intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Chùa Tháp - Đền Trần ở tỉnh Nam Định: Phần 1

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:119

58
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Cuốn sách “Di tích lịch sử - văn hoá đền Trần, Chùa Tháp tỉnh Nam Định” nhằm giới thiệu, khảo cứu về địa lí, kiến trúc, nghệ thuật, cách bài trí thờ tự, lễ hội của di tích có kèm theo một số tư liệu Hán Nôm như hoành phi, câu đối, bài vị, bia đá, sắc phong,...hiện đang lưu giữ tại khu di tích thuộc quần thể văn hoá triều Trần tại thành phố Nam Định. Mời các bạn cùng tham khảo phần 1 của cuốn sách.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Chùa Tháp - Đền Trần ở tỉnh Nam Định: Phần 1

  1. TRỊNH THỊ NGA (Suii tẩm - Biên soạn) DI TÍCH LỊCH SỬ -VĂN HÓA ĐỂN TRẦN - CHÙA THÁP TỈNH NAM ĐĨNH TRINH TH| NGA Sinh năm 1964 - Quê xã Yên Phong huyện Ý Yên tỉnh Nam Định. - Trú tại 53/71 đường Kênh, phường Cửa Bắc thành phố Nam Định. -Cửnhân văn hoá. - Hội viên hội Khoa học lịch sửNam Định. - HưÉng dẫn viên Ban quản lí khu di tích lịch sử - văn hoá đền Trần - chùa Tháp thành phô Nam Định. Mobile; 0989189179 NHÀ XU Ấ T BẢN VÀN HÓA DÂN TỘC - 2008
  2. TRỊNH THỊ NGA (SƯU TẦM - BIÊN SOẠN) DI TÍCH LỊCH s ử ■VĂN HOÁ ĐỂN TRẦN, CHÙA THÁP TỈNH NAM ĐỊNH NHÀ XUẤT BẢN VĂN HOÁ DÂN TỘC HÀ NỘI - 2009
  3. LỜI NÓI ĐẦU Khu di tích lịch sử văn hoá đền Trần - chùa Tháp thuộc phủ Thiên Trường xưa của nhà Trần, thờ phụng các vị vua anh minh, những tướng tài xuất chúng, những nhà văn hoá tài ba. Công đức của họ đ ã làm vẻ vang cho đất nước, đem lại niềm tự hào cho dân tộc. Tên tuổi của họ sống mãi trong lòng dân với một tấm lòng kính trọng. Tiền nhân đ ã xây dựng ở Nam Định nhiều công trình văn hoá có giá trị như: đền Trần (Tức Mặc) thờ 14 vị Hoàng đ ế thời Trần; đền C ố Trạch, đền Bảo Lộc thờ Quốc Công Tiết C hế Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn; đền Vạn Khoảnh thờ vị thượng hoàng đầu tiên của nhà Trần là Trần Thừa; đền Lựu Phố, đền Lốc thờ Thống Quốc Thái sư Trần Thủ Độ; đình Cao Đài, đền Hậu Bồi thờ Chiêu minh vương Trần Quang Khải; chùa P hổ Minh thở Phật và thờ Tam tổ Trúc Lâm, tiêu biểu là tháp P hổ Minh - một biểu tượng văn hoá triều Trần độc đáo tại Nam Định. Cuốn sách Di tích lịch sử - vân hoá đền Trần - Chùa Tháp tỉnh Nam Định nhằm giới thiệu, khảo cứu về các di tích thuộc quần thể văn hoá triều Trần tại thành p h ố Nam Định. Mặc dù rất c ố gắng nhưng chúng tôi cũng chỉ giới thiệu được phần nào về địa lí, kiến trúc, nghệ thuật, cách bài trí thờ tự, lễ hội của di tích có kèm theo một s ố tư liệu Hán Nôm như hoành phi, câu đối, bài vị, bia đá, sắc phong... hiện đang lưu giữ tại di tích.
  4. Chúng tôi xin cảm ơn sự nhiệt tình giúp đỡ của đồng nghiệp và Nhà xuất bản Văn hoá dân tộc đ ể cuốn sách được ra mắt bạn đọc. Hy vọng cuốn sách s ẽ là người bạn hướng dẫn du khách trong cuộc hành hương về quê hương các vị Hoàng đ ế đời Trần. Những thiếu sót trong cuốn sách sẽ khó tránh khỏi, chúng tôi mong nhận được ý kiến đóng góp của quý độc giả và đồng nghiệp đ ể lần xuất bản sau được hoàn chỉnh hơn. M ùa thu năm 2008 TÁC GIẢ
  5. so e>ổ OLròo OÍN mỘT số OI TtcN moito O K ẩiN m« OI TiCN lịc N Sư■ VÍIN milu mắN m i N ift* b Ị n h SÔNG CHMJ Đển ” Vạn Khoảnh giang sõ’ Đền Lựu Phô Đén w *-ăng mộ Bảo Lộc Trẩn Hưng Đạo Đển Lộc Quý Đền thờ Trẩn Quang Khải Đỉnh Llèu Nha Đến Trán Chùa Đệ Tứ m ẳằề Chùa Tháp ' Đ.Trẩn Thủ Độ QUỐC t ộ \ữ ĐI THÁI BÌNH HÀ NỘI TRUNG TAM TP.NAM ĐỊNH ĩ
  6. sơ Đ ồ ĐirỜNO đ I n f5ÍN TRấN ■ CHŨfl THÁP TÌNH NAM d Ị n H
  7. PHẦNI HÀNH CUNG THIÊN TRƯỜNG XƯA PH Ủ T H IÊ N TRƯ ỜN G XƯA VÀ NAY 1. P h ủ T hiên T rường xưa Kể từ thời Lý, phía tây sông Hồng tại vùng Nam Định hiện nay đã là vùng đất được dân xứ Bắc chú ý. Ngọc phả đình Đông thôn Đệ Tam ghi việc Sứ quân Trần Lãm quê gốc ở Quảng Đông (Trung Quốc) có công phò giúp Ngô Quyển chống quân Nam Hán nên được ban thực ấp ở vùng Bố Hải Khẩu^^\ Nay các làng thôn Đệ Tam (Mỹ Phúc), Thanh Khê (Mỹ Trung) đều lập đền thờ ông. Đến cuối thời Lý đầu thời Trần trung tâm này lấn ra tód biển mới chừng 30 dặm. Tòa thành đất tại Dương Xá và thành đất nhỏ h 9fn ở phía nam, phía bắc đã được Tô Trung Tự, Trần Tự Khánh sửa dựng. Ngọc phả đình Vị Xuyên thờ vợ chồng tướng quân Đoàn Thượng, ban đầu có duệ hiệu là Hải Quốc đại tướng, Dương phu nhân. Dương phu nhân tức bà Dương Thị Mỹ mai danh ẩn tích về làng Dương Xá, chiêu dân phiêu tán, chấn hưng nghề mộc và nghề rèn. Câu đối đình Vị Xuyên: ‘T ị quốc bí danh, Đoàn ngôn chính thất. Giáo dân ấp, hưng công nghệ, Lý đại danh nhân. ” (1) Nay là vùng đất thị xã Thái Bình và một số xã ven sông Hồng thuộc tỉnh Nam Định. 5
  8. Dịch nghĩa: Tránh nạn nước, dấu họ tên, trong cửa họ Đoàn ngôi chính thất. Dạy dân ấp, dạy công nghệ dưói triều Lý bậc danh nhân. Tại Dương Xá, bà lo tái lập làng xóm, cấp đỡ người nghèo, xây chùa Thiên Thuỷ, dựng đền thờ chồng, bắc cầu mở chợ khuyên dân chuyên nghề buôn bán. Trong bài: Tha phương tức sự của Vương Bình An người Trung Quốc sang đất An Bang (Quảng Ninh) về vùng Thiên