Cách mạng tháng Mười Nga và mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực đầu tiên trên thế giới
lượt xem 68
download
Nhằm giúp các bạn có thêm tài liệu phục vụ nhu cầu học tập và nghiên cứu, mời các bạn cùng tham khảo nội dung tài liệu "Cách mạng Tháng Mười Nga và mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực đầu tiên trên thế giới" dưới đây. Nội dung tài liệu giới thiệu đến các bạn những nội dung về cách mạng tháng Mười Nga, mô hình chủ nghĩa xã hội đầu tiên trên thế giới,...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Cách mạng tháng Mười Nga và mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực đầu tiên trên thế giới
- Cách mạng Tháng Mười Nga và mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực đầu tiên trên thế giới I. Cách mạng Tháng Mười Nga (1917) 1. Vắn tắt Thời gian: ngày 24 tháng 10 năm 1917 Địa điểm: nước Nga Các bên tham gia: đảng Bolshevik, đảng Menshevik Kết quả: Thắng lời thuộc về đảng Bolshevik 2. Hoàn cảnh Cuối thế kỉ XIX đầu XX ở Nga, Chủ nghĩa tư bản đã phát triển nhanh chóng. Đầu XX Nga đã phát triển sang giai đoạn tư bản độc quyền. Tuy nhiên, những nhiệm vụ của Cách mạng dân chủ tư sản vẫn chưa được giải quyết. Bên cạnh quan hệ sản xuất Tư bản chủ nghĩa thì quan hệ sản xuất phong kiến, nông nô vẫn tồn tại nặng nề. Sự phát triển của Chủ nghĩa tư bản Nga đã làm cho các mâu thuẫn giai cấp trở nên chồng chéo và sâu sắc. Nga là một nước quân chủ chuyên chế, quyền lực nằm trong tay Nga Hoàng. Tất cả các quyền tự do dân chủ bị thủ tiêu, nhân dân Nga không được hưởng một quyền lợi chính trị nào. Nước Nga là một nhà tù của các dân tộc. Nga Hoàng lại thực thi chính sách kì thị dân tộc đã làm cho mâu thuẫn dân tộc trỡ nên sâu sắc. Đầu thế kỉ XX, Nga là một thực thể kinh tế chính trị xã hội phức tạp, Nga hội tụ đầy đủ mâu thuẫn cơ bản của thời đại, nó đều lên đến đỉnh điểm và yêu cầu phải giải quyết : tư sản và vô sản, địa chủ phong kiến và nông dân…. Nhưng mâu thuẫn bao trùm là mâu thuẫn giữa nhân dân Nga với Đế quốc Nga Hoàng. Nước Nga trở thành khâu yếu nhất trong sợi dây chuyền ĐQCN.Việc nước Nga tham gia chiến tranh thế giới thứ nhất là điều kiện khách quan, chất xúc tác làm cho những yếu tố
- mâu thuẫn nước Nga ngày càng phát triển. Lúc này ở Nga, Đảng Cộng Sản Bônsêvích được thành lập là đội tiên phong của giai cấp vô sản Nga. Như vậy cuối thế kỉ XIX đầu XX Nga đã hội tụ đầy đủ điều kiện cho cuộc cách mạng diễn ra. Nó vừa mang tính đặc thù vừa mang tính phổ biến. 3. DIỄN BIẾN CỦA CUỘC CÁCH MẠNG THÁNG MƯỜI NGA Sau cách mạng dân chủ tư sản Tháng Hai 1917, ở Nga tồn tại tình trạng hai chính quyền song song, một bên là Chính phủ lâm thời tư sản (chuyên chế của giai cấp tư sản) và một bên là Soviet các đại biểu công nhân và binh sĩ, đứng đầu là Soviet Petrograd (chuyên chính vô sản). Tháng 41917, V.I.Lenin về nước để trực tiếp lãnh đạo Cách mạng Nga, tìm cách đưa nước Nga chuyển từ cách mạng dân chủ tư sản tới cách mạng xã hội chủ nghĩa, đồng thời xóa bỏ tình trạng hai chính quyền bằng con đường hòa bình. Ngày 1641917, V.I.Lenin đến Thủ đô Petrograd để trình bày Luận cương Tháng Tư, một văn kiện mang tính cương lĩnh đề ra đường lối giành chiến thắng cho cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa với khẩu hiệu "Tất cả chính quyền về tay các Soviet!". + Ðầu tháng 71917, Chính phủ lâm thời công khai đàn áp các phong trào đấu tranh quần chúng, khủng bố các Soviet. Nước Nga lâm vào cuộc khủng hoảng chính trị nghiêm trọng. V.I.Lenin buộc phải rút vào hoạt động bí mật tại vùng Radơlíp (Phần Lan), cách Petrograd (nay là Saint Petersburg) 34 km để tránh sự truy lùng của Chính phủ lâm thời. Từ nơi hoạt động bí mật, V.I.Lenin thường xuyên chỉ đạo phong trào cách mạng nước Nga. V.I.Lenin vạch rõ, thời kỳ đấu tranh hòa bình đã chấm dứt, các lực lượng cách mạng ở nước Nga phải tích cực chuẩn bị để tiến hành khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền.
