intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Chướng ngại tri thức luận và chướng ngại sư phạm đối với dạy học một tri thức toán học

Chia sẻ: ViVatican2711 ViVatican2711 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:10

29
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết làm rõ hai khái niệm chướng ngại tri thức luận và chướng ngại sư phạm đối với việc dạy học một tri thức toán học theo quan điểm của didactic toán. Mỗi chướng ngại là một kiến thức, một quan niệm chứ không phải là một khó khăn hay một sự thiếu kiến thức.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Chướng ngại tri thức luận và chướng ngại sư phạm đối với dạy học một tri thức toán học

TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 59 - Thaùng 7/2018<br /> <br /> <br /> <br /> Chướng ngại tri thức luận và chướng ngại sư phạm<br /> đối với dạy học một tri thức toán học<br /> Epistemological Obstacles and Didactic Obstacles to Teaching and Learning<br /> Mathematical Knowledge<br /> <br /> TS. Nguyễn Ái Quốc, Trường Đại học Sài Gòn<br /> Nguyen Ai Quoc, Ph.D., Saigon University<br /> <br /> TS. Đào Hồng Nam, Trường Đại học Y Dược TP.HCM<br /> Dao Hong Nam, Ph.D., University of Medicine and Pharmacy at HCMC<br /> <br /> Tóm tắt<br /> Trong bài báo này, chúng tôi làm rõ hai khái niệm chướng ngại tri thức luận và chướng ngại sư phạm đối<br /> với việc dạy học một tri thức toán học theo quan điểm của didactic toán. Mỗi chướng ngại là một kiến<br /> thức, một quan niệm chứ không phải là một khó khăn hay một sự thiếu kiến thức. Chướng ngại tri thức<br /> luận được chứng thực trong nguồn gốc lịch sử của một khái niệm và là cấu thành của kiến thức hiện tại.<br /> Chướng ngại sư phạm được xem là những trở ngại sinh ra từ quá trình chuyển hóa sư phạm và phụ thuộc<br /> vào sự lựa chọn của hệ thống dạy học.<br /> Từ khóa: khó khăn, chướng ngại, chướng ngại sư phạm, chướng ngại tri thức luận.<br /> Abstract<br /> In this paper, we clarify two concepts of epistemological obstacle and didactic obstacle to teaching<br /> mathematical knowledge from the perspective of didactic mathematics. One obstacle can be a certain<br /> knowledge or concept, not necessarily a difficulty or a lack of knowledge. Epistemological obstacles are<br /> attested in the historical genesis of a concept and constitutive of current knowledge. Didactic obstacles<br /> are considered as those resulting from the didactic transposition and depending on the choice of the<br /> educational system.<br /> Keywords: difficulty, obstacle, didactic obstacle, epistemological obstacle.<br /> <br /> <br /> 1. Đặt vấn đề toán quan tâm đặc biệt, vì chúng là biểu hiện<br /> Trong quá trình dạy học Toán, việc của các chướng ngại mang bản chất tri thức<br /> người học gặp một số khó khăn khi tiếp cận luận gắn liền với lịch sử phát triển của tri<br /> tri thức mới hay có một số sai lầm khi giải thức hay chướng ngại sư phạm do sự lựa<br /> toán không phải là những hiện tượng lạ đối chọn của hệ thống dạy học gây nên.<br /> với người dạy. Có loại sai lầm do sự bất cẩn Việc xác định rõ các chướng ngại tri<br /> hay không chú ý, nhưng cũng có loại sai lầm thức luận hay chướng ngại sư phạm của một<br /> mang tính hệ thống, bền vững và dai dẳng tri thức toán học là hoạt động cần thiết đối<br /> qua nhiều thế hệ người học. Loại sai lầm thứ với người dạy toán và các nhà nghiên cứu<br /> hai này được các nhà nghiên cứu didactic didactic toán vì đó là bước đầu tiên của quá<br /> <br /> 44<br /> NGUYỄN ÁI QUỐC – ĐÀO HỒNG NAM<br /> <br /> <br /> trình thiết kế tình huống dạy học giúp người - “Nghĩa của tri thức, những bài toán,<br /> học vượt qua các khó khăn trong quá trình những vấn đề mà tri thức đó cho phép giải<br /> lĩnh hội tri thức mới. quyết;<br /> Trước khi làm rõ chướng ngại khoa học - Những trở ngại cho sự hình thành tri<br /> luận và chướng ngại sư phạm, chúng tôi thức;<br /> trình bày các khái niệm liên quan sau: - Những điều kiện sản sinh ra tri thức,<br /> nghiên cứu tri thức luận, chuyển hóa sư những bước nhảy cần thiết trong quan niệm<br /> phạm, khó khăn – sai lầm – chướng ngại. để thúc đẩy quá trình hình thành và phát<br /> 2. Khó khăn – sai lầm – chướng ngại triển tri thức” [2].