BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
NGUYỄN HỒ MINH CHÂU
CƠ CHẾ QUẢN LÝ THỊ TRƯỜNG
VÀNG VÀ KINH DOANH VÀNG
TÀI KHOẢN Ở VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
TP.HỒ CHÍ MINH, NĂM 2012
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
NGUYỄN HỒ MINH CHÂU
CƠ CHẾ QUẢN LÝ THỊ TRƯỜNG
VÀNG VÀ KINH DOANH VÀNG
TÀI KHOẢN Ở VIỆT NAM
CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ TÀI CHÍNH-NGÂN HÀNG
MÃ SỐ
: 60.31.12
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS TRẦN HUY HOÀNG
TP.HỒ CHÍ MINH, NĂM 2012
-i-
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân. Các số liệu và kết
quả nghiên cứu đã công bố của những tác giả khác nêu trong luận án đều được trích
dẫn rõ nguồn và dẫn rõ tên tác giả. Các kết quả tính toán, nghiên cứu của tôi là
trung thực và chính xác.
TP.HCM, ngày 25 tháng 11 năm 2012
Tác giả
Nguyễn Hồ Minh Châu
-ii-
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt, ký hiệu
Danh mục các bảng
Danh mục các đồ thị
Danh mục các hình vẽ
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
Chương 1: Tổng quan về cơ chế quản lý thị trường vàng và hoạt
động kinh doanh vàng tài khoản. .................................................. 7
1.1. Khái quát về vàng ........................................................................................ 7
1.1.1. Vàng .......................................................................................................... 7
1.1.2. Cầu vàng ................................................................................................... 8
1.1.3. Cung vàng ............................................................................................... 10
1.2. Thị trường vàng và kinh doanh vàng tài khoản ...................................... 12
1.2.1. Thị trường vàng vật chất và kinh doanh vàng tài khoản ........................ 12
1.2.2. Thị trường chứng chỉ vàng ...................................................................... 16
1.3. Cơ chế quản lý thị trường vàng ................................................................ 16
1.4. Cơ chế quản lý thị trường vàng ở các nước ............................................. 18
1.4.1. Ấn Độ ...................................................................................................... 18
1.4.2. Trung Quốc ............................................................................................. 25
-iii-
1.5. Nhận xét chung về cơ chế quản lý thị trường vàng ............................... 31
Kết luận chương 1 ............................................................................................ 33
Chương 2: Cơ chế quản lý thị trường vàng và kinh doanh vàng tài
khoản ở Việt Nam ......................................................................... 35
2.1. Cơ chế quản lý thị trường vàng trước 1999 ............................................. 35
2.1.1. Trước 1975 .............................................................................................. 35
2.1.2. Từ 1975 đến 1989 .................................................................................... 36
2.1.3. Từ 1990 đến 1999 .................................................................................... 36
2.2. Cơ chế quản lý thị trường vàng và kinh doanh vàng tài khoản từ
2000 đến 2012 ............................................................................................ 38
2.2.1. Cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành ............................................... 40
2.2.2. Quản lý khai thác .................................................................................... 40
2.2.3. Quản lý xuất khẩu, nhập khẩu ................................................................ 42
2.2.4. Quản lý sản xuất, gia công vàng ............................................................. 43
2.2.5. Quản lý kinh doanh, giao dịch vàng vật chất ......................................... 44
2.2.6. Quản lý giao dịch vàng qua tài khoản ở nước ngoài .............................. 45
2.2.7. Quản lý huy động, cho vay vàng ............................................................. 46
2.2.8. Quản lý chất lượng vàng ......................................................................... 48
2.2.9. Phân tích diễn biến thị trường vàng ....................................................... 48
2.3. Nhận định về thành công và hạn chế của cơ chế quản lý thị
trường vàng ở Việt Nam hiện nay .......................................................... 61
Kết luận chương 2 ............................................................................................ 74
-iv-
Chương 3: Đề xuất về cơ chế quản lý thị trường vàng và kinh
doanh vàng tài khoản ở Việt Nam ............................................. 75
3.1. Mục tiêu của cơ chế quản lý thị trường vàng ở Việt Nam ......................... 75
3.2. Một số đề xuất về cơ chế quản lý thị trường vàng ở Việt Nam .................. 79
3.2.1. Cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành ............................................... 80
3.2.2. Quản lý xuất khẩu, nhập khẩu vàng nguyên liệu .................................... 80
3.2.3. Quản lý sản xuất, gia công vàng miếng .................................................. 81
3.2.4. Quản lý kinh doanh vàng miếng ............................................................. 84
3.2.5. Quản lý giao dịch vàng qua tài khoản ở nước ngoài .............................. 86
3.2.6. Quản lý huy động, cho vay vàng ............................................................. 86
3.2.7. Quản lý chất lượng vàng ......................................................................... 87
3.3. Tổ chức quản lý Sở giao dịch vàng và quản lý kinh doanh vàng
tài khoản ở Việt Nam ................................................................................ 88
3.3.1. Cơ quan quản lý sở giao dịch vàng ......................................................... 88
3.3.2. Vai trò, chức năng của Sở giao dịch vàng .............................................. 90
3.3.3. Một số quy định chi tiết về giao dịch vàng tài khoản ............................. 90
Kết luận chương 3 ............................................................................................ 93
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 95
Danh mục tài liệu tham khảo .......................................................................... 95
-v-
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt Tiếng Anh Tiếng Việt
ACB Asia Commercial Bank Ngân hàng TMCP Á Châu
CBGA Central Bank Gold Agreement Hiệp định vàng ngân hàng trung
ương
ETF Exchange Traded Funds Quỹ đầu tư ETF
IMF International Monetary Fund Quỹ tiền tệ quốc tế
LBMA London Bullion Market Hiệp hội thị trường vàng thoi
Association Luân đôn
MCX Sàn giao dịch vàng ở Ấn Độ
NHNN Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
OTC Giao dịch trao tay (không qua Over-the-counter sàn)
United State Dollar Đôla Mỹ USD
Saigon Jewelry Company Công ty vàng bạc đá quý Sài gòn SJC
The Shanghai Gold Exchange Sàn giao dịch vàng Thượng hải SGE
VCB Vietcombank Ngân hàng ngoại thương Việt
Nam
Vietnam Dong Đồng Việt Nam VND
World Gold Council Hội đồng vàng thế giới WGC
-vi-
DANH MỤC CÁC BẢNG
1. Bảng 1.1: Biến động cầu vàng từ 1999-2011
2. Bảng 1.2: Biến động cung vàng 2009-2011
3. Bảng 2.1: Quy định về giấy phép hoạt động kinh doanh vàng từ 2000 đến 2011
4. Bảng 2.2: Thuế suất thuế nhập khẩu vàng từ 1999-2011
5. Bảng 2.3. Cung cầu vàng ở Việt Nam từ 2000 đến 2005
6. Bảng 2.4. Cung cầu vàng ở Việt Nam từ 2006 đến 2011
-vii-
DANH MỤC CÁC ĐỒ THỊ
1. Đồ thị 1.1: Cầu vàng trung bình giai đoạn 2006-2010 chia theo khu vực
2. Đồ thị 1.2: Cung vàng trung bình giai đoạn 2006-2010 chia theo nguồn
3. Đồ thị 1.3: Mười quốc gia sản xuất vàng lớn nhất thế giới năm 2010
4. Đồ thị 1.4: Biến động giá vàng ở Ấn Độ và giá vàng thế giới
5. Đồ thị 1.5: Biến động giá vàng thế giới (USD/oz) và giá vàng tại Trung Quốc
(Yuan/oz)
6. Đồ thị 2.1: Biến động giá vàng giao ngay tại London (2000-2005)
7. Đồ thị 2.2: Tốc độ tăng cầu vàng và một số yếu tố liên quan (2000-2005)
8. Đồ thị 2.3: Biến động giá vàng giao ngay tại London (2006-2011)
9. Đồ thị 2.4: Tốc độ tăng cầu vàng và một số yếu tố liên quan (2006-2011)
10. Đồ thị 2.5: Biến động giá vàng SJC và giá vàng thế giới trong năm 2009
11. Đồ thị 2.6: Biến động giá vàng SJC và giá vàng thế giới từ 2010-2012
-viii-
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ
1. Sơ đồ 1.1: Cấu trúc tổ chức quản lý thị trường vàng ở Ấn Độ
2. Sơ đồ 1.2: Cấu trúc tổ chức quản lý thị trường vàng ở Trung Quốc
3. Sơ đồ 2.1: Tổ chức quản lý thị trường vàng ở Việt Nam từ 2000 đến 2011
4. Sơ đồ 2.2: Tổ chức quản lý thị trường vàng ở Việt Nam từ 01/5/2012
5. Sơ đồ 3.1: Đề xuất quy trình quản lý sản xuất vàng miếng ở Việt Nam
6. Sơ đồ 3.2: Đề xuất mô hình tổ chức quản lý thị trường vàng ở Việt Nam
-1-
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giao dịch vàng tài khoản là hoạt động kinh doanh phổ biến ở các nước phát
triển. Cùng với tiến trình hội nhập của lĩnh vực ngân hàng, ngày 18/01/2006, Ngân
hàng Nhà nước (NHNN) đã ban hành Quyết định 03/2006/QĐ-NHNN quy định về
việc kinh doanh vàng trên tài khoản ở nước ngoài. Tính đến cuối năm 2009, NHNN
đã cấp phép cho 11 ngân hàng và 8 doanh nghiệp kinh doanh vàng được kinh doanh
vàng tài khoản ở nước ngoài. Điều này đã đem lại tác động tích cực cho các tổ chức
kinh doanh vàng vì nhờ kinh doanh vàng tài khoản nước ngoài mà các tổ chức này
hạn chế được rủi ro, kiểm soát tốt hơn lợi nhuận và quan trọng hơn nữa là góp phần
giảm đi đáng kể chênh lệch giữa giá vàng trong nước, giá vàng nước ngoài.
Đối với việc kinh doanh vàng trong nước bao gồm cả giao dịch vàng trao tay và
giao dịch vàng tài khoản, cho đến cuối năm 2009, giữa các văn bản pháp lý của Việt
Nam vẫn còn rất nhiều mâu thuẫn, bất cập. Cụ thể, mặc dù theo Luật NHNN,
NHNN Việt Nam có chức năng quản lý hoạt động kinh doanh vàng, tuy nhiên Nghị
định 174/1999/NĐ-CP về quản lý hoạt động kinh doanh vàng chỉ giao cho NHNN
quản lý hoạt động xuất nhập khẩu vàng nguyên liệu, sản xuất vàng miếng. Bên cạnh
đó, theo Pháp lệnh Ngoại hối và Nghị định 160/2006/NĐ-CP thì NHNN quản lý
hoạt động xuất nhập khẩu vàng dưới dạng khối, thỏi, xu, miếng và hoạt động kinh
doanh vàng tài khoản ở nước ngoài. Vì vậy, nếu dựa trên tinh thần “công dân được
phép làm tất cả những gì luật không cấm”, quy định của Luật doanh nghiệp, Luật
thương mại và Nghị định 59/2006/NĐ-CP ngày 12/06/2006 thì các tổ chức, cá nhân
kinh doanh vàng trong nước (kể cả kinh doanh vàng tài khoản) chỉ cần đăng ký kinh
doanh và hoạt động kinh doanh theo Luật doanh nghiệp, Luật thương mại.
Trên thực tế, với hơn 20 sàn giao dịch vàng hoạt động sau hơn 2 năm kể từ khi
ACB thành lập Trung tâm giao dịch vàng Sài gòn ngày 25/05/2007, hoạt động kinh
-2-
doanh vàng tài khoản trong nước đã bộc lộ rất nhiều điểm bất hợp lý, đặc biệt là rủi
ro thực tế và nguy cơ tiềm ẩn rủi ro rất cao khi giá trị giao dịch hàng ngày ở các sàn
vàng ở thời điểm cuối năm 2009 lên đến hơn 10.000 tỷ đồng (gấp hơn 2 lần so với
doanh số giao dịch trên thị trường chứng khoán ở cùng thời điểm), dư nợ cho vay
trên các sàn vàng theo ước tính của NHNN lên đến hơn 2.000 tỷ đồng. Tuy nhiên,
khách quan nhìn nhận thì các rủi ro xảy ra trên thực tế và rủi ro tiềm ẩn chủ yếu là
do Việt Nam chưa có cơ chế quản lý đối với hoạt động kinh doanh vàng tài khoản.
Chưa có bất kỳ cơ quan quản lý nhà nước nào đứng ra nhận trách nhiệm quản lý,
ban hành quy chế hoạt động vì thế các sàn vàng đều hoạt động theo cơ chế “tự tung,
tự tác” với quy chế giao dịch do chính đơn vị tổ chức (và cũng là đơn vị tự doanh
vàng) ban hành. Nếu hoạt động của các sàn vàng được tổ chức chặt chẽ trên cơ sở
cơ chế quản lý công khai, minh bạch, logic, với đầy đủ các quy định chi tiết (về bán
khống, về tỷ lệ ký quỹ, về quản lý tiền của nhà đầu tư, .v.v.) phù hợp với thông lệ
quốc tế và bối cảnh của Việt Nam thì những lý do mà căn cứ vào đó Thủ tướng
Chính phủ, NHNN quyết định đóng cửa sàn vàng (ảnh hưởng đến điều hành chính
sách tiền tệ, một khối lượng vốn lớn được rút ra từ hoạt động sản xuất kinh doanh
để phục vụ cho các giao dịch kinh doanh vàng trên sàn vàng .v.v.) sẽ không có điều
kiện để “tồn tại”.
Hơn nữa, hiện nay và kể cả trong tương lai, việc xuất hiện ngày càng nhiều các
hoạt động biến tướng từ kinh doanh vàng tài khoản để lách luật. Mức độ sôi động
và doanh số giao dịch trên thị trường biến tướng có xu hướng tăng lên nhanh chóng,
tiềm ẩn nguy cơ rủi ro thậm chí còn cao hơn cả thời còn sàn vàng hoạt động. Cần
phải nhận thấy rằng, việc tìm kiếm lợi nhuận từ kinh doanh vàng tài khoản là hoạt
động không trái luật và cũng là nhu cầu chính đáng của các cá nhân và tổ chức, do
vậy dùng mệnh lệnh hành chính để nhằm triệt tiêu sẽ khó mang lại kết quả như
mong đợi.
Bên cạnh đó, Nghị định 12/2012/NĐ-CP ngày 03/4/2012 của Chính phủ quy
định về quản lý hoạt động kinh doanh vàng có đưa ra khái niệm kinh doanh vàng
-3-
trên tài khoản là hoạt động kinh doanh vàng qua tài khoản, dưới hình thức giao dịch
ký quỹ và giá trị ròng được định giá lại liên tục theo biến động của giá vàng nhưng
toàn bộ các nội dung còn lại nghị định này hoàn toàn không có quy định gì thêm.
Vì vậy, việc nhanh chóng hoàn tất cơ chế quản lý thị trường vàng mà một trong
những trọng tâm cần hướng đến là chuẩn bị các điều kiện để tiến đến cho phép hoạt
động kinh doanh vàng tài khoản được triển khai trở lại ở Việt Nam để góp phần ổn
định thị trường vàng, tránh những tác động tiêu cực đến nền kinh tế như thời gian
vừa qua.
2. Tổng quan về các công trình nghiên cứu trước đây
Sàn giao dịch hàng hóa nói chung, sàn giao dịch vàng nói riêng (bao gồm sàn
giao dịch vàng vật chất và sàn giao dịch vàng phái sinh) là loại hình kinh doanh đã
tồn tại, phát triển lâu đời ở các nước phát triển, đóng vai trò quan trọng trong hoạt
động thương mại, đầu tư quốc tế.
Ở Việt Nam đã có một số các đề tài nghiên cứu khoa học, luận văn cao học
nghiên cứu về kinh doanh vàng, thị trường vàng, sàn giao dịch vàng. Có thể liệt kê
một số công trình tiêu biểu như:
Đinh Ngọc Mai (2010), Một số giải pháp nhằm ổn định thị trường vàng và
phát triển hoạt động đầu tư vàng tại Việt Nam, Luận văn thạc sĩ kinh tế,
Trường Đại học Kinh tế TP.HCM.
Nguyễn Vân Anh (2009), Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý kinh doanh
vàng theo chức năng của Ngân hàng Trung ương, Đề tài nghiên cứu khoa
học cấp ngành - Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, 2009.
Nguyễn Thị Trúc Quyên (2009), Trung tâm giao dịch vàng ACB: thực trạng
và giải pháp, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Trường Đại học Kinh tế TP.HCM.
-4-
Nguyễn Ngọc Nhân (2009), Phát triển trung tâm giao dịch vàng tại Ngân
hàng thương mại cổ phẩn xuất nhập khẩu Việt Nam, Luận văn thạc sĩ kinh tế,
Trường Đại học Kinh tế TP.HCM.
Huỳnh Phi Yến (2009), Hoạt động kinh doanh vàng tại ngân hàng Á Châu,
Luận văn thạc sĩ kinh tế, Trường Đại học Kinh tế TP.HCM.
Huỳnh Phước Nguyên (2007), Kinh doanh vàng tại các ngân hàng thương
mại trên địa bàn TP.HCM, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Trường Đại học Kinh tế
TP.HCM.
Vuong Quan Hoang (2004), Analyses on Gold and US Dollar in Vietnam's
Transitional Economy, Working Paper Centre Emile Bernheim WP-CEB No.
04-033.
Nguyễn Hữu Định (1996), Kinh doanh vàng tại TP.HCM: chính sách và giải
pháp, Luận án tiến sĩ kinh tế, Trường Đại học Kinh tế TP.HCM, 1996.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu này đã được thực hiện từ nhiều năm
trước với bối cảnh khác nhiều so với thời điểm hiện nay. Mặt khác, hầu hết các
nghiên cứu này chú trọng đến kinh doanh vàng nhiều hơn là cơ chế quản lý thị
trường vàng hoặc chỉ tập trung phân tích hoạt động của một sàn giao dịch vàng cụ
thể trong giai đoạn 2007-2010. Các nghiên cứu này cũng chưa tập trung phân tích
đầy đủ và toàn diện về cơ chế quản lý thị trường vàng ở tất cả các khía cạnh từ khai
khoáng vàng, xuất khẩu nhập khẩu vàng, sản xuất gia công vàng, giao dịch vàng
trao tay và giao dịch vàng tài khoản, hoạt động huy động và cho vay vàng cũng như
việc quản lý chất lượng vàng để từ đó đề xuất cơ chế quản lý thị trường và thành lập
sàn giao dịch vàng như là thành phần của cơ chế quản lý thị trường vàng.
-5-
3. Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở kế thừa các công trình nghiên cứu trước đây, đề tài sẽ khắc phục
những hạn chế của các đề tài đã có trong việc nghiên cứu toàn diện về cơ chế quản
lý thị trường vàng ở Việt Nam, đề tài tập trung nghiên cứu để hướng đến ba mục
tiêu cốt lõi và cũng là những điểm mới cơ bản của đề tài so với các đề tài trước đây:
Hệ thống hóa lý luận liên quan đến vàng, thị trường vàng và vấn đề quản lý
trên cơ sở tách bạch rõ giữa vàng tiền tệ, vàng hàng hóa cùng với việc đúc
kết các kinh nghiệm quản lý vàng hàng hóa ở các nước trên thế giới;
Phân tích toàn diện cơ chế quản lý thị trường vàng ở Việt Nam và những
tác động của cơ chế này đến sự ổn định của thị trường vàng ở Việt Nam
Đề xuất những gợi ý cho việc xây dựng cơ chế quản lý thị trường vàng ở
đồng thời chỉ ra những bất cập của cơ chế này;
Việt Nam phù hợp với hiện trạng kinh tế và đặc thù của Việt Nam trong đó
tập trung các đề xuất chi tiết đối với việc xây dựng và tổ chức vận hành
hoạt động kinh doanh vàng tài khoản thông qua sàn giao dịch vàng vật chất.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là cơ chế quản lý hoạt động kinh doanh vàng ở
Việt Nam.