- + Ðầu tháng 81917, Ðại hội lần thứ VI Ðảng Công nhân Xã hội Dân chủ (CNXHDC) Nga (Bolshevik) họp bán công khai ở Petrograd, V.I.Lenin tuy không tham dự nhưng vẫn lãnh đạo Ðại hội tiến hành và thông qua đường lối khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền. Trong thời gian này, V.I.Lenin viết xong cuốn Nhà nước và cách mạng đề ra nhiệm vụ cho giai cấp vô sản phải giành chính quyền bằng con đường đấu tranh vũ trang. + Theo quyết định của Ủy ban Trung ương Ðảng Bolshevik, ngày 7101917, V.I.Lenin từ Phần Lan bí mật trở về Petrograd để trực tiếp lãnh đạo cuộc khởi nghĩa. Ngày 10101917, dưới sự chỉ đạo của Lenin, Hội nghị Ủy ban Trung ương Ðảng Bolshevik đã họp và thông qua kế hoạch khởi nghĩa vũ trang do V.I.Lenin đề ra. + Ngày 12101917, Soviet Petrograd đã cử ra Ủy ban Quân sự cách mạng để chỉ đạo công tác chuẩn bị và tiến hành khởi nghĩa vũ trang ở Thủ đô. + Ngày 16101917, Ủy ban Trung ương Ðảng Bolshevik thành lập Trung tâm quân sự cách mạng để lãnh đạo cuộc khởi nghĩa trong cả nước. Các tổ chức đảng Bolshevik đã tích cực triển khai những công việc cần thiết trên các mặt chính trị tư tưởng, tổ chức và kỹ thuật quân sự để tiến tới khởi nghĩa vũ trang. + Trong khi đó, Chính phủ lâm thời ráo riết thi hành những biện pháp khẩn cấp nhằm "bóp chết" cuộc khởi nghĩa vũ trang của giai cấp vô sản. Theo đó, 70 tiểu đoàn xung kích và một số trung đoàn độc lập của quân đội đã được Chính phủ lâm thời điều động từ mặt trận về bảo vệ những trung tâm lớn như Petrograd, Moscow... + Ngày 24101917, Chính phủ lâm thời bắt giam các ủy viên của Ủy ban Quân sự cách mạng, lục soát và đóng cửa các tờ báo của Ðảng Bolshevik, ra lệnh chiếm điện Smolnui... Thủ tướng Chính phủ lâm thời A. Kerenski tuyên bố sẽ áp dụng mọi biện pháp để tiêu diệt cuộc khởi nghĩa ở Petrograd.
- + Trước tình hình trở nên hết sức khẩn trương và cực kỳ nghiêm trọng, V.I.Lenin chủ trương phải tiến hành khởi nghĩa ngay. Trong ngày 24101917, V.I.Lenin ba lần gửi thư tới Ủy ban Trung ương Ðảng Bolshevik yêu cầu phải tiến hành khởi nghĩa ngay trong đêm đó. + Tối 24101917 (theo lịch Nga cũ, tức tối 6111917), V.I.Lenin đến Cung điện Smolnui trực tiếp chỉ đạo cuộc khởi nghĩa vũ trang nhằm lật đổ Chính phủ tư sản lâm thời và thiết lập chính quyền Soviet. Ðêm 24101917, khởi nghĩa vũ trang nổ ra ở Thủ đô Petrograd (nay là TP Saint Petersburg). Quân khởi nghĩa, gồm các đơn vị Cận vệ đỏ của công nhân Petrograd, binh sĩ cách mạng và thủy thủ Hạm đội Baltic (tất cả khoảng 200 nghìn người), dưới sự lãnh đạo của Ðảng Bolshevik do V.I.Lenin đứng đầu, đã đánh chiếm các vị trí then chốt ở thủ đô, gồm các cầu qua sông Neva, nhà ga xe lửa, trung tâm bưu điện, nhà máy điện, Ngân hàng quốc gia và các cơ quan quan trọng khác ở Thủ đô. + Rạng sáng 25101917 (7111917), trừ Cung điện Mùa Ðông và một vài nơi, các lực lượng khởi nghĩa đã làm chủ tình hình ở Thủ đô Petrograd. 10 giờ sáng, Trung tâm quân sự cách mạng của Soviet Petrograd công bố lời kêu gọi "Gửi các công dân nước Nga" do V.I.Lenin dự thảo, trong đó tuyên bố Chính phủ lâm thời đã bị lật đổ, chính quyền đã về tay các Soviet. Tiếp đến 21 giờ 40 phút, sau pháo lệnh của chiến hạm "Rạng đông", quân khởi nghĩa tiến công Cung điện Mùa Ðông nơi cố thủ cuối cùng của Chính phủ lâm thời. Tới 2 giờ 10 phút đêm rạng sáng 26101917, Cung điện Mùa Ðông bị chiếm, các bộ trưởng trong Chính phủ lâm thời bị bắt giữ. Thủ tướng Chính phủ lâm thời A. Kerenski trốn chạy ra nước ngoài. + Cũng trong ngày 25101917, Ðại hội các Soviet toàn Nga lần thứ II khai mạc. Ðại hội thông qua lời kêu gọi "Gửi công nhân, binh sĩ và nông dân" do V.I.Lenin dự thảo. Ðại hội ra quyết nghị: Các Soviet đại biểu công nhân, binh sĩ và nông dân có trách nhiệm bảo đảm trật tự cách mạng. Tại phiên họp diễn ra đêm 26 rạng sáng 27101917 (đêm 8 rạng sáng 911
- 1917), Ðại hội đã thông qua hai văn kiện đầu tiên của Chính quyền Soviet: "Sắc lệnh hòa bình" và "Sắc lệnh ruộng đất" do V.I.Lenin dự thảo. "Sắc lệnh hòa bình" tuyên bố những nguyên tắc về chính sách đối ngoại của Chính quyền Soviet, lên án cuộc chiến tranh đế quốc chủ nghĩa là "một tội ác lớn nhất đối với nhân loại" và kêu gọi các nước tham chiến trong cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất nhanh chóng đàm phán để ký kết một hòa ước dân chủ và công bằng. "Sắc lệnh ruộng đất" tuyên bố thủ tiêu không bồi thường ruộng đất của giai cấp địa chủ quý tộc và của các sở hữu lớn khác, quốc hữu hóa toàn bộ ruộng đất và chia ruộng đất cho nông dân. Ðại hội đã bầu ra Chính phủ Soviet đầu tiên, được gọi là Hội đồng các Ủy viên nhân dân do V.I.Lenin đứng đầu. + Ngày 15111917, Chính quyền Soviet được thiết lập tại Moscow. Ðến tháng 31918, Chính quyền Soviet giành được thắng lợi hoàn toàn trên phạm vi cả nước Nga rộng lớn. Cách mạng Tháng Mười Nga toàn thắng. 4. Ý nghĩa lịch sử của Cách mạng tháng 10 Nga. Cách mạng tháng 10 có ý nghĩa lịch sử trọng đại đối với nước Nga và Thế giới. a. Với nước Nga: Cách mạng tháng 10 mở ra một kỉ nguyên mới và làm thay đổi hoàn toàn tình hình đất nước và số phận hàng triệu con người ở Nga. + Lần đầu tiên trong lịch sử nước Nga, giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các dân tộc được giải phóng. Thoát khỏi mọi gông xiềng nô lệ, đứng lên làm chủ đất nước và vận mệnh của mình. + Lịch sử nước Nga bước sang một trang mới – một chế độ xã hội mới được thiết lập – chế độ xã hội chủ nghĩa với mục tiêu cao cả là xóa bỏ chế độ người bóc lột người; xây dựng một xã hội tự do, hạnh phúc, bình đẳng và công bằng cho mọi người lao động.