<br /> 2.1. Nghiên cứu tri thức luận 2.2. Chuyển hóa sư phạm<br /> Thuật ngữ épistémologie xuất hiện ở Quá trình chuyển đổi tri thức từ thể chế<br /> thế kỷ 19, được cấu tạo bởi hai từ gốc Hy này sang thể chế kia, trong đó thể chế đích<br /> Lạp: épistème có nghĩa là “khoa học” và là thể chế dạy học, được gọi là quá trình<br /> logo có nghĩa là “nghiên cứu về”. chuyển hóa sư phạm. Đó là quá trình chuyển<br /> Dorier (1997) viết: hóa gồm ba mắt xích cơ bản.<br /> “Chúng tôi quan tâm đến épistémologie Mắt xích thứ nhất, thể chế tạo tri thức<br /> chủ yếu ở chỗ nó giúp hiểu rõ hơn mối liên Sự ra đời của một tri thức bác học thuộc<br /> hệ giữa việc xây dựng tri thức trong cộng mắt xích đầu tiên. Nó là kết quả của những<br /> đồng các nhà bác học với việc dạy và học tri hoạt động khoa học gắn liền với lịch sử cá<br /> thức này. nhân của nhà nghiên cứu. Để trình bày nó,<br /> Chính là theo cách hiểu này mà chúng các nhà toán học phải diễn đạt nó ở dạng<br /> tôi cho rằng tốt hơn là hãy đưa ra một định khái quát nhất có thể được, theo những quy<br /> nghĩa cho tính từ épistémologique. […] tắc thông dụng đang lưu hành trong cộng<br /> Chúng tôi đề nghị định nghĩa sau: étude đồng khoa học mà không trình bày bài toán<br /> épistémologique nghiên cứu những điều dẫn đến việc hình thành tri thức, không nêu<br /> kiện cho phép nảy sinh tri thức (đối với lại quá trình tìm tòi, phát minh của mình, bỏ<br /> chúng tôi là tri thức toán học), quan tâm đến qua những sai lầm, chướng ngại gặp phải.<br /> sự tiến triển của các tri thức hay kiến thức. Ta nói là, nhà toán học đã thực hiện hoạt<br /> Ở đây thuật ngữ tiến triển được hiểu theo động phi hoàn cảnh hóa, phi cá nhân hóa và<br /> nghĩa rộng nhất: nó có thể liên quan đến sự phi thời gian hóa.<br /> biến đổi tình trạng kiến thức của một hệ Mắt xích thứ hai, thể chế chuyển hóa<br /> thống, một thể chế hay một cá thể. Hơn thế, Trong những tri thức toán học được tích<br /> nó chú ý không chỉ đến những tư tưởng tiến lũy qua lịch sử, các nhà thiết kế chương<br /> bộ mà còn đến cả những trì trệ, những bước trình chọn ra một số vấn đề làm đối tượng<br /> lùi” [7, tr.17]. dạy học. Để những tri thức này có thể dạy<br /> Thuật ngữ nghiên cứu (hay phân tích) được cho một bộ phận công chúng, tri thức<br /> tri thức luận được chuyển ngữ từ étude lại tiếp tục bị biến đổi để phù hợp với môi<br /> épistémologique, analyse épistémologique trường và hệ thống dạy học. Quá trình này<br /> với cách hiểu như trên. Cụ thể hơn, nghiên có thể tạo ra một số đối tượng mới. Hệ quả<br /> cứu tri thức luận là nghiên cứu lịch sử hình là, sự xuất hiện một sự chênh lệch khá lớn<br /> thành tri thức nhằm làm rõ: giữa tri thức bác học với tri thức quy định<br /> <br /> 45<br /> CHƯỚNG NGẠI TRI THỨC LUẬN VÀ CHƯỚNG NGẠI SƯ PHẠM ĐỐI VỚI DẠY HỌC MỘT TRI THỨC TOÁN HỌC<br /> <br /> <br /> trong chương trình và thể hiện trong sách các quan niệm, kỹ thuật hiện có nhiều khó<br /> giáo khoa. khăn hơn so với tình huống được đặt ra<br /> Mắt xích thứ ba, thể chế giảng dạy trong các điều kiện khác cho các tác nhân có<br /> Khi tri thức cần dạy đã được xác định, danh mục khác.<br /> người dạy phải dựa vào trình độ của từng Việc nghiên cứu các nguyên nhân của<br /> đối tượng học sinh, cơ sở vật chất, phương khó khăn tương ứng với một vận động tích<br /> tiện giảng dạy, phương pháp sư phạm của cực trong giảng dạy. Nếu các khó khăn có<br /> mình và sẽ chuyển tải những hiểu biết của nguyên nhân, thì bằng cách tác động trên<br /> mình về tri thức đó đến học sinh sao cho họ những nguyên nhân này giáo viên sẽ có thể<br /> có thể hiểu được. Cách chuyển tải này làm cho việc lĩnh hội tri thức dễ dàng hơn.<br /> đương nhiên cũng phụ thuộc vào quan niệm, Nhưng thay vì nghiên cứu các khó khăn này<br /> vào các biểu tượng mà người dạy có về tri như các tính chất của hệ thống, có lẽ để có<br /> thức. Và như vậy, chuyển hóa sư phạm tiếp thể rút ra được lợi ích của các kết quả được<br /> tục xảy ra trong hệ thống dạy - học. đề xuất bởi các khoa học khác (chẳng hạn<br /> 2.3. Khó khăn tâm lý học, tri thức luận hay sư phạm học)<br /> Theo G. Brousseau, một khó khăn là người ta thường quy lỗi trực tiếp cho một<br /> một điều kiện, một đặc tính của một tình trong các hệ thống con hoặc một trong các<br /> huống làm tăng đáng kể xác suất không có hệ thống hạ tầng: học sinh, tri thức hay giáo<br /> câu trả lời hay câu trả lời sai của các chủ thể viên. Chẳng hạn, các kết quả sẽ không đạt<br /> tác nhân liên quan trong tình huống này. Tác bởi vì học sinh không có kiến thức kỹ thuật,<br /> nhân này có thể là một học sinh, cũng có thể công nghệ hay lý thuyết trong vốn kiến thức<br /> là một giáo viên mà có thể gặp một khó khăn của họ theo cách quen thuộc mà người ta đã<br /> cho việc học tập mà anh ta dự định. dạy cho họ trước đây, hoặc ít nhất người ta<br /> Do đó các khó khăn có thể quan sát đã cố gắng nhưng vì giáo viên dạy kém hoặc<br /> được, hoặc qua sự lặp đi lặp lại của các hành vì học sinh học kém, hay dự án quá tham<br /> động của cùng một cá nhân trong một tình vọng. Do đó, cùng một khó khăn có thể được<br /> huống cho trước, hoặc thông qua một tập quy trách nhiệm cho học sinh, cho giáo viên<br /> hợp các câu trả lời đồng thời của các nhóm hay cho tri thức của chính học sinh.<br /> chủ thể được xem là đủ để so sánh và đặt 2.4. Sai lầm và chướng ngại<br /> dưới các biến thể của tình huống. Theo quan điểm của phái Bachelard, sai<br /> Các khó khăn có thể liên quan đến lầm không phải là sự kiện thứ yếu xảy ra<br /> những tiến triển tự nhiên khác nhau của tình trong một quá trình: nó không nằm ngoài<br /> huống: lời giải với việc thực hiện một kiểu kiến thức mà chính là biểu hiện của kiến<br /> nhiệm vụ, việc đưa ra một quyết định, một thức.<br /> thông báo, một phán quyết, việc học tập một “Khi nghiên cứu những điều kiện […]<br /> kiến thức hay việc hình thành một quan cho các bước tiến của khoa học, ta nhanh<br /> niệm. chóng đi đến chỗ tin rằng cần phải tiếp cận<br /> Cần lưu ý rằng, mỗi khó khăn là một vấn đề bằng thuật ngữ chướng ngại. […]<br /> đặc trưng của một hệ thống cụ thể: tình Chính là ở đó mà ta tìm thấy nguyên nhân<br /> huống được đặt ra dưới các điều kiện như của sự trì trệ, thậm chí sự thụt lùi. Chính là<br /> thế cho các tác nhân là người có “danh mục” ở đó ta phát hiện những nguyên nhân trơ ì<br /> <br /> 46<br /> NGUYỄN ÁI QUỐC – ĐÀO HỒNG NAM<br /> <br /> <br /> mà ta gọi là chướng ngại. […] Trong thực thức của cá nhân ở một thời điểm nào đó<br /> tế, ta cần phải biết chống lại một kiến thức trong quá trình phát triển của nó.<br /> cũ bằng cách loại bỏ đi những kiến thức đã - Chướng ngại văn hóa (obstacle<br /> được xây dựng một cách không hoàn toàn culturel) sinh ra từ những kiến thức lưu<br /> đúng, bằng cách vượt lên cái nằm trong truyền qua các bối cảnh văn hóa, đã được<br /> chính tư duy và tạo nên chướng ngại cho khoa học điều chỉnh, nhưng vẫn luôn luôn<br /> nhận thức” [1]. hiện diện.