Trường vào cuối triều Lý viết: Tứ biên thuỷ bích tiếp thiên thanh Giang thị ngư thôn nhiễu thổ thành Khang Kiện Qua Châu, nam bắc cận. Vĩnh Ninh, Bình Giã trại khu trình Thiên niên Dương Xá phù hoa cảnh Nhất thếTrần gia đại mộc kình Thương mại chí kim nam đắc trụ Tha phương hà dị c ố hương sinh Dịch nghĩa: Bốn bề nước biếc liền với trời xanh Chơ sông, xóm chài vòng, vèo bao ngoài thành đất Ph' I nam, phía bắc gần với Khang Kiện, Qua Châu Lại còn có trại Vĩnh Ninh, khu Bình Giã Muôn năm Dương Xá phồn hoa cảnh Một thuở Trần Triều rạng rỡ danh
  9. Buôn bán đến nay chừng khó ngặt Quê đây khôn dễ sánh quê mình! Nam Du Tạp Ký của Lý Kiến Bình, người phường Tiểu Ba, ấp Đông Ba phủ Chương Châu tỉnh Phúc Kiến - Trung Quốc là một thương nhân do nội loạn di cư đến phủ Thiên Trường vào năm 1212 thì viết như sau: “Nơi đây có bến đò, có chợ, có trang ấp Phù Hoa, Khang Kiện, Thiên Bồi, Vĩnh An, Dương Xá, Qua Châu.” Đầu tháng chạp năm Đinh Mùi (1368) Trần Thế Hưng một vị tướng thời Trần trước khi đi đánh Chiêm Thành, qua phủ Thiên Trường có viết bài thơ: MỸ LỘC HUYỆN BẢO DẠ TÚC Đinh Mùi niên - Trần T h ế Hưng Vũ sư Cảo khẩu ngọ nan tình Tam bạc giang châu phó thị đình Đông tiết dạ lai minh ngũyệt độn Hàn phong suy chí tửu gia quynh Lựu Viên c ố trạch hà nhân vấn An ấp tân từ tự cổ linh C ố thuyết anh hùng công bất hủ Đương tri dân tử vạn thiên huỳnh. Dịch nghĩa: ĐÊM NGHỈ LẠI THÀNH HUYỆN MỸ LỘC (Năm Đinh Mùi (1368) Trần Thế Hưng)
  10. Mưa sàng cửa Cảo trưa không tạnh Neo tạm thuyền lên ngắm thị đình Trăng sáng đêm đông tìm chỗ trốn Gió lùa quán rượu cửa then nhanh Lựu Viên nhà cũ ai còn hỏi An ấp đền nay trước vẫn linh Cứ nói anh hùng công bất hủ Nên hay dân chết vạn mồ xanh. Câu đối khắc ghi tại đền Thiên Trường, phường Lộc Vượng thành phố Nam Định. ứ c niên cư d ĩ sinh nhai Dương Aứ thuỷ lai đình tất trú Chí hậu công vu Lý tộ, Khang thôn sơ định tác gia từ. D ịc h : Nhớ xưa sinh sống bằng nghề chài Buổi đầu dừng gót nơi Dương Xá Về sau có công với nhà Lý Mới xây gia miếu tại Khang thôn. Bia chùa Vĩnh Trường (Viên Thông tự bi ký) thuộc thôn Vĩnh Trường, phường Lộc Vượng thành phố Nam Định. Chùa này có 2 bia Vĩnh Tọ thứ 2 (1677) và thứ 4 (1679), bia Bảo Đại. Tất cả các bia này đều nói: “Vĩnh Bình cổ đế hương dã, Viên Thông cổ tự hiệu dã...” (Vĩnh Bình là nơi quê hương của vua khi xưa có ngôi chùa cổ Viên Thông...)
  11. Qua các nguồn tư liệu đã tập hợp trên có thể giả định thời Lý khu Lộc Vượng, Lộc Hạ là khu trung tâm dân cư đông đúc, phía bắc có thành giáp sông gần đất Tảo Môn, đông nam có thành Ngô Xá, Nam Phong án ngữ làm thế ỷ dốc bảo vệ cho thành Dương Xá là thành phố Nam Định ngày nay. về cương vực cụ thể thì chưa có điều kiện nghiên cứu, vạch định rõ ràng, xong tạm xếp vùng Tảo Môn Hữu Bị nơi huyện lỵ Mỹ Lộc cũ là thành Vĩnh An, vùng Khang Kiện, Thiên Bồi, Vĩnh An là Lộc Vượng, Lộc Hạ và Lộc Hoà. Mỹ Tân, Dương Xá là vùng Vị Xuyên, Đông Mạc, Năng Tĩnh, Bình Giã là vùng Ngô Xá Vấn Khẩu, Nam Phong, Qua Châu là vùng Lộc An Mỹ Xá... Ngày 12 tháng Chạp Ấ Dậu (1226), Trần Cảnh lên ngôi vua vói vương hiệu là Trần Thái Tông. Ngay từ buổi đầu lên ngôi báu vua Trần đã nghĩ đến mảnh đất quý hương xưa là Dương Xá nay là vùng đất Tức Mặc phường Lộc Vượng thành phố Nam Định. Sách Đại Việt sử ký toàn thư - kỷ nhà Trần ghi: “Tân Mão năm thứ 7 (1231)... Mùa thu tháng 8 vua ngự đến hành cung Tức Mặc làm lễ hưởng ở tiên miếu, ban yến cho các bô lão trong hương và cho lụa theo thứ bậc khác nhau...” Đến năm Kỷ Họd (1239) vào mùa xuân tháng giêng, triều đình hạ lệnh cho Phùng Tá Chu^*^ giữ chức Nhập nội Thái phó, sai về cung Tức Mặc dựng cung điện, nhà cửa. Đến năm 1262, vào tháng hai (Nhâm Tuất), Thượng hoàng ngự đến hành cung Tức Mặc ban tiệc to... đổi hương Tức Mặc làm phủ Thiên Trường, cung (1) Phùng Tá Chu (?- 1240 là con Phùng Tá Thang làm quan dưối triều Lý. Khi Trần Cảnh lên ngôi, ban đầu để thưởng công cho các cựu thán nhà Lý đã phong cho Phùng Tá Chu làm Thái phó, tước Hưng nhân vương, sau lại gia phong thêm đại vương.
  12. gọi là cung Trùng Quang. Lại làm cung riêng cho vua đương triều đến chầu ở, gọi là cung Trùng Hoa. Lại lập chùa thờ phật ở phía tây cung Trùng Quang gọi là chùa Phổ Minh. Từ đấy về sau các vua nhường ngôi đến ngự ở cung này. Vì thế đặt sắc dịch hai cung để hầu hạ, đặt quan lưu thủ để trông coi”. Như vậy cung điện Tức Mặc chính thức được xây dựng vào năm 1239 do Phùng Tá Chu đốc thúc việc xây dựng. Đến năm 1258 sau khi đánh bại quân Nguyên Mông lần thứ nhất, Trần Thái Tông quyết định trao lại quyền hành cho Thái tử Hoảng. Thái tử lên ngôi lấy vương hiệu là Trần Thánh Tông đóng đô ở Thăng Long. Sau một thèd gian lưu lại Thăng Long để dìu dắt vua con lo việc nước, chủ yếu là lo việc đối ngọai với quân Nguyên phía bắc, Chămpa phía nam, Thượng hoàng lui về Tức Mặc. Nói là nghỉ ngơi nhưng có thể đây là ý đồ chiến lược của vua quan nhà Trần. Như vậy năm 1262 nhà Trần đã thăng làng Tức Mặc lên thành phủ Thiên Trường. Đây là một vùng đất rộng lớn bao gồm thành phố Nam Định, các xã phía nam huyện Mỹ Lộc, huyện Nam Trực tỉnh Nam Định và phía nam huyện Vũ Thư tỉnh Thái Bình nay. Bao quanh hai cung điện Trùng Quang, Trùng Hoa còn có các cung Đệ Nhất, Đệ Nhị, Đê Tam và Đệ Tứ dành cho cung tần mỹ nữ ờ để hầu cận Hoàng đế và hệ thống dinh thự của các quan lại cao cấp như; Bảo Lộc của An Sinh Vương Trần Liễu, Cao Đài của Thượng Tướng Thái sư Trần Quang Khải, Lựu Phố của Thống Quốc Thái sư Trần Thủ Độ. Với việc xây dựng hàng loạt các cung điện ở quê cũ, nhà Trần đã biến mảnh đất Tức Mặc Thiên Trường thành kinh đô thứ hai một trong những 10
  13. cơ quan đầu não chính trị của Đại Việt, một trung tâm văn hoá của cả nước sau kinh đô Thăng Long. Lê Trắc một người sống vào thế kỷ XIII đã mô tả về kinh thành như sau: " ở nơi ấy nước thưỷ triều quanh thành, hoa cỏ bên bờ mùi hương xông ngát, có những thuyền trang hoàng đẹp đ ẽ qua lại trên sông, y như cảnh tiên vậy. ” Hiạm Sư Mạnh một nhà thơ đương thời dưới triều Trần cũng phải thốt lên: Thành đô Tức Mặc như sông Giản sông Tiền xưa, Nhân dân vui vẻ phong tục chất phát Nước sông Vĩnh vây quanh toà điện chín tầng. (Ghi lại việc hầu vua về Thiên Trường) Trong ba cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông xâm lược, nơi đây đã trở thành căn cứ quan trọng đé triều đình rút lui về ẩn náu và bàn kế sách phản công chiến lược dẫn đến những thắng lợi oanh liệt của vua tôi nhà Trần và quân dân Đại Việt. Tức Mặc - Thiên Trường cũng chính là nơi ngự của các Thái thượng hoàng nhà Trần, bên ngoài thì sống cuộc đời tu hành nhàn hạ nhưng trong tâm trí vẫn lãnh đạo việc nước, hướng dẫn chỉ bảo vua nối nghiệp quản lý đất nước trên mọi phương diện. Sau năm 1413, quân Minh sang xâm lược Đại Việt ta. Chúng đã phá tan tất cả những cung vàng điện ngọc, những điền trang thái ấp của phủ Thiên Trường xưa. Những con rồng đá đặt ở trước cửa chùa Phổ Minh chúng cũng chặt mất đầu, bởi theo chúng thì Đại Việt không có “đế” mà chỉ được xưng vương thôi! Rồng là biểu thị của Hoàng Đế nên chúng chặt 11
  14. đầu để triệt đường phát đế. Tại sân chùa Phổ Minh thuộc phủ Thiên Trường, thời Trần có một chiếc vạc chất liệu bằng đồng gọi “vạc Phổ Minh” đây là một trong An Nam tứ khí của nhà nước Đại Việt thời Lý - Trần vậy mà giặc Minh vẫn đập vụn đổ lấy đồng đúc thành vũ khí. Duy chỉ có tượng phật trong chùa và ngôi tháp Phổ Minh là chúng không dám phá. Những di tích thuộc phủ Thiên Trường hiện nay đều được phục dựng từ thời Hậu Lê và thời Nguyễn. Vùng đất Thiên Trường xưa hiện nay còn lại hai di tích đặc biệt quý được xây dựng từ thời Trần đó là ngôi tháp chùa Phổ Minh và sân cung điện Đệ Tứ. 2. Phủ Thiên Trường nay. Những cung vàng, điện ngọc, những lầu son gác tía của phủ Thiên Trường xưa chỉ còn trong ký ức của mỗi người. Trải qua cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông và đặc biệt là giặc Minh, cùng với thời gian... Chúng ta không còn thấy được diện mạo của phủ Thiên Trường xưa. Ngày nay trên mảnh đất thiêng - chốn tổ của các vua Trần còn sừng sững cây tháp Phổ Minh. Đây là một công trình kiến trúc thcd Trần còn lại đến nay tương đối nguyên vẹn nhất. Tháp Phổ Minh được xây dựng vào đầu thế kỷ XIV (1305). Tháp xây bằng đá xanh và gạch nung đỏ, cao 14 tầng (19m51) với trọng lượng khoảng trên 300 tấn. Đây là một công trình độc đáo tượng trưng cho hình tượng hoa sen mọc giữa hồ sen, vươn cao lan toả tâm linh của thiền phái Trúc lâm. Một thiền phái “Phật Việt Nam mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc”. Tháp Phổ Minh được xây dựng vào đời vua Trần Anh Tông. Vua cha Trần Nhân Tông những năm làm Thái thượng hoàng về ở phủ Thiên Trường và chùa Phổ Minh 12
  15. là nơi Thượng hoàng thường nhật đến tu luyện, sau một số năm Thượng hoàng Trần Nhân Tông vào tu luyện ở am Thái Vi (thuộc Hoa Lư - Ninh Bình), sau người ra Yên Tử tu luyện và trở thành vị sư tổ số 1 của thiền phái Trúc Lâm. Trần Nhân Tông không chỉ đứng đầu một đạo phái phật Đại Việt mà còn là một vị vua anh minh. Trong chiến tranh chống quân Nguyên xâm lược, vua Nhân Tông là một nhà chiến lược và chỉ huy tài giỏi. Ông là một vị vua nổi tiếng khoan hoà nhân ái đã xây dựng được khối đại đoàn kết từ trong hoàng tộc đến ngoài muôn dân. Nên vua Anh Tông đã cho xây bảo tháp để xá lỵ của vua cha tại ngôi chùa làng - đất phật cũng là chốn quý hương của các vua Trần. Một di tích quý hiếm thứ hai thuộc phủ Thiên Trường là “sân phủ Đệ Tứ”. Sân lát gạch vuông, gạch có cạnh 30cm mặt gạch hình hoa cúc cách điệu, xung quanh có đường tròn viền hoa chanh. Theo luận thuyết “trời tròn - đất vuông” của người xưa: sân được xây dựng từ thời Trần, diện tích gạch ốp lát khá rộng. Rất tiếc cho đến nay địa phương vẫn chưa phục dựng được để đón khách tham quan. Trên nền cung điện Trùng Quang, Trùng Hoa xưa (nội cung) nay là khu di tích đền Trần gồm có ba đền: Chính giữa là đền Thiên Trường (còn gọi là đền Thượng) thờ 14 vị Hoàng đế cùng các vị thuỷ tổ nhà Trần, bên phải là đền Cố Trạch (còn gọi là đền Hạ) được xây dựng năm Thành Thái thứ 6 (1894) thờ Quốc Công tiết chế Hưng Đạo Đại vương cùng gia đình và các tướng lĩnh thân tín của ông. Bên trái là đền Trùng Hoa mới được phục dựng năm 2000 với phong cách kiến trúc truyền thống để thờ 14 Hoàng đế vói cách thể hiện chân dung, nhưng 13
  16. căn cứ vào cuộc đời và sự nghiệp của các đức vua đều được thể hiện thần thái ở giai đoạn sung mãn nhất, đóng góp nhiều nhất cho non sông đất nước ở thời trùng hưng, đánh giặc, giữ nước, dựng nước và xây dựng Đại Việt thành quốc gia hùng mạnh ở thế kỷ XIII - ngăn chặn và đẩy lùi ý chí bành chướng của đế quốc Nguyên Mông xuống khu vực Đông Nam Á. Khu di tích đền Trần có một hệ thống chân tảng cánh sen chạm khắc từ thời Trần được xếp theo bình đồ kiến trúc nội công ngoại quốc và một khối lượng tư liệu Hán Nôm phong phú như: sắc phong, văn bia, ngọc phả, câu đối, đại tự... Đáng lưu ý là các bức đại tự với ý tưởng ngợi ca dòng tộc Đông A thủy chung gắn bó, trọng lễ nghĩa, như: “Thiên địa trường tồn**, *‘Thịnh công hậu đức**, “Thượng mục hạ hoà**, “N hân hậu tương truyền’'... Những bức đại tự tại đền Trùng Hoa nói trên đã khẳng định niềm tin vào sự trường tổn của quốc gia Đại Việt, đức tài công lao của các vua Trần, sự tiếp nối liên tục đồng thuận các thế hệ vua cha, vua con nhà Trần để đức sáng sự nghiệp tổ tiên mãi được phát huy toả sáng trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Lớp vua cha đã chăm lo giáo dục bồi dưỡng lớp vua con nhà Trần để kế tục sự nghiệp của hoàng tộc, của quốc gia, đặc biệt là các vua cha đã nêu gương đạo đức và giáo dục cho thế hệ trẻ đạo đức kế tục. Điều ấy đã làm cho nhiều đời vua Trần có sự kế thừa và phát triển, tránh được những xung đột trong nội bộ hoàng tộc tranh chấp chức quyền (ngai vàng). Tòa đệ nhất còn gọi là trung đường của đền Thiên Trường, nơi thờ hiệu 14 vị Hoàng đế nhà Trần treo cao ba bức đại tự: “Thiên địa trường tồn**, “H ành đô Tức Mặc**, “Dán vi bang bản **. 14
  17. Tên phủ Thiên Trường bao hàm ý nghĩa đầy đủ là “Thiên đm trường tồ n ”. Đại tự “hành đô Tức M ặc” nói lên sự thật lịch sử địa lý hành chính thời Trần - Tức Mặc là thủ phủ, là trung tâm của phủ Thiên Trường, đồng thời cũng được coi như kinh đô thứ hai của quốc gia Đại Việt thời Trần. Tại toà đệ nhị đền Cố Trạch nơi đặt tượng Quốc Công tiết chế Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn, treo cao ba bức đại tự; “H ưng Đạo Thân Vương C ố Trạch”, “C hí Trung Đại N g h ĩa ”, “V õ Tướng A n h H ù n g ”. Ba bức đại tự nói rõ nơi ở và làm việc của Trần Quốc Tuấn luôn bên cạnh Thượng hoàng và nhà vua, lẽ sống, sự nghiệp, công lao của người trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Người đã sống với lẽ sống “C hí Trung” (thờ bốn đời vua Trần), “Đại N ghĩa” (cứu nước, cứu dân), “A n h H ù n g ” (Chỉ đạo, chỉ huy lực lượng quân dân Đại Việt đánh thắng mọi kẻ thù ngoại xâm và nội phản). Chính tư tưởng, phương châm sống “C hí Trung Đại N ghĩa” đã toả sáng trong sự nghiệp của Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn. Ngưòi đã được cả dân tộc suy tôn là anh hùng dân tộc không chỉ ở thời Trần mà qua mọi triều đại kế tiếp, không chỉ ở trong nước m à nhiều quốc gia trên thế giới. Ngày 15 tháng 10 năm 2007, Thủ tướng CMnh phủ đã quyết định phê chuẩn xây dựng dự án bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị khu di tích lịch sử văn hoá thòi Trần ở Nam Định. Có thể coi đây là văn bản pháp lý không chỉ có giá trị pháp luật mà còn có giá trị khoa học thực tiễn rất có ý nghĩa, đòi hỏi các nhà quản lý, các nhà khoa học phải đưa ra được giải pháp để dự án có tính khả thi cao. 15
  18. Việc phục dựng nhà Thái miếu, cung điện Trùng Quang, Trùng Hoa, trường học Văn Hưng, Liễu Nha, Lựu Phố, làng Phưcfng Bông là nơi ở của các ca công phục vụ Hoàng tộc và khung cảnh thiên nhiên thế kỷ XIII để phát triển du lịch thể hiện sự kết nối không gian văn hoá Trần. Đây thực sự là một bài toán khó của các nhà khoa học có tính chất liên nghành như: sử học, khảo cổ học, mỹ thuật, kiến trúc, điêu khắc, quy hoạch qua các cuộc hội thảo. Qua kết quả nghiên cứu khảo cổ học từ những năm 1976 và đặc biệt trong hai năm 2006 - 2007. Hội thảo khoa học vê quy mô ìdến trúc của trục hành lễ quảng trường Đông A và Thái m iếu thuộc quần th ể di tích lịch sử ván hoá thời Trần tại Nam Định kết luận: khoảng đất giữa đền Trần - chùa Tháp đã xuất lộ dấu vết kiến trúc, vật liệu kiến trúc: gạch ngói, đáng lưu ý là những viên gạch có đóng dấu “Vĩnh Ninh Trường”, đây là một địa danh ở Thanh Đô, Thanh Hoá (nay thuộc Vũủi Lộc, Thanh hoá). Trong quá trình xây dựng cung Trùng Quang, Trùng Hoa có sự điều động đội quân lính, dân binh xây dựng từ Thanh Hoá ra và vật liệu xây dựng cũng được chuyển từ Vĩnh Lộc (Thanh Hoá) đến để xây dựng cung điện... Các ô vuông có khoảng cách đều nhau, được các nhà khoa học dự đoán đây là một khuôn viên “sinh vật cảnh”... Hiện nay việc khai quật khảo cổ học và việc tạo dựng cung điện Trùng Quang (nay) nhưng mang phong cách nghệ thuật thòd Trần đang được tiến hành. Bao quanh cung điện Trùng Quang, Trùng Hoa là hệ thống dinh thự của các quan lại cao cấp. Nay là di tích thờ các vị tướng lĩnh, cùng các vị cung phi hoàng hậu thời Trần thuộc các 16
  19. xã Mỹ Trung, Mỹ Phúc, phường Lộc Hạ cũng được bảo tồn giá trị nguyên gốc. Xuân thu nhị kỳ hàng năm vào đêm 14 rạng ngày 15 tháng giêng du khách về dự lễ Khai ấn và ngày hội giỗ cha (20 tháng tám âm lịch) tại đền Trần trong tương lai sẽ .được ngắm nhìn toàn cảnh phủ Thiên Trường xưa. Hào khí Đông A và phong cảnh non xanh nước biếc thanh bình của Đại Việt được tái hiện. Ca ngợi cảnh đẹp của Phủ Thiên Trường, Thượng hoàng Trần Nhân Tông (1258 - 1308) có thơ đề về phủ Thiên Trường: “Xóm trước thôn sau tựa khói lồng Trời chiều dường có lại dường không Mục đồng sáo vẳng trâu về hết Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng” (Thiên Trường văn vọng) Bài Thiên Trường phủ: Lục rậm hồng thưa cảnh quanh hưu Mây quang mưa tạnh đất tan rêu Phòng trai giảng đoạn, sư về viện Cầu bến canh đầu, bóng nguyệt treo Ba chục cung tiên, giường ngủ đặt, Tám nghìn bóng tháp nước triều reo. Phổ Minh phong cảnh, chùa như cũ, Trong giấc mơ vàng Thuấn thấy Nghiêu! Ngô Tất Tố dịch 17
  20. ĐỂN THIÊN TRƯỜNG Đền Thiên Trường (còn gọi là đền Thượng). Đây là khu Thái miếu của nhà Trần xưa. Tại đây còn chân tảng cánh sen thời Trần được xếp theo bình đồ kiến trúc nội công ngoại quốc. Nghiên cứu bình đồ kiến trúc cổ, đây là lối kiến trúc kiểu cung điện xưa. Tại toà tiền đường có bức đại tự bằng gỗ sơn son thiếp vàng ghi hai chữ lớn: Trần Miếu Hoàng triều Tự Đức vạn vạn niên chi lục, tu ế tại Quý Sửu lục Nguyệt thượng cán, phụng chỉ xuất kh ố tiền trùng tu. Dịch nghĩa: Miếu thờ của nhà Trần Thượng tuần tháng 6 năm Quý Sửu, triều vua Tự Đức muôn năm, năm thứ 6 (1853) vâng theo chiếu chỉ xuất tiền công tại kho sửa lại. Theo “Nam Mặc miếu trạch bi kí” dựng vào niên hiệu Duy Tân năm thứ 2 (1908) thì vào khoảng năm Thiên ứng Chính Bình (1232 - 1250) Phùng Tá Chu về đốc suất công việc xây dựng miếu nhà Trần trên nền cũ của nhà thờ họ Trần, văn bia ghi: “Tức Mặc đế hương dã, Trần Miếu tại yên, Thiên ứng niên gian Phùng Vương Đổng tạo nhân cựu dương chỉ dã...” Theo Phả hệ bảo tích nhà Trần thì các vị thuỷ tổ đến khu 18
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
13=>1