Về phạm vi nghiên cứu, đề tài sẽ tập trung đến vàng phi tiền tệ trong đó chủ yếu
nghiên cứu về thị trường vàng thoi ở Việt Nam bởi lẽ vàng trang sức, mỹ nghệ về
cơ bản được sản xuất từ vàng thoi nên thị trường trang sức, mỹ nghệ chủ yếu chịu
sự ảnh hưởng từ thị trường vàng thoi. Hơn nữa, tính phức tạp của thị trường vàng
chủ yếu vẫn chỉ tập trung vào thị trường vàng thoi. Vàng tiền tệ do ngân hàng trung
ương quản lý dưới dạng dự trữ ngoại hối không phải là đối tượng nghiên cứu trực
tiếp của đề tài này. Thời gian nghiên cứu của đề tài đề cập chủ yếu đến giai đoạn từ
-6-
2000 đến 2012 trong đó tập trung vào khoảng thời gian từ 2008-2012 là giai đoạn
mà thị trường vàng Việt Nam có nhiều diễn biến phức tạp.
5. Phương pháp nghiên cứu
Vì mục tiêu của đề tài là đề xuất cơ chế quản lý thị trường vàng và sàn giao
dịch vàng tập trung vào cấu trúc tổ chức, mô hình hoạt động, cơ chế điều hành vì
vậy phương pháp định tính được sử dụng trong toàn bộ đề tài thông qua việc phân
tích diễn dịch, so sánh đối chiếu và tổng hợp.
6. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và phụ lục, đề tài được bố cục gồm ba chương:
Chương 1: Tổng quan về cơ chế quản lý thị trường vàng và hoạt động kinh
doanh vàng tài khoản.
Chương 2: Cơ chế quản lý thị trường vàng và kinh doanh vàng tài khoản ở
Việt Nam.
Chương 3: Một số đề xuất về cơ chế quản lý thị trường vàng và kinh doanh
vàng tài khoản ở Việt Nam.
-7-
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ CƠ CHẾ QUẢN LÝ THỊ TRƯỜNG
VÀNG VÀ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
VÀNG TÀI KHOẢN
Mục tiêu của chương 1 là trình bày tổng quan về thị trường vàng trên thế giới,
cơ chế quản lý hoạt động thị trường vàng ở một số nước tiêu biểu để làm nền tảng
triển khai các phân tích trong những chương sau. Nội dung chương 1 trình bày bốn
vấn đề chính, bao gồm: i.Khái quát về vàng; ii. Thị trường vàng; iii.Cơ chế quản lý
thị trường vàng và kinh doanh vàng tài khoản; iv.Kết luận về cơ chế quản lý thị
trường vàng và kinh doanh vàng tài khoản.
1.1. KHÁI QUÁT VỀ VÀNG
1.1.1 Vàng
Vàng đã được đánh giá cao trong hàng ngàn năm không chỉ vì vẻ đẹp, tính hấp
dẫn mà còn có vai trò lịch sử với chức năng của tiền tệ, được sử dụng như tiền tệ,
làm cơ sở cho các giao dịch quốc tế vì các lý do cơ bản sau đây:
Tính quý hiếm nhưng không quá hiếm.
Tính bền vững và có khả năng chống ăn mòn.
Tính mềm dẻo và dễ chia nhỏ.
Tính dễ nhận biết, dễ phân biệt.
Tính đồng nhất.
-8-
Vàng đóng một vai trò trung tâm trong hệ thống tiền tệ quốc tế cho đến khi sự
sụp đổ của hệ thống tỷ giá cố định Bretton Woods xảy ra vào năm 1973. Kể từ đó,
vai trò của vàng đã được giảm dần. Tuy nhiên, vàng vẫn là một tài sản quan trọng
trong dự trữ của các quốc gia mặc dù hiện nay không một quốc gia nào còn sử dụng
vàng làm tiền tệ chính thức [9].
1.1.2 Cầu vàng
Theo cách phân loại truyền thống, vàng được sử dụng cho ba nhu cầu i.dùng
làm trang sức; ii.dùng trong công nghệ bao gồm cả các ứng dụng cho y khoa; và
iii.đầu tư. Tính trung bình giai đoạn 2006-2010, nhu cầu vàng hàng năm trên thế
giới là 3.722 tấn/năm trong đó nhu cầu phục vụ cho trang sức chiếm 59%, đầu tư
bao gồm cả đầu tư trên thị trường OTC chiếm 29%, 12% còn lại phục vụ cho công
nghệ [22]. Nhu cầu này tiếp tục tăng mạnh trong năm 2010 và 2012 trong đó mức
tăng chủ yếu tập trung vào vàng đầu tư (xem bảng 1.1).
Bảng 1.1: Biến động cầu vàng 2009-2011
Nguồn cầu
Tổng
2010
2.017
1.583
1.201
382
466
77
4.143
207
4.350 2009
1.814
1.402
779
623
410
-34
3.592
517
4.109 Đơn vị: Tấn
2011
1.974
1.910
1.505
185
453
457
4.574
-77
4.497 Tổng cầu TT
1 Trang sức
2 Đầu tư
2.1 Tổng vàng thoi
2.2 ETF vàng và chứng chỉ vàng khác
3 Công nghệ
4 Mua của khu vực chính thức
5 Đầu tư OTC và tồn kho
Nguồn: https://www.gold.org/investment/statistics/demand_and_supply_statistics/
1.1.2.1.Trang sức
Nhu cầu vàng cho trang sức bị phụ thuộc vào sự mong muốn, mức thu nhập, giá
và sự biến động giá cùng hàng loạt các yếu tố khác như tình hình kinh tế-xã hội và
văn hóa. Theo thống kê của WGC, trong giai đoạn 2006-2010 hơn 60% nhu cầu
vàng trang sức tập trung ở bốn quốc gia và vùng lãnh thổ là Trung Quốc, Ấn Độ,
-9-
Thổ Nhĩ Kỳ và Trung Đông (xem đồ thị 1.1). Tùy theo yếu tố kinh tế-xã hội và văn
hóa mà nhu cầu vàng ở mỗi quốc gia có sự khác nhau.
Đồ thị 1.1: Cầu vàng trung bình giai đoạn 2006-2010 chia theo khu vực
Nguồn: Thomson Reuters, World Gold Council [21]
1.1.2.2. Đầu tư
Nhu cầu đầu tư vào vàng vật chất bao gồm vàng thỏi (vàng khối/thanh, vàng
miếng), vàng xu (đồng vàng), vàng huy chương (medal), vàng cho các quỹ đầu tư
ETF (Exchange Traded Funds) và các sản phẩm khác có liên quan.
Nhu cầu vàng cho đầu tư đã có sự gia tăng đáng kể từ năm 2000 khi tại thời điểm
này chỉ chiếm 4% tổng nhu cầu vàng nhưng tỷ lệ này đã tăng nhanh đến mức kỷ
lục, đạt mức 39% (năm 2009), 38% (năm 2010) và 37% (năm 2011) [21].
1.1.2.3. Công nghệ
Nhu cầu vàng trong lĩnh vực này thường biến động theo sự phát triển của ngành
công nghiệp điện tử và GDP toàn cầu. Hơn 50% vàng sử dụng trong lĩnh vực công
nghệ là cho mục đích sản xuất các chi tiết yêu cầu chịu được sự ăn mòn, dẫn điện
cao và chịu nhiệt cao của các sản phẩm điện tử. Hầu hết các linh kiện điện tử có
chứa vàng thường được sản xuất ở Đông Á, Tây Châu Âu hoặc Bắc Mỹ.
-10-
Y khoa cũng đã có lịch sử lâu đời trong việc sử dụng vàng. Bên cạnh đó, vàng
còn được sử dụng trong một số ngành công nghiệp khác và dùng để trang trí như
vàng mạ và sơn phủ với nhu cầu chiếm khoảng 2,5% tổng nhu cầu vàng.
1.1.3 Cung vàng
Theo cách phân loại truyền thống, cung vàng bao gồm vàng khai thác mới từ mỏ,
từ dự trữ của các ngân hàng trung ương và từ việc tái chế từ các nguồn vàng tồn kho
trên mặt đất.
Bảng 1.2: Biến động cung vàng 2009-2011
Nguồn cung
2010
2.632
1.719
4.350 2009
2.374
1.735
4.109 Tổng Đơn vị: Tấn
2011
2.832
1.665
4.497 TT
1 Khai thác mỏ
2 Tái chế vàng
Nguồn: https://www.gold.org/investment/statistics/demand_and_supply_statistics/
Trong giai đoạn 2006-2010, nguồn cung vàng bình quân hàng năm khoảng 3.779
tấn/năm trong đó 59% là khai thác mới từ mỏ vàng, 6% là từ bán ròng của khu vực
chính thức và 36% là từ tái chế vàng trên mặt đất chủ yếu là từ các thiết bị có sử
dụng vàng và đồ trang sức [22]. Nhìn chung nguồn cung vàng vẫn đáp ứng được
nhu cầu trên thị trường trong đó chủ yếu là từ khai thác mới (xem bảng 1.2).
Đồ thị 1.2: Cung vàng trung bình giai đoạn 2006-2010 chia theo nguồn
Nguồn: Thomson Reuters, World Gold Council [22]
-11-
1.1.3.1. Khai thác vàng
Đồ thị 1.3: Mười quốc gia sản xuất vàng lớn nhất thế giới năm 2010
Nguồn: Thomson Reuters, World Gold Council [22]
Vàng được khai thác trên mọi châu lục (ngoại trừ Nam Cực là nơi bị cấm khai
thác khoáng sản) bằng các cách thức khác nhau, từ rất nhỏ đến rất lớn. Trong thế kỷ
20, Nam Phi là quốc gia sản xuất vàng lớn nhất thế giới (vào đầu những năm 1970
đã được sản xuất 1.000 tấn/năm, chiếm hơn 70% sản lượng của toàn thế giới vào
thời gian đó). Vị thế độc tôn của Nam Phi càng giảm dần trong 2 thập kỷ kế tiếp khi
sản lượng khai thác đã tăng lên đáng kể ở các quốc gia và vùng lãnh thổ khác. Sự
thay đổi này đã góp phần giảm thiểu sự biến động giá vàng thấp hơn so với các
hàng hóa khác và làm giảm ảnh hưởng của vàng đến các cú sốc kinh tế, chính trị
trong một quốc gia hoặc khu vực cụ thể. Hiện nay, Trung Quốc là quốc gia khai
thác vàng lớn nhất thế giới với mức khai thác khoảng 351 tấn trong năm 2010.
1.1.3.2. Vàng từ khu vực chính thức
Ngân hàng trung ương và các tổ chức quốc tế là những chủ sở hữu chính của
vàng trong hơn 100 năm qua. Ngân hàng trung ương bắt đầu giữ vàng từ những
năm 1880 trong khoảng thời gian chế độ bản vị vàng khi số tiền giấy phát hành
được đảm bảo bởi số vàng tương ứng trong kho và tỷ lệ chuyển đổi tiền giấy ra
vàng được giữ ở mức cố định. Mức dự trữ đỉnh cao được xác định vào vào năm
1960 với khối lượng 38.000 tấn, chiếm khoảng 50% số vàng tồn kho trên mặt đất
-12-
lúc đó [24]. Khi hệ thống Breeton Wood chấm dứt vào năm 1973, vai trò dự trữ của
vàng không còn quan trọng như thời gian trước.
1.1.3.3. Tái chế vàng
Trên thực tế, vàng không thể bị phá hủy nên toàn bộ vàng đã khai thác vẫn còn
tồn tại. Theo ước tính của Thomson Reuters GFMS [24], trong tổng số 166.600 tấn
vàng đã tồn tại trên mặt đất tại thời điểm năm 2010 có 51% tồn tại dưới dạng trang
sức, 19% nằm trong tay các nhà đầu tư, 17% là dự trữ chính thức, 11% nằm trong
các sản phẩm công nghiệp và 2% là những nơi khác. Một phần trong số vàng này sẽ
quay trở lại thị trường từ việc tái chế đồ trang sức, sản phẩm công nghiệp và bán
ròng của khu vực chính thức.
Như vậy, các phân tích trên cho thấy cầu vàng vẫn tiếp tục tăng trưởng với tốc độ
cao trong khi nguồn cung vàng chủ yếu từ khai thác vẫn đang bị hạn chế và chi phí
khai thác ngày càng tăng cao. Điều này cho thấy quan hệ cung cầu vàng vẫn là
thách thức lớn và giá vàng chắc chắn sẽ vẫn còn nhiều biến động khó lường.
1.2. THỊ TRƯỜNG VÀNG VÀ KINH DOANH VÀNG TÀI KHOẢN
Thị trường vàng bao gồm thị trường: i.thị trường vàng vật chất (physical gold)
gồm thị trường vàng thoi vật chất và thị trường vàng tài khoản; và ii.thị trường
chứng chỉ vàng.
1.2.1. Thị trường vàng vật chất (Physical gold) và kinh doanh vàng tài khoản
(Gold accounts)
Thị trường vàng vật chất giao dịch vàng thoi (chủ yếu dưới dạng vàng
khối/thanh/miếng/gold bar), vàng xu (đồng vàng), vàng huy chương và cũng có giao
dịch vàng trang sức (nhất là vàng trang sức có sự chế tác đơn giản nhưng hàm lượng
vàng cao). Tuy nhiên, vàng xu, vàng huy chương, vàng trang sức về cơ bản đều
-13-
được sản xuất từ vàng thoi do vậy sự biến động giá vàng này liên kết chặt chẽ với
biến động vàng thoi.
Vàng thoi là vàng với trọng lượng và kích cỡ khác nhau từ ít nhất là 1 gram cho
đến 400 troy ounce (theo kích thước chuẩn của thị trường London). Vàng thoi
thường được đánh dấu với tên nhà sản xuất hoặc người phát hành, có ghi rõ số seri,
năm sản xuất, độ tinh khiết và trọng lượng. Độ tinh khiết của các loại vàng thoi
khác nhau, thường dao động từ 99,50% đến 99,99% vàng. Vàng thoi phải đáp ứng
tiêu chuẩn nghiêm ngặt của Hiệp hội thị trường vàng thoi Luân đôn (London
Bullion Market Association-LBMA).
Vàng xu (gold coin) là vàng dưới dạng xu do chính phủ các quốc gia hoặc nhà
sản xuất vàng trên thế giới cung cấp. Vàng xu khác nhau về trọng lượng và caratage
(carat). Carat là đơn vị đo lường chất lượng vàng. Vàng nguyên chất ("fine gold") là
24 carat, do đó 24 carat về mặt lý thuyết là 100% vàng. Các mức thấp hơn 24 carat
được tính theo tỷ lệ, chẳng hạn ví dụ 18 carat là 18/24 vàng 100% tương đương
75,0% vàng. Vàng xu có trọng lượng phổ biến nhất là 1/20, 1/10, 1/4, 1/2 và 1
ounce. Vàng xu nêu ở đây khác với tiền xu dùng làm kỷ niệm.
Các nhà đầu tư vàng thoi thường không muốn nhận vàng vật chất của họ, vì
những rủi ro và chi phí liên quan đến vận chuyển và cất trữ. Hiện nay, hầu hết các
đại lý và môi giới thực hiện để lưu trữ vàng dưới dạng số dư trên tài khoản vàng
(gold accounts). Từ đó, thay vì giao dịch vàng vật chất và chuyển giao vàng vật chất
đang nắm giữ trực tiếp cho nhau, họ chuyển sang giao dịch dựa trên số dư trên tài
khoản vàng còn vàng vật chất thì vẫn giữ nguyên trong kho. Cả hai thị trường giao
dịch vàng vật chất và thị trường vàng tài khoản đều có mối liên hệ chặt chẽ thông
qua chênh lệch arbitrage và người tham gia bị buộc phải có khả năng đáp ứng các
yêu cầu về vàng vật chất đồng thời giá các chứng chỉ vàng chịu sự ảnh hưởng lớn từ
giá vàng vật chất.
-14-
Ngoài việc gia tăng tính thanh khoản, việc giao dịch vàng tài khoản mà không
thực hiện việc chuyển giao vàng vật chất trực tiếp còn làm giảm chi phí vận chuyển
cùng rủi ro phát sinh trong quá trình này. Các ngân hàng thường cung cấp hai loại
tài khoản vàng là tài khoản có giao vàng (Allocated account) và tài khoản chưa giao
vàng (Unallocated account).
Tài khoản có giao vàng là loại tài khoản mà khối lượng, loại vàng vật chất sẽ
được tách riêng với ghi chú chi tiết. Ngân hàng đóng vai trò như người cất trữ hộ và
khách hàng phải trả phí lưu trữ bảo hiểm. Các đại lý vàng hoặc kho lưu giữ vàng
không được kinh doanh, cho vay trên số vàng lưu giữ này trừ trường hợp đặc biệt
theo lệnh của chủ tài khoản. Biến động số dư trên tài khoản này tương ứng với sự
biến động tăng giảm vàng vật chất mà chủ tài khoản gửi vào hoặc rút ra.
Tài khoản chưa giao vàng là loại tài khoản phổ biến nhất, theo đó các nhà đầu tư
không có vàng vật chất cụ thể trên tài khoản và biến động số dư trên tài khoản
tương ứng với giao dịch bán/mua của chủ tài khoản. Số dư trên tài khoản không thể
hiện quyền sở hữu lượng vàng vật chất cụ thể nhưng nó được đảm bảo bởi lượng
vàng dự trữ của các nhà kinh doanh vàng nơi chủ tài khoản mở tài khoản giao dịch.
Chủ tài khoản sẽ là chủ nợ không có đảm bảo của nhà kinh doanh vàng. Nếu chủ tài
khoản muốn nhận vàng vật chất cụ thể thì họ phải trả khoản phí theo quy định sau
một khoảng thời gian quy định từ khi yêu cầu.
Như vậy, thị trường vàng thoi thế giới hiện nay được giao dịch chủ yếu thông
qua tài khoản vàng. Căn cứ vào phương thức tổ chức giao dịch có thể chia thị
trường vàng thoi thành hai thị trường là thị trường vàng trao tay (OTC) và sàn giao
dịch vàng.
1.2.1.1. Thị trường vàng OTC
Thị trường vàng thoi trên thế giới được xem là thị trường công cụ tiền tệ có bề
dày lịch sử lâu đời nhất trên thế giới, khoảng 500 năm trước công nguyên.
-15-
Thị trường vàng thoi lớn nhất thế giới là thị trường vàng thoi London được quản
lý bởi Hiệp hội thị trường vàng thoi Luân đôn (LBMA) là thị trường vàng OTC bán
buôn. Đây là thị trường vàng giữa các nhà bán buôn với khối lượng giao dịch tối
thiểu là 1.000 ounce, khách hàng giao dịch thông thường là các tổ chức trung gian
đầu tư, các ngân hàng môi giới, ngân hàng trung ương và các thành viên tham gia
thị trường vàng có nhu cầu giao dịch với số lượng lớn.
Hầu hết các giao dịch vàng OTC trên thế giới đều liên quan đến vàng lưu giữ
trong kho vàng tại Lodon thông qua việc thay đổi sở hữu vàng của các bên liên
quan tại kho vàng này. Nói khác đi, giao dịch vàng thoi có thể được thực hiện bất
cứ nơi nào trên thế giới rồi cũng sẽ được thực hiện bù trừ trên tài khoản vàng của
các nhà kinh doanh vàng mở tại LBMA (tài khoản “Loco London”).
Ngoài thị trường vàng London, trên thế giới còn có các thị trường vàng thoi lớn
khác như Zurich, Hongkong, New York, Singapore, các nước Trung đông.
1.2.1.2. Giao dịch vàng tài khoản và sàn giao dịch vàng
Bên cạnh thị trường vàng OTC, việc giao dịch vàng còn được thực hiện thông
qua các sàn giao dịch vàng với các sàn giao dịch tiêu biểu như Sàn giao dịch vàng
và bạc Hồng Kông (The Hong Kong Chinese Gold & Silver Exchange Society) giao
dịch từ năm 1918, Sàn giao dịch vàng Istanbul của Thổ Nhỉ Kỳ (Istanbul Gold
Exchange) giao dịch từ năm 1995, Sàn giao dịch vàng Thượng Hải (The Shanghai
Gold Exchange) giao dịch từ năm 2002, .v.v.
Để giao dịch tại sàn giao dịch vàng, nhà đầu tư phải mở tài khoản tại tổ chức
thành viên của sàn giao dịch vàng hoặc trở thành thành viên của sàn giao dịch vàng.
Khi đã có tài khoản vàng, nhà đầu tư có thể hoạt động giao dịch mua bán vàng qua
tài khoản, dưới hình thức giao dịch ký quỹ mà giá trị ròng được định giá liên tục
theo biến động giá vàng. Chi tiết về giao dịch vàng qua tài khoản và các sàn giao
dịch vàng tiêu biểu sẽ được đề cập ở mục 1.3.
-16-
1.2.2. Thị trường chứng chỉ vàng (Paper Gold Instruments)
Về cơ bản, thị trường chứng chỉ vàng là thị trường giao dịch các chứng chỉ vàng -
công cụ tài chính chứng nhận người nắm giữ có quyền sở hữu một khối lượng vàng
xác định theo độ tinh khiết quy định.
Cũng giống như thị trường ngoại hối hay thị trường chứng khoán, các chứng chỉ
vàng thông dụng gồm có hợp đồng giao sau (gold future), quyền chọn vàng (gold
options), quyền ưu tiên mua trước vàng (gold warrants), hợp đồng đòn bẩy vàng
(gold leverage contract). Ngoài ra còn có các chứng chỉ quỹ đầu tư ETF vàng, cổ
phần của các công ty khai thác vàng cũng được xem là các chứng chỉ vàng thông
dụng hiện nay. Giao dịch các chứng chỉ vàng trên thế giới chủ yếu được thực hiện
qua sàn COMEX ở Hoa Kỳ. Ngoài ra chứng chỉ vàng còn được giao dịch trên sàn
TOCOM ở Nhật, MCX ở Ấn Độ, DGCX ở Ả Rập, SHFE ở Thượng Hải.
1.3. CƠ CHẾ QUẢN LÝ THỊ TRƯỜNG VÀNG
Vì vai trò đặc biệt của vàng như đã nêu trên, để phục vụ cho việc quản lý, IMF
chia vàng ra làm hai loại [9]:
Vàng tài sản tài chính (financial gold) là vàng được sử dụng như tài sản tài
chính bao gồm vàng tiền tệ (monetary gold) và vàng phi tiền tệ (non-
monetary gold) .
o Vàng tiền tệ là vàng được nắm giữ bởi các cơ quan quản lý tiền tệ như là
một phần của dự trữ chính thức của quốc gia, các tổ chức quốc tế như
IMF, BIS. Giao dịch vàng tiền tệ là giao dịch vàng trực tiếp giữa các cơ
quan quản lý tiền tệ hoặc giữa các cơ quan quản lý tiền tệ với các tổ chức
quốc tế như IMF, BIS được ghi nhận là giao dịch tài khoản vốn trong hệ
thống tài khoản quốc gia (SNA).
-17-
o Vàng phi tiền tệ là vàng được nắm giữ bởi các tổ chức tài chính trung
gian, các nhà kinh doanh vàng cho mục đích kinh doanh, đầu tư. Doanh
số bán vàng tiền tệ chuyển sang vàng phi tiền tệ được phân biệt rõ: i.làm
thay đổi phân loại vàng của cơ quan quản lý tiền tệ thể hiện bằng sự thay
đổi số tiền trên bảng cân đối kế toán và ii.số tiền trên tài khoản vốn của
cơ quan quản lý tiền tệ hoặc giá trị hàng hóa xuất khẩu nếu người mua là
người không cư trú (hoặc giá trị hàng hóa nhập khẩu nếu người mua là
người không cư trú).
Vàng hàng hóa (commodity gold) là vàng được nắm giữ phục vụ cho mục
đích sản xuất (trang sức, công nghệ), tồn kho hoặc cất trữ giá trị.
Trong nhiều trường hợp với cách phân loại đơn giản hơn thì vàng hàng hóa và
vàng phi tiền tệ như đề cập ở trên được gom chung vào một nhóm gọi chung là
vàng phi tiền tệ được hiểu là tất cả vàng không được nắm giữ bởi cơ quan quản lý
tiền tệ như là phần dự trữ chính thức của quốc gia.
IMF cho rằng, vàng phi tiền tệ phải được đối xử như với bất kỳ hàng hóa nào
khác trong nền kinh tế trong đó vàng phi tiền tệ cũng có thể thực hiện quản lý tương
tự như việc quản lý các tài sản tài chính khác [9]. Với quan niệm này, cơ chế quản
lý thị trường vàng là hệ thống các nguyên tắc, cách thức quản lý thị trường vàng,
bao gồm các nội dung:
Quản lý khai thác vàng
Quản lý xuất khẩu, nhập khẩu vàng
Quản lý sản xuất, gia công vàng
Quản lý kinh doanh, giao dịch vàng vật chất
Quản lý giao dịch vàng qua tài khoản
Quản lý huy động, cho vay vàng
Quản lý chất lượng vàng
-18-
1.4. CƠ CHẾ QUẢN LÝ THỊ TRƯỜNG VÀNG Ở CÁC NƯỚC
Ấn Độ, Trung Quốc là hai thị trường tiêu thụ vàng vật chất lớn nhất thế giới
chiếm hơn 42% nhu cầu vàng trên thế giới. Đây cũng là hai quốc gia phát triển, có
lịch sử, văn hóa khá tương đồng với Việt Nam và cũng là hai quốc gia mà vàng vật
chất cũng đóng vai trò đặc biệt như ở Việt Nam. Bên cạnh đó, thị trường vàng Việt
Nam hiện nay cũng có khá nhiều nét tương đồng với thị trường vàng trước khi thực
hiện cải cách ở hai quốc gia này. Vì vậy, kinh nghiệm quản lý thị trường vàng và tổ
chức giao dịch vàng tài khoản ở hai quốc gia này sẽ là bài học rất đáng tham khảo
cho Việt Nam trong quá trình cải cách quản lý thị trường vàng.
1.4.1. Ấn Độ
1.4.1.1. Tổng quan
Ấn Độ là quốc gia chiếm trên 25% nhu cầu tiêu thụ vàng trên thế giới trong giai
đoạn 2006-2010 và nếu tính riêng trong năm 2010 thì tỷ lệ này lên đến 32% tương
đương với 963 tấn, xuất phát từ truyền thống văn hóa và tôn giáo trong đó hơn 75%
là vàng trang sức. Ấn Độ cũng là quốc giá có lượng vàng tồn kho lớn nhất thế giới,
khoảng 18.000 tấn. Theo ước tính, khoảng 7% tiết kiệm của Ấn Độ, tương đương
với 256 tỷ USD dùng để nắm giữ vàng. Dự báo lượng vàng tồn kho ở Ấn Độ sẽ tiếp
tục tăng cao vì vàng vốn dĩ là một phần không thể thiếu trong các đám cưới. Với
50% dân số của Ấn Độ dưới 25 tuổi, ước tính sẽ có khoảng 15 triệu đám cưới mỗi
năm trong vòng vài thập kỷ tiếp theo [21], [22], [24], [27].
1.4.1.2. Cơ chế quản lý thị trường vàng
Từ khi độc lập năm 1947, Chính phủ Ấn Độ giám sát chặt chẽ việc xuất nhập
khẩu, phân phối, sản xuất, chế tác và bán lẻ vàng cũng như sở hữu tư nhân về vàng
nhằm tập trung vào năm mục tiêu chính: chấm dứt sở hữu vàng của tư nhân, điều
tiết cung vàng, giảm buôn lậu, giảm cầu vàng, giảm giá vàng trong nước. Với các
biện pháp siết quản lý vàng, Chính phủ hầu như nắm toàn quyền kiểm soát giao
-19-
dịch vàng vào những năm 1963-1964 và đến năm 1968 ban hành luật quản lý vàng
rồi ban hành luật điều tiết ngoại hối năm 1973. Tháng 6/1990 Chính phủ đã bãi bỏ
luật quản lý vàng và ba năm sau đó bãi bỏ luật điều tiết ngoại hối đồng nghĩa với
việc thừa nhận thất bại trong việc kiểm soát chặt chẽ thị trường vàng bởi lẽ trong
suốt hàng chục năm trước đó việc nhập khẩu vàng không chính thức vẫn diễn ra
trầm trọng và được bán với giá có lúc cao hơn 50% so với giá vàng quốc tế. Các
hạn chế sở hữu tư nhân về vàng đã giảm đi, các thương nhân kinh doanh vàng
không còn phải xin giấy phép. Nhìn chung, chính sách mở cửa này đối với vàng
nhằm đến các mục tiêu: giảm nhập lậu, tăng thu ngân sách thông qua việc thu được
thuế nhập khẩu vàng, kích thích sản xuất nữ trang xuất khẩu, phát triển ngành sản
xuất vàng và chế tác trang sức, khuyến khích tái chế vàng trang sức [7], [10].
Trong giai đoạn cải cách từ 1997-1998, Chính phủ đã lựa chọn một số ngân
hàng theo các tiêu chí xác định rõ ràng để cho phép nhập khẩu vàng (7 ngân hàng
vào tháng 8/1997 và tăng lên 20 ngân hàng vào năm 2002). Các tổ chức này được
phép mua bán vàng trong nước và quốc tế không giới hạn. Ngoài ra, họ còn được
phép cung cấp các sản phẩm tiết kiệm và cho vay liên quan đến vàng.
Giai đoạn 2 của cải cách từ 1998-1999 Ngân hàng dự trữ Ấn Độ cho phép các
ngân hàng thương mại trả lãi tiền gửi vàng vật chất, phát hành các chứng chỉ vàng
và các chứng chỉ này được phép chuyển nhượng, giao dịch trên thị trường thứ cấp
với mục tiêu phát triển thị trường chứng chỉ vàng. Tuy nhiên việc triển khai đã
không thành công khi sau 12 tháng triển khai chỉ huy động được 8 tấn vàng so với
100 tấn theo kế hoạch. Điều này cho thấy dân chúng vẫn thích nắm giữ vàng vật
chất hơn là chứng chỉ vàng [4].
Từ năm 2003, Ấn Độ cho phép các ngân hàng giao dịch hợp đồng vàng kỳ hạn
trong nước hoặc quốc tế nhưng không được phép giao dịch với các tổ chức phi ngân
hàng. Đến năm 2006, quỹ đầu tư vàng (ETF vàng) đã được cho phép hoạt động và
thị trường này đã có dấu hiệu tăng trưởng đáng kể khi tổng giá trị nắm giữ của các
-20-
quỹ đã lên đến khoảng 11 tấn vào tháng 8/2010 so với mức 3 tấn vào tháng 6/2007
[7], [10].
Chính Phủ
MCM
Quản lý
khai thác
mỏ vàng
MCAFD
Quản lý
tiêu chuẩn
chất lượng
vàng
MOF
Kiểm soát
chung về
xuất nhập
khẩu vàng SEBI
Quản lý
thị trường
chứng
khoán RBI
Giám sát
nhập khẩu,
kinh doanh
vàng MCI
Chính
sách xuất
khẩu vàng
trang sức
PSU
Nhập khẩu
vàng thỏi,
chế tác
trang sức PSB
Nhập khẩu,
đầu tư,
kinh doanh
vàng
Retailer
Thợ kim
hoàn,
giao
dịch
vàng lẻ
NGM
Các công
ty khai
thác mỏ
vàng EPZ
Doanh
nghiệp chế
tác xuất
khẩu vàng
trang sức IGM
Tinh
chế, chế
tác vàng
thỏi BIS
Chứng
nhận
tiêu
chuẩn
vàng
Các tổ chức
tài chính, nhà
đầu tư tổ chức
và cá nhân
Sàn giao
dịch
chứng
khoán
FMC
Quản lý
thị trường
hàng hóa
giao sau
MCX,
MCDE,
NMCE, ICE
Sàn giao dịch hàng
hóa giao sau
Sơ đồ 1.1: Cấu trúc tổ chức quản lý thị trường vàng ở Ấn Độ
Nguồn:Tổng hợp của tác giả
Sơ đồ 1.1 cho thấy việc quản lý ngành công nghiệp vàng của Ấn Độ nói chung
và thị trường vàng nói riêng là khá phức tạp, với sự tham gia của nhiều cơ quan
quản lý khác nhau: Ngân hàng dự trữ Ấn Độ (The Reserve Bank of India - RBI); Bộ
Tài chính (Ministry of Finance - MOF); Bộ thương mại và công nghiệp (Ministry of
Commerce and Industry - MCI); Bộ khoáng sản và than (Ministry of Coal and
Mines-MCM); Bộ tiêu dùng, lượng thực và phân phối (Ministry of Consumer
Affairs, Food and Distribution - MCAFD); Ủy ban giao dịch chứng khoán Ấn Độ
(The Securities and Exchange Board of India - SEBI).
-21-
Ngoài ra còn có các cơ quan như Cục tiêu chuẩn Ấn Độ (Bureau of Indian
Standards - BIS), các công ty khai thác vàng quốc gia (Nationalised gold mining
companies - NGM), công ty sản xuất vàng của chính phủ (India Government Mint-
IGM), các ngân hàng và doanh nghiệp của nhà nước (Public Sector Banks - PSB’s,
Public Sector Undertakings - PSU’s) và những đơn vị kinh doanh vàng và các sàn
giao dịch hàng hóa giao sau trong đó có vàng. Ngoài ra, Ủy ban Thị trường kỳ hạn
(Forward Markets Commission - FMC), Hiệp hội hàng hóa phái sinh và thị trường
tiền tệ có thu nhập cố định (The Fixed Income Money Market and Derivatives
Association of India - FIMMDA) cũng tham gia quản lý thị trường vàng thông qua
việc quản lý các sàn giao dịch hàng hóa giao sau.
Quản lý vàng tiền tệ: Ngân hàng dự trữ Ấn Độ là cơ quan quản lý dự trữ
vàng chính thức được xem là một phần trong dự trữ ngoại hối quốc gia. Ở
thời điểm tháng 3/2012, Ấn Độ là quốc gia có dự trữ vàng đứng thứ 11 thế
Quản lý vàng phi tiền tệ:
o Khai khoáng, xuất nhập khẩu và sản xuất vàng: Với 90% lượng vàng
giới với 557,7 tấn chiếm 10,5% tổng dự trữ ngoại hối của quốc gia này.
tiêu thụ tại Ấn Độ được nhập khẩu, Ấn Độ đối mặt với thách thức
không nhỏ với việc kiểm soát vàng nhập khẩu để giảm thâm hụt cán
cân thanh toán nhưng không làm gia tăng hoạt động buôn lậu vàng.
Từ năm 2003-2004, thuế nhập khẩu đã giảm từ 250Rs/10gram xuống
100Rs/10gram, đến năm 2010-2011 đã tăng lên 300Rs/10gram và thuế
giá trị gia tăng 1% đối với vàng thoi, 4% đối với vàng trang sức nhằm
hạn chế nhập khẩu. Tại thời điểm đầu năm 2012, có 30 ngân hàng tại
Ấn Độ bao gồm cả ngân hàng nhà nước, ngân hàng tư nhân và ngân
hàng nước ngoài được phép nhập khẩu vàng và bạc để bán tại thị
trường trong nước. Các hạn chế về xuất khẩu vàng đặc biệt là xuất
khẩu vàng trang sức đã được gỡ bỏ. Ngoài ra, Ấn Độ cũng đã mở cửa
-22-
thị trường khai khoáng mỏ vàng cho các công ty nước ngoài nhưng
o Quản lý kinh doanh vàng: Ấn Độ đã bãi bỏ các quy định kiểm soát
nhìn chung thị trường khai khoáng mỏ vàng của Ấn Độ khá nhỏ bé.
giao dịch vàng bao gồm cả vàng thoi và vàng trang sức tuy nhiên vẫn
giữ quy định về lợi nhuận biên đối với các nhà nhập khẩu vàng. Theo
đó, các ngân hàng nhập khẩu chỉ có lợi nhuận biên 20 cent/large bar
khi bán cho đại lý. Các đại lý có lợi nhuận biên 4.000 Rs/kg, ngoài ra
họ còn kiếm lợi nhuận nhờ giá vàng biến động. Thị trường bán lẻ vàng
thoi OTC diễn ra phổ biến rộng rãi giữa nhà đầu tư với các tổ chức
kinh doanh vàng. Không có quy định việc giao dịch vàng thoi bắt
buộc phải diễn ra tại các sàn giao dịch. Trong khi đó, thị trường bán lẻ
vàng trang sức thì do gia đình các thợ kim hoàn kiểm soát và phân tán
khắp cả nước vì có khoảng trên 100.000 thợ kim hoàng với hơn
1.000.000 cửa hàng bán lẻ. Ấn Độ cho phép xuất khẩu vàng đặc biệt là
vàng trang sức nhưng kiểm soát chặt vàng thoi thông qua việc cấp
phép, kiểm soát chứng nhận xuất xứ, các chứng từ khác cùng với yêu
o Quản lý chất lượng: Để kiểm soát chất lượng vàng, Chính phủ thành
cầu vàng phải đạt độ tinh khiết từ 99,5% trở lên.
lập Cục chất lượng quốc gia (Bureau of Indian Standards - BIS) là cơ
quan kiểm định và đóng dấu vàng đạt chuẩn. Sự tham gia đông đảo
của tổ chức vào chương trình này của BIS phần lớn do tiêu chuẩn
vàng BIS đưa ra đạt chuẩn tiêu chuẩn quốc tế, giúp đảm bảo chất
lượng sản phẩm vàng được đóng dấu, nâng cao uy tín của tổ chức
được BIS chứng nhận. Điều này cũng giúp thị trường vàng vật chất ở
Ấn Độ được minh bạch hơn trong giao dịch và chất lượng sản phẩm.
Quản lý chứng chỉ vàng và sản phẩm vàng phái sinh: Các sản phẩm
vàng phi vật chất (chứng chỉ vàng) đang phát triển và đa dạng hóa trên
thị trường ở Ấn độ. Lúc đầu chỉ là các trái phiếu vàng của Chính phủ,
-23-
các chứng chỉ tiền gửi đảm bảo bằng vàng của các ngân hàng đến nay đã
có các tài khoản vàng, các sản phẩm vàng phái sinh như hợp đồng kỳ
hạn, hợp đồng tương lai, hợp đồng quyền chọn và hoán đổi liên quan đến
vàng, ETF vàng. Hiện nay sản phẩm vàng phái sinh ở Ấn độ được quản
lý bởi Ủy ban Thị trường Kỳ hạn (Forward Markets Commission -
FMC), Hiệp hội hàng hóa phái sinh và thị trường tiền tệ có thu nhập cố
định (The Fixed Income Money Market and Derivatives Association of
India - FIMMDA) và giao dịch tại các sàn giao dịch hàng hóa phái sinh.
Đến cuối năm 2011, có 4 Sở giao dịch quốc gia thực hiện giao dịch .
1.4.1.3. Sàn giao dịch vàng
Multi Commodity Exchange (MCX) tại Mumbai: MCX bắt đầu hoạt động
từ tháng 11/2003 với vốn cổ phần là 500.00 Rs và sau nhiều lần tăng
vốn, đến 14/3/2011 MCX có vốn cổ phần là 700.000.000 Rs. MCX là
sàn giao dịch hàng hóa giao sau với công nghệ đỉnh cao (state-of-the-art
electronic) thực hiện giao dịch online, thanh toán và thanh toán bù trừ
cho hơn 40 hàng hóa như vàng, kim loại đen, kim loại màu, năng lượng,
hàng nông nghiệp, .v.v. chịu sự quản lý của FMC. MCX là sàn giao dịch
có số lượng giao dịch hợp đồng giao sau lớn nhất thế giới về vàng và
bạc, lớn thứ hai thế giới về khí tự nhiên và lớn thứ 3 thế giới về dầu thô
crude trong năm 2011. Tại thời điểm 31/3/2012, MCX chiếm 85% thị
phần thị trường hàng hóa giao sau của Ấn Độ với hơn 2.170 thành viên
đăng ký hoạt động thông qua 346.000 thiết bị đầu cuối trải rộng trên
1.557 thành phố, thị trấn trên khắp cả nước. Thời gian hoạt động của
MCX bắt đầu từ buổi tối giờ địa phương để đồng bộ hóa với giờ giao
dịch ở London, New York và các thị trường quốc tế khác. Đối với vàng,
bện cạnh giao dịch các hợp đồng kỳ hạn vàng, MCX cũng tổ chức giao
dịch vàng thoi với hàng hóa theo tiêu chuẩn của LBMA.
-24-
National Commodity and Derivatives Exchange (NCDEX) tại Mumbai:
NCDEX là công ty đại chúng được đăng ký thành lập vào tháng 4/2003
và hoạt động từ tháng 12/2003. NCDEX là sàn giao dịch hàng hóa online
được tổ chức chuyên nghiệp đặt dưới sự quản lý của FMC. Tại thời điểm
9/2/2012 có 34 mặt hàng trong đó 23 mặt hàng nông sản, 6 kim loại quý,
2 năng lượng và các hàng hóa khác được giao dịch tại NCDEX trong đó
5 mặt hàng có khối lượng giao dịch lớn nhất là Soya oil, Gaur Seed,
Chana, RM seed và Guar gum. Có 3 sản phẩm vàng được giao dịch tại
NCDEX bao gồm vàng thoi của 27 nhà sản xuất vàng thoi trên thế giới
với đơn vị giao dịch là 1kg, khối lượng tối đa là 50kg và hai sản phẩm
khác là hợp đồng vàng giao sau.
Đồ thị 1.4: Biến động giá vàng ở Ấn Độ và giá vàng thế giới
Nguồn: Ngân hàng dự trữ Ấn Độ
Như vậy, chính sách quản lý vàng của Ấn độ đã có sự thay đổi lớn từ kiểm soát
chặt chẽ đến tự do hóa thị trường vàng thông qua việc nới lỏng dần các biện pháp
hành chính để quản lý thị trường vàng, cấp giấy phép xuất nhập khẩu vàng cho
nhiều ngân hàng thương mại và các công ty được Chính phủ chỉ định. Ngoài ra
cũng cho phép các ngân hàng thương mại phát hành chứng chỉ tiền gửi bằng vàng
và các chứng chỉ này được phép giao dịch trên thị trường, các tài khoản vàng, các
sản phẩm vàng phái sinh như hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tương lai, hợp đồng quyền
chọn và hoán đổi liên quan đến vàng và ETF vàng. Tuy nhiên việc quản lý thị
-25-
trường vàng ở Ấn Độ nhìn chung vẫn còn khá phức tạp với sự tham gia kiểm soát
phân tán của khá nhiều cơ quan quản lý khác nhau và thị trường OTC vàng thoi
phân tán khắp cả nước. Tuy nhiên, nhìn chung Ấn Độ đã đạt được thành công đáng
kể trong quản lý thị trường vàng theo cơ chế mới, giá vàng trong nước đã biến động
song hành cùng với giá vàng thế giới ở mức chênh lệch rất thấp trong nhiều năm
qua đồng thời Ấn Độ cũng đã huy động được khối lượng vàng để đáp ứng nhu cầu
phát triển và ổn định thị trường tài chính.
1.4.2. Trung Quốc
1.4.2.1. Tổng quan
Vàng đã có mặt tại Trung Quốc lịch sử kể từ thời của triều đại nhà Hán, đóng
vai trò quan trọng trong văn hóa, tôn giáo Trung Quốc và được coi là một biểu hiện
của sự thịnh vượng. Nhu cầu vàng của Trung Quốc đứng thứ hai trên thế giới sau
Ấn Độ và chiếm khoảng 16% tổng cầu vàng trên thế giới. Với việc nới lỏng các quy
định quản lý vàng, nghiên cứu của WGC cho rằng, trong dài hạn nhu cầu vàng ở
Trung Quốc sẽ tăng trưởng mạnh bất chấp giá vàng tăng mạnh. Bên cạnh đó, ước
tính mức tiêu thụ vàng bình quân hiện nay ở Trung Quốc chỉ 0,26 gram thấp hơn so
với các quốc gia có nền văn hóa tương tự. Nếu mức tiêu thụ vàng bình quân tại
Trung Quốc bằng với Ấn Độ, Hồng Kông hay Saudi Arabia thì nhu cầu của Trung
Quốc hàng năm có thể tăng ít nhất 100 tấn, thậm chí đến 4.000 tấn [23]. Về cung
vàng, Trung Quốc đã vượt Nam Phi để trở thành nước sản xuất vàng hàng đầu thế
giới từ năm 2007 và vẫn tiếp tục tăng sản lượng hàng năm.
1.4.2.2. Cơ chế quản lý thị trường vàng
Trước năm 2002, thị trường vàng tại Trung Quốc được kiểm soát chặt chẽ từ
khâu sản xuất đến phân phối bán lẻ. Giá vàng và hạn ngạch đã được quyết định bởi
Ngân hàng nhân dân Trung Quốc (PBoC) phối hợp với các cơ quan khác ở trung
ương. PBoC cấp giấy xuất khẩu vàng và nhập khẩu vàng trang sức, mặt hàng này
chịu mức thuế nhập khẩu 60% ở năm 1996, giảm so với mức 100% trước đó.
-26-
Tháng 10/2002, Sàn giao dịch vàng Thượng Hải (Shanghai Gold Exchange -
SGE) được thành lập để tổ chức giao dịch vàng thay thế cho PBoC trước đây. Trung
Quốc cũng đã trở thành một thành viên Tổ chức thương mại thế giới (WTO) vào
tháng 12/2001 và kể từ đó các quy định pháp luật cũng đã khuyến khích việc hiện
đại hóa công nghệ khai thác khoáng sản và cho phép các tổ chức nước ngoài đầu tư
khai thác mỏ ở Trung Quốc.
Chính Phủ
CSRC
Giám sát
SHFE
MOLAR
Cấp giấy
phép khai
thác
NDRC
Kế hoạch,
Chính
sách CBRC
Giám sát
các ngân
hàng PBoC
Cung
vàng,
giám sát
SGE SASAC
Kiểm soát
tài sản
nhà nước
và đầu tư
Bank
Ngân hàng
thương mại Retailer
Giao dịch
vàng lẻ CNGGC
Khai thác,
kinh doanh
vàng SHFE
Giao dịch
hàng hóa
giao sau CGA
Tổ chức
nghề
nghiệp SGE
Giao dịch
vàng, bạc,
Pla
Cá nhân, tổ chức
đầu tư
Sơ đồ 1.2: Cấu trúc tổ chức quản lý thị trường vàng ở Trung Quốc
Nguồn:China Gold Report: Gold in Year of the Tiger và tổng hợp của tác giả
Hiệp hội Vàng Trung Quốc (China Gold Association - CGA) được thành lập
vào tháng 11/2001 đóng vai trò quan trọng trong ngành công nghiệp vàng của
Trung Quốc. CGA hoạt động như một cầu nối giữa Chính phủ Trung Quốc và các
nhà sản xuất để bảo vệ lợi ích kinh doanh và cung cấp dịch vụ thông tin, tư vấn, hợp
tác điều phối và trung gian cho họ.
Ngân hàng Công thương Trung Quốc (ICBC) và các ngân hàng thương mại
khác đóng vai trò quan trọng trong việc chuẩn bị cho sự ra đời của một thị trường
-27-
vàng với đầy đủ chức năng như các thị trường phát triển trên thế giới. ICBC đã
tham gia tích cực trong việc thiết lập các hoạt động của SGE và cung cấp một loạt
các dịch vụ bao gồm cả thanh toán bù trừ, vàng, kho vàng, cho thuê, tài trợ cho các
dự án vàng, mua vàng, đầu tư vàng dự án, xuất nhập khẩu và kinh doanh vàng cá
nhân.
Chính phủ Trung Quốc quản lý ngành công nghiệp vàng thông qua các cơ quan
chức năng: Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc (People’s Bank of China - PBoC), Ủy
ban Cải cách và phát triển quốc gia (National Develepment and Refrom
Commission - NDRC), Bộ Tài nguyên và Đất đai (Ministry of Land and Resources
- MOLAR), Ủy ban quản lý và giám sát tài sản nhà nước (State-owned Assets
Supervision and Administration Commission - SASAC), Ủy ban Quản lý Chứng
khoán Trung Quốc (The China Securities Regulatory Commission - CSRC), Ủy ban
quản lý ngân hàng Trung Quốc (China Banking Regulatory Commission - CBRC).
Quản lý vàng tiền tệ: Ngân hàng nhân dân Trung Quốc là cơ quan quản lý
dự trữ vàng chính thức được xem là một phần trong dự trữ ngoại hối quốc
gia. Tại thời điểm tháng 3/2012, Trung Quốc là nước có dự trữ vàng đứng
thứ 6 thế giới sau Mỹ, Đức, IMF, Ý, Pháp với tổng dự trữ vàng là 1.054,1
tấn, chiếm 1,8% tổng dữ trữ ngoại hối của Trung Quốc [24].
Quản lý vàng phi tiền tệ:
o Khai thác, xuất nhập khẩu và sản xuất: Từ năm 2002, Trung Quốc đã
mở cửa cho phép các nhà đầu tư nước ngoài tham gia thị trường khai
thác và sản xuất vàng. Mặc dù vẫn còn duy trì việc cấp phép khai thác,
xuất nhập khẩu vàng nhưng từ năm 2005 Trung Quốc đã chủ trương nới
lỏng việc quản lý cấp phép theo hướng sẽ bãi bỏ việc kiểm soát xuất
nhập khẩu vàng phụ thuộc vào tiến trình tự do hóa tài chính và mức độ
chuyển đổi của nhân dân tệ. Mặt khác, Trung Quốc đã cho phép các tổ
chức nước ngoài được phép giao dịch trên SGE và SHFE nên nhìn
-28-
chung cơ chế cấp phép xuất nhập khẩu vàng đã không còn kiểm soát
hoàn toàn việc xuất nhập khẩu vàng ở Trung Quốc.
o Quản lý giao dịch vàng: Trong giai đoạn 1995-2005, Trung Quốc đã
bãi bỏ việc nhà nước độc quyền vàng, bãi bỏ hệ thống cấp phép bán lẻ,
bán buôn, sản xuất và không còn kiểm soát giá vàng. Thông qua việc
đưa vào hoạt động SGE, Trung Quốc đã chính thức mở cửa thị trường
vàng vì vậy giá vàng tại Trung Quốc đã tiệm cận rất sát với giá vàng
thế giới từ năm 2000. Từ năm 2006, PBoC và CBRC đã cho phép các
ngân hàng thương mại giao dịch các sản phẩm đầu tư vàng với nhà đầu
tư cá nhân. Cũng trong năm này, hệ thống giao dịch vàng thoi hai giá
cũng đã được triển khai và đến năm 2007, các ngân hàng thương mại
được phép giao dịch vàng thoi vật chất, được tham gia giao dịch tại
SGE và SHFE. Thị trường bán lẻ của Trung Quốc chỉ được phép bán
vàng trang sức. Tất cả các giao dịch vàng thoi đều phải được thực hiện
thông qua SGE. Các cửa hàng bán lẻ trang sức chịu sự quản lý của chi
nhánh PBoC tại địa phương.
o Quản lý chất lượng: PBoC thống nhất quản lý chất lượng vàng và kiểm
soát chất lượng vàng của các nhà sản xuất, chế tác. Các kho vàng do
PBoC thành lập rãi đều trên cả nước và quy định các tổ chức tham gia
giao dịch vàng đều phải gửi vàng tại các kho vàng này. Bên cạnh đó, từ
năm 2003, Trung Quốc đã công bố tiêu chuẩn phân loại các sản phẩm
vàng trang sức 18K để thuận tiện cho việc giao dịch.
Quản lý chứng chỉ vàng và sản phẩm vàng phái sinh: Chứng chỉ vàng,
sản phẩm vàng phái sinh và thị trường vàng phái sinh được tổ chức giao
dịch tại Sàn giao dịch hàng hóa giao sau Thượng Hải (SHFE) được thành
lập năm 1999 và chịu sự quản lý của Ủy ban chứng khoán Trung Quốc.
SHFE tổ chức giao dịch hợp đồng hàng hóa giao sau cho các hàng hóa cơ
-29-
bản bao gồm vàng, bạc, đồng, nhôm, chì, kẽm, thép xây dựng, thép thanh
dây, cao su tự nhiên, dầu nguyên liệu và ETF vàng.
1.4.2.3. Sàn giao dịch vàng
Sàn giao dịch vàng Thượng Hải (SGE): SGE là tổ chức phi lợi nhuận do
PBoC thành lập để cung cấp cơ sở hạ tầng và tổ chức giao dịch vàng thoi
giao ngay nhằm kết nối thị trường vàng quốc tế với thị trường vàng nội địa
đồng thời cũng tạo ra sự kết nối giữa thị trường vàng với thị trường chứng
khoán và thị trường ngoại hối. Các thành viên tham gia SGE bao gồm các
ngân hàng thương mại đủ điều kiện, các tổ chức thành lập tại Trung Quốc và
được PBoC cho phép khai thác, sản xuất, bán buôn, nhập khẩu, xuất khẩu
vàng, bạc, bạch kim và các kim loại quý khác. Các thành viên được chia làm
ba loại gồm các thành viên là tổ chức tài chính có thể hoạt động tự doanh
hoặc làm đại lý và các hoạt động kinh doanh khác; thành viên phổ thông có
thể hoạt động tự doanh hoặc làm đại lý; và thành viên chỉ được phép tự
doanh. Đầu năm 2012, SGE có 25 thành viên là các tổ chức tài chính trong
nước, 6 thành viên là tổ chức tài chính nước ngoài, 130 thành viên là các
công ty kinh doanh và 3 thành viên là các nhà khai thác vàng. Hoạt động
giao dịch tại SGE được thực hiện theo phương thức giao ngay và không cho
phép sử dụng đòn bẩy theo đó bên mua phải mở tài khoản thanh toán chuyên
biệt tại một trong bốn ngân hàng thanh toán theo quy định của SGE còn bên
bán phải có vàng vật chất đúng tiêu chuẩn lưu giữ tại một trong 63 kho của
SGE phân bố tại 28 tỉnh thành trong cả nước. Nhìn chung, hoạt động của
SGE đã phát triển nhanh chóng và trở thành một trong các kênh đầu tư của
các quỹ trong nước, các nhà đầu tư tổ chức và cá nhân và trở thành một
thành phần không thể thiếu của thị trường tài chính của Trung Quốc. Trong
năm 2010, SGE đã đóng một vai trò lớn hơn trong phân bổ nguồn lực thị
trường tài chính và đã trở thành sàn vàng vật chất lớn nhất thế giới với khối
lượng giao dịch lên đến 6.051,5 tấn, tăng 28,46% so với cùng kỳ năm 2009
-30-
và giá trị giao là 1.615,781 tỷ nhân dân tệ, tăng 57,04% năm 2009. Hoạt
động hiệu quả của SGE đã giúp ổn định thị trường vàng vật chất ở Trung
Quốc [33].
Sàn giao dịch hàng hóa giao sau Thượng Hải (SHFE): SHFE có hơn 200
thành viên trong đó khoảng 80% là các công ty môi giới. Việc giao dịch
được thực hiện online thông qua hơn 250 thiết bị đầu cuối trên toàn quốc.
Đối với vàng, đơn vị giao dịch là 1kg áp dụng cho các sản phẩm vàng nội
địa và vàng quốc tế có độ tinh khiết không thấp hơn 99,95% theo chuẩn
vàng thoi trong danh sách công bố bởi LBMA và được chấp nhận bởi SHFE
[34].
Đồ thị 1.5: Biến động giá vàng thế giới và giá vàng tại Trung Quốc
Nguồn: World Gold Council [12]
Như vậy có thể thấy Trung Quốc đã mở cửa thị trường vàng theo từng bước
một cách thận trọng với lộ trình được chuẩn bị kỹ càng khởi đầu bởi việc bãi bỏ độc
quyền vàng, mở cửa thị trường vàng trang sức, thành lập sàn giao dịch vàng vật chất
trước khi mở cửa thị trường khai thác và sản xuất vàng, song song đó tổ chức hoạt
động thị trường vàng giao sau để từng bước hướng đến tự do hóa thị trường vàng.
Tuy vậy, so với thị trường vàng ở các nước phát triển, Trung Quốc vẫn còn duy trì
kiểm soát mang tính hạn chế đối với thị trường vàng bao gồm cả thị trường vàng
-31-
hàng hóa (nguyên liệu, đầu tư), thị trường vàng bán lẻ lẫn thị trường vàng giao sau.
Việc cải cách cơ chế quản lý vàng ở Trung Quốc đã giúp cầu vàng đầu tư tăng bình
quân 62%/năm trong giai đoạn 2001-2010 cao hơn rất nhiều so với nhu cầu vàng
trang sức tuy nhiên biến động giá vàng trên thị trường nội địa Trung Quốc đã có sự
liên thông chặt chẽ hơn với giá trên thị trường thế giới, chêch lệch giá đã không còn
có sự khác biệt lớn như trước đây.
1.5. NHẬN XÉT CHUNG VỀ CƠ CHẾ QUẢN LÝ THỊ TRƯỜNG VÀNG
Từ kinh nghiệm của Ấn Độ và Trung Quốc trong việc quản lý thị trường vàng
Cơ quan quản lý: Việc quản lý thị trường vàng nên đặt dưới sự quản lý của
và tổ chức quản lý sàn giao dịch vàng có thể rút ra các kết luận cơ bản sau đây:
cơ quan chuyên trách trên cơ sở phối hợp tốt giữa các cơ quan quản lý bao
gồm Ngân hàng trung ương, Ủy ban chứng khoán, các cơ quan quản lý
giám sát theo lĩnh vực chức năng của nhà nước bao gồm cả việc quản lý
vàng tiền tệ, vàng tài chính phi tiền tệ và vàng hàng hóa, trong đó ngân
hàng trung ương đóng vai trò chủ đạo đối với vàng tiền tệ, vàng hàng hóa,
vàng tài chính phi tiền tệ (không bao gồm sản phẩm vàng phái sinh) và giao
dịch vàng giao ngay.
Tổ chức quản lý vàng phi tiền tệ:
o Việc quản lý giám sát cần được thực hiện từ khâu khai thác, sản xuất,
xuất nhập khẩu cho đến giao dịch, tiêu thụ ở cả cấp độ bán buôn lẫn bán
lẻ cho người tiêu dùng cuối cùng với những cơ chế và mô hình áp dụng
riêng biệt cho từng đối tượng mang tính minh bạch cao bao gồm tất cả
các khâu từ khai thác, sản xuất (bao gồm cả sản xuất vàng thoi, vàng
trang sức), bán buôn, bán lẻ đều hoàn toàn không nên có sự độc quyền
kể cả độc quyền nhà nước hay tư nhân.
-32-
o Việc quản lý nhập khẩu vàng được thực hiện một cách linh hoạt trên cơ
sở xử lý hài hòa giữa trạng thái cán cân thanh toán và tình trạng nhập
lậu. Có thể áp dụng cơ chế cấp phép nhập khẩu vàng hạn chế cho một
số đối tượng nhưng công bố minh bạch tiêu chuẩn lựa chọn. Việc quản
lý được thực hiện theo hướng sẽ bãi bỏ giấy phép nhập khẩu vàng
nguyên liệu để liên thông thị trường trong nước và thị trường nước
ngoài khi đã chuẩn bị đầy đủ các điều kiện.
o Quản lý chặt chẽ chất lượng vàng kể cả vàng thoi và vàng trang sức.
Đối với vàng thoi, thành lập tổ chức kiểm định và cấp chứng nhận đạt
chuẩn theo các tiêu chuẩn quốc tế. Cho phép giao dịch các sản phẩm
vàng thoi theo tiêu chuẩn quốc tế được sản xuất bởi các nhà sản xuất có
uy tín theo danh sách công bố của LBMA và sự chấp thuận của cơ quan
quản lý.
Tổ chức quản lý sàn giao dịch vàng vật chất
o Tổ chức sàn giao dịch vàng vật chất (giao dịch qua tài khoản vàng) chặt
chẽ và quy định việc giao dịch vàng thoi bắt buộc phải thực hiện qua
sàn giao dịch vàng vật chất. Sàn giao dịch vàng vật chất có sự kết nối
với thị trường vàng quốc tế để giá vàng trong nước tiệm cận với giá
vàng quốc tế nhằm chặn đứng việc nhập khẩu vàng. Trong giai đoạn
đầu không cho phép sử dụng đòn bẩy trên sàn giao dịch vàng vật chất
nhằm đảm bảo sự ổn định, an toàn của thị trường. Cho phép các ngân
hàng thương mại và các tổ chức đủ điều kiện được trở thành thành viên,
giao dịch vàng tài khoản tại sàn giao dịch vàng vật chất. Các nhà tạo lập
thị trường (market maker) trên sàn giao dịch vàng vật chất được phép
giao dịch vàng tài khoản trên thị trường thế giới. Từng bước cho phép
các tổ chức tài chính nước ngoài được tham gia giao dịch trên sàn giao
dịch vàng vật chất.
o Cho phép các ngân hàng huy động vàng thông qua các chứng chỉ vàng
-33-
và cho phép các chứng chỉ vàng được phép giao dịch trên sàn giao dịch
vàng vật chất.
Quản lý chứng chỉ vàng và các sản phẩm vàng phái sinh:
o Cho phép thành lập các quỹ ETF vàng và niêm yết các chứng chỉ quỹ
trên thị trường chứng khoán.
o Thành lập và đưa vào hoạt động sàn giao dịch hàng hóa giao sau đặt
dưới sự quản lý của Ủy ban chứng khoán với các quy định, chuẩn mực
giao dịch bám sát với thông lệ quốc tế để từng bước hướng đến phù hợp
với thông lệ quốc tế.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Chương 1 đã tập trung trình bày tổng quan về thị trường vàng trên thế giới và
cơ chế quản lý hoạt động thị trường vàng ở một số nước tiêu biểu bao gồm quản lý
vàng tiền tệ và đặc biệt là quản lý vàng hàng hóa từ mô hình tổ chức, cơ quan quản
lý, quản lý khai thác vàng khoáng sản, quản lý xuất khẩu nhập khẩu vàng, quản lý
và tổ chức giao dịch vàng hàng hóa vật chất lẫn giao dịch vàng tài khoản gồm sàn
giao dịch vàng vật chất và sàn giao dịch các sản phẩm phái sinh về vàng.
Nhìn chung, việc quản lý vàng hàng hóa của Ấn Độ và Trung Quốc là hai quốc
gia có nhiều nét tương đồng với Việt Nam về tập quá sử dụng vàng cho thấy các
quốc gia này đã chuyển dần từ việc quản lý hành chính, kiểm soát chặt thị trường
vàng sang việc nới lỏng, tự do hóa theo cơ chế thị trường. Ở các quốc gia này không
có sự độc quyền nhập khẩu, sản xuất vàng miếng thay vào đó họ thành lập cơ quan
chuyên trách để chứng nhận vàng miếng đạt tiêu chuẩn lưu thông đồng thời hướng
đến việc sử dụng, giao dịch vàng theo tiêu chuẩn quốc tế của các nhà sản xuất vàng
-34-
uy tín trên thế giới. Các quốc gia này cũng đã tổ chức hoạt động thành công sàn
giao dịch vàng vật chất và đặt biệt là sàn giao dịch hàng hóa phái sinh vàng cùng
các sản phẩm tài chính phái sinh khác. Việc quản lý thị trường vàng ở các quốc gia
này không giao cho một cơ quan chức năng quản lý nhà nước duy nhất mà sẽ có
nhiều cơ quan cùng tham gia quản lý với vai trò, chức năng được phân định minh
bạch, cụ thể và hợp lý. Ngoài ra, các quốc gia này cũng thành lập cơ quan chuyên
trách để quản lý sàn giao dịch vàng. Mặc dù, mỗi quốc gia có những đặc thù riêng
và khó có thể áp đặt mô hình quản lý của quốc gia này cho quốc gia kia nhưng việc
nghiên cứu kinh nghiệm quản lý thị trường vàng và tổ chức hoạt động sàn giao dịch
vàng ở các quốc gia trên thế giới có nhiều đặc điểm tương đồng với Việt Nam trong
tập quán sử dụng vàng để tham khảo nhằm xây dựng cơ chế quản lý thị trường vàng
ở Việt Nam và tổ chức hoạt động của sàn giao dịch vàng là điều hết sức cần thiết và
có ý nghĩa khoa học.
-35-
CHƯƠNG 2
CƠ CHẾ QUẢN LÝ THỊ TRƯỜNG VÀNG VÀ
KINH DOANH VÀNG TÀI KHOẢN Ở VIỆT NAM
Mục tiêu của chương 2 là phân tích cơ chế quản lý thị trường vàng ở Việt Nam
từ trước năm 1999 đến 2012 chia làm ba giai đoạn: trước năm 1999, từ năm 2000
đến năm 2011 và từ năm 2012 trong đó tập trung vào những vấn đề trọng tâm phát
sinh trong các năm từ 2010 đến 2012 nhằm nhận diện những bất cập trong cơ chế
quản lý vàng hiện nay.
2.1. CƠ CHẾ QUẢN LÝ THỊ TRƯỜNG VÀNG TRƯỚC 1999
2.1.1 Trước năm 1975
Về lịch sử, từ thời vua Hùng đã có hoạt động khai thác và tinh luyện vàng bạc
để chế tác các trang sức bằng vàng với kỹ thuật chạm khắc được đánh giá là tinh vi.
Từ thế kỷ 18, nghề khai thác mỏ xuất hiện nhiều nơi trên cả nước trong đó được
nhắc đến nhiều là ở Quảng Nam. Cuối thế kỷ 19, Pháp thành lập Công ty vàng
Bồng Miêu ở Quảng Nam sau khi cho điều tra địa chất trên khu vực Đông Dương.
Tuy nhiên, việc tổ chức quản lý thị trường vàng giai đoạn này chưa hình thành một
cách rõ nét [2].
Trong những năm thập niên 60-70 thế kỷ 20, vàng ít khi được dùng làm phương
tiện thanh toán mà chủ yếu được dùng làm cất trữ và chế tác trang sức. Chính quyền
Sài Gòn áp dụng chính sách tự do kinh doanh vàng kể cả xuất khẩu, nhập khẩu vàng
thoi, vàng trang sức.
-36-
Hệ thống kinh doanh vàng được tổ chức phân cấp với đầu mối là các ngân hàng,
các đại lý cấp 1 sẽ nhận vàng từ ngân hàng về gia công, đóng nhãn hiệu sau đó phân
phối về cho các đại lý cấp 2 là các cửa hàng kinh doanh nhỏ. Trong giai đoạn này,
tại TP.HCM có khoảng 600 cửa hàng kinh doanh vàng theo kiểu đại lý cấp 1. Chất
lượng vàng chưa có sự kiểm soát chặt chẽ mà dựa trên uy tín của các thương hiệu
vàng là chủ yếu. Các hoạt động đầu cơ cũng diễn ra trong giai đoạn này nhưng
không đủ lớn và không đủ mạnh để tạo đột biến giá trên thị trường [2].
2.1.2 Từ 1975 đến 1989
Ngày 9/2/1979 Hội đồng Chính phủ đã ban hành quyết định số 38-CP về việc
quản lý vàng, bạc, bạch kim, kim cương đối với các xí nghiệp, cơ quan nhà nước và
quyết định số 39-CP về việc nhà nước thống nhất quản lý vàng, bạc, bạch kim và
kim cương.
Trong giai đoạn này, vàng trở thành hàng hóa đặc biệt như tiền tệ khi trên thực
tế vàng được sử dụng làm thước đo giá trị, phương tiện thanh toán và được ưa thích
cất trữ vì lạm phát thường xuyên ở mức cao dù rằng việc dùng vàng để định giá,
thanh toán là không được pháp luật thừa nhận. Việc giao dịch vàng kể cả vàng trang
sức lẫn vàng miếng của tư nhân bị cấm cùng với việc nhà nước dùng các biện pháp
hành chính mạnh để kiểm soát và điều khiển giá vàng.
Đến năm 1986, Việt Nam mới thực hiện chủ trương cho thành lập mạng lưới
các cửa hàng kinh doanh vàng bạc quốc doanh và đến ngày 24/5/1989 Chủ tịch Hội
đồng Bộ trưởng đã ban hành quyết định 139-CT chính thức cho phép tư nhân thành
lập cửa hàng kinh doanh vàng, bạc, đá quý (hộ kinh tế cá thể kinh doanh vàng, bạc,
đá quý) và từ đó thị trường vàng mới bắt đầu có sự cạnh tranh.
2.1.3 Từ 1990 đến 1999
Tháng 9/1990, trước tình trạng vàng hóa trong nền kinh tế, Hội đồng Bộ trưởng
đã ban hành Chỉ thị 330/CT quy định cấm sử dụng vàng dưới bất kỳ dạng nào để
-37-
thanh toán, chi trả hàng hóa qua biên giới và quy định việc lưu thông vàng thỏi trên
thị trường nội địa do Ngân hàng Nhà nước đảm nhận.
Ngày 23/9/1993, Chính Phủ ban hành Nghị định 63/CP về quản lý nhà nước đối
với hoạt động kinh doanh vàng theo đó nhà nước thừa nhận quyền sở hữu hợp pháp
về vàng của mọi tổ chức và cá nhân dưới dạng vàng khối, vàng thỏi, vàng cục, vàng
cốm, vàng lá, vàng sa khoáng, vàng gốc, vàng tư trang. Cho phép các doanh nghiệp,
tổ chức, cá nhân, xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được quyền cất giữ, vận
chuyển hoặc gửi vàng ở ngân hàng.
Về mặt quản lý, NHNN là cơ quan quản lý nhà nước về các hoạt động gia công,
chế tác, cầm đồ, mua bán, xuất nhập khẩu vàng; cùng các Bộ, ngành liên quan và
các địa phương thực hiện việc quản lý thị trường vàng trong cả nước. Các tổ chức
và cá nhân muốn kinh doanh vàng phải thành lập doanh nghiệp, hoặc đăng ký kinh
doanh và phải được NHNN cấp giấy phép. Ngoài việc thực hiện các quy định về
thành lập theo pháp luật về doanh nghiệp nhà nước, Luật Công ty, Luật Doanh
nghiệp tư nhân, các doanh nghiệp còn phải có các điều kiện: có vốn pháp định theo
quy định của NHNN đối với từng loại doanh nghiệp và từng vùng; có thợ chuyên
môn kỹ thuật; có trụ sở, địa chỉ rõ ràng.
Các doanh nghiệp kinh doanh vàng được mua bán vàng khối, vàng thỏi, vàng
cục, vàng cốm, vàng lá, vàng sa khoáng, vàng gốc, vàng tư trang; được chế tác, gia
công, cầm đồ vàng. Đối với hoạt động xuất nhập khẩu vàng, các doanh nghiệp xuất
khẩu vàng cần phải có giấy phép từ NHNN còn việc nhập khẩu vàng thì NHNN trực
tiếp thực hiện. Từ tháng 8/1994, Vụ quản lý ngoại hối cấp phép nhập ủy thác để
Công ty vàng bạc đá quý Việt Nam (VJC) nhập trực tiếp cho các doanh nghiệp và
Vụ quản lý ngoại hối bán vàng cho các doanh nghiệp. Việc quản lý nhập khẩu vàng
với chính sách chậm điều chỉnh và hạn ngạch thấp trong lúc cầu tăng cao đã làm
nảy sinh tình trạng nhập lậu trong suốt thời gian dài. Trong giai đoạn 1993 -1996,
NHNN đã cấp phép nhập khẩu khoảng 20 tấn vàng và các doanh nghiệp nhà nước,
tổ chức tín dụng được nhập khẩu vàng là đầu mối phân phối bán buôn và có khả
-38-
năng điều tiết thị trường trong cả nước [2]. Tuy nhiên, từ năm 1996 do tình hình
ngoại tệ khan hiếm vì ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính tiền tệ Đông Nam Á,
NHNN tạm dừng việc cấp phép nhập khẩu vàng.
Trong giai đoạn này, mạng lưới kinh doanh vàng phát triển mạnh đan xem giữa
các cửa hàng vàng bạc đá quý của tư nhân, các cửa hàng vàng bạc đá quý của các
doanh nghiệp nhà nước và kể cả các ngân hàng thương mại điển hình như các đơn
vị: Tổng công ty vàng bạc đá quý Việt Nam thuộc NHNN (VJC), Công ty vàng bạc
đá quý thuộc UBND TP.HCM (SJC), Công ty vàng bạc đá quý Phú Nhuận (PNJ),
Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu (Bông Lúa), Ngân hàng thương mại cổ
phần Đại Nam (Thần Tài) và khoảng 900 doanh nghiệp với trên 1.000 cửa hàng với
các quy mô khác nhau (chỉ tính trên địa bàn TP.HCM).
Về quản lý chất lượng vàng, không có cơ quan chức năng chính thức của nhà
nước hay đơn vị độc lập đủ uy tín để kiểm định, xác nhận chất lượng vàng.
Nhìn chung, thị trường vàng trong giai đoạn này phân tán cao, việc tổ chức
quản lý không có tính thống nhất khi các đơn vị kinh doanh tự lo nguồn nguyên
liệu, tự sản xuất và phân phối. Giá cả biến động thất thường và có sự chênh lệch cao
giữa giá vàng của các thương hiệu khác nhau, chênh lệch cao giữa các cửa hàng
nhất là khi thị trường có sự biến động giá cao. Số lượng các đơn vị kinh doanh, gia
công chế tác vàng tăng gấp 3 lần so với thời kỳ trước khi ban hành Nghị định 63/CP
(trong đó có 1.000 cá nhân/ hộ kinh doanh cá thể được cấp phép gia công và chế tác
vàng) và 50% số lượng các đơn vị này tập trung ở TP.HCM và các tỉnh đồng bằng
Nam Bộ [1].
2.2. CƠ CHẾ QUẢN LÝ THỊ TRƯỜNG VÀNG VÀ KINH DOANH VÀNG
TÀI KHOẢN TỪ 2000 ĐẾN 2012
Ngày 09/12/1999, Chính Phủ ban hành Nghị định 174/1999/NĐ-CP quy định
về quản lý hoạt động kinh doanh vàng thay thế Nghị định 63/CP về quản lý nhà
-39-
nước đối với hoạt động kinh doanh vàng vốn đã trở nên lạc hậu. Như vậy, cùng với
Nghị định 63/1998/NĐ-CP về quản lý ngoại hối được ban hành trước đó vào ngày
17/8/1998, cơ chế quản lý vàng ở Việt Nam đã chính thức tách bạch rõ việc quản lý
vàng tiền tệ và quản lý vàng hàng hóa. Ngày 11/6/2003, Chính phủ đã ban hành
Nghị định 64/2003/NĐ-CP sửa đổi bổ sung một số điều Nghị định 174/1999/NĐ-
CP theo hướng nới lỏng các quy định quản lý.
Chính Phủ
MONRE
Quản lý nhà
nước về
khoáng sản MOF
Chính sách
thuế xuất khẩu,
nhập khẩu,
GTGT, TNDN SBV
Quản lý toàn
diện hoạt động
sản xuất, kinh
doanh vàng
Doanh
nghiệp
XK, NK
vàng
khoáng
sản
Doanh
nghiệp
SX, gia công
vàng miếng,
trang sức mỹ
nghệ
Doanh
nghiệp
Sàn
giao
dịch
vàng
Doanh
nghiệp
đầu
mối
XK,
NK
vàng
nguyên
liệu
Doanh nghiệp
Mua bán vàng miếng,
trang sức mỹ nghệ
NHTM
SX vàng
miếng, sàn
giao dịch
vàng, kinh
doanh
vàng tài
khoản, huy
động cho
vay vàng
Doanh
nghiệp
Thăm
dò,
khai
thác,
tinh
luyện
vàng
khoáng
Quản lý
Giao dịch
Cá nhân
Sơ đồ 2.1: Tổ chức quản lý thị trường vàng ở Việt Nam từ 2000 đến 2011
Nguồn: Tổng hợp của tác giả
Vàng theo tiêu chuẩn quốc tế được quản lý dựa trên quy định của Nghị định
63/1998/NĐ-CP (từ 2005 thực hiện theo quy định của Pháp lệnh ngoại hối) tương
tự như việc quản lý ngoại hối. Nói cách khác, vàng theo tiêu chuẩn quốc tế được
-40-
quản lý như vàng tiền tệ mặc dù cả hai nghị định nói trên và cả Pháp lệnh ngoại hối
đều không đưa ra khái niệm vàng theo tiêu chuẩn quốc tế.
2.2.1 Cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành
NHNN là cơ quan đầu mối để quản lý theo ngành dọc gần như toàn bộ các hoạt
động liên quan đến vàng bao gồm cả vàng tiền tệ và vàng phi tiền tệ (trừ hoạt động
khai thác và chế biến/tinh chế vàng). Bên cạnh đó, các cơ quan chức năng của chính
quyền địa phương cũng được giao trách nhiệm phối hợp trong việc quản lý đăng ký
kinh doanh và thanh tra kiểm soát theo chức năng chung.
Bảng 2.1: Quy định về giấy phép hoạt động kinh doanh vàng từ 2000 đến 2011
Từ 01/01/2000 Từ 01/10/2003 Từ 6/6/2008 TT
1
2 NHNN cấp phép NHNN cấp phép NHNN cấp phép NHNN cấp phép Tạm dừng NK
kể từ 6/6/2008,
đến 11/11/2009
NHNN cấp phép
trở lại
3 NHNN cấp phép
Loại hình kinh
doanh
Sản xuất, XK, NK
vàng miếng
XK, NK vàng
nguyên liệu dưới
dạng khối, thỏi, lá,
hạt, dây, bột
XK, NK vàng mỹ
nghệ có khối lượng
lô hàng từ 3kg/lần
XK, NK
Không phải có giấy phép của
NHNN 4 Các hoạt động kinh
doanh khác liên
quan đến vàng Không phải có
giấy phép của
NHNN
Ghi chú: Không bao gồm kinh doanh vàng tài khoản
Nguồn: Tổng hợp của tác giả
2.2.2 Quản lý khai thác
Theo Luật khoáng sản ngày 20/3/1996, nhà nước chủ trương để doanh nghiệp
nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong việc khai thác, chế biến các khoáng sản quan
trọng nhưng không thấy minh định cụ thể khoáng sản quan trọng. Theo Luật khoáng
-41-
sản, các hoạt động liên quan đến vàng bao gồm khảo sát, thăm dò, khai thác, chế
biến vàng đều là các hoạt động phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp
phép. Bộ Công nghiệp là cơ quan quản lý nhà nước về vàng khoáng sản trên cả
nước, Ủy ban nhân dân các cấp thực hiện chức năng quản lý nhà nước về vàng
khoáng sản tại địa phương. Tuy nhiên đến năm 2005, Luật sửa đổi bổ sung một số
điều Luật khoáng sản 1996 đã bổ sung thêm trách nhiệm của Bộ Tài nguyên và Môi
trường trong việc điều tra cơ bản về tài nguyên vàng khoáng sản và quản lý nhà
nước về vàng khoáng sản trên phạm vi cả nước, Bộ Công nghiệp chỉ quản lý nhà
nước về công nghiệp khai thác, chế biến (tinh chế) vàng. Như vậy, việc cấp phép
khảo sát, thăm dò, khai thác, chế biến vàng đều thuộc thẩm quyền của Bộ Tài
nguyên và Môi trường.
Luật khoáng sản 2010 thay thế các luật về khoáng sản trước đó đã không còn
tách bạch giữa khai thác và chế biến vàng khoáng sản ra riêng mà nhập chung hai
hoạt động này lại với tên gọi chung là khai thác vàng khoáng sản. Bộ Tài nguyên và
Môi trường vẫn là cơ quan có thầm quyền cấp phép. Theo quy định của Luật
khoáng sản, Bộ Công thương là cơ quan cấp phép xuất khẩu khoáng sản tuy nhiên
luật không minh định rõ khoáng sản nguyên khai hay khoáng sản đã qua sơ chế,
tinh luyện nên trên thực tế đối với vàng khoáng sản đã qua sơ chế, tinh luyện thành
vàng nguyên liệu thì NHNN là cơ quan cấp phép theo các quy định của Chính phủ
về quản lý vàng.
Theo số liệu của Đại học Mỏ Địa Chất, dự báo trữ lượng vàng ở Việt Nam
khoảng 1.800 tấn tuy nhiên hiện chỉ mới phát hiện khoảng 300 điểm quặng với trữ
lượng ước tính từ 150-300 tấn. Mặc dù Việt Nam đã cấp phép hoạt động khai thác
vàng khoáng sản cho Xí nghiệp liên doanh vàng Việt - Nga (đã giải thể cuối thế kỷ
20), Công ty TNHH vàng Bồng Miêu, Công ty TNHH vàng Phước Sơn, nhà máy
luyện vàng Bồng Miêu, Công ty cổ phần khoáng sản Tây Bắc, Công ty cổ phần tập
đoàn khoáng sản Hamico để khai thác các mỏ vàng đã được cấp phép như mỏ vàng
Bồng Miêu, mỏ vàng Điện Biên, mỏ vàng bản Pểnh, mỏ vàng Phù Yên, mỏ vàng sa
-42-
khoáng Bắc Kạn, mỏ vàng Nà Làng, .v.v. nhưng theo báo cáo giám sát của Ủy ban
thường vụ Quốc hội vào tháng 7 năm 2012 thì vì công nghệ khai thác lạc hậu chưa
hiện đại nên tổn thất trong chế biến vàng khoáng sản còn ở mức cao với mức tổng
thu hồi trong chế biến chỉ đạt khoảng 30% - 40%. Vì vậy, chúng tôi cho rằng vàng
khoáng sản khai thác ở Việt Nam là nguồn cung quá nhỏ và không có ảnh hưởng
đáng kể đến thị trường vàng ở Việt Nam.
2.2.3 Quản lý xuất khẩu, nhập khẩu
Theo quy định, việc xuất khẩu, nhập khẩu vàng mỹ nghệ có khối lượng từ
3kg/lần trở lên và vàng miếng phải xin phép NHNN (NHNN chi nhánh tỉnh thành
cấp phép từ 3kg-10kg/lần, Vụ quản lý ngoại hối cấp phép trên 10kg/lần). Trong khi
đó việc xuất khẩu, nhập khẩu vàng trang sức (không giới hạn), vàng mỹ nghệ (dưới
3kg/lần) thực hiện theo giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp.
Bảng 2.2: Thuế suất thuế nhập khẩu vàng từ 1999-2011
TT Loại vàng 12/98-
06/02 07/02-
08/03 08/03-
03/04 04/04-
09/06 10/06-
12/09 Từ
01/10
5% 3% 3% 1% 0,50% 0% 1
1% 1% 1% 0,50% 0,50% 0% 2 Thanh, que, lá,
dãi
Hạt chưa gia
công, loại
khác
Ghi chú: Từ tháng 3/2004, các loại vàng khối, thỏi, đúc được đưa vào nhóm 2
chung với vàng hạt Nguồn: Tác giả tổng hợp
Việc quản lý xuất khẩu, nhập khẩu vàng nguyên liệu được thực hiện khá chặt
chẽ, theo đó NHNN sẽ căn cứ nhu cầu nguyên liệu cho sản xuất vàng trang sức, mỹ
nghệ, vàng miếng và mục tiêu chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ để xem xét cho
phép các doanh nghiệp có đăng ký kinh doanh vàng được xuất khẩu, nhập khẩu
vàng miếng, vàng nguyên liệu dưới dạng khối, thỏi, lá, hạt, dây, bột khi có vốn pháp
định tối thiểu 5 tỷ đồng Việt Nam và kinh doanh có lãi trong năm gần nhất. Đối với
doanh nghiệp nước ngoài hoạt động sản xuất vàng trang sức, vàng mỹ nghệ thì việc
-43-
xuất khẩu, nhập khẩu không phải xin phép từng chuyến mà thực hiện theo hạn
ngạch được NHNN cấp theo kế hoạch sản xuất kinh doanh.
Mặc dù về danh nghĩa các quy định cho phép nhập khẩu vàng có hiệu lực kể từ
01/01/2000 nhưng phải mất một năm sau, đến tháng 01/2001 sau hơn 5 năm tạm
dừng cấp phép nhập khẩu vàng, NHNN mới cho phép nhập khẩu vàng trở lại. Việc
cấp phép được thực hiện từng lần theo hạn ngạch cụ thể cho từng doanh nghiệp cụ
thể và được bãi bỏ vào năm 2003 nhưng sau đó áp dụng trở lại vào năm 2009.
Với đường biên giới khá dài trong khi việc quản lý còn chưa được tốt, việc áp
dụng mức thuế suất thuế nhập khẩu cao đối với vàng nguyên liệu đã vô tình
“khuyến khích” việc nhập lậu, nhà nước vừa không quản lý được vừa thất thu một
số thuế đáng kể. Vì vậy, việc giảm thuế suất thuế nhập khẩu xuống mức thấp thậm
chí 0% như chính sách hiện nay là điều nên duy trì.
2.2.4 Quản lý hoạt động sản xuất, gia công vàng
Từ năm 1999, đã có quy định cụ thể phân biệt giữa vàng trang sức, vàng mỹ
nghệ, vàng miếng, vàng nguyên liệu không theo tiêu chuẩn quốc tế. Ngoài ra, các
doanh nghiệp trong nước, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng được
cho hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, gia công vàng trang sức, mỹ nghệ. Hoạt động
kinh doanh vàng được xem là hoạt động kinh doanh có điều kiện với các yêu cầu về
cơ sở vật chất kỹ thuật, đội ngũ nhân sự và vốn pháp định trong đó vốn pháp định
đối với hoạt động sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ là 5 tỷ đồng (tại TP.HCM, Hà
Nội), 1 tỷ đồng (ở các tỉnh thành khác), đối với hoạt động sản xuất vàng miếng là
50 tỷ đồng. Tuy nhiên, Nghị định 64/2003/NĐ-CP ngày 11/6/2003 đã bỏ quy định
vốn pháp định 50 tỷ đối với hoạt động sản xuất vàng miếng. Bên cạnh đó, từ
1/10/2003, NHNN cũng đã cho phép các doanh nghiệp sản xuất vàng miếng được
phép nhận gia công vàng miếng cho các tổ chức, cá nhân khác.
-44-
2.2.5 Quản ký kinh doanh, giao dịch vàng vật chất
Việc giao dịch vàng bao gồm cả vàng trang sức mỹ nghệ và vàng miếng giữa
các cá nhân tổ chức được thực hiện tự do trên thị trường nội địa thông qua các cửa
hàng vàng của các hộ cá thể, các điểm giao dịch vàng của các công ty kinh doanh
vàng trên khắp cả nước. NHNN không có quy định hạn chế số lượng các cửa hàng
bán lẻ và các nhà kinh doanh vàng. Tại thời điểm cuối năm 2010, ước tính trên của
nước có khoảng 12.000 hộ cá thể và doanh nghiệp kinh doanh vàng trong đó có 24
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài [1]. Các đơn vị sản xuất vàng miếng có
thương hiệu và sản lượng tiêu thụ lớn gồm có Tổng công ty vàng bạc đá quý Sài
Gòn (SJC), Tổng công ty vàng bạc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
(AAA), Công ty vàng Bảo tín Minh châu (BTNM), Công ty vàng bạc đá quý Phú
Nhuận (PNJ), Công ty vàng Ngân hàng Sài gòn Thương tín (SBJ), Trung tâm vàng
Ngân hàng Á Châu (ACB), Công ty thương mại vàng bạc đá quý Phương Nam
(NJC).
Tháng 5/2007, sàn giao dịch vàng vật chất đầu tiên của Việt Nam được Ngân
hàng Á Châu chính thức đưa vào hoạt. Khởi thủy của sàn giao dịch vàng ở Việt
Nam chỉ đơn thuần là sàn giao dịch vàng vật chất đúng nghĩa và ngân hàng tổ chức
sàn chỉ hoàn toàn đóng vai trò trung gian để nhận hoa hồng thông qua môi giới. Tuy
nhiên, hoạt động sàn giao dịch kiểu này đã không hấp dẫn được người tham gia bởi
vì họ vẫn có thể thực hiện mà không cần phải thông qua sàn. Vì thế, các ngân hàng
lập sàn giao dịch vàng ngoài vai trò môi giới (broker) họ còn đóng vai trò là người
tạo lập thị trường (market maker) và nhà kinh doanh (dealer) để cân bằng chênh
lệch cung cầu giữa các nhà đầu tư rồi ngay lập tức cân bằng trạng thái của mình
thông qua giao dịch trên tài khoản vàng ở nước ngoài. Bên cạnh đó, các sàn giao
dịch vàng đã triển khai nghiệp vụ bán khống và cho phép khách hàng sử dụng đòn
bẩy tài chính để giao dịch.
Mặc dù các sàn giao dịch vàng nở rộ và triển khai các nghiệp vụ phức tạp, các
chủ sàn đóng một lúc nhiều vai trò trong giao dịch gây rất nhiều rủi ro và kém minh
-45-
bạch nhưng đáng tiếc trong suốt giai đoạn này NHNN không hề ban hành bất kỳ
quy định chi tiết nào liên quan đến hoạt động này và cũng chưa tổ chức việc quản
lý, giám sát đúng yêu cầu. Vì vậy, hoạt động của các sàn vàng đã gây nên những hệ
lụy tiêu cực cho các nhà đầu tư lẫn nền kinh tế, đặc biệt liên quan đến vàng và tỷ
giá.
Tính đến cuối năm 2010 khi Chính Phủ chủ trương đóng cửa các sàn vàng, Việt
Nam có hơn 20 sàn vàng bao gồm hai nhóm: sàn vàng do ngân hàng thương mại
thành lập, sàn vàng do các công ty phi tài chính thành lập (gồm 3 loại: có hoặc
không có ngân hàng tham gia góp vốn, giao dịch theo giá vàng trong nước hoặc
giao dịch trực tiếp vàng ở nước ngoài).
2.2.6 Quản lý giao dịch vàng tài khoản ở nước ngoài
Để giúp các ngân hàng thương mại có công cụ phòng ngừa rủi ro trong việc huy
động và cho vay bằng vàng, ngày 18/01/2006 NHNN đã ban hành quyết định
03/2006/QĐ-NHNN cho phép kinh doanh vàng trên tài khoản ở nước ngoài. Theo
đó, không chỉ các tổ chức tín dụng có kinh nghiệm trên 1 năm hoạt động trong lĩnh
vực kinh doanh vàng và huy động, cho vay vàng; đồng thời có số dư huy động vàng
từ 500kg trở lên được phép kinh doanh vàng tài khoản ở nước ngoài mà các doanh
nghiệp kinh doanh vàng có trên 1 năm kinh nghiệm hoạt động kinh doanh xuất,
nhập khẩu vàng và có vốn tự có tối thiểu 100 tỷ đồng cũng được phép kinh doanh
vàng trên tài khoản ở nước ngoài.
Trạng thái vàng tính theo giá vàng quy đổi trạng thái được giới hạn tối đa ở
mức + 20% so với vốn tự có áp dụng cho các tổ chức tín dụng, + 100% so với vốn
tự có áp dụng cho các doanh nghiệp kinh doanh vàng.
Đến năm 2009, NHNN đã cấp giấy phép kinh doanh vàng trên tài khoản ở nước
ngoài cho 19 đơn vị. Do năng lực tài chính và kinh nghiệm kinh doanh vàng trên tài
khoản của các đơn vị không đồng đều nên có đơn vị kinh doanh đạt hiệu quả cao, có
-46-
đơn vị đạt hiệu quả thấp, giá vàng trong nước hình thành không thống nhất, mang
tính tự phát.
2.2.7 Quản lý huy động, cho vay bằng vàng
Năm 1992, nhằm mục đích thu hút các nguồn vốn tiền tệ nhàn rỗi trong các
tầng lớp dân cư để cho vay trung dài hạn đối với các tổ chức kinh tế trong nước,
NHNN cho phép Tổng công ty vàng bạc đá quý và các ngân hàng thương mại nhà
nước được huy động vốn và cho vay có bảo đảm giá trị theo giá vàng. Theo đó, việc
huy động thực hiện dưới hình thức phát hành kỳ phiếu có mục đích bằng VND được
quy ra vàng 99,99 tại thời điểm gửi. Kỳ phiếu không in sẵn mệnh giá nên khi nhận
tiền gửi, ngân hàng sẽ ghi rõ trên kỳ phiếu số tiền huy động và số lượng vàng tương
đương tại thời điểm gửi. Giá quy đổi căn cứ theo giá bán ra của Công ty vàng bạc
đá quý tại thời điểm và nơi nhận gửi, cho vay và hoàn trả.
Việc huy động VND được đảm bảo bằng vàng đã tạo điều kiện giúp ngân hàng
huy động được nguồn vốn trung dài hạn để phục vụ cho nhu cầu vốn trung dài hạn
đang rất cao ở giai đoạn đó. Tuy nhiên, quy định này khá đơn giản khi chưa ràng
buộc các ngân hàng duy trì trạng thái vàng để hạn chế rủi ro.
Ngày 03/10/2000, NHNN đã ban hành quyết định 432/2000/QĐ-NHNN1 thay
thế cho quy định từ năm 1992 theo đó chỉ có các tổ chức tín dụng mới được huy
động bằng vàng thông qua hình thức phát hành chứng chỉ vàng hoặc nhận tiền gửi
VND có đảm bảm bằng vàng với kỳ hạn huy động tối thiểu 30 ngày. Từ nguồn vốn
huy động bằng vàng, các tổ chức tín dụng cho vay bằng vàng hoặc chuyển đổi sang
VND để cho vay VND bảo đảm theo giá vàng. Tỷ lệ chuyển đổi nguồn vốn huy
động bằng vàng thành nguồn vốn bằng tiền không quá 30% nguồn vốn huy động
bằng vàng.
Từ những năm 1999-2001 khi thị trường nhà đất đóng băng, việc NHNN cho
phép các ngân hàng duy trì trạng thái vàng âm đã giúp giải tỏa lượng lớn vàng huy
-47-
động nhưng không cho vay được của các ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, khi giá
vàng liên tục tăng từ giai đoạn 2003-2005 thì hoạt động này đã bộc lộ nguy cơ rủi ro
rất lớn. Đây cũng chính là lý do từ năm 2004 NHNN đã cho phép thử nghiệm việc
mở tài khoản vàng ở nước ngoài để cân bằng trạng thái, chính thức áp dụng rộng rãi
từ tháng 1/2006 và sau đó là sàn giao dịch vàng vào tháng 5/2007.
Tuy nhiên, đến năm 2010 trước diễn biến phức tạp của thị trường vàng, sau khi
không cho phép các ngân hàng kinh doanh vàng tài khoản ở nước ngoài và dừng
hoạt động của các sàn vàng trong nước từ 30/3/2010, ngày 29/10/2010 NHNN ban
hành thông tư 22/2010/TT-NHNN quy định mới về việc huy động vốn và cho vay
bằng vàng theo đó vàng sử dụng trong huy động vốn và cho vay là vàng miếng theo
tiêu chuẩn của các doanh nghiệp kinh doanh vàng đã được NHNN cấp giấy phép
sản xuất vàng miếng. Tổ chức tín dụng chỉ được huy động thông qua phát hành giấy
tờ có giá và chỉ cho vay vốn bằng vàng để sản xuất (chế tác) và kinh doanh vàng
trang sức, không được cho vay để sản xuất và kinh doanh vàng miếng, không được
chuyển đổi vốn huy động bằng vàng thành VND và các hình thức bằng tiền khác.
Tuy nhiên, chưa đầy 6 tháng sau khi thông tư 22/2010/TT-NHNN có hiệu lực, tháng
4/2011 NHNN đã ban hành quy định giới hạn việc huy động vốn và cho vay bằng
vàng theo đó không cho phép các ngân hàng thực hiện cho vay vốn bằng vàng đối
với khách hàng và các tổ chức tín dụng khác, không được gửi vàng tại tổ chức tín
dụng khác, không được thực hiện các nghiệp vụ ủy thác, đầu tư và các hình thức
cấp tín dụng khác bằng vàng. Đồng thời quy định cũng không cho phép các tổ chức
tín dụng huy động vốn bằng vàng trừ trường hợp phát hành chứng chỉ ngắn hạn
bằng vàng để chi trả vàng theo yêu cầu của khách hàng khi số vàng thu nợ và tồn
quỹ không đủ để chi trả và việc phát hành chứng chỉ ngắn hạn bằng vàng của tổ
chức tín dụng phải chấm dứt vào ngày 01/5/2012.
Có thể nói, NHNN đã bị động trước diễn biến của thị trường nên phải liên tục
thay đổi chính sách quản lý việc huy động và cho vay bằng vàng của các tổ chức tín
dụng. Đầu tháng 10/2011, NHNN đã phục hồi lại quy định cho phép các tổ chức tín
-48-
dụng đáp ứng đủ điều kiện được chuyển đổi lượng vàng tồn quỹ (bao gồm vàng huy
động và vàng giữ hộ tồn quỹ) và mở tài khoản vàng ở nước ngoài để bảo hiểm rủi
ro biến động giá vàng. Tỷ lệ chuyển đổi vàng tồn quỹ thành VND tối đa 40% lượng
vàng tồn quỹ và phải mua vàng vật chất tại thị trường trong nước để bù đắp lượng
vàng tồn quỹ đã chuyển đổi thành tiền theo văn bản cho phép chuyển đổi của
NHNN. Trong trường hợp ngân hàng thương mại gặp khó khăn trong việc mua
vàng vật chất bù đắp lượng vàng tồn quỹ đã chuyển đổi thành tiền tại thị trường
trong nước, NHNN sẽ xem xét cho phép nhập khẩu vàng để bù đắp lượng vàng tồn
quỹ đã chuyển đổi.
2.2.8 Quản lý chất lượng
Theo quy định, các doanh nghiệp sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ, vàng
miếng đều phải đăng ký ký mã hiệu với NHNN và phải đóng ký mã hiệu doanh
nghiệp, chất lượng trên sản phẩm. Riêng đối với sản xuất vàng miếng, doanh nghiệp
còn phải đăng ký chất lượng sản phẩm với NHNN tuy nhiên việc giám sát, kiểm
soát chưa được thực hiện chặt chẽ khi chưa có một cơ quan chuyên môn chuyên
trách trực tiếp quản lý, giám sát.
2.2.9 Phân tích diễn biến thị trường vàng
Việc nắm giữ vàng với chức năng cất trữ (bảo toàn giá trị) là tập quán lâu đời
của người Việt Nam. Nhu cầu nắm giữ vàng càng tăng cao khi tình hình kinh tế
không ổn định, nội tệ mất giá hoặc những khi có biến động đột biến giá. Người dân
cũng có xu hướng chuyển sang trú ẩn ở vàng khi USD mất giá hoặc khó khăn trong
việc nắm giữ USD do các hạn chế của luật pháp. Bên cạnh đó, trong thời gian dài
hàng chục năm, vàng còn được dân chúng sử dụng phổ biến ở chức năng định giá
và trung gian thanh toán đối với các tài sản có giá trị lớn đặc biệt là nhà đất. Tập
quán văn hóa cũng khiến người Việt Nam sử dụng trang sức vàng rất phổ biến và
nhu cầu này cũng biến động mang tính mùa vụ vào mùa cưới cuối năm và ngày lễ
tình nhân, quốc tế phụ nữ. Ngoài ra một nhu cầu khác không thể không kể đến là
-49-
việc sử dụng vàng làm dự trữ ngoại hối của NHNN. Vì số liệu chính thức về vàng
của Việt Nam là không đầy đủ, thiếu hệ thống và cập nhật kém đồng thời đề tài
không tập trung đề cập đến vàng tiền tệ nên để thuận tiện trong việc thống kê và
thống nhất dữ liệu, các số liệu về vàng nêu ở đây sẽ được chia làm hai loại theo mục
đích là vàng đầu tư và vàng trang sức.
2.2.9.1 Giai đoạn từ 2000 đến 2005
Bảng 2.3. Cung cầu vàng ở Việt Nam từ 2000 đến 2005
Tổng cung
(tấn) Năm Tốc độ tăng tổng cầu
(%)
Tổng Trang T
T Tổng NK lậu sức Tổng cầu*
(tấn)
Trang
sức NK chính
thức
Đầu
tư
16,1
13,9
-12,2
0,0
8,3
-12,8 9,1
33,3
-25
-4,2
13
3,8 13,2
21,7
-17,8
-1,7
10,2
-6,2 1 2000
2 2001
3 2002
4 2003
5 2004
6 2005 24
32
24
23
26
27 n.a
11
16
18
18
17 n.a
62
44
41
47
44 Đầu
tư
36
60
41
73
36
60
36
59
39
65
34
61
Ghi chú: * Đã bao gồm xuất khẩu. n.a: Không có số liệu Nguồn: Tổng hợp từ IMF, GFMS, SBV, WGC [3], [24]
Sự ra đời của nghị định 174/1999/NĐ-CP về quản lý vàng cho phép tự do hóa
kinh doanh vàng là một trong những lý do làm gia tăng đáng kể nhu cầu nắm giữ
vàng trong năm 2000 - ngay sau khi nghị định 174/199/NĐ-CP có hiệu lực - tăng
13,2% trong đó cầu đầu tư tăng đến 16,1%.
Năm 2001 đánh dấu sự gia tăng mạnh nhất trong lịch sử của cầu vàng trang sức,
lên đến 33%, góp phần quan trọng làm tổng cầu vàng tăng 21,7% tương đương 13
tấn. Hội đồng vàng thế giới (WGC) đã gọi Việt Nam là ngôi sao đang lên của thị
trường vàng Đông Nam Á. Sự gia tăng mạnh mẽ cầu vàng ở Việt Nam có thể giải
thích vì các nguyên nhân:
-50-
GDP vẫn tiếp tục mức tăng trưởng ổn định và thu nhập gia tăng nhờ cải
cách tiền lương là nhân tố quan trọng làm tăng nhu cầu nắm giữ vàng
trang sức. Số liệu thống kê theo quý của WGC cho thấy nhu cầu vàng
trang sức tăng cao vào quý 1 và quý 4 là quý có những ngày lễ lớn, mùa
cưới và tết nguyên đán.
Biến động đột biến của giá vàng cũng góp phần làm tăng nhu cầu tích trữ
vàng không chỉ là kênh tiết kiệm mà còn mang cả ý nghĩa đầu tư. Nhu cầu
này cũng tăng chủ yếu ở quý 4 sau khi xảy ra sự kiện 11/9/2001 ở Hoa
Kỳ.
Lãi suất VND và USD đều giảm mạnh so với các năm trước cùng với việc
VND mất giá mạnh so với USD đã làm dịch chuyển dòng tiền tiết kiệm
VND và USD sang vàng.
Giá nhà đất bắt đầu có sự gia tăng đáng kể làm gia tăng nhu cầu đầu tư
vào nhà đất vì vậy cầu vàng dùng để thanh toán cũng tăng theo.
Đồ thị 2.1: Biến động giá vàng giao ngay tại London (2000-2005)
Nguồn: World Gold Council [24]
Thống kê của WGC cũng cho thấy, nhu cầu vàng cả trang sức và đầu tư vẫn gia
tăng mạnh ở mức 11% so với quý trước tương đương 20 tấn trong quý 1/2002 trong
-51-
đó trang sức tăng 11 tấn và đầu tư tăng 9 tấn [24]. Tuy nhiên, từ quý 2 khi Chính
phủ xiết chặt thị trường bất động sản thì nhu cầu vàng đầu tư giảm đến 21% khiến
cho tổng nhu cầu vàng giảm 9% mặc dù cầu vàng trang sức vẫn tiếp tục duy trì mức
tăng 22% so với quý 1. Tình trạng này tiếp tục kéo dài trong hai quý còn lại của
năm 2002, đồng thời sự gia tăng mạnh mẽ của giá vàng cũng khiến cho nhu cầu
vàng trang sức sụt giảm mạnh. Lần đầu tiên trong nhiều năm, tổng cầu vàng ở Việt
Nam đã có mức suy giảm và giảm mạnh đến gần 18%.
Đồ thị 2.2: Tốc độ tăng cầu vàng và một số yếu tố liên quan (2000-2005)
Tổng hợp từ GSO, WGC, GFMS, IMF
Tuy nhiên, với sự hỗ trợ của lạm phát tăng cao ở trong nước, lãi suất VND và
cả lãi suất USD vẫn ở mức thấp trong lúc tỷ giá được kìm giữ ở mức tăng khá thấp
(dưới 2%/năm), việc giảm thuế nhập khẩu vàng nguyên liệu nhằm hạn chế nhập lậu
vàng, thị trường bất động sản bùng nổ từ tháng 4/2004 trước khi Luật đất đai có
hiệu lực từ 01/7/2004 là những nguyên nhân chính làm cầu vàng tăng mạnh trở lại
trong các năm từ 2003 đến 2005.
-52-
Nhìn chung, trong các năm 2000-2005 cầu vàng ở Việt Nam có tốc độ tăng cao
so với các nước trong khu vực, đưa Việt Nam trở thành “ngôi sao” tiêu thụ vàng lớn
trên thế giới vì gần như toàn bộ cung vàng của Việt Nam là từ nhập khẩu với lượng
nhập khẩu hàng năm luôn ở mức cao, dao động từ 60-80 tấn/năm vì thế đã làm tiêu
tốn từ 1,5-3 tỷ USD/năm trong bối cảnh cán cân thanh toán vẫn thường xuyên thâm
hụt, dự trữ ngoại tệ nhỏ bé. Áp lực mua ngoại tệ nhập khẩu vàng, đặc biệt là nhập
lậu vàng luôn duy trì ở mức trên 70% tổng nhập khẩu hàng năm đã khiến cho việc
quản lý thị trường ngoại tệ của NHNN trở nên khó khăn hơn đồng thời nhà nước
cũng mất đi khoảng thu đáng kể từ thuế nhập khẩu.
2.2.9.2 Giai đoạn từ 2006 đến 2012
Bảng 2.4. Cung cầu vàng ở Việt Nam từ 2006 đến 2011
Tổng cung
(tấn) Năm Tốc độ tăng tổng cầu
(%)
Tổng Trang T
T Tổng NK lậu sức Đầu
tư
1 2006
2 2007
3 2008
4 2009
5 2010
6 2011 Tổng cầu*
(tấn)
Trang
sức
22
22
29
15
14
15 Đầu
tư
64
56
96
58
67
87 86
78
125
73
81
102 -18,5
0,0
31,8
-48,3
-6,7
7,1 41
-9,3
60,3
-41,6
11,0
25,9 88,2
-12,5
71,4
-39,6
15,5
29,9 NK chính
thức
35
29
57
n.a
n.a
25 51
49
68
n.a
n.a
77
Ghi chú: * : Đã bao gồm xuất khẩu.
n.a: Không có số liệu Nguồn: Tổng hợp từ IMF, GFMS, SBV, WGC [3], [24]
Khi giá vàng tăng cao trong năm 2006, cầu vàng trang sức đã sụt giảm mạnh
mẽ nhưng cầu vàng đầu tư đã bùng nổ đột biến. Cơn sốt vàng với việc các cá nhân
đổ xô đi mua vàng miếng diễn ra liên tục hai quý đầu năm tiếp tục được “bồi” thêm
khi giá vàng quay đầu giảm vào nữa đầu tháng 6/2006, chứng khoán và bất động
sản cùng song hành bùng nổ và lãi suất tiền gửi vàng tăng lên đã làm dịch chuyển
dòng tiền gửi tiết kiệm VND sang vàng. Nhu cầu vàng miếng tăng quá mạnh trong
lúc công xuất gia công vàng của các nhà sản xuất giới hạn vì vậy các nhà đầu tư
-53-
phải đặt cọc trước 20% mới có thể nhận vàng miếng 6 tuần sau đó. Hạn ngạch nhập
khẩu vàng cho cả năm đã được sử dụng hết từ quý 3 và NHNN đã phải cấp phép
nhập khẩu thêm 20 tấn trong quý 4.
Đồ thị 2.3: Biến động giá vàng giao ngay tại London (2006-2011)
Nguồn: World Gold Council [24]
Đồ thị 2.4: Tốc độ tăng cầu vàng và một số yếu tố liên quan (2006-2011)
Nguồn:Tổng hợp từ GSO, WGC, GFMS, IMF
-54-
Đầu năm 2007, khi giá vàng giảm trở lại dưới mức 650$/oz, nhu cầu nhập khẩu
vàng Việt Nam nhanh chóng tăng lên. Chỉ trong vòng 2 tuần đầu tiên của năm mới,
đã có 10 tấn vàng được nhập về Việt Nam. Dù rằng nhu cầu này nhanh chóng giảm
xuống vài tuần sau khi giá vàng tăng trở lại nhưng do thị trường bất động sản vẫn
tiếp tục bùng nổ làm cho cầu vàng đầu tư lẫn trang sức vẫn tiếp tục tăng trưởng
vững mạnh trong nữa đầu năm 2007 trong đó tập trung vào vàng đầu tư với mức
20,3 tấn trong quý 2, đạt mức tăng 28% - cao nhất trong lịch sử tính đến thời điểm
này.
Trong tháng 6/2007, nhập khẩu vàng tăng lên đến 5 tấn/tuần. Các ngân hàng
bán vàng miếng chỉ có thể giao vàng sau 7-10 ngày. Trong bối cảnh đó, việc cho
phép mở kho vàng ngoại quan tại TP.HCM và Hà Nội đã tạo điều kiện thuận lợi cho
việc đưa nhanh vàng vào thị trường để đáp ứng nhu cầu tăng cao của người dân.
Tuy nhiên, đầu quý 3 khi giá vàng trong nước tăng gần 16%, cao và nhanh hơn so
với mức tăng mạnh của giá vàng thế giới, cầu vàng trong nước chỉ còn mức 14,5 tấn
- giảm 35% so với cùng kỳ năm 2006. Thêm vào đó, việc nhập khẩu vàng cũng
ngưng trệ từ tháng 8/2007 khi giá vàng trong nước thấp hơn giá vàng thế giới. Mặc
dù tổng cầu năm 2007 chỉ còn 78 tấn, giảm 9,3% so với năm 2006 nhưng vẫn cao
hơn mức 61 tấn của năm 2005 bởi lẽ lạm phát trong nước - một trong những yếu tố
quan trọng hỗ trợ cho nhu cầu nắm giữ vàng vẫn tiếp tục tăng cao và xấu hơn.
Quý 1 năm 2008 là quý đặc biệt đối với thị trường vàng Việt Nam khi thị
trường khoán bắt đầu suy giảm nhanh, tình hình kinh tế vĩ mô ngày một xấu đi với
lãi suất VND tăng mạnh, lạm phát tiếp tục tăng cao trong lúc lãi suất tiền gửi USD
xuống thấp kéo theo dòng tiền chuyển dịch từ đầu tư chứng khoán, tiết kiệm VND,
tiết kiệm USD sang vàng. Cầu vàng đầu tư trong quý 1 lên đến mức kỷ lục 31,5 tấn,
tăng 110% so với cùng kỳ năm 2007 [24].
Lãi suất VND tăng mạnh (phổ biến 11%-13%/năm so với 9,0%/năm trước đó)
nên các ngân hàng đã gia tăng huy động vàng trong nước (lãi suất huy động vàng
phổ biến ở mức 2,4%-2,76%/năm so với 1,0%-1,5%/năm trước đó) [3] rồi bán số
-55-
vàng này ra thị trường nội địa (sau khi cân bằng trạng thái trên tài khoản vàng ở
nước ngoài) để lấy VND cho vay cũng góp phần thúc đẩy làm cầu vàng tăng cao.
Bên cạnh đó, việc giá vàng tăng cao cũng làm tăng cầu VND theo hai xu
hướng: i.gia tăng nhu cầu vay VND để mua vàng đầu tư, đầu cơ; ii.bán vàng cho
ngân hàng để chốt lời và rút tiền mặt. Cả hai động thái này đều góp phần làm gia
tăng diễn biến phức tạp của lãi suất VND và vòng xoáy vàng - ngoại tệ - tín dụng
trong giai đoạn này.
Diễn biến bất lợi của thị trường tiền tệ, tỷ giá, lạm phát và thị trường chứng
khoán vẫn tiếp tục trong quý 2/2008 đã khiến người dân tiếp tục dùng vàng làm nơi
trú ẩn an toàn vì vậy thị trường vàng tiếp tục bùng nổ và diễn biến phức tạp. Chỉ
trong 6 tháng đầu năm 2008 các doanh nghiệp đã nhập khẩu đến 56,8 tấn vàng, gần
đạt mức 75 tấn là hạn ngạch mà NHNN cấp cho cả năm 2008. Việc nhập khẩu (kể
cả nhập lậu) lượng lớn vàng dồn dập chỉ trong 6 tháng đầu năm trong điều kiện cán
cân thanh toán thâm hụt nghiêm trọng đã gây áp lực tăng mạnh tỷ giá. Từ
10/3/2008, NHNN đã phải nới lỏng biên độ tỷ giá từ ±0,75% lên ±1% rồi tiếp tục
tăng lên ±2% vào ngày 26/6/2008 sau khi điều chỉnh mạnh tỷ giá liên ngân hàng từ
16.139 lên 16.461 vào ngày 11/6/2008 [3].
Về lý thuyết, việc tạm dừng cho phép nhập khẩu vàng kể từ ngày 06/6/2008 đã
làm giảm đáng kể cầu ngoại tệ góp phần bình ổn tỷ giá tuy nhiên trên thực tế việc
tạm dừng nhập khẩu trong lúc cầu trong nước vẫn không suy giảm khiến cho việc
nhập khẩu vàng lậu trở nên mạnh mẽ, tỷ giá thị trường tự do vì vậy vẫn tạo khoảng
cách xa so với tỷ giá chính thức và thị trường ngoại tệ vốn dĩ đã phức tạp lại càng
phức tạp hơn.
Mặc dù đã tạm dừng nhập khẩu vàng từ tháng 6/2008 nhưng do không kiểm
soát tốt biên giới nên vàng “không chính thức” vẫn vào Việt Nam từ các nước láng
giềng, đặc biệt là Thái Lan. Hội đồng vàng thế giới cho rằng vàng nhập khẩu vào
Thái Lan đã tăng mạnh trong 2 quý cuối năm 2008 có nguyên nhân chủ yếu là do
-56-
xuất lậu vào Việt Nam [24]. Tổng vàng nhập vào Việt Nam trong năm 2008 lên đến
125 tấn, tăng đến 60,3% so với năm trước đó. Rõ ràng, việc dùng biện pháp hành
chính trong trường hợp này đã không đem lại kết quả như mong đợi.
Đầu quý 1/2009 khi giá vàng thế giới tăng đột biến, các nhà đầu tư Việt Nam
nắm giữ vàng trước đây được mua với giá thấp đã tìm cách xuất khẩu vàng dưới
nhiều hình thức khác nhau kể cả chính thức và phi chính thức. Trong quý này,
NHNN đã cấp phép xuất khẩu hơn 20 tấn vàng tuy nhiên đến cuối quý khi giá vàng
thế giới quy về mức 900 USD/oz thì lại xuất hiện tình trạng nhập lậu vì giá trong
nước lại cao hơn giá thế giới.
Đồ thị 2.5: Biến động giá vàng SJC và giá vàng thế giới trong năm 2009 Nguồn:WGC, SJC
Sự biến động thất thường khó dự đoán của giá vàng trong năm 2009 khiến
người dân trở nên nhạy cảm hơn với vàng cùng với thực trạng kinh tế ngày một xấu
đi làm tổng cầu vàng trong năm 2009 quay trở về gần bằng mức “ổn định” của năm
2007.
Mặt khác, trong năm 2008-2009 hoạt động của các sàn giao dịch vàng vẫn tiếp
tục nở rộ đến mức hỗn loạn và bát nháo vì thiếu sự quản lý đầy đủ của cơ quan chức
-57-
năng. Liên tục xuất hiện các khiếu nại, khiếu kiện của nhà đầu tư về “sự cố kỹ
thuật” của các sàn vàng mỗi khi giá vàng quốc tế có sự biến động mạnh khi nguyên
nhân sâu xa được cho là các ngân hàng chủ sàn vàng đã không kịp cân đối trạng thái
vàng sau khi bán vàng trong nước nhưng chưa kịp mua vàng trên tài khoản nước
ngoài thì giá vàng thế giới tăng đột biến. Mặt khác, việc các sàn vàng lôi kéo khách
hàng của nhau và cho phép khách hàng sử dụng đòn bẩy cao (tỷ lệ ký quỹ quá thấp,
chỉ 7%) đã khiến cho các hoạt động của sàn vàng mang tính đầu cơ cao, rủi ro lớn
vì khách hàng chưa có đầy đủ hiểu biết và các công cụ phòng ngừa rủi ro đầy đủ.
Lợi nhuận hấp dẫn của một số nhà đầu tư lớn trên sàn vàng kéo theo cơn sốt vàng ở
tất cả các lĩnh vực: mua bán vàng vật chất, gửi vàng, vay vàng, giao dịch vàng trên
sàn vàng. Các ngân hàng thương mại cũng không đứng ngoài trào lưu này khi tận
dụng tối đa lợi thế có trong tay tài khoản vàng ở nước ngoài, họ đẩy mạnh huy động
vàng để vừa bán trong nước/mua nước ngoài vừa cho vay lại (mà thực chất bên vay
chủ yếu đổ tiếp vào sàn vàng). Như vậy, về bản chất, phần lớn lượng vàng huy động
được đã được sử dụng để đánh vàng trên tài khoản trong lúc đó NHNN thiếu kiểm
tra, giám sát chặt chẽ trạng thái vàng của các ngân hàng đã khiến cho thị trường
vàng càng trở nên phức tạp, khó kiểm soát. Đây là một trong những nguyên nhân
gây nên những đợt sốt vàng trong năm 2009 và kể cả những năm sau này khiến
NHNN trở nên bị động khi cứ mỗi đợt sốt vàng, NHNN lại phải cho nhập khẩu
vàng để can thiệp với cơ chế kém minh bạch khi không công khai tiêu chuẩn, điều
kiện để doanh nghiệp được cấp quota và khối lượng của từng đơn vị. Đỉnh điểm là
“cơn điên loạn” giá vàng là vào ngày 11/11/2009 khi giá vàng trong nước vượt 29
triệu, tăng hơn 3,5 triệu đồng so với hôm trước mặt dù giá vàng thế giới chỉ tăng 15
USD/oz buộc NHNN phải can thiệp khi tuyên bố cho phép 5-6 doanh nghiệp nhập
khẩu vàng với số lượng không hạn chế mà theo số liệu của WGC là 10 tấn [24].
Ngày 30/12/2009, Chính phủ đã có phản ứng trước diễn biến bất thường của thị
trường vàng bằng việc công bố quy định đóng cửa sàng vàng trong nước kể từ
30/03/2010 và chấm dứt kinh doanh vàng trên tài khoản ở nước ngoài kể từ
31/7/2010 (sau hai lần gia hạn từ 30/03/2010, rồi 30/06/2010) với mong muốn bình
-58-
ổn và quản lý được thị trường vàng. Đáng tiếc rằng biện pháp hành chính này chỉ
giải quyết được phần ngọn, bề nổi trong khi nguồn cơn bên trong là quan hệ cung
cầu vàng đã không được quan tâm đúng mức. Hơn nữa, với thời gian quá ngắn, các
ngân hàng thương mại đã không kịp để đóng trạng thái vàng đang âm trước đó, nhất
là trong bối cảnh vẫn cấm nhập khẩu vàng (thực chất là cấp quota hạn chế trong
từng tình huống cụ thể). Việc các ngân hàng liên tục mua vàng để cân bằng trạng
thái cùng với lạm phát tăng cao trở lại trong năm 2010, thị trường chứng khoán và
thị trường bất động sản đóng băng, lãi suất USD xuống mức thấp kỷ lục (0,5%-
2,0%) trong lúc giá vàng liên tục biến động tăng với mức tăng cuối năm so với đầu
năm lên đến 39% được xem là những nguyên nhân cốt lõi khiến cầu vàng đầu tư
trong nước tăng mạnh trở lại (sau khi sụt giảm mạnh trong năm 2009).
Đồ thị 2.6: Biến động giá vàng SJC và giá vàng thế giới từ 2010-2012 Nguồn: WGC, SJC
Trong bối cảnh lạm phát tiếp tục tăng cao ngay những tháng đầu năm 2011, lãi
suất USD vẫn tiếp tục duy trì ở mức thấp và tỷ giá không có sự biến động đáng kể,
lãi suất thực VND vẫn tiếp tục âm ở mức cao, thị trường bất động sản vẫn tiếp tục
đóng băng thì lựa chọn vàng làm nơi trú ẩn an toàn vẫn là lựa chọn của người dân.
-59-
Vì vậy, cầu vàng trong quý 1/2011 vẫn tiếp tục tăng ổn định tuy nhiên mức tăng
trong quý 2 và quý 3 đã chững lại khi giá vàng trong nước trở nên quá đắt đỏ,
thường xuyên cao hơn 1,5-4,0 triệu đồng/lượng. NHNN đã phải liên tục cấp quota
cho các đơn vị nhập khẩu ở mỗi thời điểm giá vàng trong nước chênh quá cao so
với vàng thế giới. Việc xử lý tình huống trong trạng thái bị động của NHNN lại là
cơ hội tốt cho các đơn vị kinh doanh vàng lớn trong nước khi họ chủ động đẩy giá
trong nước tăng cao nhằm kiếm lợi lớn, đón chờ NHNN cho phép nhập khẩu để
kiếm lợi thêm lần nữa. Tính chung cho cả năm 2011, NHNN đã phải cấp quota nhập
khẩu lên đến 25 tấn với giá cao gần 1,3 lần so với giá xuất khẩu hơn 10 tấn của hai
năm trước đó.
Để kiểm soát tình trạng nhập lậu vàng, NHNN đã yêu cầu Công ty vàng bạc đá
quý Sài Gòn chỉ nhận gia công vàng cho các đơn vị được NHNN cấp phép nhập
khẩu (không nhận gia công vàng của các đơn vị khác như trước đây), quy định này
đã phần nào giảm lượng vàng nhập lậu tuy nhiên lại gây áp lực làm gia tăng khoảng
cách giữa giá vàng trong nước so với giá vàng thế giới. Trước tình trạng này, kể từ
ngày 6/10/2011, NHNN đã cho phép 5 ngân hàng (ACB, Eximbank, Sacombank,
TCB, EAB) và SJC cùng tham gia bình ổn giá vàng trong nước khi cho phép các
đơn vị này được chuyển đổi tối đa 40% lượng vàng tồn quỹ (bao gồm vàng huy
động và vàng giữ hộ tồn quỹ) sang VND và mở tài khoản vàng ở nước ngoài để bảo
hiểm rủi ro biến động giá vàng. Sau động thái này, chênh lệch giá vàng trong nước
so với giá vàng thế giới đã được điều chỉnh giảm xoay quanh 1 triệu đồng/lượng sau
đó tăng cao trở lại phổ biến từ 2-3 triệu đồng/lượng. Như vậy, mục tiêu đưa mức
chênh lệch về khoảng 400.000 đồng /lượng như tuyên bố của NHNN đã không thực
hiện được.
Trước tình hình diễn biến phức tạp của hoạt động huy động vốn, cho vay bằng
vàng cùng những biến tướng khó kiểm soát từ hoạt động này, NHNN đã ban hành
thông tư 11/2011/TT-NHNN quy định các tổ chức tín dụng không được thực hiện
cho vay vốn bằng vàng đối với khách hàng và các tổ chức tín dụng khác (kể cả các
-60-
hợp đồng tín dụng đã ký kết nhưng chưa giải ngân hoặc giải ngân chưa hết); không
được gửi vàng tại tổ chức tín dụng khác; không được thực hiện các nghiệp vụ ủy
thác, đầu tư và các hình thức cấp tín dụng khác bằng vàng kể từ ngày 01/5/2012 và
chấm dứt việc huy động vàng từ 01/5/2012 (sau gia hạn đến 25/11/2012).
Mặc dù các ngân hàng có thời gian hơn 12 tháng để chuẩn bị nhưng với số dư
huy động và cho vay quá lớn đồng thời bản thân các ngân hàng này vẫn đang có
trạng thái vàng âm trong nước (dù có trạng thái dương trên tài khoản vàng ở nước
ngoài nhưng không được phép nhập khẩu vàng vật chất) nên họ buộc lòng phải canh
giá để mua vào nhưng giá vàng thế giới vẫn tiếp tục tăng cao,vì vậy giá vàng trong
nước đã không có cơ hội giảm khoảng cách như mong đợi. Bài toán kiểm soát giá
vàng của NHNN có thể nói là bế tắc, ít nhất là cho đến cuối năm 2011.
Như vậy, từ năm 2006 đến năm 2012 là giai đoạn thị trường vàng trong nước có
những diễn biến vô cùng phức tạp. Ngoài những nguyên nhân thông thường ảnh
hưởng đến thị trường vàng như giai đoạn 2000-2005 bao gồm tốc độ tăng trưởng
kinh tế trong nước, tỷ lệ lạm phát, lãi suất thực VND, lãi suất USD, chênh lệch lãi
suất VND so với lãi suất USD, biến động tỷ giá USD/VND, biến động giá vàng thế
giới, thị trường bất động sản và thị trường chứng khoán, thị trường vàng giai đoạn
2006-2011 còn chịu ảnh hưởng của các vấn đề sau đây:
Sự nở rộ của các sàn vàng (2007-2008) sau đó chấm dứt hoạt động (2010);
Cho phép nhập khẩu vàng sau đó tạm ngưng (từ 6/2008) rồi cấp quota nhập
khẩu trở lại (từ 11/2009) vào mỗi khi có biến động đột biến giá;
Các ngân hàng được phép kinh doanh vàng trên tài khoản ở nước ngoài
(2006) sau đó chấm dứt (31/7/2010) rồi được phép giao dịch trở lại
(10/2011);
-61-
Các ngân hàng được phép huy động vàng và cho vay bằng vàng theo quy
định mới (10/2010) rồi phải chấm dứt cho vay vàng (5/2011) và chuẩn bị
cho việc chấm dứt huy động vàng (11/2012);
Thông tin về việc NHNN sẽ độc quyền sản xuất kinh doanh vàng miếng và
sử dụng thương hiệu vàng SJC làm thương hiệu vàng quốc gia.
Rõ ràng, NHNN đã không có cơ chế quản lý thị trường vàng mang tính hệ
thống và bền vững. Về danh nghĩa, có thể thấy hầu hết các quy định đưa ra chỉ
nhằm giải quyết tình thế để bình ổn giá vàng, giúp các ngân hàng cân bằng trạng
thái vàng đang âm trước đó, hạn chế nhập khẩu cả đường chính thức lẫn phi chính
thức để hạn chế thâm hụt cán cân thanh toán nhằm ổn định tỷ giá. Một giải pháp
mang tính căn cơ nhằm giải quyết tận gốc các bất cập của thị trường vàng chưa
được NHNN triển khai thực thi.
2.3. NHẬN ĐỊNH VỀ THÀNH CÔNG VÀ HẠN CHẾ CỦA CƠ CHẾ QUẢN
LÝ THỊ TRƯỜNG VÀNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Ngày 25/11/2011 trả lời chất vấn trước Quốc hội, Thống đốc NHNN chính thức
tuyên bố việc sử dụng vàng SJC làm thương hiệu vàng quốc gia và NHNN sẽ độc
quyền sản xuất kinh doanh vàng miếng, chấm dứt những tranh cãi vốn có từ giữa
năm khi dự thảo nghị định quản lý kinh doanh vàng được đưa ra lấy ý kiến.
Ngày 03/4/2012 Chính phủ ban hành Nghị định 24/2012/NĐ-CP về quản lý
hoạt động kinh doanh vàng có hiệu lực từ 25/5/2012 thay thế cho Nghị định
174/1999/NĐ-CP ngày 09/12/1999 của Chính phủ về quản lý hoạt động kinh doanh
vàng và Nghị định số 64/2003/NĐ-CP ngày 11/6/2003 của Chính phủ sửa đổi, bổ
sung Nghị định số 174/1999/NĐ-CP ngày 09/12/1999. Sau đó, ngày 23/8/2012,
NHNN ban hành quyết định 1623/QĐ-NHNN về việc tổ chức và quản lý sản xuất
của NHNN.
-62-
2.3.1. Cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành
Ngân hàng Nhà nước vẫn là cơ quan thay mặt Chính phủ thống nhất quản lý các
hoạt động kinh doanh vàng. Với thị trường vàng chủ yếu chỉ giao dịch vàng vật chất
đồng thời tiềm lực chủ yếu tập trung vào các ngân hàng thương mại và một số ít
công ty kinh doanh vàng thì việc quy định NHNN là đơn vị duy nhất quản lý hoạt
động kinh doanh vàng là lựa chọn hợp lý.
2.3.2. Quản lý khai thác
Việc quản lý khai thác và tinh chế vàng khoáng sản vẫn tiếp tục thực hiện theo
quy định của Luật khoáng sản giống như trước năm 2012. Đây cũng là lựa chọn hợp
lý mà hầu hết các nước trên thế giới điều thực hiện.
2.3.3. Quản lý xuất khẩu, nhập khẩu
Vàng trang sức, vàng mỹ nghệ được phép xuất khẩu, nhập khẩu theo giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh, như vậy quy định này đã thoáng hơn so với việc
khống chế số lượng như trước đây. Tuy nhiên, khái niệm đưa ra ở Nghị định
24/2012/NĐ-CP chưa thật sự rõ ràng để minh định giữa các loại vàng này với vàng
miếng. Theo đó, vàng trang sức, mỹ nghệ là sản phẩm vàng có hàm lượng từ 8 carat
(tương đương 33,33%) trở lên, đã qua gia công chế tác để phục vụ nhu cầu trang trí
mỹ thuật. Quy định này vẫn còn khe hở và rất dễ bị lợi dụng trong thực tế vì các
doanh nghiệp có thể sử dụng vàng 24 carat để chế tác sơ sài nhằm lách luật.
Theo quy định hiện này, vàng nguyên liệu là vàng dưới dạng khối, thỏi, hạt,
miếng và các loại vàng khác được quản lý chặt chẽ trong việc xuất khẩu, nhập khẩu.
Nếu trước đây NHNN chỉ là cơ quan cấp phép cho doanh nghiệp xuất khẩu, nhập
khẩu vàng nguyên liệu thì nay việc quản lý xuất khẩu, nhập khẩu vàng nguyên liệu
được chia làm hai trường hợp:
-63-
Nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ của
doanh nghiệp sản xuất trong nước và của doanh nghiệp nước ngoài gia
công tại Việt Nam: NHNN tiếp tục là cơ quan xem xét cấp giấy phép nhập
vàng nguyên liệu để sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ cho các doanh
nghiệp đủ điều kiện hoặc tạm nhập vàng nguyên liệu để tái xuất sản phẩm.
Nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng: NHNN trực tiếp tổ
chức thực hiện, không cho phép các đơn vị khác được nhập khẩu. Hoạt
động này được miễn thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.
Bên cạnh đó, nghị định đã quy định rõ về vàng miếng là vàng được dập thành
miếng, có đóng chữ, số chỉ khối lượng, chất lượng và ký mã hiệu của doanh nghiệp
và tổ chức tín dụng được NHNN cho phép sản xuất hoặc vàng miếng do NHNN tổ
chức sản xuất trong từng thời kỳ. Như vậy, với quy định này, NHNN đã trực tiếp
tham gia vào quá trình xuất khẩu, nhập khẩu vàng hàng hóa và giữ vai trò độc
quyền xuất khẩu, nhập khẩu vàng hàng hóa. Có thể nói, đây là quy định không phù
hợp vì đây vốn dĩ không phải là chức năng vốn có của ngân hàng trung ương và hầu
như không có ngân hàng trung ương nào trên thế giới thực hiện công việc này.
2.3.4. Quản lý hoạt động sản xuất, gia công vàng
2.3.4.1 Vàng trang sức, mỹ nghệ
Hoạt động sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ là hoạt động kinh doanh có điều
kiện và phải được NHNN cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất vàng trang
sức, mỹ nghệ với các điều kiện tương đối cụ thể, đơn giản và không còn yêu cầu
phải có vốn pháp định như trước đây. Theo quy định, các doanh nghiệp này phải
thực hiện đóng mã ký hiệu và hàm lượng vàng trên sản phẩm, công bố tiêu chuẩn áp
dụng, khối lượng của sản phẩm theo quy định pháp luật và chịu trách nhiệm trước
pháp luật về tiêu chuẩn công bố áp dụng và khối lượng sản phẩm đã công bố do
doanh nghiệp sản xuất.
-64-
Đối với hoạt động gia công vàng trang sức, mỹ nghệ, cá nhân, hộ gia đình, hợp
tác xã và doanh nghiệp được thực hiện gia công cho doanh nghiệp sản xuất vàng
trang sức, mỹ nghệ và phải có đăng ký gia công vàng trang sức, mỹ nghệ trong giấy
chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh, giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc giấy
chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.
Như vậy, nhìn chung quy định về quản lý sản xuất, gia công vàng trang sức mỹ
nghệ có chặt chẽ hơn so với trước đây nhằm hướng đến việc kiểm soát trật tự và sự
ổn định của thị trường này nhưng vẫn đảm bảo được quyền tự do kinh doanh của
các chủ thể trên cơ sở cạnh tranh lành mạnh, hài hòa quyền lợi của nhà kinh doanh
và dân chúng.
2.3.4.2 Vàng miếng
Về pháp lý, kể từ 01/05/2012, theo quy định của nghị định 24/20120/NĐ-CP,
nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng, xuất khẩu vàng nguyên liệu và nhập khẩu
vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng nhằm mục tiêu điều hành chính sách tiền
tệ và cung cầu vàng miếng trên thị trường.
Như vậy, khác với các nước, về mặt pháp lý Chính phủ đã xem hoạt động sản
xuất, kinh doanh vàng miếng dù là vàng hàng hóa đã có ảnh hưởng rất lớn và giữ
vai trò quan trọng trong chính sách tiền tệ nên NHNN dù với tư cách là ngân hàng
trung ương vẫn phải độc quyền và trực tiếp thực hiện sản xuất và xuất khẩu, nhập
khẩu.
Trên thực tế, NHNN đã giao cho công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên
Vàng bạc đá quý Sài Gòn (SJC) - vốn là nhà sản xuất vàng miếng với thương hiệu
SJC chiếm hơn 90% thị phần vàng miếng trong cả nước - gia công vàng miếng hàm
lượng 99,99%, có đóng chữ, số chