Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright: Một góc nhìn về sự chuyển đổi nền kinh tế từ kế hoạch hoá tập trung đến kinh tế thị trường
lượt xem 12
download
Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright: Một góc nhìn về sự chuyển đổi nền kinh tế từ kế hoạch hoá tập trung đến kinh tế thị trường trình bày về những mẫu chuyện thật như đùa, kinh tế thị trường và những kết quả mang lại cho Việt Nam, những thách thức đối với nền kinh tế Việt Nam hiện nay.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright: Một góc nhìn về sự chuyển đổi nền kinh tế từ kế hoạch hoá tập trung đến kinh tế thị trường
- Chuong trinh Giang day Kinh te Fulbright baivietcs6__en0fiet5lk4x93o0byu3ruent3093832_in.doc Nien khoa: 2005 - 2006 MỘT GÓC NHÌN VỀ SỰ CHUYỂN ðỔI NỀN KINH TẾ “TỪ KẾ HOẠCH HOÁ TẬP TRUNG ðẾN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG” Những mẫu chuyện thật như ñùa: ðể nói về những vấn ñề, những hậu quả to lớn mà chính sách kinh tế kế hoạch hoá tập trung mang lại cho nền kinh tế Việt Nam nói chung và lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn nói riêng, tôi xin trích dẫn những câu chuyện về “người thật việc thật”, những chuyện xảy ra chỉ cách ñây từ 15 – 20 năm thôi những nghe như là chuyện bịa, như chuyện chỉ ñem ra ñể ñùa vui lúc trà dư tửu hậu. Câu chuyện thứ nhất: Cái ñêm hôm ấy …ðêm gì?i Câu chuyện này khá dài (nên tôi không ñưa vào bài viết mà ñể ở phần Tài liệu tham khảo) và rất nổi tiếng từ khoảng ñầu năm 1988 ñến ñầu những năm 90. Tác giả Phùng Gia Lộc (ñã mất) quê ở Thanh Hoá, là một giáo viên dạy văn, ông là hội viên hội nhà văn tỉnh Thanh hoá, ông viết nhiều tác phẩm như: Cái ðêm hôm ấy ñêm gì, ðắm thuyền trên cạ, Vực xoáy Nam Giang, ðược vật báu…Qua câu chuyện này chúng ta cảm thấy một bức tranh tương ñối ñầy ñủ, chân thật nhưng ñau xót và cay ñắng về một thời ñã qua không lâu. Cơ chế quản lý tập trung, quan liêu không tạo ra ñược ñộng lực phát triển sản xuất, năng suất và sản lượng nông nghiệp rất thấp cộng thêm với những nhiều loại thuế quá nặng ñẩy người nông dân ñến chổ bần cùng. Câu chuyện thứ hai: Trả lại nông cụ cho dânii Linh hồn của HTX và các tập ñoàn sản xuất là công hữu hóa tư liệu sản xuất (ruộng ñất và nông cụ). Cuối năm 1978, An Giang quyết ñịnh thành lập HTX Hòa Bình Thạnh, huyện Châu Thành làm nhân tố ñiển hình ñể mở rộng phong trào hợp tác hóa. Ông Sáu Kiệt, nguyên chủ nhiệm HTX Hòa Bình Thạnh, huyện Châu Thành, An Giang, kể: vận ñộng bà con vào HTX, công an còn phải ñứng bên bờ yêu cầu nông dân phá hết rau ñể giao ñất cho HTX. Ông Nguyễn Ngọc Trìu, nguyên bộ trưởng Nông nghiệp, từng chứng kiến cảnh hai vợ chồng có một con trâu, chồng nghe vận ñộng vào HTX, vợ thì không. Khi ra ñồng, chồng ñòi dắt trâu cày cho hợp tác, vợ giằng lại thừng ñể cày cho ruộng nhà. Không thể chống nhiệm vụ ñược HTX giao, chồng phải trói vợ giữa ñồng ñể cày xong mới thả cả người lẫn trâu... Rồi mạ chết rét, thời vụ sắp hết, loa HTX gọi xã viên ra ñồng cấy dặm nhưng từng ñoàn người uể oải dắt díu nhau như ñi hội. Vừa làm vừa ngẩng ñầu tán gẫu chờ kẻng nghỉ trưa. Và dù không thiên tai thì năm nào cũng như mất mùa... Cảnh cha chung không ai khóc bao trùm lên tất cả các HTX lúc bấy giờ. Cuối mỗi buổi làm, cán bộ HTX ghi ñiểm từng người. Chỉ cần ñánh trống ghi tên là ñược. ðiểm này sau qui ra thóc với giá rất rẻ rúng. Làm ăn như vậy, cuối vụ thóc thu về bằng 1/4 thời chưa vào hợp tác. Ai dành dụm ñược chút lúa thì phải bán cho Nhà nước, cấm mang ra chợ. Giá Nhà nước mua chỉ bằng 1/10 giá chợ và không ñủ hoàn vốn ñầu tư. Thời trước bà con xã Hòa Bình Thạnh ñã ñầu tư rất nhiều máy móc phục vụ sản xuất. Toàn xã 900 hộ có hơn 70 cỗ máy cày, bừa, bơm, xới... Vận ñộng bà con vào HTX rất khó nhưng lãnh ñạo ra chủ trương bằng mọi giá phải công hữu hóa hết số máy móc nông cụ. Tran Huu Uy Page 1/11
- Chuong trinh Giang day Kinh te Fulbright baivietcs6__en0fiet5lk4x93o0byu3ruent3093832_in.doc Nien khoa: 2005 - 2006 Tất nhiên việc ấy thì làm ñược nhưng hầu hết các chủ máy ñều rất miễn cưỡng vào tập thể. Họ nói ñây là thứ tài sản lớn, nhiều năm chắt chiu mới có ñược. Thứ hai phải “hiểu” nó, “yêu” nó thì nó mới sống mà nuôi người ñược. Nay ñưa vào hợp tác, thu nhập tính bằng công lao ñộng, máy giao người khác như vậy là họ mất không… Thế là dù phải nộp máy cho hợp tác nhưng họ cố tình tháo bớt phụ tùng. Có người chặt gần ñứt cả xích, cưa cả trục máy rồi mới giao HTX. Số máy có thể hoạt ñộng thì những chủ cũ không chịu ñiều khiển hoặc không ñược ñiều khiển nên giao cho chủ mới. Chủ mới thường thiếu kỹ thuật hoặc thiếu tâm huyết nên chẳng mấy chốc cũng lại ñể ñắp chiếu. Thế là sau một vụ, 100% ñầu máy nông nghiệp của xã phải nằm kho, hàng trăm hecta ñất không làm kịp vụ phải bỏ hoang. Ông Nguyễn Văn Hơn, nguyên bí thư Tỉnh ủy An Giang, nhớ rất rõ: lúc ấy tỉnh gần như hoàn thành chỉ tiêu hợp tác hóa bằng các tập ñoàn sản xuất và HTX. Nhưng ñồng hành với việc này là 20.000ha diện tích ñất bỏ hoang (chiếm gần 10% tổng diện tích) vì lý do trên. Tổ chức hợp tác hóa một cách hình thức, cưỡng ép. Chế ñộ sở hữu về tài sản không rõ ràng. Người nông dân không có ñộng cơ ñể hăng hái sản xuất, bảo vệ của công. Câu chuyện thứ ba: “Chuyện cô giáo tôi”iii Lúc ñó quãng năm 1983, tôi ñang học lớp 8 trường huyện. Cô giáo dạy lớp tôi ñến từ thành phố ðà Nẵng, hằng ngày cô phải ñạp xe hơn 30km. ðời sống giáo viên lúc ñó thì cũng như ông giáo Hàng mà Tuổi Trẻ ñã phản ánh: thiếu thốn mọi bề. Trong khi ñó, sống ở miền quê chúng tôi sướng hơn cư dân thành phố nhiều (trong ñó có cô giáo của tôi). Vì ngoài số lúa ñược nhận từ hợp tác xã, ba mẹ chúng tôi còn có thể trồng khoai, dưa, sắn, bắt cá, chim ngoài ñồng, nuôi gà trong vườn... Tất cả những khoản cải thiện này là ước mơ của dân thành phố. Một ngày cận tết, miền Trung mưa phùn rét mướt. Cô giáo chằm nón và tặng mẹ tôi một chiếc nón lá thật ñẹp. Tôi ñem nón về cho mẹ và mẹ bảo trưa thứ bảy mời cô giáo về nhà ăn cơm. Bữa cơm ñó có cá rô kho mặn, canh cải nấu cá lóc và có cả thịt gà. Sau bữa cơm trưa, mẹ tôi còn ñong tặng cô giáo một túi gạo ñộ chừng 5kg và một con gà. Trưa thứ hai, sau khi dạy xong, cô giáo theo tôi về nhà. Vừa gặp mẹ tôi, cô giáo ñã bật khóc: “Chị ơi, em ñã vứt hết quà của chị xuống sông Hàn rồi, em uất quá chị ơi”. Thì ra, khi chở mấy ký gạo và con gà về ñến trạm gác cầu Nguyễn Văn Trỗi, cửa ngõ vào ðà Nẵng, cô bị chặn lại và cán bộ kiểm soát ñòi tịch thu vì cho ñây là hàng lậu. Sau một hồi giằng co, cô ñã không kiềm chế ñược và ñã vứt cả gạo, cả gà xuống sông. Sau ñó cô bị cơ quan chức năng gửi công văn ñến trường và bị ban giám hiệu phê bình trước tập thể. Lúc ñó tôi thật không hiểu vì sao cô giáo lại bị cho là buôn lậu. ðến tuổi trưởng thành và bước vào ñời, chúng tôi ñã ñược thở trong làn không khí ñổi mới kể từ năm 1986. Câu chuyện cô giáo tôi ñã thật sự trở thành cổ tích! Chính sách ngăn sông cấm chợ, ngăn cản sự phát triển của thị trường làm cho mọi thứ ñều thiếu. Người dân không ñược bán sản phẩm mình sản xuất ra thị trường, chỉ bán cho nhà nước theo giá “rẽ như cho” Câu chuyện thứ tư: Mô hình “phản ñộng”iv Câu chuyện do GSTS Võ Tòng Xuân, hiệu trưởng trường ðại học An Giang kể: Tran Huu Uy Page 2/11
- Chuong trinh Giang day Kinh te Fulbright baivietcs6__en0fiet5lk4x93o0byu3ruent3093832_in.doc Nien khoa: 2005 - 2006 Qua chương trình khuyến nông trên truyền hình, tôi ñã mạnh dạn giới thiệu mô hình sản xuất tiên tiến trong nông thôn ñể mau chấm dứt tình trạng chán nản trong nông dân; cũng vì thế mà tôi và các vị lãnh ñạo của ðài Truyền hình TP.HCM (ông Huỳnh Văn Tiểng), ðài Truyền hình Cần Thơ (ông Lưu Thành Tâm) và Ủy ban Phát thanh - truyền hình VN (ông Trần Lâm) suýt bị kỷ luật. Số là trong quá trình nghiên cứu lúa trên khắp ðBSCL, tôi thấy một trở ngại rất lớn khiến kỹ thuật không vào ñược với nông dân, ñó là chính sách nông nghiệp của Nhà nước ñã không khuyến khích người lao ñộng mà còn bắt buộc họ làm việc như cái máy không ñược suy nghĩ gì cả. Từ năm 1979 nông dân gần như bị bắt buộc phải vào hợp tác xã (HTX) hoặc tập ñoàn sản xuất (TðSX) nhưng không ra ñồng sản xuất, hoặc nếu có sản xuất thì hụ hợ không màng năng suất cao. Gia ñình nông dân không ñủ ăn mà họ cũng không có dư lúa ñể bán cho cửa hàng lương thực nhà nước. Ở nhiều ñịa phương nông dân không có dư lúa bán cho Nhà nước ñã phải chịu ño bồ lúa ñể chứng minh không có lúa dư. Trong khi ñó chúng tôi cộng tác với một số TðSX - ñiển hình nhất là TðSX số 9 ấp Lung ðen, xã Kế An, huyện Kế Sách, Sóc Trăng - theo kiểu “khoán sản phẩm” thì nhà dân ñầy lúa mà kho lương thực nhà nước cũng ñầy lúa. Nhân dịp kỷ niệm Quốc khánh 2-9, tổng kết nông nghiệp sau năm năm hòa bình, tôi ñã mạnh dạn ñưa mô hình TðSX 9 Lung ðen lên báo Tin Sáng ngày 2-9-1980 và trong chương trình truyền hình hằng tuần của tôi. Các chuyên viên của ðài Truyền hình TP.HCM từ lâu không kiểm duyệt chương trình của tôi vì toàn là nói về kỹ thuật, không có hơi hám gì về chính trị, không dè trong chương trình ngày 2-9-1980 lại có mục “khoán sản phẩm”. Các vị lãnh ñạo Ban hợp tác hóa trung ương lập tức gửi công ñiện khắp các tỉnh, tuyên bố không chấp nhận mô hình “phản ñộng” tôi ñã nêu, và yêu cầu ðài Truyền hình TP.HCM ngưng phát hình chương trình ñi ngược ñường lối. Anh Võ Văn Chung - người nông dân Tiền Giang cộng tác rất nhiệt tình với thầy trò nông nghiệp của ðH Cần Thơ từ 1977 - ñã hớt hải ñi xe ñò sang Cần Thơ ngay hôm sau ñó báo cho tôi hay là lãnh ñạo tỉnh bảo anh ấy không nên tiếp xúc với tôi nữa vì tôi ñã phạm tội với trung ương, và khuyên tôi nên cẩn thận ..…. Cách quản lý cực ñoan, áp ñặt ñã thui chột mọi sáng kiến, mọi năng lực sáng tạo của người dân. Bất kể ñiều gì trái với quy ñịnh ñều chụp cho một chiếc mũ “phản ñộng” không cần suy xét, cho dù ñiều này ñem lại lợi ích cho nước cho dân. Còn rất nhiều câu chuyện nữa xung quanh những vấn ñề, những hạn chế của Mô hình kế hoạch hoá tập trung. Tựu tung lại ñó là một chính sách tập trung quan liêu, không tạo ra ñộng lực thúc ñẩy phát triển sản xuất, kèm theo những chính sách ấu trĩ, cực ñoan như ngăn sông cấm chợ, cản trở lưu thông hàng hoá, giá cả do nhà nước ñịnh ñoạt không theo cung cầu thị trường “mua như cướp, bán như cho”, phương thức quản lý không dân chủ, chạy theo chỉ tiêu, mệnh lệnh hành chính, ngăn cấm những tư tưởng mới, những thử nghiệm mới…ñã hủy diệt mọi sự năng ñộng sáng tạo của người dân, của doanh nghiệp Thật sự của mô hình kế hoạch hoá tập trung: Theo giáo sư Malcolm Gillis thì Chủ nghĩa xã hội ñược ñịnh nghĩa như một xã hội có chế ñộ sở hữu và kiểm tra nhà nước ñối với tư liệu sản xuất. Một nước có là xã hội chủ nghĩa hay không, ñó là vấn ñề về mức ñộ. Có những ví dụ rất rõ, ở các nước cộng sản chủ nghĩa như: Liên Xô, các nước ðông Âu, Trung Quốc, Bắc Triều Tiên, Việt Nam, Cu Ba, quyền sở hữu và kiểm tra của nhà nước chiếm ưu thế tuyệt ñối trong công nghiệp và dịch Tran Huu Uy Page 3/11
- Chuong trinh Giang day Kinh te Fulbright baivietcs6__en0fiet5lk4x93o0byu3ruent3093832_in.doc Nien khoa: 2005 - 2006 vụ và ảnh hưởng mạnh tới nông nghiệp. Ở một số nước Tây Âu như Thụy ðiển và vương quốc Anh, ñã có các chính phủ xã hội chủ nghĩa, các chính phủ này ñã công hữu hóa ñược các ngành công nghiệp then chốt, ở nhiều nước khác ñã có các khu vực kinh doanh lớn thuộc sở hữu nhà nước, nhưng những nền kinh tế này vẫn duy trì ñặc trưng thị trường của nền kinh tế hỗn hợp. Chủ nghĩa xã hội và thị trường không ñối nghịch nhau. Trong thực tiễn, Oska Lange, nhà kinh tế theo khuynh hướng chủ nghĩa xã hội khởi xướng ra hệ thống chủ nghĩa xã hội thị trường, trong ñó các công ty nhà nước có thể cạnh tranh trên thị trường với giá cả ñược kế hoạch hóa tập trung, và ñược coi như những chi phí thực tế xã hội. Trường phái kinh tế tự do ñã thất bại ở Tiệp Khắc vào cuối thập kỷ 60 và những cuộc cải cách thành công hơn ở Hungari và Nam Tư ñều ñược qui cho các thử nghiệm theo ñề xuất của Lange. Những cải cách kinh tế gần ñây của Trung Quốc, ñược bắt ñầu từ lĩnh vực nông nghiệp và thậm chí cả trong các hoạt ñộng thương nghiệp và dịch vụ tư nhân, ñã thu ñược các kết quả tốt, ñặc biệt là trong lĩnh vực nông nghiệp. Tuy nhiên, tính chất ñặc trưng của Liên Xô và các nền kinh tế cộng sản khác là sự kiểm tra tập trung ñối với nền sản xuất. Trong khi ở nền kinh tế hỗn hợp, thị trường quyết ñịnh giá cả sản phẩm như những chỉ số chi phí sản xuất và tiêu dùng, thì trong các nền kinh tế kiểu Liên Xô, kế hoạch hóa tập trung quyết ñịnh khối lượng sản xuất và lưu thông. Giá cả do ñó trở thành nhân tố kìm hãm sản xuất và ñầu tư. Nhưng giá cả với sự biến ñộng của nó vẫn ñiều tiết nhu cầu bởi vì không một chính phủ nào có thể ñiều tiết ñược tính phức tạp về nhu cầu tiêu dùng của mỗi gia ñình. Giá cả còn bảo ñảm chức năng hạch toán, xác ñịnh mức thu nhập mà người lao ñộng phải ñóng góp cho nhà nước và ngược lại (thông qua trả lương), giữa các xí nghiệp sản xuất với nhau, và phần các xí nghiệp phải nộp vào nhà nước. Các nhà sáng lập ra hệ thống kinh tế Xô Viết, xuất phát từ chỗ cho rằng các lực lượng thị trường, tuy có những giá trị về mặt lý luận, trong thực tiễn vẫn là sự hỗn ñộn không khắc phục nổi, và vì vậy, giá cả trên thị trường không ñủ tin cậy ñể ñiều tiết sản xuất. Quan ñiểm cơ bản này ñược củng cố bằng sự nhấn mạnh cương quyết ở Liên Xô và sau ñó ở Trung Quốc về lĩnh vực luyện thép và cơ khí với tư cách là các lĩnh vực chủ ñạo trong chương trình công nghiệp hóa của họ. Từ ñó ñến nay, cả hai nền kinh tế này ñều chưa có ñủ thép và những máy móc cần thiết phục vụ cho các ngành kinh tế, các nhà kế hoạch phải ñương ñầu với một hình thức cực ñoan của vấn ñề công nghiệp trẻ và với việc nhà nước phải chi những khoản công ích rất lớn, bởi vì nhu cầu chủ yếu về thép rắn là từ lĩnh vực cơ khí, mà lĩnh vực này vẫn chưa ñứng vững. Cả các nhà kế hoạch của Liên Xô lẫn Trung Quốc ñều không sẵn sàng xây dựng khu vực cơ khí trước tiên, rồi sau ñó chờ ñợi nhu cầu về thép tăng lên ñể hỗ trợ cho ngành công nghiệp luyện kim hoạt ñộng có hiệu quả. Nhìn chung, hệ thống giá sẽ kém hiệu quả khi có sự thay ñổi nhanh và lớn cơ cấu kinh tế ñã thiết kế. ðiều mà Liên Xô dự tính vào thập kỷ 30 khi ñưa ra hệ thống kinh tế xã hội chủ nghĩa và là ñiều mà Trung Quốc cũng muốn vào những năm 50 chắc chắn là việc cải tạo nhanh và mạnh nền kinh tế, chuyển từ nền kinh tế chủ yếu từ nông nghiệp, sang một nền kinh tế ñược xây dựng trên cơ sở công nghiệp nặng (luyện kim và cơ khí). Dấu hiệu ñể phân biệt nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung kiểu Liên Xô với các nền kinh tế khác là các biện pháp ñể thực hiện kế hoạch. Một thời, các mục tiêu chiều rộng và sự theo ñuổi về số lượng ñược coi trọng, các nhà kế hoạch trực tiếp ra lệnh cho các hãng phải sản xuất bao nhiêu sản phẩm. Các xí nghiệp không ñược quyền mua những nguyên vật liệu thiết yếu trên thị trường mà phải ñến các tổ chức của nhà nước xin ñược cấp phát. Các cơ sở sản xuất có thể bỏ tiền mua các nguyên vật liệu này, nhưng việc sẵn sàng trả Tran Huu Uy Page 4/11
- Chuong trinh Giang day Kinh te Fulbright baivietcs6__en0fiet5lk4x93o0byu3ruent3093832_in.doc Nien khoa: 2005 - 2006 tiền này cũng không thể xác ñịnh ñược bao giờ xí nghiệp có thể nhận ñược những thứ cần thiết ñó. Chỉ khi nào có các chỉ tiêu kế hoạch, xí nghiệp mới ñược nhận số nguyên vật liệu ñã ñược qui ñịnh cho họ. Trong thực tế, hệ thống kiểu Liên Xô cũng không tuân thủ kế hoạch một cách hoàn toàn cứng ngắc. Các phương án triển khai kế hoạch dù hợp pháp hay bất hợp pháp, ñều mang tính linh ñộng nhất ñịnh. Tuy nhiên, việc phân phối ñược thực hiện bởi các lực lượng thị trường tự do trong các nền kinh tế hỗn hợp, thì lại do các cơ quan nhà nước quyết ñịnh trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung. Vậy, hệ thống kế hoạch hóa tập trung phải chi phí cho việc ñào tạo một số lượng lớn những người làm công tác quản lý, phân phối vật tư cho các xí nghiệp nhà nước khác nhau. Hàng trăm, có khi hàng ngàn các loại vật tư khác nhau phải ñược phân phối cho từng xí nghiệp riêng biệt, nếu như nguyên liệu ñược ñưa ñến các xí nghiệp hoạt ñộng tồi và không ñược sử dụng kịp thời sẽ xảy ra tình trạng ứ ñọng, trong khi các xí nghiệp khác lại thiếu nguyên liệu. Lợi thế trong hệ thống này là các nhà kế hoạch có quyền lớn trong việc kiểm tra và giám sát nền kinh tế và bằng sự kiểm tra ñó có thể thay ñổi ñể phù hợp một cách nhanh chóng cơ cấu các ngành then chốt. Tuy vậy, hệ thống này không khuyến khích việc sử dụng có hiệu quả nguyên vật liệu. Sự kém hiệu quả nặng nề hơn, khi thiếu số người có ñủ năng lực ñề quản lý hệ thống này, như trường hợp thường thấy trong các nước ñang phát triển. Mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung của Việt Nam là một mô hình theo khuôn mẫu của Liên Xô và Trung Quốc. Nhà nước ñã quốc hữu hóa gần như toàn bộ hệ thống công nghiệp, thương nghiệp bán buôn, bán lẻ và thí nghiệm xã hội hóa nền nông nghiệp của mình. Nhà nước ñã ñặt ra các mục tiêu về các loại sản lượng sản phẩm và cân ñối cho doanh nghiệp và người dân các loại nguyên vật liệu, vật tư và hàng hoá tiêu dùng. Hầu hết mọi sản phẩm do nhà nước ñịnh giá không căn cứ vào cung cầu thị trường, dẫn ñến các doanh nghiệp chỉ hoạt ñộng nhằm mục tiêu sản xuất ñủ khối lượng chỉ tiêu kế hoạch ñược giao, không quan tâm ñến hiệu quả cũng như không có ñộng lực sản xuất khối lượng cao hơn chỉ tiêu ñược giao. Mặt khác do các nguồn lực của nhà nước rất hạn chế, ñặc biệt trong giai ñoạn này nền kinh tế vừa bị kiệt quệ do hậu quả chiến tranh ñể lại, nên việc cân ñối ñủ các nguyên vật liệu ñầu vào cho các doanh nghiệp là không ñầy ñủ và không kịp thời dẫn ñến các mục tiêu kế hoạch ñề ra thường bị ñổ vỡ. Tình hình trong nông nghiệp cũng tương tự, các nhà làm chính sách lúc bấy giờ quan tâm ñến mục tiêu hợp tác hoá (mô hình kinh tế XHCN cơ bản trong nông nghiệp) hơn là sản xuất ra nhiều sản phẩm ñáp ứng nhu cầu tiêu dùng với hiệu quả cao nhất. Việc tiến hành hợp tác hoá ồ ạt ở miền Nam với biện pháp tập thể hoá ruộng ñất và tư liệu sản xuất của nông dân. Người nông dân không còn sản xuất trên mảnh ñất với nông cụ của mình nên không có ý thức trong việc sản xuất hiệu quả và bảo vệ tài sản công, làm cho hiệu quả sản xuất rất thấp, người nông dân miền Nam, vùng vựa lúa của cả nước mà vẫn không ñủ ăn. Các tài sản, nông cụ sau một thời gian ñưa vào tập thể bị hư hỏng, không sửa chữa ñược phải bỏ phí, ruộng ñất nhiều vùng bị bỏ hoang. Năm 1987 khi tôi vừa tốt nghiệp ñại học và nhận công tác tại phòng Kế hoạch của một huyện lớn ở miền Trung (dân số gần 200.000 người), mặc dù ñã có tín hiệu ñổi mới ở cấp trên nhưng ở các cấp dưới, mô hình kế hoạch hoá tập trung vẫn chưa có gì chuyển biến. Hàng năm chúng tôi nhận các chỉ tiêu kế hoạch từ cấp tỉnh và tiến hành phân bổ lại kế hoạch cho các ñịa phương và hợp tác xã nông nghiệp. Chúng tôi tính toán giao rất nhiều các chỉ tiêu kế hoạch về sản xuất nông nghiệp cho các hợp tác xã ñồng thời cũng cân ñối cho họ hàng loạt các chỉ tiêu như vật tư phân bón, thuốc trừ sâu, xăng dầu, than ñá, ñiện năng phục vụ sản xuất nông nghiệp, các loại hàng hoá thiết yếu cho người dân như vải Tran Huu Uy Page 5/11
- Chuong trinh Giang day Kinh te Fulbright baivietcs6__en0fiet5lk4x93o0byu3ruent3093832_in.doc Nien khoa: 2005 - 2006 vóc, muối, ñường, dầu hoả,…Tuy nhiên nhiều loại vật tư quan trọng phục vụ sản xuất thường không ñược tỉnh cân ñối ñầy ñủ và kịp thời làm cho hiệu quả sản xuất rất thấp. Mô hình hợp tác xã không tạo ra ñộng lực cho nông dân phát triển sản xuất kết hợp với những trục trặc trong quá trình phân phối, trao ñổi làm cho năng suất và sản lượng nông nghiệp rất thấp, ñời sống người nông dân vô cùng khốn khó. Kinh tế thị trường và những kết quả mang lại cho Việt Nam: ðiều gì giải thích cho sự phục hồi của con ñường thị trường ñịnh hướng? Theo giáo sư Malcolm Gillis: Một yếu tố là sự khó khăn ñể tạo lập và thực hiện các kế hoạch quốc gia một cách toàn diện với những nguyên nhân ñược trích dẫn ở trên. Những khuyết tật này trở nên rõ rệt vào thập kỷ 70, khi tình hình kinh tế quốc tế thay ñổi rất mạnh mẽ và quyết ñịnh nhanh chóng trở thành ñiều bắt buộc ñối với tất cả các nước. Cần thiết phải có sự thay ñổi cơ cấu ñể hạn chế việc tiêu thụ các sản phẩm dầu lửa và việc thay ñổi cơ cấu ñã ñược thực hiện tốt ở các khu vực ñược phép tăng giá dầu lửa do tác ñộng của các lực lượng thị trường ñể duy trì hoạt ñộng. Hơn nữa, các nhu cầu chồng chất của kế hoạch hóa và những can thiệp ñạt ñược bằng khả năng có giới hạn của các nhà quản lý bắt ñầu tác ñộng ñến các hoạt ñộng kinh tế ở nhiều nước ñang phát triển, một số nước ñó ñã bắt ñầu thấy rằng khu vực tư nhân là một bộ phận ngày càng có sức hấp dẫn trong sự phát triển. Và các ñiển hình như Nam Triều Tiên, ðài Loan, Singapore, Brazil ñã duy trì ñược sự tăng trưởng nhanh chóng trong hai thập kỷ với nền kinh tế do thị trường ñịnh hướng ñã có sức thuyết phục mạnh mẽ là thị trường ñáng giá hơn các hình thức khác. Phát triển kinh tế thị trường là một trong những ñộng lực quan trọng nhất cho sự tăng trưởng và phát triển của Việt Nam từ thập kỷ 90 ñến nay, ñây cũng là lĩnh vực Việt Nam tiến hành những ñổi mới sâu rộng nhất và ñạt nhiều hành tựu to lớn nhất, và cũng là lĩnh vực mà lúc nào cũng có nhiều vấn ñề phức tạp nhất, gây tranh cãi nhiều nhất, ít sự thống nhất ý kiến nhất. Sự phát triển kinh tế thị trường ñã bao gồm hầu như tất cả các vấn ñề kinh tế từ giá cả, tỷ giá, lãi suất ñến các thành phần kinh tế, ñến các doanh nghiệp, ñến cả hội nhập quốc tế, ngân hàng tài chính và cả các lĩnh vực dịch vụ…. Ở Việt Nam, thực tế thành công ñầu tiên của công cuộc ñổi mới là Khoán 10 trong nông nghiệp ñã tạo ra một bước ngoặt lớn trong kinh tế nông nghiệp và nông thôn. “Thực chất Khoán 10 trong nông nghiệp là sự minh bạch quyền sở hữu giữa nông dân và nhà nước dưới dạng một hợp ñồng kinh tế: nhà nước giao quyền sử dụng ñất nông nghiệp cho nông dân, cứ cấy lúa trên 1 ñơn vị diện tích thì phải nộp cho nhà nước một số thóc nhất ñịnh, phần còn lại thuộc sở hữu của nông dân. Từ hợp ñồng này, người nông dân ra sức lao ñộng, cải tiến kỹ thuật ñể làm cho phần còn lại thuộc sở hữu của mình ngày càng nhiều lên, ñiều ñó ñã làm ñộng lực mới ñể nông dân tăng năng suất từ 5 tấn/ha ñến 10 tấn/ha và có nơi tới 15 tấn/ha. Do vậy ñã ñưa nước ta từ chỗ không ñủ gạo ăn tới chỗ có gạo xuất khẩu thứ 4, thứ 3 và thứ 2 trên thế giới”v. Thắng lợi của chính sách khóan 10 trong nông nghiệp ñã có một tác ñộng mạnh mẽ ñến các lĩnh vực khác, làm cơ sở thực tế cho bước ñột phá về chính sách ñổi mới của ðảng và nhà nước vào năm 1986. Việc giảm dần vai trò kế hoạch hóa tập trung, phát triển nền kinh tế theo hướng thị trường, khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, sử dụng cạnh tranh làm ñộng lực thúc ñẩy, tăng cường họat ñộng ngoại thương và hội nhập quốc tế… nền làm cho nền kinh tế Việt Nam bắt ñầu khởi sắc. Tốc ñộ tăng trưởng GDP bình quân 15 năm qua ñạt trên 7%. Mức sống của người dân ñược nâng cao Tran Huu Uy Page 6/11
- Chuong trinh Giang day Kinh te Fulbright baivietcs6__en0fiet5lk4x93o0byu3ruent3093832_in.doc Nien khoa: 2005 - 2006 hơn 2 lần. Các chỉ tiêu như tỷ lệ thất nghiệp, tỷ lệ ñói nghèo, tỷ lệ người dân biết chữ, tuổi thọ… ñã ñược cải thiện theo hướng tích cực. Việt Nam ñã mở rộng quan hệ buôn bán với trên hàng trăm quốc gia trên thế giới, nhiều lĩnh vực, sản phẩm do Việt Nam sản xuất ñã cạnh tranh thành công trên thị trường quốc tế … “Những thành tựu mà Việt Nam ñã ñạt ñược trong việc xây dựng và phát triển kinh tế thị trường là quá rõ ràng: ñã thiết lập ñược cơ chế thị trường quy ñịnh giá cả, tỷ giá, lãi suất; ñã hình thành các thị trường cơ bản dù còn sơ khai; các thành phần kinh tế, các chủ doanh nghiệp, các chủ thể kinh doanh ñã ñược khuyến khích phát triển và ñảm bảo quyền tự chủ kinh doanh rộng rãi; hệ thống các luật kinh tế thị trường ñã ñược ban hành tuy còn khiếm khuyết; nền kinh tế ñã mở cửa và hội nhập quốc tế v.v… Việt Nam ñã chuyển ñổi sang kinh tế thị trường không phải với giá phải trả là suy thoái và trì trệ, mà với phần thưởng là liên tục tăng trưởng cao và mức sống của dân cư ñược cải thiện”vi. Những thách thức ñối với nền kinh tế Việt Nam hiện nay: Mặc dù ñã ñạt ñược những thành tích ñáng kể trong phát triển nền kinh tế trong nhiều năm qua, nhưng chúng ta ñang ñứng trước nhiều thách thức to lớn. Tỷ lệ lao ñộng làm việc trong nông nghiệp Việt Nam hiện nay vẫn còn ở mức rất cao (66%) nhưng khả năng chuyển dịch sang công nghiệp và dịch vụ hàng năm rất thấp. Tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm còn cao, ñặc biệt ở khu vực nông thôn, làm cho thu nhập thấp, ñời sống khó khăn, tạo ra sự bất bình ñẳng về thu nhập giữa thành thị và nông thôn, giữa người giàu và người nghèo ngày càng cao. Do chưa chú trọng phát triển theo hướng bền vững, tăng trưởng ñã làm tổn hại môi trường, gây ô nhiễm nghiêm trọng các sông hồ, các ñô thị lớn. Trong thời gian tới, những tác ñộng ñối với môi trường sẽ ngày càng gia tăng. Việc quản lý ñiều hành còn nhiều yếu kém mà biểu hiện cơ bản là tình trạng tham nhũng tràn lan ở mọi cấp, mọi ngành trong bộ máy nhà nước. Việt Nam ñang bị xếp vào hạng 102 trên 146 nước ñược nghiên cứu về tham nhũng (của tổ chức Transparency International). Tình trạng tham nhũng ñã làm xói mòn lòng tin của người dân vào bộ máy chính quyền, gây tác ñộng xấu ñến môi trường ñầu tư của Việt Nam, ảnh hưởng ñến việc thu hút các nguồn ñầu tư nước ngoài. Tham nhũng thường kéo theo một sự lãng phí gấp nhiều lần giá trị tham nhũng, hệ số ICOR của Việt Nam những năm qua là khá cao khi so sánh với các nước, có phần tác ñộng bới yếu tố tham nhũng. Tóm lại, quá trình phát triển nền kinh tế của Việt Nam trong vòng 20 năm qua có thể ñược xem là kết quả của quá trình chuyển ñổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường. Cần phải vận dụng ñúng ñắn các quy luật của thị trường ñể thúc ñẩy phát triển nền kinh tế phù hợp với các xu hướng phát triển của thế giới và những ñiều kiện lịch sử cụ thể của ñất nước. Tuy nhiên, kinh tế thị trường cũng có những mặt trái của nó, chính phủ cần phải có sự ñiều hành linh ñộng, hạn chế ñược những ảnh hưởng tiêu cực của thị trường, phát triển nền kinh tế Việt Nam theo hướng bền vững, ñuổi kịp ñược các nước phát triển trên thế giới./. Tran Huu Uy Page 7/11
- Chuong trinh Giang day Kinh te Fulbright baivietcs6__en0fiet5lk4x93o0byu3ruent3093832_in.doc Nien khoa: 2005 - 2006 TÀI LIỆU THAM KHẢO: Câu chuyện: Cái ðêm Hôm Ấy...ðêm Gì ?(i) Cuối năm 1983, tôi ñược ở nhà chờ quyết ñịnh về nghỉ chế ñộ. Chiều Chủ Nhật, thằng Học con tôi rủ rỉ nói: Con bắt ñược bác Quang ăn bánh cuốn ở hàng anh Minh. Bác ñi thồ sắn ở chợ Phúc ðịa về. Bác cho mấy bó nhưng con không lấy. Bác dặn con về ñừng nói với bố mẹ là ñã gặp bác. Nói, hôm nào sang bác ñánh chết. - Hừ! Lại thế nữa... Tôi buột miệng bảo với con thế, rồi thừ ra. Bạn bè anh em cùng một phòng với nhau mà ñi qua không vào. Có ñiều gì nhỉ? Sáng thứ Hai tôi sang cơ quan ứng mấy cân gạo và ñịnh bụng sẽ gặp, trút sấm sét lên ñầu anh ấy. Nghe tôi trách, Lê Trung Quang, trưởng phòng tổ chức Ủy ban huyện Thọ Xuân, cười hà hà làm lành thật ñôn hậu, dễ yêu: - Giá có một mình thì tôi vào. ðằng này những bốn binh, khao ñược, anh cũng liệt. Vả lại, bốn cái xe nặng è, sợ tối. Là trưởng phòng tổ chức ủy ban huyện, anh cũng ñể gia ñình vợ con ñói thiếu. Ra anh còn kém cỏi hơn cả tôi, một kẻ chân chim trần trụi, một tay sắp trở thành "phó thường dân". "Nhà mình cũng bí. Nộp sản ñi rồi, lúa ñã cạn. Khó mà ăn thấu tết ñược". Quang lắc ñầu bảo thế. Anh gạn tôi: - Ông ở ñây với tôi ñêm nay cho vui. Tôi buồn quá.Tôi chỉ vào mấy cân gạo ñã bó buộc sau xe, bảo anh Quang: - Phải mang "hàng chiến lược" này về chứ. Nếu nghe lời Lê Quang Trung nằm lại với anh một ñêm, thì tôi ñã không thể nào hình dung nổi ở Phú Yên xã tôi Cái ñêm hôm ấy là ñêm gì... Có cái "các" quá giang của Lê Trung Quang cho mượn, tôi không phải mất ba ñồng tiền ñò. Qua sông Chu gió vù vù bên tai, tôi phải kéo vành mũ len, trùm thấp cho ñỡ run. Tôi về ñến nhà, trời ñã sẩm tối, con mực xông ra í a í ẳng vờn chân lên hông. Vợ tôi bế thằng Văn ngủ khì trong lòng, ngồi bên bếp than vỏ cao su um khói. Bên cạnh, thằng cu Thức bốn tuổi ñang liến láu. Còn Học - thằng con nhớn ñang học bài ở nhà trên. Thấy tôi về thằng Thức reo lên: - A bố! Bố về là bố về! Có chi không bố? - Có cái rét cóng ñây này! Tôi nói rồi dắt xe vào nhà, mở túi gạo, vác xuống bếp khoe: - Ứng ñược năm cân gạo. Bà cụ thân sinh ra tôi mệt ñã lâu, thấy tôi về, cũng gượng chống gậy xuống bếp sưởi. Cụ bảo: - Mẹ Học ñi nấu cơm cho bố va ăn! Tôi hỏi: - Nhà ăn rồi hả mẹ? Cái thằng Thức ñến là hở miệng, cấm có giấu nó ñược tí gì. Nó nói: - Chỉ nấu cơm cho bà với em thôi! Mẹ với anh Học, với con ăn cháo rau má rồi. Bữa nay mẹ luộc rõ nhiều rau cải. Tôi thấy cay sè trong mắt. - Thế thì nấu thêm vào. Hết thì tao ñi bới ñất, nhặt cỏ, van ông vái bà. Làm con người mà miếng cơm chín vào bụng vẫn không ñủ thì sống thế nào? Vợ tôi ñịnh cãi câu gì ñó, nhưng lại thôi, vội trao thằng Văn cho bà rồi lại mở túi gạo ñi vo. Bà cụ nói: - Rau cải ế nhăn! ðói, chả mấy người mua. Hôm nay mẹ va không ñong ñược gạo. May lấy ñược ñấy, không thì mai gác con lên... Ngoài cửa gió ào ào, tiếng chó sủa ổng oảng ở ñầu ngõ. Có tiếng ai hỏi mua rau cải nhà tôi. Cô Hoa vợ chú ðược. Hoa cũng người họ Phùng, gọi tôi bằng bác. Chồng cô ấy là ñội trưởng ñội sản xuất cũ, nay vừa ñược rút lên làm trưởng ban ñịnh mức, rồi phó chủ nhiệm. Cô vào bếp vừa nói, vừa run: - Sao năm nay rét sớm thế này? Bác bán cho cháu mấy bó rau cải xào. Vợ tôi bắc nồi cơm lên bếp, mấy bà cháu phải dồn chỗ cho hai người ñàn bà tê cóng này ngồi cạnh bếp hơ tay, ngó chẳng khác những viên ñạn bị nén trong cái băng lò xo tròn. Tuy gần bằng tuổi vợ tôi, nhưng là hàng cháu họ, nên Hoa vẫn bác bác, cháu cháu ngon ơ. - Bác có ngan, gà gì ñể cho cháu vài cân. Giá mấy cũng ñược, cháu không quản. - Còn có vài ba con, phải ñể hôm sau bà... Tôi lừ mắt chặn lại câu nói hớ, khiến vợ tôi im bặt. Chả là vì mẹ ñẻ ra tôi yếu lắm rồi. Cụ ñã bảy mươi lăm tuổi, lại phù nề mặt mũi vàng ủng như quả thị rụng. Ai cũng bảo khó qua cái ñầu mùa ðông này. Vì vậy gia ñình tôi ñã lo chuẩn bị ngầm, phòng sau khi cụ về cõi. Cái gì vợ tôi cũng bảo dành ñể hôm sau bà...thành quen miệng. Cau cũng phơi kỹ bỏ be ñể hôm sau, thậm chí bọt bẹt ñược ñồng rau nào cũng dồn mua ván ñóng sẵn áo quan ñể hôm sau... Ấy nhưng nói ñến cái chết, cụ lại giận và làm nau: Bay trông tao chết à? Tao Tran Huu Uy Page 8/11
- Chuong trinh Giang day Kinh te Fulbright baivietcs6__en0fiet5lk4x93o0byu3ruent3093832_in.doc Nien khoa: 2005 - 2006 phải sống ñể nhìn con cháu ñược ñến lúc sung sướng chứ. Khổ mãi rồi. Tôi hỏi Hoa ñể lấp láp câu hớ rồi cho bà cụ khỏi giận: - Mua ñồ nhậu làm gì tối thế này? - À... mua cho mấy thằng về ñội ta thu sản, khuya các hắn ñớp. ðội và quản trị thuê khoán cháu nấu. Vì có chồng ở ban quản trị, cô ấy cũng là loại biết nhiều chuyện "bí mật nội bộ". Hoa thì thò cho vợ tôi biết ñêm nay là ñêm "ñồng khởi" thu sản, tổng vét cả xã. Họ sẽ ñổi chéo, công an và dân quân ñội này về ñội kia, vét bằng hết. Vì ñội 12 này là nặng gánh nhất, nên họ sẽ ñiều về ñây những tay cứng cựa. Hoa khuyên: - Bác có thiếu sản, thì liệu mà xoay ñi - Thế thì tao ñét bán rau cho mi nữa. Vợ tôi toan từ chối, nhưng Hoa nài mãi và có tôi nói vào nên chị chàng mới chịu nghe. Hoa cầm ñèn ra vườn soi cho vợ tôi hái. Cô ấy cầm rau, rồi còn ñi các nhà bên cạnh hỏi mua gà. Cơm cạn, tôi vần cạnh bếp. Vì không phải ghế ñộn khoai ñộn sắn gì nên chín rất mau. Thấy chỉ nấu mình cơm tôi, lòng tôi lại buồn nổi gai. Vợ tôi bế thằng út vào lót cho nó ngủ trong buồng, rồi lấy cho tôi cái bát, ñôi ñũa. Cuộc chào mời ñùn ñẩy, nhường nhịn nhau rõ bực.Tôi lùa hai bát cơm với nước dưa chua, rồi bỏ ñấy. Bà cụ nài, rồi tôi dỗ thằng Thức cũng lắc ñầu không dám ăn chỗ cơm còn lại. Hắn sợ mẹ. Nhà này, mẹ chúng nó có quyền uy tối thượng. Biết vậy, nhưng tôi cũng sắp trở thành kẻ sống nhờ... Ngồi ở bếp, tôi hỏi vợ: - Nhà mình còn thiếu của hợp tác xã bao nhiêu thóc nữa em?Cô ấy không trả lời tôi mà nói rất vô lễ: Có biết thế này, ñái tòe tòe vào, chứ tội gì lôi về. Cha ñời! Bữa trước thì tuyên bố vớt ñược gì ăn nấy, người ta mới hụp lặn xuống nước lụt mà khở (gở) từng bông lúa. Nay lại giở trò giảm tỷ lệ! Tôi vỗ về: - Thôi! Lụt thì lụt cả làng, em ạ! Em nói xem, so với tổng sản phải nộp, nhà ta thiếu bao nhiêu? - Một tạ mười hai cân, em ñã trình bày với anh Nhà ñội trưởng rồi. Thực tế mò ñược hạt nào ñã ăn hết hạt nấy. Mấy lâu nay bán ñược ñồng rau nào mua ăn, không bán ñược thì nhịn. ðã nói khất rồi. Không cho khất, thì nhà ñấy có dỡ ñược, ñến mà dỡ. - Phải mềm mỏng, em ạ! Khéo bán khéo mua thua người khéo nói! Gia ñình mình, con cái mình còn ăn ñời ở kiếp nơi ñây. Vợ tôi rền rĩ như sắp khóc: - Chả nhẽ kiếm liều thuốc chuột, cho vào nồi cháo, ăn hết cả nhà cho sướng cái ñời... Ngồi sưởi ở bếp rất lâu, vỏ cao su cháy tàn, ñã vạc hai ba ñống than, mà chẳng ai muốn nói với ai câu nào nữa. Bà cụ ngồi lâu, mỏi và chán chuyện bỏ ñi nằm. Thằng Học làm toán xong, lấy cho bà nồi than, rồi cũng rúc xuống bếp. Hắn ñi bốc rơm lót ổ ngay cạnh bếp, lấy ván chắn rồi trải chiếu, ôm chăn ra nằm. - Ngủ ñây mà ấm, bố ạ!Trong giường thằng Út Văn khóc í óe. Hắn lại ñái lạnh ñít rồi. Mẹ nó vào quả không sai. Nó ñược ôm ra bếp sưởi, nằm gọn trong lòng mẹ. Gần một tuổi mà nó còn bắt nhá cơm bón và bú thì hơn con bê non. Lại nhai tòm tọp thế ñó! Tôi ñùa với con ñể nó cười sằng sặc cho dịu cơn lo buồn. Gần mười hai giờ khuya, cả nhà ñi nằm. Tôi ngủ với hai thằng oắt trong ổ rơm dưới bếp.Có ñiều gì ñó bồn chồn và nơm nớp... Bỗng tiếng kẻng gõ giục giã liên hồi. Kẻng khắp xã: từ ñội 1 ñến ñội 15, như một sự bùng nổ dây chuyền. Tiếng loa phóng thanh mở hết cỡ ñọc bản tin, kế hoạch huy ñộng lương thực của tỉnh và chỉ thị của tỉnh ủy về công tác lương thực. Hoàng Văn Nhân, ñội trưởng ñội 12, ñọc trên loa danh sách những nhà thiếu thóc chưa giao nộp cho hợp tác xã. ðèn ñóm soi rừng rực ở các ngã ñường. Chó sủa ơi là chó sủa. Cũng cái loa phóng thanh ấy, có tiếng ông chủ tịch xã gọi cán bộ về ñội 12 hội ý. Ông trưởng công an xã Nguyễn ðình ðịnh gào rát cổ trên loa, giọng giật giội gọi lực lượng dân quân, công an tăng cường về chi viện cho ñội 12, tạo ñà cho ñội hoàn thành chỉ tiêu huy ñộng. Tôi rùng mình nghĩ ñội tôi là ñội trọng ñiểm, nên cán bộ xã, hợp tác xã, vón cục cả về ñây. Họ sẽ gõ cho ra chục tấn thóc còn tồn sổ. Gần một giờ sáng, công an, dân quân ñã ập ñến các nhà nợ thóc. Tiếng chó sủa vang, tiếng lợn kêu èng ẹch như bị chọc tiết ở các nhà gần quanh, làm thằng Út Văn khóc thét lên, ôm riết lấy mẹ. Thằng Thức cũng im thin thít, nằm co trong lòng tôi không dám cựa. Bên nhà ông Ái, láng giềng cách vườn nhà tôi một hàng rào, công an và dân quân ñang lùng sục. Tiếng ông bà Ái kêu xin và tiếng quát lác, tôi nghe rõ mồn một. - Cứ bắt lấy cái xe ñạp! Phích, xô, bắt ráo! Ở cổng nhà tôi ñã có bước chân rình rịch, con chó mực ñang có chửa bị quất, kêu ử ử. Cạch cạch cạch. - Chị cò Lộc, mở cửa ra! Tiếng thằng bé trong buồng khóc thét. Thằng Thức ñang ôm tôi, nghe em khóc cũng òa khóc toáng lên. Thằng Học mười hai tuổi ñã học lớp tám rồi, mà cũng níu lưng tôi run bắn. Nghe tiếng quát lần thứ hai, từ nhà bếp, tôi chạy lên. Tran Huu Uy Page 9/11
- Chuong trinh Giang day Kinh te Fulbright baivietcs6__en0fiet5lk4x93o0byu3ruent3093832_in.doc Nien khoa: 2005 - 2006 Một luồng ñèn pin soi giữa mặt làm tôi lóa mắt, phải lấy tay che. - Có chuyện gì ñấy, các bạn trẻ ơi? - Thu thóc, thu thóc chứ còn gì, ông ñừng hỏi vờ. Vợ tôi ñã mở toang cửa, tay ôm thằng bé ngất lịm. Một anh, hai anh... bốn anh bạn trẻ ùa vào nhà. Anh ñi ñầu cao to, tóc cắt tăng gô, mặc áo bông thùng thình, soi ñèn pin rồi ñánh diêm châm cái ñèn hoa kỳ ở bàn thờ. Có lẽ Tâm "hộ pháp" là người này. Phải, tôi ñã thấy anh ta ñứng chân hộ vệ giữa, trong một cuộc ñá bóng với xã khác. Tay anh cầm cái choòng sắt cỡ ngón tay cái. Vợ tôi mời họ ngồi ghế. Bà cụ ñang ốm ở giường bên cũng cố ngóc dậy, run rẩy chào. Theo danh sách ñội báo, chị còn thiếu hơn tạ thóc. Yêu cầu chị ñem nộp ngay! Bà cụ tôi ñáp thay con dâu: - Các bác các anh ơi! Có còn cái gì mà nộp. Các anh và các bác không thấy ñàn con hắn ñói xanh ñói trong ñi à? Các bác không thấy tôi cũng phát phù phát nề, vàng cây úa lá ñây à? - Chúng tôi không hỏi mụ nghe chưa?Cả bốn người cùng soi ñèn pin khắp nhà trong, nhà ngoài, dưới bếp, bên chái. Hai người tuông soi cả trong vườn rau. Vợ tôi mếu máo: - Làm gì có lúa ñể ngoài ấy. Các anh xéo nát cả rau. Tôi chạy ra trụ sở ñội, ñịnh tìm cán bộ trình bày. Chủ tịch Phê, bạn dạy học với tôi ngày trước, ñi bộ ñội về giải nghệ, vào cấp ủy, ñang ñứng ñấy. Thấy thế tôi mừng quýnh. Lại thấy cả Phùng Gia Miện anh họ tôi, làm bí thư ñảng ủy cũng có mặt, tôi càng yên trí. Nhưng thấy tôi họ quay ñi lảng tránh. Anh Miện bảo nhỏ tôi: - Chú về ñộng viên gia ñình thanh toán bằng ñủ, nhà mình là cán bộ. Không có thóc thì nộp bằng tiền. Lãnh ñạo ñã nhất trí cho nộp cả bằng tiền rồi ñó. Tôi ñang ñịnh nói: "ðã không có thóc thì làm cóc gì có tiền", nhưng anh họ tôi ñã dịu giọng: - Ở ñội trên, hắn bắt cả anh Thiện, anh ruột tôi, mà tôi cũng phải ñiếc ñi..."Mất mùa màng, lợi ích thứ ba của người lao ñộng phải hy sinh cho lợi ích của nhà nước". ðồng chí bí thư tỉnh ủy ñã chỉ thị thế, chú biết rồi ñó.Lúc ấy ở trụ sở, công an, dân quân ñã khuân về nào xe ñạp, bàn ghế, tủ, chum vại, thùng tôn, lợn gà... ñể ngổn ngang ra tận ngõ. Tên chủ nhà thiếu thóc ñề chữ bằng phấn trắng vào các ñồ vật: Ông Ất, ông Do Khả, ông Hưng, ông Hồng, ông Khính (mẹ ñẻ cô Hoa, mẹ vợ chú ðược phó chủ nhiệm)... Mấy con bò bị bắt cột gần ñó sợ ñèn, sợ ñám ñông cứ lồng lên, chực bút mũi. Chúng xoay vòng quanh, mgửa lên mặt kêu "hấp bồ", "hấp bồ"... Tôi loạng choạng ñi về nhà, thấy người ta ñang còn soi ñèn tìm rất kỹ. Tôi nói: - Các người anh em soi tìm gì cho mất công. Nhà tôi xin khất ñến mai, tìm cái bán chác, nộp tiền bằng ñủ.Anh ñầu tốp nháy nháy mắt ra hiệu. - ðêm nay là ñêm nay! Mai chúng tôi mất thưởng ai chịu cho? - Bắt cái xe ñạp ni, bay! Hai ba anh chạy lại. Tôi từ tốn ngăn họ: - Các ñàn anh ơi! Tôi không làm ruộng sản mà. ðây là xe ñạp nhà nước cấp cho tôi ñể tôi ñi công tác. Các vị bắt cái này không ñược ñâu. - Nếu chúng tôi cứ bắt thì sao?Tôi loáng nghĩ ñược một mẹo. Rút cái "thẻ hội viên Hội văn nghệ tỉnh" ra, tôi nói: - Tôi phản ñối! Tôi là "nhà báo"! Tôi sẽ kiện lên tận ông ðồng. Nước cờ của tôi không ngờ lại có hiệu quả. Họ im lặng. Hẳn họ ñã biết tên tôi dưới những bài ñăng nào chăng. Chợt vị "hộ pháp" nhìn chằm chằm vào cỗ quan tài ñể dưới gầm bàn thờ, rồi ñi lại, vừa gõ vừa hỏi: - Cái gì trong này, chị Lộc? Im lặng... - Cái gì trong này, chị nói mau? Vợ tôi ấp úng. Tôi muốn tắc thở. - Có cái gì ñâu... Mấy vị hăm hở lại, ñạp lật nghiêng một cái. Nắp văn thiên bung ra, lúa chảy rào rào. Cả toán reo lên như một hiệp ñào vàng trúng vỉa: - A! Lúa! A lúa! Lúa! Anh em ơi. Ghê thật! Thế mà giả nghèo giả khổ.Mẹ tôi chống gậy vái dài: - Van các anh! Cắn rơm cắn cỏ tôi lạy các anh! Lúa của tôi. ðó là tạ lúa hai ñứa con gái hắn mua góp lại cho, ñể hôm sau tôi chết, bà con thương mà chạy ñến ñể ăn lưng cơm sốt.Thực ra là của hai bà chị trong ñó mỗi người có mười cân thôi. Ba mươi chín cân tiêu chuẩn hai tháng vừa qua tôi lấy về, còn lại là hơn bốn mươi cân, vợ tôi ñong ñể dành "hôm sau" cho bà. Bà cụ nói như rên rẩm: - ðã bảo xay phứa ñi cho con nó ăn không nghe. Cứ bóp mồm bóp miệng, ñể dành làm chi. Sống chả thấy ñâu nữa là! Một tay râu tóc lồm xồm hỏi: - Chị có gánh ñi hay không thì bảo? Một tay khác tôi hơi quen mặt, ñến trước vợ tôi lạy lia lịa: - Thôi em xin bà chị. Em ñi làm ở ñây thế này, nhưng lại có bọn khác ñến chỗ em làm ác y hệt. Nhà em cũng thiếu mà. Chị không gánh, ñể cánh này bê cả hòm ra, chị phải chịu hai chục công là ít, chưa nói phạt tiền. Họ xúm vào khiêng bàn thờ ra, ñể lôi hòm lúa. Bất ñồ hai thằng Học và Thức từ bếp tuôn lên, ôm lấy tay chân chư vị, van rối rít. - Cháu van các Tran Huu Uy Page 10/11
- Chuong trinh Giang day Kinh te Fulbright baivietcs6__en0fiet5lk4x93o0byu3ruent3093832_in.doc Nien khoa: 2005 - 2006 chú! Các chú ñừng lấy lúa này ñi. Lâu nay các cháu phải nhịn ñể dành bữa sau cúng cỗ bà, làm ma bà! - Buông ra ñi! Ô hay, ñồ con nít! Bà cụ loạng choạng ñi lại, giơ gậy cản:- Các ông không thương trẻ, thì các ông thương lấy thân già, ñể lấy phúc ñức cho con cháu. Vì họ ñá vấp gậy, lại yếu như con căng cắc lột, bà cụ ngã chỏng queo như chiếc ghế ñổ. - Ối ðảng ôi là ðảng ôi! Chính phủ ôi... Trông xuống mà coi...Tôi xốc mẹ lên giường, bịt mồm cụ lại: - Mẹ! Mẹ không ñược la như thế! ðây không phải ðảng! ðảng ta không làm thế. ðảng không chủ trương thế này! Tôi nói vậy và ngoặp hai hàm răng vào cổ tay mình ñể kìm giữ cái gì cứ chực tung ra. Hai vợ chồng xúc hết lúa ra thúng bì. Dặn thằng Học trông em, ngó bà, tôi cùng vợ hì hục gánh thóc ra trụ sở nộp...ðoạn cuối này tôi dành cho anh Quang. Lê Trung Quang ơi! Anh có thể giấu cái bi kịch của gia ñình anh, nhưng tôi không còn có thể che giấu nỗi ñau của nhân dân bất hạnh. Dù sự tiết lộ này có làm mất cái chức huyện ủy viên của anh, thì tôi cũng thấy cứ phải nói ra. Chuyện thật của nhà anh ñây: lúa vay ăn còn nợ bảy tạ, con Lâm, thằng Sơn phải ñi mò hến từng bữa, chị ấy nấu bánh ñúc ñi các làng ñổi lúa. Anh mà nói ra, người ta cho là anh bêu riếu. Việc thật ở nhà tôi ñêm 26 tháng 11 năm 1983, người ngoài cuộc hẳn cho là mình bịa. Cho ñến nay, mỗi khi nghĩ ñến, tôi cứ thảng thốt hỏi mình: "Cái ñêm hôm ấy... ñêm gì?" Phùng Gia Lộc - Cuối năm 1987 ii ðêm trước ñối mới: Công phá luỹ tre. XUÂN TRUNG - QUANG THIỆN Báo tuổi trẻ ngày 04/12/2005 iii ðêm trước ñối mới: Chuyện cô giáo tôi. HỒNG NHUNG (Hội An, Quảng Nam.Báo tuổi trẻ ngày 04/12/2005. iv ðêm trước ñối mới: Tôi trắng án. GSTS VÕ TÒNG XUÂN (Hiệu trưởng ðại học An Giang). Báo tuổi trẻ ngày 14/12/2005. v Cải cách doanh nghiệp nhà nước nhằm minh bạch về sở hữu, tạo ñộng lực phát triển. Luật sư Cao Bá Quát. Báo ðầu tư số 146, ra ngày 6/12/2002. vi Những vấn ñề phát triển ở Việt Nam - Giải pháp. PGS. TSKH Võ ðại Lược, báo Thời ñại mới, số 6 tháng 11/2005. Kinh tế học của sự phát triển. Chương V: Kế hoạch hoá thị trường và các chính sách. Giáo sư Malcolm Gillis. Tran Huu Uy Page 11/11
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright - Bài thực hành số 3
36 p | 410 | 110
-
Chương trình giảng dạy Kinh tế Fulbright: Khai thác dữ liệu khảo sát mức sống hộ gia đình Việt Nam (VHLSS) để làm đề tài nghiên cứu, sử dụng phần mềm Stata - Nguyễn Khánh Duy
52 p | 347 | 55
-
Kinh tế Fulbright - Ngoại thương Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Niên khóa 2005 – 2006 Ngoại thương: Thể chế và tác động Phát trịển, thương mại, và WTO Ch. 5 Chính saùch ngoaïi thöông ñoái vôùi vieäc xoaù ñoùi giaûm ngheøo CHÍNH SÁCH NGOẠI THƯƠNG ĐỐI VỚI VIỆC XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO
16 p | 224 | 48
-
Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright: Áp chế tài chính ở Việt Nam
19 p | 143 | 14
-
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright: Chương 14 - Đánh giá tác động lên các bên liên quan trong phân tích chi phí - lợi ích
26 p | 80 | 12
-
Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright: Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và nền kinh tế hùng mạnh của Ailen
34 p | 107 | 11
-
Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright - Thông tin về các chương trình và môn học 2014-2016
40 p | 131 | 10
-
Bài giảng Kinh tế học Vĩ mô - Giới thiệu lý thuyết trò chơi và một số ứng dụng trong kinh tế học vi mô: Phần 2
7 p | 127 | 8
-
Bài giảng Nhập môn Kinh tế học môi trường và chính sách môi trường
58 p | 158 | 7
-
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright: Chương 13 - Chi phí cơ hội của kinh tế lao động
37 p | 59 | 7
-
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright: Chương 9 - Xác định lợi ích và chi phí trong thị trường biến dạng
27 p | 72 | 6
-
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright: Chương 10 - Giá trị kinh tế của hàng hóa ngoại thương và giá trị kinh tế của ngoại tệ
30 p | 55 | 5
-
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright: Chương 4 - Chiết khấu và các tiêu chuẩn để đánh giá đầu tư
16 p | 53 | 5
-
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright: Chương 11 - Ước lượng giá kinh tế khi có nhiều hơn một thị trường biến dạng chịu ảnh hưởng
17 p | 38 | 4
-
Bài giảng Chính sách phát triển - Ghi chú Bài giảng 3: Địa lý và sự phát triển
4 p | 76 | 4
-
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright: Chương 7 - Mục đích và khuôn khổ Đầu tư kinh tế
4 p | 61 | 3
-
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright: Chương 12 - Chi phí cơ hội kinh tế của công quỹ
18 p | 87 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn