chuyên gia vừa có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, có phẩm chất đạo đức tốt, có tâm với nghề, chuyên nghiệp có trách nhiệm và sự tận tụy phục vụ đất nước... 4. KẾT LUẬN Tư tưởng chủ nghĩa xã hội là một hệ thống những quan niệm về những nhu cầu hoạt động thực tiễn và những ước mơ của các giai cấp lao động, bị thống trị; về con đường, cách thức và phương pháp đấu tranh nhằm thực hiện một chế độ xã hội mà trong đó, tư liệu sản xuất là thuộc về toàn xã hội, không có áp bức và bóc lột, bất công, mọi người được bình đẳng về mọi mặt và đều có cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc, văn minh. Để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trong điều kiện hiện nay, việc giữ gìn văn hóa dân tộc là vấn đề cấp thiết. Điều đó được khẳng định trong các Văn kiện đại hội Đảng, văn hóa, tư tưởng là một cuộc cách mạng. Việc giữ gìn văn hóa dân tộc không chỉ là ý thức, trách nhiệm mà còn là lòng tự tôn dân tộc, bởi “Như nước đại Việt ta từ trước, vốn xưng nền văn hiến đã lâu”. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Chúng ta coi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc; xác định phát triển văn hóa đồng bộ, hài hòa với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội là một định hướng căn bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, một nền văn hóa thống nhất trong đa dạng, dựa trên các giá trị tiến bộ, nhân văn; chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội, kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những thành tựu, tinh hoa văn hóa nhân loại, phấn đấu xây dựng một xã hội văn minh, lành mạnh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực, lối sống và thẩm mỹ ngày càng cao” (Nguyễn, 2021). 445
  11. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. C.Mác và Ph.Ăngghen. (1999). Toàn tập (Vol. 3). Chính trị quốc gia. [2]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2015). Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011). Báo Điện Tử Đảng Cộng Sản Việt Nam. https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong- dang/dai-hoi-dang/lan-thu-xi/cuong-linh-xay-dung-dat-nuoc-trong-thoi-ky-qua- do-len-chu-nghia-xa-hoi-bo-sung-phat-trien-nam-2011-1528 [3]. Đảng Cộng sản Việt Nam,. (2016). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. Chính trị Quốc gia. [4]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2021a). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Chính trị quốc gia. [5]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2021b). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (Vol. 1). Chính trị quốc gia Sự thật. [6]. Đinh, Q. T. (2021, July 14). Việt Nam kiên định độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đảng Ủy Khối Các Cơ Quan Trung Ương. http://dukcqtw.dcs.vn/viet-nam- kien-dinh-doc-lap-dan-toc-va-chu-nghia-xa-hoi-duk15312.aspx#_ftn9 [7]. Hồ, C. M. (2002). Hồ Chí Minh toàn tập 6 (Vol. 6). Chính trị quốc gia. [8]. Hồ, C. M. (2011a). Hồ Chí Minh: Toàn tập 4 (Vol. 4). Chính trị quốc gia. [9]. Hồ, C. M. (2011b). Hồ Chí Minh: Toàn tập 7 (Vol. 7). Chính trị quốc gia. [10]. Hồ, C. M. (2011c). Hồ Chí Minh: Toàn tập 9 (Vol. 9). Chính trị quốc gia. [11]. Hồ, C. M. (2011d). Hồ Chí Minh: Toàn tập 10 (Vol. 10). Chính trị quốc gia. [12]. Hoàng, T. (1998). Bản sắc dân tộc và hiện đại hóa trong văn hóa. Chính trị quốc gia. [13]. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. (1993). Văn hóa xã hội chủ nghĩa. Chính trị quốc gia. [14]. Nguyễn, P. T. (2021). Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Tạp Chí Cộng Sản, 966, 5–7. [15]. Vũ, V. H. (2009). Việt Nam tiến bước cùng thời đại. Giáo dục. 446
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2