<br /> Ngay từ những năm 70, nghiên cứu của - Chướng ngại sư phạm (obstacle<br /> Brousseau đã chỉ ra rằng, một số kiến thức didactique) là chướng ngại sinh ra từ sự<br /> sai là cần thiết cho học tập: con đường đi chuyển hóa sư phạm, dường như chỉ phụ<br /> của học sinh phải trải qua việc xây dựng thuộc vào sự lựa chọn của hệ thống dạy học.<br /> (tạm thời) từ một số kiến thức sai, và việc ý - Chướng ngại tri thức luận (obstacle<br /> thức được sai lầm này sẽ là yếu tố cấu thành épistémologique) là chướng ngại gắn liền<br /> nên nghĩa của kiến thức mà ta muốn xây với lịch sử phát triển của tri thức mà việc<br /> dựng cho họ. Kế thừa Bachelard, Brousseau vượt qua nó đóng vai trò quyết định đối với<br /> gọi những điểm buộc phải trải qua này là quá trình xây dựng kiến thức của chủ thể.<br /> những chướng ngại tri thức luận và nhấn Trong học tập, việc vượt qua những chướng<br /> mạnh vai trò của chúng trong lịch sử phát ngại tri thức luận là điều không thể tránh<br /> triển các kiến thức: khỏi, bởi đó là yếu tố cấu thành nên kiến<br /> “Sai lầm không phải chỉ là hậu quả của thức.<br /> sự không biết, không chắc chắn, ngẫu nhiên, 2.6. Đặc trưng của chướng ngại [2]<br /> như cách nghĩ của những người theo chủ - Mỗi chướng ngại là một kiến thức,<br /> nghĩa kinh nghiệm và chủ nghĩa hành vi, mà<br /> một quan niệm chứ không phải là một khó<br /> còn có thể là hậu quả của những kiến thức<br /> khăn hay một sự thiếu kiến thức;<br /> đã có từ trước, đã từng có ích đối với việc<br /> - Kiến thức này tạo ra những câu trả lời<br /> học trước kia, nhưng lại là sai, hoặc đơn<br /> phù hợp trong một bối cảnh nào đó mà ta<br /> giản là không còn phù hợp nữa đối với việc<br /> thường hay gặp;<br /> lĩnh hội tri thức mới. Những sai lầm thuộc<br /> - Khi vượt ra khỏi bối cảnh này thì nó<br /> loại này không phải thất thường hay không<br /> sản sinh những câu trả lời sai để có câu trả<br /> dự đoán được. Chúng tạo thành chướng<br /> lời đúng cho mọi bối cảnh cần phải có một<br /> ngại. Trong hoạt động của giáo viên cũng<br /> thay đổi đáng kể trong quan điểm;<br /> như trong hoạt động của học sinh, sai lầm<br /> - Hơn nữa, kiến thức này chống lại<br /> bao giờ cũng góp phần xây dựng nên nghĩa<br /> những mâu thuẫn với nó và chống lại sự<br /> của kiến thức được thu nhận bởi những chủ<br /> thể này” [3, tr. 171]. thiết lập một kiến thức hoàn thiện hơn (việc<br /> 2.5. Nguồn gốc của chướng ngại có một kiến thức khác hoàn thiện hơn chưa<br /> Brousseau phân biệt các chướng ngại đủ để kiến thức sai này biến mất, mà nhất<br /> tùy theo nguồn gốc của chúng [2]: thiết phải xác định được nó và đưa việc loại<br /> - Chướng ngại thuộc về sự phát triển bỏ nó vào tri thức mới);<br /> cá thể (obstacle ontorénétique) là chướng - Ngay cả khi chủ thể đã ý thức được sự<br /> ngại gắn liền với những hạn chế về nhận không chính xác của kiến thức chướng ngại<br /> này, nó vẫn tiếp tục xuất hiện dai dẳng và<br /> <br /> 47<br /> CHƯỚNG NGẠI TRI THỨC LUẬN VÀ CHƯỚNG NGẠI SƯ PHẠM ĐỐI VỚI DẠY HỌC MỘT TRI THỨC TOÁN HỌC<br /> <br /> <br /> không đúng lúc. bày cụ thể chướng ngại của giới hạn của dãy<br /> Dưới đây, chúng tôi nêu ra một số ví dụ số trong nghiên cứu của Cornu (1983): “Một<br /> về các chướng ngại tri thức luận và chướng giới hạn có đạt tới giới hạn hay không?” và<br /> ngại sư phạm được trích từ các nghiên cứu chướng ngại giới hạn hàm số: “Bước chuyển<br /> trong khuôn khổ didactic toán. từ quan điểm xấp xỉ x sang quan điểm xấp xỉ<br /> 3. Chướng ngại tri thức luận
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2