intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Chuyên đề cập nhật tiến bộ xạ trị trong ung thư

Chia sẻ: Nguyễn Hữu Quý | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:32

105
lượt xem
28
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Chuyên đề cập nhật tiến bộ xạ trị trong ung thư sẽ giới thiệu sơ lược các kỹ thuật xạ trị đã được ứng dụng trong nước và trên thế giới. Xạ trị là một phần trong điều trị đa mô thức. Kế hoạch xạ trị cần được nghiên cứu trong tổng thể kế hoạch điều trị cho mỗi bệnh nhân. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Chuyên đề cập nhật tiến bộ xạ trị trong ung thư

  1. 1 TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÁI NGUYÊN BỘ MÔN UNG THƯ CHUYÊN ĐỀ CẬP NHẬT TIẾN BỘ XẠ TRỊ  TRONG UNG THƯ HỌC VIÊN : NGUYỄN HỮU QUÝ LỚP : BÁC SĨ NỘI TRÚ CHUYÊN NGÀNH : NGOẠI KHOA KHÓA : 10 THÁI NGUYÊN 2017
  2. 2
  3. 3 MỤC LỤC
  4. 4 DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT AVM: Dị dạng động tĩnh mạch  DNA:  Deoxyribonucleic acid 3­D CRT: Xạ trị 3 chiều theo hình dạng khối u  GS: Giáo sư HDR (high dose rate): Xạ trị liều lượng thấp IMRT: Xạ trị điều biến liều  LDR (low dose rate): Xạ trị liều lượng cao MLC: Ống chuẩn trực đa lá  XTAS: Xạ trị áp sát 
  5. 5 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Ung thư là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây tử vong cho con người   trên toàn cầu. Hiện nay, việc phòng chống ung thư đi vào ba hướng chính: Phòng  bệnh, phát hiện sớm và ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại vào điều trị ung   thư. Việc điều trị ung thư căn cứ vào nhiều yếu tố như cơ quan, vị trí bị ung thư,   thể  giải phẫu bệnh lý, giai đoạn bệnh, cũng như  tình trạng chung của bệnh  nhân. Phát hiện sớm cũng như  chẩn đoán đúng giai đoạn bệnh có ý nghĩa tiên  quyết trong việc quyết định phương pháp điều trị  để  đem lại hiệu quả  cao cho   người bệnh. Trên Thế  Giới, theo số  liệu của Tổ chức ung thư Mỹ công bố  thì năm 2007  có khoảng 7,6  triệu người chết do bệnh ung thư. Ngoài ra còn có 12 triệu người   mang trong người căn bệnh ung thư trên toàn Thế Giới. Còn theo Tổ chức kiểm   soát ung thư  Thế  Giới thì trong năm 2005, tỉ  lệ  người chết do bệnh ung thư  là   13% trong tổng số 58 triệu người chết trên Thế Giới. Trong đó khoảng hơn 70%   số người chết vì bệnh ung thư xảy ra ở các nước có thu nhập thấp và trung bình.  Theo  ước tính thì số  người chết vì ung thư  sẽ  tiếp tục tăng khoảng 11,4 triệu   người trong năm 2030 [1]. Tại Việt Nam, theo nghiên cứu của GS.Nguyễn Bá Đức thì ung thư  vẫn là   nguyên nhân gây tử  vong hàng đầu, mỗi năm có khoảng 150.000 người mắc   bệnh ung thư  mới và khoảng 75.000 người tử  vong vì bệnh này. Tính đến năm  2010 số người mắc bệnh là 200.000 và tử vong là 100.000 người [1]. Việc điều trị ung thư bằng tia xạ đã có một quá trình lịch sử rất lâu dài có thể  nói từ  năm 1895, khi Roentgen phát hiện ra tia X và tới ngày 27 tháng 10 năm  1951 bệnh nhân đầu tiên trên thế giới được điều trị bằng tia gamma Coban­60. 
  6. 6 Ngay từ  những năm 1960 bệnh viện Ung Thư  Trung  Ương (bệnh  viện K Hà  Nội) đã dùng máy Coban, các nguồn radium vào trong xạ  trị. Bên cạnh đó, một  số  cơ  sở  y tế  khác như  bệnh viện Bạch Mai – Hà Nội, bệnh viện Chợ  Rẫy –  Thành Phố  Hồ  Chí Minh, Viện Quân Y 103 đã sử  dụng các đồng vị  phóng xạ  trong điều trị ung thư. Máy gia tốc được đưa vào Việt Nam từ tháng 1 năm 2001  tại Bệnh Viện K – Hà Nội. Hiện nay ngoài bệnh viện K – Hà Nội, ở nước ta đã   có  nhiều bệnh viện khác cũng đã sử  dụng máy gia tốc trong xạ  trị  như  Bệnh  viện  Bạch Mai,  bệnh viện Chợ  Rẫy, bệnh viện Ung bướu Trung  ương,  …   Phương pháp xạ  trị  từ xa dùng máy gia tốc hiện đang có xu hướng phát triển  ở  nước ta. Tuy nhiên số lượng máy còn quá ít so với yêu cầu thực tế. Những tiến bộ  trong xạ  trị đã đem lại kết quả  điều trị  tốt hơn và ít biến  chứng hơn. Hiện nay 70% bệnh nhân ung thư được điều trị tia xạ như một phần  trong liệu trình điều trị ung thư. Chính vì vậy tôi tiến hành chuyên đề này với mục tiêu: “Cập nhật tiến bộ của   xạ trị trong điều trị ung thư” 2. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN Tháng 11/1895  Nhà vật lý học Wilhem Conrad Rontgen phát minh ra tia X. Tháng 3/1896  Nhà vật lý học Henri Becquerel tìm ra sự phóng xạ từ quặng  Uranium. Tháng 7/1898 ông bà Pierre và Marie Curie phân lập được chất phóng xạ  Radium ra khỏi quặng phóng xạ thiên nhiên Uranium. Đầu thế  kỷ  20: Tia X và tia phóng xạ  được  ứng dụng vào chẩn đoán và  điều trị. Sau một thời gian  ứng dụng vào điều trị  thử  một số  loại bệnh,   người ta sớm nhận thấy chỉ có bệnh lý tăng sinh tế bào là đáp ứng với tia  
  7. 7 X và tia phóng xạ mà thôi. Từ đó chỉ  định xạ  trị  khu trú dần vào lĩnh vực  ung thư . 3. CƠ SỞ SINH HỌC CỦA BỨC XẠ ION HÓA [ 2 ] 3.1. Đối với tế bào Tác dụng trực tiếp (chiếm 20%): Xạ trị sẽ tác động ngay đến các chuỗi AND  của tế  bào, làm cho chuỗi nhiễm sắc thể  này bị  tổn thương. Đa số  các trường  hợp, tổn thương được hàn gắn và tế  bào hồi phục bình thường, không để  lại  hậu quả. Một số trường hợp gây nên tình trạng sai lạc nhiễm sắc thể như: "Gẫy   đoạn, đảo đoạn, đứt đoạn ..." từ  đó tạo ra các tế  bào đột biến, làm biến đổi  chức năng tế bào và dẫn tới tế bào bị tiêu diệt. Tần xuất tổn thương phụ thuộc   vào cường độ, liều lượng chiếu xạ và thời gian nhiễm xạ. Tác dụng gián tiếp (chiếm 80%): Khi bức xạ  tác dụng lên cơ  thể  chủ  yếu  gây ra tác động ion hoá, tạo ra các cặp ion có khả năng phá hoại cấu trúc phân tử  của các tế bào, làm tế bào biến đổi hay bị huỷ diệt. Trên cơ thể con người chủ  yếu là nước (trên 85% là H20). Khi bị chiếu xạ, H20 phân chia thành H+ và 0H­  các cặp ion này tạo thành các cặp bức xạ  thứ cấp, tiếp tục phá huỷ  tế  bào, sự  phân chia tế bào sẽ  bị chậm đi hoặc dừng lại. Năng lượng và cường độ  của tia  bức xạ  khi đi qua cơ thể  con người hoặc cơ thể sinh vật bị giảm đi do sự  hấp  thụ năng lượng của các tế  bào. Sự hấp thụ năng lượng này dẫn tới hiện tượng   ion hoá các nguyên tử  của vật chất sống và hậu quả  là tế  bào sẽ  bị  phá huỷ.  Năng lượng bức xạ càng lớn, số cặp ion do chúng tạo ra càng nhiều. Thường các  hạt mang điện có năng lượng như nhau thì tạo ra các cặp ion bằng nhau xong tuỳ  theo vận tốc của hạt nhanh hay chậm mà mật độ  ion hoá nhiều hay ít. Đối với  các hạt như nơtron, ngoài hiện tượng ion hoá, chúng còn gián tiếp thu được một  động năng lớn, nguyên nhân của quá trình này là khi đi vào cơ thể, nôtron chuyển 
  8. 8 động chậm lại và sau đó bị  các hạt nhân của vật chất trong cơ  thể  hấp thụ.   Những hạt nhân ấy trở thành những hạt nhân phóng xạ phát ra tia bêta và gama.   Những tia này lại có khả  năng gây ra hiện tượng ion hoá trong một thời gian   nhất định. Nước là thành phần chủ  yếu trong tế  bào. Các phân tử  nước bị  ion  hoá và kích thích gây ra một loạt các phản ứng khác nhau: Electron có thể  bị  các phân tử  nước khác hấp thụ  để  tạo ra ion âm của nước Các ion   đều không bền và bị phân huỷ ngay sau đó: Kết quả  của phản  ứng là tạo ra các gốc tự  do H* và OH* cùng hai ion bền H+,OH­;   chúng có thể  kết hợp với nhau tạo thành phân tử  nước hoặc xảy ra  một số các phản ứng khác:  
  9. 9 (Đây là gốc tự  do peroxy được tạo ra với sự  có mặt của O2 ) Các gốc tự  do  không có cấu hình của một phân tử  bền vững, chúng chính là nguyên nhân gây  nên các phản  ứng mạnh và tác động trực tiếp tới các phân tử  sinh học như:   Protein, Lipid, DNA… .Từ đó tạo nên những rối loạn về cấu trúc và hoá học  ở  các phân tử này. Những rối loạn đó có thể là: Ngăn cản sự phân chia tế bào Sai sót của bộ nhiễm sắc thể (DNA) Tạo ra các đột biến gen Làm chết tế bào 3.2. Đối với tổ chức Tổ  chức ung thư là một tập hợp gồm nhiều tế bào (u có kích thước 1cm3 = 109 tế  bào), sự  teo nhỏ  tổ  chức ung thư  sau chiếu xạ  là kết quả  quá trình làm  chết tế bào. Quá trình này xảy ra nhanh chứng tỏ tổ chức ung thư đó nhạy cảm với tia xạ  và ngược lại. Mặt khác người ta thấy có một số  yếu tố  có  ảnh hưởng đến  mức độ nhạy cảm của tế bào và của tổ chức ung thư đối với tia xạ. Việc cung   cấp oxy tốt sẽ  làm tăng độ  nhạy cảm của tế  bào với tia xạ. Thực tế  lâm sàng  cho thấy những tổ  chức nào được tưới máu tốt, giầu oxy thì nhậy cảm với tia   hơn là những tổ  chức được tưới máu kém. (Thames và cộng sự  cho thấynhững   tế  bào đựơc cung cấp đầy đủ  ôxy thì độ  nhậy cảm phóng xạ  tăng gấp 3 lần).  Với kỹ thuật xạ trị chia nhỏ liều, những tế bào được cung cấp đầy đủ ôxy khi bị  chết sẽ  để  lại một lượng máu (vốn của nó) cung cấp cho các tế  bào thiếu ôxy  trước đó. Bằng cách này quần thể các tế bào được cung cấp ôxy tốt hơn, do đó   sẽ  nhạy cảm với tia xạ hơn. Một số nghiên cứu đã áp dụng phương pháp điều  trị cho bệnh nhân ở trong phòng có hàm lượng ôxy cao áp nhằm tăng sự cung cấp 
  10. 10 ôxy cho tổ chức do vậy làm tăng mức độ nhạy cảm của khối u với tia xạ. Mức   độ biệt hoá của tế bào ung thư cũng có vai trò to lớn quyết định sự đáp ứng của   tổ chức ung thư với tia xạ. Người ta thấy rằng các tế bào càng kém biệt hoá thì   thời gian phân bào càng ngắn, tốc độ  phân chia tế  bào nhanh do vậy nhậy cảm  với tia xạ  hơn (ví dụ: u lympho ác tính, séminome, ung thư  vòm mũi họng loại  không biệt hoá...) ngược lại các tổ  chức mà tế  bào ung thư  thuộc loại biệt hoá  cao, tế  bào phân chia chậm thì rất trơ  với tia xạ  (Schwannome malin, ung thư  tuyến giáp trạng). 4. CÁC PHƯƠNG PHÁP XẠ TRỊ [3] 4.1. Các phương pháp xạ trị vào đầu thế kỷ 20 Một phương pháp xạ trị đầu tiên và máy xạ cũng là phổ biến cho đến hiện  nay là chiếu xạ ngoài.Thời kì đầu thế kỷ 20, kỹ thuật chiếu xạ chủ yếu là dùng  những nguồn radium hoặc  ống phát tia X với catod lạnh. Cách chữa trị đầu tiên  này được ghi nhận là thành công lần đầu ở Anh và Nga. Nhưng hạn chế của kỹ  thuật này vào thời đó là suất liều của chúng thấp và hiệu quả không cao do liều   lượng cũng chỉ  đạt được  ở  bề mặt da. Vào năm 1913, William Coolidge đã cải   tiến ống phát tia X bằng cách dùng catod sợi đốt thay thế cho catod lạnh nên đã  cho công suất cao hơn (140 KV vào lúc mới tạo ra đến 300KV vào năm 1920).  Đặc điểm của loại  ống này là có thể  tạo suất  liều theo cường độ  dòng catod  hoặc điện thế áp vào ống. Tuy vậy nó cũng không khắc phục được nhược điểm  liều lượng chỉ  đạt  ở  bề  mặt.  Để  khắc phục nhược điểm trên, lúc đó có một   phương pháp chiếu xạ  khác là dùng radium cho vào các  ống nhỏ  bằng kim loại  hoặc các mảnh kính được ép chặt.  Sau đó, chúng được đưa vào trong khối u  hoặc vùng cần chiếu xạ. Ngoài ra còn một cách khác là dùng muối radium pha  loãng tiêm vào vùng bệnh. Đây được xem là những phương pháp điều trị “xạ trị  áp sát” đầu tiên.
  11. 11 Nói chung những vấn đề  của các phương pháp xạ  trị  ban đầu là làm sao đạt  được suất liều tối  ưu  ở  vùng bệnh sâu trong cơ  thể  một cách chính xác mà  không gây nguy hại cho các mô xung quanh và giảm thời gian điều trị. 4.2. Những phương pháp chiếu xạ hiện đại hơn 4.2.1.  Máy Betatron Cuối thập niên 1930, Donald Kerst đã phát minh ra máy betatron có thể tạo   ra những nguồn electton có năng lượng hàng triệu volt. Nó gồm một cuộn dây sơ  cấp quấn quanh một nam châm điện lớn có một dòng điện xoay chiều với tần số  100Hz để  gia tốc dòng electron chạy trong một  ống thuỷ  tinh hình vòng xuyến  được hút chân không [3]. Chúng có thể tạo được các chùm tia năng lượng đạt tới   vài triệu volt  do các electron chuyển động trong vòng tròn và phát năng lượng   theo chu kỳ (bức xạ tắt dần). Máy betatron là loại máy xạ trị năng lượng cao đầu  tiên. Tuy nhiên chúng rất thô và cồng kềnh và vẫn cho suất liều thấp dù tạo ra  chùm tia X năng lượng cao cho nên trường chiếu của chúng chỉ có thể làm phẳng  bởi các bộ  lọc kích thước nhỏ. Máy betatron cũng không thể  sửa đổi thành máy  quay có cấu hình đồng  tâm được nên đến đầu những năm 1990, chúng cũng  ngừng hoạt động. 4.2.2.  Máy xạ trị Cobalt­60 Ngoài việc sử dụng các máy gia tốc làm nguồn xạ  trị, người ta có thể  sử  dụng  các nguồn đồng vị  phóng xạ  như  Iridium­192, Caesium­137 và Cobalt­60.  Máy xạ  trị  nguồn Cobalt­60 đã được sản xuất trong máy gia tốc cyclotron vào  đầu năm 1940  ở  Anh bởi đề  xuất của Mitchell để  thay thế  nguồn radium (vốn   không hiệu quả trong điều trị) và đã trở nên phổ biến vào những năm 1950. Máy  xạ  trị  Cobalt­60 chủ  yếu dùng nguồn phóng xạ  Cobalt­60 đặt trong một  ống xi  lanh được bao bọc trong một lớp vỏ kim loại. Nguồn được đặt trong một lớp vỏ 
  12. 12 kim loại bảo vệ và che chắn phóng xạ với một thiết bị dẫn nguồn tới ống chuẩn   trực để phát tia gamma lâm sàng. Nguồn phóng xạ Cobalt­60 chủ yếu tạo ra các  tia gamma có mức năng lượng 1,17 MeV; 1,33 MeV và trong quá trình tương tác  chúng lại tạo ra các bức xạ  electron thứ  cấp có phổ  năng lượng rộng tương  đương  với tia X bức xạ  hãm trong máy gia tốc 2,8 triệu volt. Do Cobalt­60 có   hoạt độ riêng tương đối cao nên có khả năng tạo suất liều cao hơn máy betatron   và cũng thích hợp cho kỹ thuật chiếu đồng tâm.  Nhược điểm của nó là cường độ  không đủ  mạnh để  có  thể  làm phẳng  chùm tia dẫn đến không thể  tạo được độ  đồng dạng tốt về  liều lượng;  chu kì  bán huỷ là 5,3 năm nên suất liều hằng tháng giảm đi 1%; độ đâm xuyên thấp  và  liều trên bề  mặt da cao. Cho nên đến năm 1970, người ta dần thay thế  chúng  bằng các máy xạ trị gia tốc. Hiện nay Cobalt 60 thường được dùng làm nguồn phát tia xạ  trong xạ  trị  áp sát, dùng cho các loại thiết bị HDR (high dose rate) và cả LDR (low dose rate).  4.2.3.  Gamma knife và xạ phẫu định vị Là một thiết bị phân bố theo mạng hình cầu sao cho các nguồn trên đó hội  tụ tại một điểm để tiêu diệt các khối u cũng như các tổ chức ung thư kín nằm ở  vị  trí  khó phẫu thuật hay không thể  phẫu thuật. Bằng công nghệ  tạo  ảnh kỹ  thuật cao có thể  xác định chính xác vị  trí của tổ  chức cần tiêu diệt từ  đó chiếu   xạ  theo các hướng khác nhau vào vị trí khối u cùng một lúc với một liều lượng   nhất định nằm trong  giới hạn chịu đựng của các mô mềm xung quanh để  tiêu  diệt hoàn toàn khối u. Việc điều trị bằng thiết bị này được gọi là “xạ phẫu định  vị”.
  13. 13 4.2.3.1. Ứng dụng của gamma knife trong điều trị ung thư Kỹ thuật xạ phẫu Gamma Knife thường được ứng dụng để xạ phẫu stereotactic   các loại tổn thương như sau: Các khối u di căn vào não: Những khối u này điều trị bằng dao gamma có  hiệu quả rất tốt, nhiều công trình cho thấy kết quả tốt thu được trên 90%. U màng não  ở các vị trí khác nhau đặc biệt là vùng không can thiệp được  bằng phẫu thuật, hoặc phẫu thuật gây ra nhiều biến chứng như: U ở vùng  rãnh trượt (Cluvis), u góc cầu tiểu não, u gần các mạch máu lớn, u ở một   phần ba trong cánh nhỏ xương bướm. U thần kinh đệm độ I, II, III. U tuyến yên, đặc biệt là những khối u xâm lấn vào tổ  chức xung quanh  như động mạch cảnh, xoang tĩnh mạch, mổ hở không lấy được hết u. U sọ hầu thể đặc. U vùng tuyến tùng như: u tế bào mầm, u màng não, u thần kinh đệm. U dây thần kinh số V. U dây thần kinh số VIII, u dây thần kinh hỗn hợp. Đây là chỉ định điều trị  rất tốt, tránh được tổn thương dây thần kinh mặt – ưu điểm nổi bật so với   mổ  mở  (theo nhiều thống kê, khi mổ  mở  trên 90% bệnh nhân bị  liệt cơ  mặt). Hiện nay,  ở  Hoa Kỳ, nếu khối u dây VIII lớn, các phẫu thuật viên   thần kinh thường mổ lấy u trong bao sau đó điều trị bằng dao gamma tiểu   diệt khối u còn lại, như vậy sẽ tránh được liệt mặt. Điều trị đau dây thần kinh số V: 100% bệnh nhân có kết quả giảm đau rõ   rệt.
  14. 14 Các tổn thương gây động kinh. Các khối u máu thể hang (caveroma) đặc biệt là các vùng sâu, phẫu thuật  gây nguy hiểm tính mạng hay rối loạn thần kinh như   ở  thân não, cuống  não, vùng thái dương sâu. Các dị dạng động tĩnh mạch (AVM) có kích thước vừa và nhỏ. Tia gamma   sẽ làm xơ teo các mạch máu trong khối u mà không làm tổn hại tới các tổ  chức não lành xung quanh so với mổ mở. Theo thống kê  ở Mỹ, dao Gamma được chỉ  định điều trị  cho 36% các khối u  trong sọ, 35% cho dị dạng động tĩnh mạch và 2% cho các động kinh và đau. Như  vậy chỉ  định dùng dao gamma khá rộng rãi nhưng cũng có những hạn chế  nhất  định về kích thước mô bệnh. Ưu điểm của xạ trị gamma knife Loại bỏ tổ chức bệnh lý trong não mà không cần phẫu thuật mở hộp sọ. Bệnh nhân không phải phẫu thuật mổ mở, thời gian nằm viện ngắn hơn. Hầu như không có biến chứng nặng. Chi phí điều trị giảm 30­70%. Nhờ  những tiến bộ  của kỹ  thuật cơ  khí chính xác và tự  động hoá, các   nguồn xạ  quay được nên quy trình điều trị  đạt độ  chính xác cao, thao tác   đơn giản và an toàn. Ảnh hưởng đến các tổ chức lành rất nhỏ. Không đòi hỏi phải bất động sau điều trị lâu như trong phẫu thuật mở.
  15. 15 Kích thước khối u điều trị  tối đa đạt tới 5 cm hơn hẳn các thế  hệ  cũ (3   cm). Đặc biệt hiệu quả với các bệnh lý như  dị  dạng mạch máu não, dùng dao  Gamma Quay, bệnh nhân không phải nút mạch và có thể  được điều trị  triệt để… 4.2.4. Xạ trị 3 chiều theo hình dạng khối u (3­D CRT) MÁY GIA TỐC TUYẾN TÍNH  Việc ứng dụng của tia X vào điều trị  ung thư nông ngày càng phong phú.  Trong đó là các máy phát tia X 150 kV và 300 kV được sử dụng rất hiệu quả lần   lượt cho điều trị  ung thư  da và cho sự  làm giảm bớt các triệu trứng tạm thời.  Tuy nhiên tính chất vật lý của tia này không đáp ứng được các yêu cầu điều trị  các khối u sâu bên trong. Việc nghiên cứu chùm bức xạ với mức năng lượng cao  hơn, đồng nghĩa với khả năng đâm xuyên lớn hơn, đã dẫn đến sự phát triển của  máy xạ trị cobalt­60. Tuy nhiên tính chất vật lý của chùm tia gamma này vẫn còn  có một số  mặt hạn chế  việc điều trị  các khối u sâu bên trong như:  Liều  ở  bề  mặt tương đối lớn và điều trị kém hiệu quả với các khối u nằm sâu trong da. Vì  vậy người ta phải sử dụng máy gia tốc trong xạ trị ung thư và sự ra đời máy gia  tốc đã tạo ra bước ngoặt lớn trong điều trị ung thư. Những hạn chế  của máy xạ  trị  cobalt trong điều trị  Máy xạ  trị  cobalt là  loại máy sử dụng chùm bức xạ gamma phát ra do sự phân rã của đồng vị phóng   xạ 60Co để điều trị. Đối với những khối u rất nông, nằm rất gần bề mằt da, khi   điều trị bằng máy cobalt, liều hấp thụ cực đại nằm ở  độ  sâu sâu hơn vị  trí của   khối u. Như vậy, khi điều trị các khối u nông bằng máy cobalt thì liều không tập  trung vào khối u, và ảnh hưởng lớn đến những vùng mô lành nằm sâu trong da.  Để khắc phục điều này, nếu điều trị bằng máy cobalt thì người ta phải sử dụng  
  16. 16 thêm một dụng cụ, gọi là dụng cụ bù trừ. Dụng cụ bù trừ có tác dụng đưa vùng  liều hấp thụ cực đại về gần bề mặt da hơn, như vậy sẽ tập trung được liều vào   những khối u nằm rất gần bề mặt da. Tuy nhiên, việc sử  dụng dụng cụ  bù trừ  này cũng tương đối bất tiện. Để  khắc phục hoàn toàn những nhược điểm này,  khi điều trị  những khối u nông, người ta sử dụng chùm bức xạ  electron. Bởi vì   các chùm tia electron mất năng lượng ở gần bề mặt da và cường độ chùm tia suy  giảm nhanh chóng và sẽ  mất hẳn  ở  độ  sâu 5 cm. Điều này khiến những vùng  lành ít bị tổn thương hơn. Không chỉ không phù hợp cho những khối u rất nông,  máy Co­60 cũng không thể  đáp  ứng được với những khối u nằm sâu trong cơ  thể.  Ví dụ : Một khối u nằm giữa phổi, cách bề mặt da trung bình 8 cm, liều xạ của   máy cobalt khi vào đến đây lại quá thấp bởi. Để  giúp cho việc điều trị  trong   trường hợp này đạt hiệu quả tốt hơn, cần phải có chùm bức xạ photon có mức  năng lượng cao, để đưa vùng liều cực đại sâu hơn vào cơ thể.  Như  vậy, để  điều trị  ung thư  linh hoạt với những khối u  ở  những vị  trí  khác nhau trong cơ  thể đòi phải có những chùm bức xạ  khác nhau như  electron   và photon, đồng thời với điều đó là với mỗi loại bức xạ phải có nhiều mức năng  lượng. Sự đa dạng và linh động này giúp cho ta có thể điều trị  được tất cả  các   khối u  ở  bất cứ  vị  trí nào. Máy gia tốc ra đời hoàn toàn có thể  đáp  ứng được  những đòi hỏi này. Ngoài ra, sử dụng máy gia tốc trong xạ  trị còn có những lợi   thế nổi trội: Máy gia tốc an toàn hơn nhiều vì nó ngừng phát tia khi tắt máy, còn  ở máy cobalt thì đồng vị phóng xạ vẫn phân rã liên tục và phát tia khi không còn  cần đến. Máy Co­60 đòi hỏi phải thay nguồn  định kỳ  do phân rã phóng xạ.  Nguồn cũ bỏ  ra cần xử  lý để  đảm bảo an toàn bức xạ  để  không gây ô nhiễm  môi trường. Đặc biệt suất liều bức xạ  của máy gia tốc cao hơn nguồn cobalt   (thường gấp 2­3 lần).
  17. 17 KỸ THUẬT XẠ TRỊ 3D­CRT TRONG ĐIỀU TRỊ UNG THƯ Những tiến bộ  trong công nghệ  máy tính đã làm tăng khả  năng quá độ  từ  lập kế hoạch và thực thi kỹ thuật phân bố liều theo 2­D cho đến kỹ  thuật phức   tạp hơn, hiện đại hơn đó là phân bố  liều theo không gian 3 chiều, phù hợp với   hình dạng khối u (3D­CRT). 3D­CRT là một thuật ngữ được sử dụng để  mô tả  kỹ thuật phác thảo và thực hiện một kế hoạch xạ trị được dựa trên các dữ  liệu  từ phim CT theo ba chiều cùng các trường chiếu được tạo theo hình dạng riêng  biệt phù hợp khối u.  Kỹ thuật xạ trị 3D­CRT là một trong các kỹ  thuật xạ trị ngoài. So với kỹ  thuật xạ  trị  thông thường 2D trước đây, các chùm tia được phát ra chỉ  có dạng  hình chữ nhật hoặc hình vuông, thì kỹ thuật 3D­CRT ưu việt hơn rất nhiều. Với   sự  có mặt của các tấm che chắn chì,  ống chuẩn trực đa lá MLC, chùm bức xạ  phát ra có thể  được điều chỉnh với hình dạng bất kỳ  để  có thể  bao khít khối u   theo từng hướng chiếu. Mục đích của xạ trị 3D­CRT là tạo được một vùng phân bố  liều hấp thụ  cao tại thể tích bia và do đó giảm liều có hại cho các tổ  chức lành xung quanh,   qua đó sẽ  làm giảm thiểu các hiệu  ứng phụ  hoặc biến chứng muộn, tăng xác  suất kiểm soát khối u và cải thiện kết quả điều trị. Để thực hiện được điều này,   bệnh nhân cần phải trải qua một quá trình mô phỏng và lập kế hạch điều trị. Tuy nhiên, kỹ thuật này có một vài hạn chế như sau:  Gây hiện tượng cháy da cho bệnh nhận.  Chi phí cho việc cắt xốp làm khuôn chì, đúc chì khá tốn kém và độc hại,   nguyên hiểm.
  18. 18 Mất thời gian tháo lắp phụ kiện che chắn cho bệnh nhân với từng trường  chiếu: Khối chì che chắn, lọc nêm. Với những ca ung thư  phức tạp, khối u có hình dạng phức tạp và nằm   ngày cạnh các cơ quan nguy cấp cần bảo vệ thì với kỹ thuật 3D­CRT khó  có thể  đưa ra được một phân bố  liều tối  ưu. Để  khắc phục những hạn  chế  trên, người ta đưa ra một kỹ  thuật xạ  trị  mới. Đó là kỹ  thuật xạ  trị  điều biến cường độ (IMRT) 4.2.5. Xạ trị điều biến liều IMRT Với kỹ thuật này thông lượng bức xạ 2­D được điều biến theo hình dạng  khối u  trong khi thân máy cố  định dựa trên hệ  MLC. Do sự  khác nhau giữa  khoảng cách từ mặt da đến khối u cũng như độ sâu của khối u với khoảng cách   từ nguồn đến da, người ta đã sử dụng một loại dụng cụ bù trừ mô (loại dụng cụ  này có nhiều tấm hấp thụ nhỏ có độ dày khác nhau) hoặc máy cắt khuôn bù trừ.   Vì việc sử dụng những dụng cụ bù trừ và máy cắt khuôn rất mất thời gian nên   đã xuất hiện ý tưởng tinh sửa chùm tia. Kỹ thuật này là điều biến chùm tia theo   từ  2­D thành 3­D để  liều lượng  được giới hạn theo đúng kích thước hình thể  khối u [2]. Cơ sở để triển khai kĩ thuật IMRT:  Có thể coi kĩ thuật xạ trị IMRT như là một bước phát triển tiếp theo của kĩ thuật   xạ trị 3D­CRT. Về mặt nguyên lí, kĩ thuật IMRT xuất phát với các trường chiếu   như 3D­CRT nghĩa là kiểm soát phân bố liều theo ba chiều nhưng sự phân bố đó  không đều nhau. Nói đúng hơn, tuỳ  theo mật độ  dày mỏng của khối u mà liều   chiếu tại khu vực đó cao hay thấp (nghĩa là các liều chiếu trên toàn khối u không  đều nhau mà điều biến theo khối u).
  19. 19 Kỹ  thuật xạ  trị  3D­CRT gồm các hướng chiếu, mỗi hướng chiếu được   che chắn sao cho tránh được cơ quan bảo vệ và không làm che khuất khối u. Kỹ  thuật xạ  trị  IMRT được phát triển từ  kỹ  thuật 3D­CRT, kỹ  thuật này có thêm  một bậc tự do nữa là sự điều biến cường độ chùm tia để lập kế hoạch điều trị.   Chính vì thế, kỹ thuật này tạo ra phân bố liều tốt hơn. Do đó, các cơ quan cần bảo vệ nhận một liều tương đương với liều mà khối u  nhận được. Nhưng với kỹ thuật IMRT thì vùng liều cao bao khít theo hình dạng  khối u và tránh được tủy sống. Kỹ thuật 3D­CRT khó có thể làm được điều này.  Sự phân bố liều lượng theo độ dày mỏng của thể tích khối u đã khiến cho IMRT  có thể  điều trị  được các khối u mà có thể  đã được coi là không thể  chữa được   trong quá khứ do đóng gần các cơ quan quan trọng (nếu sử dụng 3­D CRT chắc   chắn các cơ quan quan trọng đó sẽ phải chịu tổn hại ít nhiều). Những loại khối  u này là: Ung thư và khối u  ở đầu, cổ  mà khối u thường nằm gần tuỷ sống, tuyến  nước bọt. Ung thư ở tuyến tiền liệt nằm gần trực tràng. Ung thư  phổi mà khi chiếu có thể  liên quan tới tim, tuỷ  sống, hạch trung  thất. Ung thư thực quản, khi chiếu có thể ảnh hưởng tới phổi. Ung thư tử cung, thường gặp ở phụ nữ, có liên quan tới bàng quang. Ung thư vú nằm ở nơi gần tim phổi. Với những loại khối u trên, nếu có thể  giảm liều hấp thụ   ở  mô liền kề  và   tăng liều hấp thụ   ở  khối u ta có thể  kiểm soát khối u cũng như  giảm thời gian 
  20. 20 điều trị. Kĩ thuật này đặc biệt cần thiết khi đối phó với các khối u kháng tia xạ.   Tuy nhiên vấn đề mà kĩ thuật này đang gặp phải là sự rò rỉ tia xạ (do tia xạ được   phát ra theo mọi hướng nên dù đã định hướng thì ít nhiều trong số chúng vẫn đi   lệch ra ngoài) khiến cho nhiều vùng mô lớn nhận một liều thấp có thể làm tăng   sự đột biến của các tế bào lành [2]. Quan điểm của IMRT Như  đã nói  ở  những phần trước, một trong những vấn đề  của xạ  trị  là bảo vệ  cơ quan lành và trọng yếu. Nhưng với phương pháp 3D­CRT, chúng ta chỉ có thể  bảo vệ  một phần các cơ quan đó thông qua che chắn, còn với các cơ quan nằm   bên dưới khối u theo trường chiếu thì sao? Với kỹ  thuật IMRT, để  bảo vệ  cơ  quan đó, cường độ  sẽ  được điều biến sao cho liều lượng bức xạ  chỉ  tác động  vào phần khối u bên trên trong quá trình lập kế  hoạch điều trị. Đó chính là  ưu   điểm của kĩ thuật này, tạo ra phân bố liều tốt hơn 3D­CRT. Hình 2.2: So sánh liều lượng bức xạ giữa 3D­CRT (a) và IMRT (b)
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2