- b. Với Thế giới: Cách mạng tháng 10 có ảnh hưởng mạnh mẽ tới tiến trình lịch sử và cục diện Thế giới: + Thắng lợi của Cách mạng tháng 10 và sự ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa Xô Viết đầu tiên trên Thế giới đã làm cho chủ nghĩa tư bản không còn là một hệ thống hoàn chỉnh bao trùm Thế giới. + Thế giới đã phân chia thành 2 hệ thống xã hội đối lập: .) Hệ thống xã hội Tư bản chủ nghĩa. .) Hệ thống xã hội Xã hội chủ nghĩa. Cách mạng tháng 10 để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu cho Cách mạng Thế giới về sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản, về khối liên minh công nông và nghệ thuật chớp thời cơ để giành thắng lợi. Cách mạng tháng 10 đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào Cách mạng của giai cấp công nhân Quốc tế, chỉ ra cho họ con đường đi tới thắng lợi trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản. + Ngay sau khi Cách mạng tháng 10 thắng lợi, một cao trào Cách mạng vô sản đã bùng nổ ở Châu Âu (1918 – 1923) làm chấn động dữ dội nền thống trị của giai cấp tư sản nhiều nước. + Quốc tế Cộng sản được thành lập năm 1919 và hoạt động đến năm 1943 có vai trò rất quan trọng trong sự phát triển và thắng lợi của phong trào nông dân nhiều nước.
- Cách mạng tháng 10 mở ra một thời kì mới trong phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân các nước thuộc địa và phụ thuộc ở châu Á, châu Phi và khu vực Mĩ Latinh. Một xu hướng mới đã xuất hiện trong phong trào giải phóng dân tộc nhiều nước, xu hướng đi theo con đường Cách mạng vô sản dưới ngọn cờ tư tưởng của chủ nghĩa Mác – Lênin với những nhận thức mới. + Phong trào giải phóng dân tộc là một bộ phận khăng khít của phong trào Cách mạng vô sản Thế giới. + Tính tất yếu của sự kết hợp chặt chẽ giữa phong trào Cách mạng của giai cấp vô sản và phong trào giải phóng dân tộc trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung và chủ nghĩa đế quốc. => Nhờ đó, phong trào giải phóng dân tộc nhiều nước phát triển mạnh mẽ, Đảng Cộng sản ở nhiều nước ra đời và giành được những thắng lợi quan trọng. “Như ánh mặt trời chói lọi, Cách mạng tháng 10 chiếu rọi khắp năm châu, thức tỉnh hàng triệu, hàng triệu người bị áp bức, bóc lột trên Trái đất. Trong lịch sử loài người, chưa có cuộc Cách mạng nào có ý nghĩa to lớn và sâu xa như thế” (Hồ Chí Minh). c. Ảnh hưởng của cuộc cách mạng tháng Mười Nga với cách mạng Việt Nam? + Năm 1920, sau khi đọc bản “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra con đường cứu nước cho dân tộc Việt Nam. Đó là con đường đi theo Cách mạng tháng 10 Nga, con đường Cách mạng vô sản. + Tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam là “Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên” thành lập năm 1925 được sự huấn luyện và giảng dạy trực tiếp của Nguyễn Ái Quốc đã nâng cao ý thức chính trị cho thanh niên Việt Nam.
- Những bài giảng của Nguyễn Ái Quốc đã vạch trần tội ác của thực dân Pháp, truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin và kinh nghiệm xây dựng Đảng vô sản kiểu mới ở Nga. Qua đó, Nguyễn Ái Quốc đã chuẩn bị về mặt tổ chức cho sự thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam vào năm 1930. + Ảnh hưởng của Cách mạng tháng 10 đến Việt Nam thông qua con đường sách báo, lí luận và qua các thanh niên tiến bộ giữa lớp huấn luyện tại Quảng Châu của Nguyễn Ái Quốc. + Từ kinh nghiệm thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng 10, đó là sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Liên Xô; Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời vào tháng 2/1930 đã lãnh đạo Cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác: Cách mạng tháng 8/1945. Kháng chiến chống Pháp năm 1945 đến năm 1954. Kháng chiến chống Mĩ cứu nước năm 1954 đến năm 1975. Và công cuộc đổi mới năm 1986 đến nay. + Trong Cách mạng, Đảng ta cũng học tập kinh nghiệm từ Cách mạng tháng 10: Đoàn kết công – nông – binh thành một khối thống nhất để tạo nên sức mạnh vĩ đại. Xây dựng và củng cố chuyên chính vô sản. Xây dựng lực lượng Cách mạng vững chắc kết hợp chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa Quốc tế vô sản.
- d. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói về Cách mạng Tháng Mười (Hồ Chí Minh toàn tập, NXBCTQG, H.2002) Giống như mặt trời chói lọi, Cách mạng Tháng Mười chiếu sáng khắp năm châu, thức tỉnh hàng triệu người bị áp bức, bóc lột trên trái đất. Trong lịch sử loài người chưa từng có cuộc cách mạng nào có ý nghĩa to lớn và sâu xa như thế. Sách đã dẫn (Sđd) tập 12, tr.300. Cách mạng Tháng Mười mở ra con đường giải phóng cho các dân tộc và cả loài người, mở đầu một thời đại mới trong lịch sử, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên toàn thế giới. Sđd, tập 12, tr.301. Thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Mười đã dạy cho giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới nhiều bài học hết sức quý báu, bảo đảm cho sự nghiệp giải phóng triệt để của giai cấp công nhân và của cả loài người. Giai cấp công nhân Việt Nam ngày càng thấm nhuần những lời dạy của Lênin và những bài học lớn của Cách mạng Tháng Mười. Sđd, tập 12, tr.303. Cách mạng Tháng Mười đã chứng tỏ có khả năng lật đổ nền chuyên chính của bọn bóc lột, xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa, một xã hội bảo đảm cho đất nước phát triển rực rỡ một cách nhanh chóng chưa từng thấy, đưa quần chúng lao động đến một cuộc sống xứng đáng, vẻ vang và ngày càng phồn vinh, làm cho người lao động có một Tổ quốc tự do, hạnh phúc và hùng cường, hướng tới những chân trời tươi sáng… Sđd, tập 8, tr.560. Con đường thắng lợi của cách mạng Việt Nam chính là theo con đường của Cách mạng Tháng Mười Nga, mà Lênin vĩ đại đã vạch ra cho nhân dân lao động toàn thế giới, cho các dân tộc bị áp bức và cho cả loài người tiến bộ đi đến thắng lợi hoàn toàn.
- Sđd, tập 11, tr.495. Đi theo con đường do Lênin vĩ đại đã vạch ra, con đường của Cách mạng Tháng Mười, nhân dân Việt Nam đã giành được thắng lợi rất to lớn. Chính vì vậy mà mối tình gắn bó và lòng biết ơn của nhân dân Việt Nam đối với Cách mạng Tháng Mười vẻ vang, đối với Lênin vĩ đại… là vô cùng sâu sắc. Sđd, tập 12, tr.309. Từ Cách mạng Tháng Mười Nga thành công đến cuộc kháng chiến của Việt Nam thắng lợi, những trận đấu tranh cực kỳ gian khổ khó khăn, nhiều khi phải hy sinh xương máu, những người cách mạng lớp trước đã phụ trách và đã xây dựng nền tảng để cho thanh niên tiến lên. Sđd, tập 10, tr.308. Nhờ thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười vĩ đại, nhờ sự hình thành và phát triển của phe xã hội chủ nghĩa, nhờ sự lớn mạnh của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, hiện nay hàng trăm triệu nhân dân trên thế giới, trước kia là những nô lệ quằn quại dưới gót sắt của bọn thực dân, nay đã giành được tự do, độc lập. II. Mô hình chủ nghĩa xã hội đầu tiên trên thế giới Với sự ra đời của chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa xã hội đã từ lý thuyết không tưởng trở thành một lý luận khoa học. Quá trình thâm nhập lý luận khoa học đó vào đời sống thực tiễn phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động đã dẫn đến sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa xã hội hiện thực: từ một nước đến nhiều nước và trở thành một hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa hùng mạnh trên phạm vi quốc tế ở thế kỷ XX với nhiều thành tựu vĩ đại, in đậm dấu ấn không thể phai mờ trong lịch sử phát triển của xã hội loài người. Vào những thập niên cuối của thế kỷ XX, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan đã dẫn đến sự khủng hoảng và sụp đổ mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu. Chủ nghĩa xã hội hiện thực đã tạm thời lâm vào tình trạng
- thoái trào. Các nước xã hội chủ nghĩa còn lại đã tiến hành cải cách, mở cửa, đổi mới và tiếp tục phát triển. Thực tế lịch sử đó đã đặt ra vấn đề về tương lai của chủ nghĩa xã hội. Lời giải đáp chân chính cho câu hỏi này chỉ có thể có được trên cơ sở nắm vững những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa MácLênin và vận dụng sáng tạo những nguyên lý đó vào việc phân tích bối cảnh cụ thể của thời đại ngày nay. 1. Chủ nghĩa xã hội hiện thực a. Cách mạng Tháng Mười Nga và mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực đầu tiên trên thế giới Cách mạng Tháng Mười Nga (1917) Ngày 7 tháng 11 năm 1917 dưới sự lãnh đạo của Đảng bônsêvích Nga, đứng đầu là V.I.Lênin đã lãnh đạo quần chúng nhân dân khởi nghĩa thắng lợi, giành chính quyền xây dựng nhà nước Xô viết đầu tiên trên thế giới. Cách mạng Tháng Mười Nga là thắng lợi vĩ đại nhất của giai cấp công nhân và nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức, đánh đổ giai cấp tư sản và địa chủ phong kiến, lập nên chính quyền của những người lao động, xây dựng xã hội mới không có người bóc lột người. Sau Cách mạng Tháng Mười chủ nghĩa xã hội từ học thuyết lý luận đã trở thành hiện thực thực tiễn đối lập với hình thái kinh tế tư bản chủ nghĩa. Chiều hướng phát triển chủ yếu, trục chuyển động xuyên suốt của lịch sử từ sau Cách mạng Tháng Mười Nga là đấu tranh xoá bỏ trật tự tư bản chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi thế giới. Mô hình chủ nghĩa xã hội đầu tiên trên thế giới Mô hình đầu tiên của chủ nghĩa xã hội ra đời trong bối cảnh hết sức đặc biệt. Từ sau cách mạng Tháng Mười đến kết thúc Chiến tranh Thế giới thứ hai, Liên Xô là nước xã hội chủ nghĩa duy nhất. Điều kiện xây dựng một chế độ mới cực kỳ khó khăn và phức tạp: nền kinh tế lạc hậu lại bị tàn phá nặng nề trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, tiếp đó là nội chiến và chiến tranh can thiệp của 14 nước đế quốc, sự bao vây, cấm vận về kinh tế. Trước tình hình đó, từ năm 1918 đến đầu năm 1921, Đảng Cộng sản Nga đứng đầu là V.I.Lênin đã thực hiện Chính sách cộng sản thời chiến, tiến hành quốc hữu hóa tài sản, tư liệu sản xuất quan trọng nhất của bọn tư bản độc quyền, đại địa chủ và các thế lực chống phá cách mạng khác. Đến tháng 3 năm 1921, sau khi nội chiến kết thúc,
- Đại hội X Đảng Cộng sản Nga đã thông qua việc thực hiện Chính sách kinh tế mới (NEP). V.I.Lênin đã chỉ rõ trong những điều kiện mới, việc sử dụng những hình thức kinh tế quá độ của chủ nghĩa tư bản nhà nước là một bộ phận rất quan trọng của chính sách này. Với việc thực hiện NEP thì chủ nghĩa tư bản nhà nước là một trong những hình thức thích hợp để giúp nước Nga Xôviết nhanh chóng khắc phục tình trạng suy sụp kinh tế sau chiến tranh, hạn chế sự phát triển tự phát của nền sản xuất nhỏ mầm mống của sự phục hồi chủ nghĩa tư bản. V.I Lênin cho rằng, thông qua việc sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước, giai cấp vô sản có thể học tập, kế thừa và phát huy có chọn lọc tất cả những tài sản vật chất – kỹ thuật và tinh hoa chất xám trong kinh nghiệm sản xuất kinh doanh của các nhà tư bản cũng như tri thức khoa học – kỹ thuật và trình độ quản lý kinh tế của các chuyên gia tư sản. Nhà nước vô sản có thể sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước như là một hệ thống các chính sách, công cụ, biện pháp nhằm điều tiết hoạt động của các xí nghiệp tư bản còn tồn tại trong thời kỳ quá độ, nhằm hướng tới mục đích vừa sử dụng, vừa cải tạo bằng phương pháp hòa bình đối với các thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa và sản xuất nhỏ. Với ý nghĩa đó, chủ nghĩa tư bản nhà nước còn có thể coi là một trong những phương thức, phương tiện, con đường có hiệu quả trong việc thúc đẩy xã hội hóa và làm tăng nhanh lực lượng sản xuất của chủ nghĩa xã hội. Sau khi V.I.Lênin qua đời, đường lối đúng đắn này đã không được quán triệt và thực hiện đầy đủ. Chính sách kinh tế mới thực hiện chưa được bao lâu thì từ cuối những năm 20, đầu những năm 30 của thế kỷ XX, triệu chứng một cuộc chiến tranh thế giới mới ngày càng lộ rõ. Trong bối cảnh đó, ngoài nhiệm vụ xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, biến nước Nga lạc hậu thành một cường quốc công nghiệp còn phải xây dựng tiềm lực quốc phòng, đối phó với nguy cơ chiến tranh. Trong điều kiện như vậy, nhà nước Xôviết không thể không áp dụng cơ chế kế hoạch hóa tập trung cao. Trong thực tế, Liên Xô đã thành công rực rỡ trong sự nghiệp công nghiệp hóa với thời gian ngắn (chưa đầy 20 năm), trong đó đã mất gần 10 năm nội chiến, chống chiến tranh can thiệp và khôi phục kinh tế sau chiến tranh. Đó là thành tựu vĩ đại của nhân dân Liên Xô. Do đó, không thể phủ nhận vai trò to lớn, có ý nghĩa lịch sử của mô hình đầu tiên này của chủ nghĩa xã hội.
- b. Sự ra đời của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa và những thành tựu của nó Sự ra đời và phát triển của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa Sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới ra đời bao gồm các nước: Liên Xô, Cộng hòa dân chủ Đức, Hunggari,Rumani, Tiệp Khắc, Anbani, Mông Cổ, Trung uốc, Triều Tiên, Việt Nam (sau này thêm Cuba). Chính vì vậy, Hội nghị 81 Đảng Cộng sản và công nhân của các nước tại Matxcơva năm 1960 đã ra tuyên bố và khẳng định: “Đặc điểm chủ yếu của thời đại chúng ta là hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới đang trở thành nhân tố quyết định sự phát triển của xã hội loài người”. Những thành tựu của chủ nghĩa xã hội hiện thực. Cho dù lịch sử có biến động như thế nào, dù có ai cố tình xuyên tạc lịch sử cũng không thể phủ nhận được sự thật là Liên Xô và các nước Đông Âu đã có một thời kỳ phát triển rực rỡ và đạt được rất nhiều thành tựu to lớn đóng góp chung vào sự phát triển của nhân loại trong thế kỷ XX. Chế độ xã hội chủ nghĩa đã từng bước đua nhân dân lao động lên làm chủ xã hội, thúc đẩy trào lưu đấu tranh cho quyền tự do dân chủ trên toàn thế giới. Sự ra đời của chế độ xã hội chủ nghĩa cũng có nghĩa là chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa được thiết lập. Đó là chế độ dân chủ cho tuyệt đại đa số nhân dân lao động, thực hiện ngày càng đầy đủ quyền dân chủ, ngăn ngừa và trấn áp những hành vi xâm phạm quyền tự do dân chủ của nhân dân. Trong hơn 70 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội, Liên xô và các nước xã hội chủ nghĩa đã đạt được sự phát triển mạnh mẽ về tiềm lực kinh tế, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội trên quy mô lớn với trình độ hiện đại, đảm bảo ngày càng tốt hơn đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Chủ nghĩa xã hội có ảnh hưởng sâu sắc trong đời sống chính trị thế giới, đóng vai trò quyết định đối với sự sụp đổ của hệ thống thuộc địa, mở ra kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc và thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Sức mạnh của chủ nghĩa xã hội đóng vai trò quyết định đẩy lùi nguy cơ chiến tranh hủy diệt, bảo vệ hòa bình thế giới. Chủ nghĩa xã hội còn có tác động mạnh mẽ đến phong trào đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ của nhân dân trong các nước tư bản chủ nghĩa. 2. Sự khủng hoảng, sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội xôviết và nguyên nhân của nó a. Sự
- khủng hoảng và sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội Xôviết Lịch sử xã hội loài người không đi theo con đường thẳng và phong trào cách mạng cũng không tránh khỏi sai lầm, thất bại hay những thời kỳ thoái trào. Bắt đầu từ cuối những năm 60 của thế kỷ XX, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu đi vào thời kỳ khủng hoảng. Từ tháng 4 năm 1989 trở đi, sự đổ vỡ diễn ra liên tiếp ở các nước Đông Âu. Chỉ trong vòng 2 năm, đến tháng 9 năm 1991, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và sáu nước Đông Âu đã bị sụp đổ hoàn toàn. Sự đổ vỡ cũng diễn ra ở Mông Cổ, Anbani, Nam tư. b. Nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng và sụp đổ Nguyên nhân sâu xa là những sai lầm thuộc về mô hình phát triển của chủ nghĩa xã hội Xôviết Sau khi V.I.Lênin qua đời, ở Liên Xô, chính sách kinh tế mới không được tiếp tục thực hiện mà chuyển sang kế hoạch hoá tập trung cao độ. Thời gian đầu, kế hoạch hoá tập trung đã phát huy mạnh mẽ tác dụng, song đã biến dạng thành kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp. Sau chiến tranh thế giới thứ II, Liên Xô vẫn tiếp tục duy trì mô hình này. Trong mô hình này đã tuyệt đối hoá cơ chế kế hoạch hoá, tập trung cao, từ bỏ hay gần như từ bỏ nền kinh tế hàng hoá, cơ chế thị trường, thực hiện chế độ bao cấp tràn lan, triệt tiêu tính chủ động, sáng tạo của người lao động. Từ giữa những năm 70 của thế kỷ XX, sau cuộc khủng hoảng năng lượng năm 1973, các nước tư bản sau khủng hoảng đã tự điều chỉnh để thích nghi với tình hình mới. Ngược lại, Liên Xô và các nước Đông Âu vẫn cứ giữ nguyên mô hình phát triển theo kiểu tuyệt đối hoá cơ chế kế hoạch hoá, chỉ trú trọng đến phát triển công nghiệp nặng mà không chú ý đến sản xuất các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu, đặc biệt là chưa đầu tư đúng mức cho phát triển khoa học và công nghệ, dần dần tụt hậu so với các nước tư bản chủ nghĩa. Do chậm đổi mới cơ chế kinh tế, hệ thống quản lý và nói chung là chậm đổi mới mô hình chủ nghĩa xã hội dẫn đến hậu quả tất yếu là sự thua kém rõ rệt trong nhiều lĩnh vực công nghệ và năng suất lao động so với các nước tư bản chủ nghĩa. Những sai lầm chủ quan nghiêm trọng kéo dài như đã nói trên chính là nguyên nhân sâu xa làm cho chế độ xã hội chủ nghĩa suy yếu, rơi vào khủng hoảng. Tuy nhiên, sự thất bại của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô, Đông Âu không phải xuất phát từ sai lầm, khuyết tật do bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa mà là do quan niệm giáo điều về chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh năm 1991 của Đảng ta chỉ rõ: “ Do duy trì quá lâu những khuyết tật của mô hình cũ của chủ nghĩa xã hội, chậm trễ trong cách mạng khoa học và công
- nghệ” đã gây tình trạng trì trệ kéo dài và khủng hoảng. Nguyên nhân chủ yếu và trực tiếp dẫn đến sự sụp đổ Một là, trong cải tổ Đảng Cộng sản Liên Xô đã mắc những sai lầm rất nghiêm trọng về đường lối chính trị, tư tưởng và tổ chức. Đó là đường lối hữu khuynh, cơ hội và xét lại, thể hiện trước hết ở những người lãnh đạo cao nhất. Cải tổ ở Liên Xô bắt đầu từ 1986 và kết thúc trong sự đổ vỡ hoàn toàn năm 1991. Đường lối cải tổ trượt dài từ cơ hội hữu khuynh đến xét lại, từ bỏ hoàn toàn chủ nghĩa MácLênin, từ bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Từ chủ trương ban đầu là cải tổ kinh tế chuyển nhanh sang cải tổ về chính trị một cách vô nguyên tắc đã tạo điều kiện cho sự phát triển làn sóng “công khai”, “dân chủ”, “không có vùng cấm”, phủ định mọi thành tựu của chủ nghĩa xã hội, gây tâm lý hoang mang cực độ trong tư tưởng xã hội, phá vỡ niềm tin của quần chúng đối với chủ nghĩa xã hội. Bằng việc loại bỏ dần những người không tán thành đường lối sai lầm của cải tổ, nhóm lãnh đạo cải tổ đã chiếm được các vị trí chủ chốt trong bộ máy Đảng và nhà nước. Hai là, chủ nghĩa đế quốc đã can thiệp toàn diện, vừa tinh vi, vừa trắng trợn, thực hiện được “diễn biến hòa bình” trong nội bộ Liên Xô và các nước Đông Âu. Chủ nghĩa đế quốc thường xuyên tiến hành cuộc chiến tranh khi thì bằng súng đạn, khi bằng “diễn biến hòa bình” chống chủ nghĩa xã hội, gây ra cuộc chiến tranh lạnh từ sau Chiến tranh Thế giới thứ hai. Các chiến lược gia phương Tây đã sớm nhận ra “gót chân Asin” của cải tổ: đó là đường lối xét lại, là hệ tư tưởng tư sản, là chính sách thỏa hiệp, nhân nhượng vô nguyên tắc với Mỹ và phương Tây thể hiện ở “tư duy chính trị mới”. Các thế lực chống chủ nghĩa xã hội ở bên ngoài theo sát quá trình cải tổ, tìm mọi cách để lái nó theo ý đồ của họ, tác động vào cải tổ cả về tư tưởng, chính trị và tổ chức. Tóm lại, sự phá hoại của chủ nghĩa đế quốc cùng với sự phản bội từ bên trong là nguyên nhân trực tiếp làm Liên Xô sụp đổ. Hai nguyên nhân này quyện chặt vào nhau, tác động cùng chiều, tạo nên lực cộng hưởng rất mạnh và nhanh như một cơn lốc chính trị trực tiếp phá hoại ngôi nhà của chủ nghĩa xã hội. Tất nhiên, xét cho cùng chính bọn cơ hội, xét lại và phản bội, sự mất cảnh giác trong hàng ngũ những người cộng sản đã tạo cơ hội bằng vàng cho chủ nghĩa đế quốc “chiến thắng mà không cần chiến tranh”. Trong tình hình chủ nghĩa xã hội trì trệ và khủng hoảng do sai lầm củamô hình cũ thì cải tổ, cải cách mở cửa, đổi mới là tất yếu để thoát khỏi khủng hoảng, đưa đất nước vào thời kỳ phát triển mới.
- Nhưng vấn đề là ở chỗ, cải cách dựa trên nguyên tắc nào? Bằng phương pháp nào để vừa giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, vừa đạt được hiệu quả kinh tế xã hội cao. Bài học của Liên Xô và Đông Âu có ý nghĩa vô cùng quan trọng cho những người Cộng sản ở các nước xã hội chủ nghĩa trong quá trình đổi mới hiện nay Chủ nghĩa xã hội hiện thực trên thế giới ra đời từ sau thắng lợi của cuộc Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga (1917), cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga thắng lợi là một mốc son chói lọi trong sự phát triển của xã hội loài người. Lần đầu tiên trong lịch sử, một chế độ xã hội ưu tiên đã ra đời. Một xã hội dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu đã phát huy vai trò của quần chúng nhân dân lao động trong quản lý đất nước. Ách áp bức bóc lột giữa người với người về cơ bản đã bị xóa bỏ. Ngay sau thắng lợi của Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười, các Sắc lệnh về hòa bình, Sắc lệnh về ruộng đất được ban bố làm nức lòng nhân dân lao động ở nước Nga. Nhờ tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, từ một nước Nga xã hội chủ nghĩa đã lôi cuốn hàng chục nước lân cận Nga để thành lập nên Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết (viết tắt là Liên Xô – 1922). Ngay sau khi thành lập, Liên Xô đã có những đột phá trên con đường xây dựng xã hội ở một nước còn lạc hậu về khoa học, kỹ thuật. Với chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hợp tác hóa, có sự kế thừa những thành tựu trong khoa học kỹ thuật và quản lý của chủ nghĩa tư bản, Liên Xô đã nhanh chóng trở thành một cường quốc trên thế giới. Với vai trò quyết định cứu nhân loại khỏi thảm họa của chủ nghĩa phát xít trong cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai đã minh chứng cho sức mạnh của chủ nghĩa xã hội hiện thực. Ngay sau đại chiến thế giới lần thứ hai kết thúc, một hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa đã ra đời ở các nước thuộc Đông Âu, nhiều nước ở Châu Á và Mỹ Latinh đã giành thắng lợi to lớn trong cuộc cách mạng dân tộc dân chủ rồi gia nhập vào phe xã hội chủ nghĩa (Việt Nam, Trung Quốc, Cuba…).
- Từ sau năm 1945, chủ nghĩa xã hội hiện thực tiếp tục khẳng định vai trò, vị thế đối trọng của mình với hệ thống tư bản chủ nghĩa trên thế giới, tạo ra những điều kiện để phong trào xã hội chủ nghĩa, phong trào giải phóng dân tộc và phong trào đấu tranh vì hòa bình dân chủ trên thế giới phát triển. Sau hơn 70 năm tồn tại, phát triển, nó đã có những cống hiến, thành tựu trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, tạo nên mối quan hệ đối trọng giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản hiện đại, mở ra triển vọng phát triển mới, tiến bộ của nhân loại. Trước hết là thành tựu trong việc xây dựng một chế độ chính trị với nhiều điểm tiến bộ, phù hợp với xu thế phát triển của văn minh nhân loại xóa bỏ mọi áp bức, bất công giữa người và người, lôi cuốn đông đảo người dân vào quản lý xã hội, quản lý đất nước. Trong quá trình phát triển của mình, chế độ xã hội chủ nghĩa ở nhiều nước đã tạo nên nhiều thành tựu to lớn trên các lĩnh vực văn hóa; khoa học – kỹ thuật; giáo dục và đào tạo. Trên lĩnh vực xã hội, chủ nghĩa xã hội hiện thực đã có nhiều đóng góp, thành tựu trong giải quyết hàng loạt vấn đề xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội (chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội, tạo việc làm cho người lao động, chế độ phúc lợi công cộng trong giáo dục – đào tạo, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân…). Về phương diện đối ngoại, nhờ sự tồn tại, phát triển cả hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa, chủ nghĩa xã hội hiện thực đã đóng góp thiết thực vào việc giữ gìn hòa bình trên thế giới, góp phần thúc đẩy các phong trào cách mạng dân tộc, dân chủ và các phong trào tiến bộ trên thế giới phát triển. Sau một thời kỳ phát triển với những đóng góp to lớn vào tiến trình cách mạng thế giới, chủ nghĩa xã hội hiện thực lâm vào tình trạng trì trệ và từng bước rơi vào khủng hoảng, những quy luật xây dựng chủ nghĩa xã hội không được đúc rút cụ thể mà chỉ dừng lại ở những quy luật chung, phổ quát, lại mang tính áp đặt, khiên cưỡng, chưa phản ánh nét đặc thù của con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở từng quốc gia, khu vực. Tình hình đó dẫn đến sự rạn nứt trong hệ
- thống các nước xã hội chủ nghĩa. Biểu hiện rõ rệt nhất cuộc khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội hiện thực trên thế giới là khủng hoảng về thể chế chính trị dẫn đến khủng hoảng về kinh tế, xã hội. Hệ tư tưởng Mác Lênin từng bước bị xa rời hoặc bị chối bỏ. Mất đoàn kết, không thống nhất ý chí giữa các đảng cộng sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa là biểu hiện thực tế nhất của khủng hoảng về mô hình và cách thức xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực từ sau những năm 60 của thế kỷ XX. Đỉnh điểm cuộc khủng hoảng của mô hình xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô là việc giải thể Liên bang Xôviết dưới thời kỳ Enxin người kế nhiệm Goócbachốp giữ vai trò Tổng thống Liên bang Nga (1991). Cùng thời kỳ sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô, hàng loạt nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu cũng lâm vào tình trạng tương tự. Sau năm 1991 ở Liên Xô và Đông Âu, chủ nghĩa tư bản được khôi phục thay thế cho chế độ xã hội chủ nghĩa. Sau hơn 70 năm tồn tại, sự tan rã của thể chế chính trị ở Liên Xô và Đông Âu thực chất là sự tan rã của một dạng thức, một mô hình của xã hội chủ nghĩa được coi là “mẫu mực” là “duy nhất đúng”. Tuyệt nhiên, đó không phải là sự đổ vỡ, sự “kết thúc lịch sử” của chủ nghĩa MácLênin, chủ nghĩa xã hội khoa học. * Những nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng, suy thoái của chủ nghĩa xã hội hiện thực Những nguyên nhân khách quan Thứ nhất, nhận thức, lý luận về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội là vấn đề hoàn toàn mới, thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội chưa có tiền lệ; mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn luôn đặt ra yêu cầu phải đánh giá và vận dụng đúng, sáng tạo lý luận MácLênin về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nếu so với các mô hình tổ chức xã hội có trước đó thì mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa là một kiểu tổ chức xã hội hoàn toàn mới, chưa có tiền lệ. Bản thân các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác Lênin mới dự báo những nét cơ bản ban đầu. Mặt khác giữa lý luận và thực tiễn luôn có khoảng cách lớn: có những quan điểm Mác Lênin về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội cho đến
- nay vẫn còn giữ nguyên giá trị; có những quan điểm đã bị lịch sử vượt qua; có những quan điểm cần nhận thức lại, nhận thức cho đúng. Thứ hai, các xu thế mới nảy sinh trong thời đại đã tác động lớn đến đời sống chính trị xã hội thế giới, đến sự tồn vong của chủ nghĩa xã hội hiện thực. Toàn cầu hóa trở thành xu thế lớn lôi cuốn hầu hết các quốc gia dân tộc tham gia, với những cơ hội và thách thức lớn. Bên cạnh đó, các xu hướng khác như dân chủ hóa đời sống xã hội, đa phương hóa các quan hệ quốc tế đi kèm với những xung đột sắc tộc, tôn giáo, tranh chấp lãnh thổ, tài nguyên, biển đảo v.v. đều tác động không nhỏ đến thể chế chính trị ở nhiều quốc gia. Trong đó rất nhiều ảnh hưởng tiêu cực tác động đến chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa ở nhiều nước. Những tác động từ khoa học, công nghệ, các xu thế lớn của thời đại đều diễn ra mạnh mẽ với những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực đối với chủ nghĩa xã hội hiện thực. Thứ ba, việc tồn tại song song hai thể chế chính trị chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản đã dẫn đến sự chống phá điên cuồng của các thế lực thù địch của chủ nghĩa xã hội trên thế giới. Thời kỳ Chiến tranh lạnh là thời kỳ mà chủ nghĩa tư bản hiện đại với mọi toan tính thâm độc muốn xóa bỏ chủ nghĩa xã hội hiện thực. Rất nhiều âm mưu, thủ đoạn từ các nước tư bản lớn, nhất là từ Mỹ đã được thực hiện để thay đổi tương quan lực lượng giữa “hai phe”, hai thể chế chính trị trên thế giới. Trong rất nhiều âm mưu, thủ đoạn chống phá chủ nghĩa xã hội hiện thực có chiến lược “diễn biến hòa bình” đã được Mỹ và nhiều nước tư bản chủ nghĩa sử dụng và gây hậu quả nghiêm trọng đối với hệ thống chủ nghĩa xã hội thế giới. Chiến lược “diễn biến hòa bình” mà các đế quốc thực hện đã góp phần đẩy nhanh quá trình khủng hoảng và sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu. Những nguyên nhân chủ quan
- Bên cạnh những nguyên nhân khách quan vốn có, nhiều nguyên nhân chủ quan là những nguyên nhân chủ yếu, trực tiếp dẫn đến cuộc khủng hoảng suy thoái của chủ nghĩa xã hội hiện thực. Một là, những sai lầm, yếu kém trong nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội và về con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội không được phát hiện, sửa chữa, điều chỉnh kịp thời. Bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác Lênin nói chung, của lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội nói riêng luôn đòi hỏi các đảng cộng sản và công nhân phải có các quan điểm lịch sử cụ thể và quan điểm phát triển sáng tạo. Tuy nhiên, trong hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa đã có những nhận thức sai lầm, máy móc, giáo điều khi vận dụng các quan điểm Mác Lênin. Sai lầm, yếu kém đã diễn ra khá lâu nhưng không được phát hiện, sửa chữa, điều chỉnh, dẫn đến tình trạng khủng hoảng ở các nước xã hội chủ nghĩa, nhất là ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu. Việc áp đặt mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa kiểu Xôviết cho tất cả các nước trong hệ thống là một sai lầm, khuyết điểm lớn. Trong đó, đã tuyệt đối hóa những giá trị, những nét đặc tưng mang tính phổ biến và coi nhẹ, xem thường những giá trị, đặc trưng mang tính đặc thù của từng quốc gia dân tộc là hoàn toàn trái với quan điểm lịch sử cụ thể về tính đa dạng, phong phú của chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Ở một phương diện khác, rất nhiều nước xã hội chủ nghĩa đã qúa chủ quan, nóng vội muốn xóa bỏ ngay các thành phần kinh tế “phi xã hội chủ nghĩa”, không vận dụng đúng các quy luật kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Việc đã xa rời quan điểm Mác – Lênin về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Việc duy trì cơ chế kế hoạch hóa tập trung, xem nhẹ các yếu tố của thị trường đã làm triệt tiêu những động lực trong phát triển kinh tế. Hai là, trong công tác xây dựng đảng, ở nhiều nước đã xa rời nguyên tắc xây dựng đảng kiểu mới của chủ nghĩa Mác – Lênin, biến đảng cộng sản thành tổ chức độc quyền, một số cán bộ lãnh đạo cao cấp trở thành kẻ quan liên, từng bước xa rời hoặc phản bội lại chủ nghĩa Mác – Lênin.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Bài giảng Văn minh thế giới thế kỷ XX
39 p | 324 | 52
-
Cách mạng tháng 10 Nga 1917 và cuộc đấu tranh bảo vệ cách mạng (1917 - 1921 )
33 p | 459 | 42
-
Cách mạng XHCN tháng 10 Nga 1917
24 p | 154 | 19
-
Luận cương tháng Tư của V.I.Lênin và vấn đề giành chính quyền trong cách mạng XHCN tháng Mười Nga
8 p | 377 | 15
-
Giáo trình Lịch sử thế giới hiện đại (Quyển 1): Phần 1
109 p | 62 | 14
-
Cách mạng tháng 10 Nga - Giá trị lịch sử và ý nghĩa thời đại - TS. Bùi Quang Xuân
14 p | 162 | 11
-
Lịch sử phong trào cộng sản và công nhân quốc tế - Những vấn đề cơ bản: Phần 2
104 p | 78 | 11
-
Lịch sử nước Nga: Phần 2
344 p | 14 | 9
-
Vai trò của V.I.Lênin đối với thắng lợi Cách mạng tháng mười Nga năm 1917
9 p | 178 | 8
-
Ebook Quan hệ Việt Nam - Liên Xô (1917 - 1991) - Những sự kiện lịch sử: Phần 1
319 p | 25 | 7
-
Cách mạng Tháng mười Nga - giai đoạn mới trong quá trình phát triển quan hệ Xô-Việt hợp tác Liên Xô/Nga - Việt Nam trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo
6 p | 44 | 5
-
Ý nghĩa của Cách mạng Tháng Mười Nga đối với phong trào cách mạng thế giới
4 p | 27 | 4
-
Tư tưởng của V.I. Lê-nin về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga và ý nghĩa đối với Việt Nam
11 p | 22 | 4
-
Phụ ngữ Nga trước, trong và sau Cách mạng Tháng Mười
5 p | 25 | 3
-
Nguyễn Ái Quốc lựa chọn chủ nghĩa Mác - Lênin để xác lập hệ tư tưởng mới cho dân tộc
14 p | 47 | 3
-
Sự vận dụng sáng tạo những kinh nghiệm cách mạng tháng mười Nga của Hồ Chí Minh
5 p | 56 | 3
-
Những bài học và ý nghĩa của năm 1917
4 p | 38 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn