Chuyên gia điêu khắc tượng đài: Việt Nam quá thừa các công trình <br />
kém chất lượng<br />
Đánh giá về chất lượng các công trình tượng đài của Việt Nam, TS Đinh <br />
Hồng Hải (ĐH Quốc gia Hà Nội) và TS Phạm Hoàng Vân (ĐH Mỹ thuật <br />
công nghiệp) cho rằng, có quá nhiều công trình tượng đài ở Việt Nam <br />
kém chất lượng trong khi công trình tượng đài xứng tầm, có ý nghĩa xã hội <br />
lại thiếu.<br />
Trao đổi với VnExpress, TS Đinh Hồng Hải (ĐH Quốc gia Hà Nội) – <br />
người có gần 20 năm nghiên cứu về tính biểu tượng, nghệ thuật, tôn <br />
giáo… ở Việt Nam, Trung Quốc, Ấn Độ, Mỹ cho biết, Việt Nam không có <br />
truyền thống làm tượng đài mà chỉ có tượng thờ, tượng trang trí. Tượng <br />
đài bắt đầu du nhập vào nước ta từ giai đoạn thuộc Pháp, chẳng hạn như <br />
tượng bà đầm xoè ở Hồ Gươm (năm 1887). <br />
Thời kỳ hưng thịnh của tượng đài ở Việt Nam bắt đầu từ những năm 60 <br />
của thế kỷ 20, theo truyền thống của Liên Xô với rất nhiều tác phẩm <br />
tượng đài chiến thắng hoặc tượng đài mang ý nghĩa quốc gia, tôn vinh <br />
chủ nghĩa xã hội hoặc tượng lãnh tụ. Trong số đó có một số tượng đài có <br />
ý nghĩa xã hội tốt như củng cố tinh thần chiến đấu chống ngoại xâm, <br />
niềm tự hào quốc gia… Từ giai đoạn mở cửa trở lại đây, tượng đài được <br />
xây dựng rầm rộ ở khắp nơi song ý nghĩa xã hội lại ít được quan tâm. Giá <br />
trị nghệ thuật của nhiều tác phẩm không cao bởi chưa toát lên tính biểu <br />
tượng một trong những đặc tính quan trọng nhất của tượng đài. <br />
“Trong hơn 10 năm trở lại đây, tượng đài được xây dựng ồ ạt theo phong <br />
trào, mang tính dự án, phải chạy theo thời hạn hoàn thành nhưng thiếu đi <br />
ý nghĩa biểu tượng và ý nghĩa xã hội. Đó là chưa kể đến những tượng đài <br />
có chất lượng cực kỳ thấp như tượng Phật ở Thái Bình, tượng đài bị sét <br />
đánh tại Quảng Ninh, thậm chí không ít tượng đài được nhà nước đầu tư <br />
cũng chỉ mang tính phong trào,” TS Hải nói. Ông chia sẻ thêm, việc tượng <br />
đài ở nhiều tỉnh cứ chép đi chép lại theo một mẫu giống nhau cũng là khó <br />
có thể chấp nhận về mặt nghệ thuật. <br />
Ông lấy ví dụ đài tưởng niệm chiến tranh Việt Nam ở Washington DC <br />
không phải là một khối điêu khắc to lớn mà chỉ là một bức tường đen <br />
khoét sâu xuống mặt đất hình chữ V nhưng lại mang giá trị biểu tượng <br />
sâu sắc, ý nghĩa xã hội rất lớn. Nó như một vết sẹo lớn, nổi bật giữa màu <br />
xanh của cỏ cây và các công trình kiến trúc khác, gợi nhớ đến nỗi đau <br />
chiến tranh của nước Mỹ và cả thế giới, là vết nhơ về cuộc chiến tranh <br />
Việt Nam với quá nhiều mất mát sinh mạng và là một trong những “trang <br />
đen” của lịch sử nước Mỹ.<br />
Ngoài ra TS Hải cho rằng, Việt Nam đang bị lúng túng, lộn xộn trong quy <br />
hoạch và thiếu quy trình xây dựng một tượng đài – không xác định trước <br />
mục đích, ý nghĩa chính trị, xã hội, văn hoá của tượng đài sẽ xây, nên “đẻ <br />
ra các công trình không có mục đích rõ ràng”. Ví dụ thực tế được ông Hải <br />
đưa ra là tượng đài mẹ Việt Nam anh hùng ở Quảng Nam. Do không xác <br />
định được quy mô tượng đài từ ban đầu nên khi bản thiết kế tượng đài <br />
khổng lồ được đưa ra, ngốn đến 411 tỷ, nhưng vẫn phải chạy theo vì đó <br />
là dự án. Mặc dù ý tưởng là có thể không sai nhưng quy trình thực hiện sai <br />
dẫn đến hậu quả nói trên. <br />
TS khoa học nghệ thuật Phạm Hoàng Vân với 18 năm học tập, nghiên <br />
cứu về chuyên ngành điêu khắc tượng đài tại Liên Bang Nga một đất <br />
nước có truyền thống và nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực tượng đài, <br />
cũng chia sẻ, sở dĩ các tượng đài ở Việt Nam hay bị chê trách bởi chất <br />
lượng nghệ thuật và chất lượng công trình chưa đảm bảo. <br />
Về chất lượng nghệ thuật, theo TS Vân, có liên quan đến một số khái <br />
niệm mà người Việt Nam thường bị sai lầm cái gì to, cao là tượng đài. <br />
Thực tế, tượng đài có tầm vóc không thể hiện bằng kích thước lớn mà <br />
bằng tư tưởng, ý nghĩa biểu tượng. Một tượng đài rất nhỏ nhưng mang ý <br />
nghĩa lớn, tính biểu tượng cao thì vẫn là tượng đài có giá trị và có “tầm <br />
vóc”. Lấy ví dụ thực tiễn, ông chỉ ra tượng đài Chiến thắng Điện Biên <br />
Phủ bị thất bại về mặt nghệ thuật vì thiếu tính biểu tượng. Nguyên nhân <br />
do nó được phóng to từ tác phẩm tượng trang trí của tác giả Nguyễn Hải <br />
vốn được sáng tác để trưng bày bảo tàng mang nhiều tính cổ động và <br />
diễn giải chứ không phải bản thiết kế riêng cho một tượng đài ở ngoài <br />
trời với ý nghĩa xã hội, lịch sử và tôn vinh xứng tầm.<br />
Một số tượng đài có giá trị nghệ thuật tốt như tượng Trần Hưng Đạo ở <br />
Nam Định lại bị đặt vào không gian kiến trúc chưa tốt nên làm giảm giá <br />
trị nghệ thuật. Việc biến các tượng đài thành tượng thờ phổ biến ở Việt <br />
Nam cũng khiến giá trị nghệ thuật bị thấp và mất đi ý nghĩa bản chất của <br />
tượng đài. <br />
Chất lượng công trình của các tượng đài ở Việt Nam theo TS Vân, đang <br />
có nhiều vấn đề như: tượng đài Lý Thái Tổ (Hà Nội), tượng nữ tướng Lê <br />
Chân (Hải Phòng), tượng đài Điện Biên Phủ (Điện Biên), tượng Trần <br />
Hưng Đạo (Nam Định) đều bị rỉ xanh cục bộ mà khó có thể khắc phục <br />
được. Đặc biệt, nhiều công trình xây dựng xong bị nứt trên thân hoặc sụt <br />
lún chân đế… như tượng đài Điện Biên Phủ, tượng đài ở Quảng Ninh bị <br />
sét đánh. <br />
Nguyên nhân do quy trình thực hiện chưa đúng và công nghệ, kỹ thuật <br />
không đảm bảo. Chuyên gia tượng đài này một lần nữa nhấn mạnh đến <br />
việc nhìn nhận công trình tượng đài như một dự án cần gấp rút hoàn <br />
thành gây ảnh hưởng đến chất lượng.<br />
Việc thiếu công nghệ, kỹ thuật tiên tiến cũng là yếu tố rất quan trọng <br />
khiến chất lượng công trình tượng đài của Việt Nam chưa được đảm <br />
bảo. Chuyên gia tượng đài chỉ ra thực tế, tượng đài của nước ta đang bị <br />
đẩy về cho các làng nghề với công nghệ thủ công thực hiện. Những lò <br />
đúc ở đây không đáp ứng được lượng đồng lớn mà phải sử dụng nhiều lò <br />
nhỏ. Trong khi đó khuôn đúc lớn, lại không được gia tăng nhiệt khiến quá <br />
trình đông kết diễn ra nhanh, làm mỗi mẻ đồng được rót vào sau sẽ không <br />
thể “hòa tan” với mẻ đồng trước. Điều đó khiến giữa chúng không có sự <br />
đồng nhất về kết cấu phân tử, tạo ra ranh giới giữa các mẻ đồng, là tiền <br />
đề nảy sinh các vết rạn, nứt. <br />
“Không phải chúng ta không có kinh phí đầu tư cho công nghệ mà là vì <br />
công nghệ, kỹ thuật để sử dụng cho xây dựng tượng đài không được đánh <br />
giá đúng tầm. Việt Nam có cả nhà máy đúc chân vịt tàu ở Hải Phòng được <br />
đầu tư máy móc, công nghệ đúc đồng khá tốt, nhưng không có sự liên kết <br />
giữa lĩnh vực nghệ thuật và kỹ thuật ở đây nên ta không tận dụng được <br />
nhà máy này để đúc đồng nghệ thuật”, TS Vân chia sẻ.<br />
Việc không có chuẩn hợp kim phù hợp với điều kiện thời tiết của mỗi <br />
khu vực đặt tượng đài hoặc điều kiện chung của Việt Nam, cũng khiến <br />
các công trình tượng đài bị rỉ đồng, chảy nước xanh cục bộ rất bẩn. Điển <br />
hình là tượng đài nữ tướng Lê Chân (Hải Phòng), tượng đài Chiến thắng <br />
Điện Biên Phủ (Điện Biên)… <br />
Phương pháp dùng thuốc nổ để phá núi xử lý, san phẳng mặt bằng thay <br />
vì các phương pháp khoa, cắt, ủi truyền thống…, theo TS Vân là yếu tố <br />
lớn khác ảnh hưởng đến chất lượng công trình tượng đài. Lượng thuốc <br />
nổ lớn sẽ gây rung chấn, tạo các khoảng rỗng trong lòng đất mà qua thời <br />
gian mới lộ ra hậu quả. Ví dụ điển hình tác hại của dùng thuốc nổ giải <br />
phóng mặt bằng là tượng đài Chiến thắng Điện Biên Phủ bị lún chân đế <br />
gây nứt, rỉ xanh phần đồng. <br />
“Người ta nhìn thấy quá nhiều bất cập ở tượng đài nên mới nghĩ Việt <br />
Nam đã quá thừa tượng đài. Thực tế là chúng ta thừa tượng đài kém chất <br />
lượng nhưng lại thiếu rất nhiều tượng đài xứng tầm, có giá trị thực sự <br />
với xã hội. Thủ đô Hà Nội cũng đâu đã có một biểu tượng điêu khắc <br />
riêng”, TS Vân trăn trở. <br />
Quỳnh Trang <br />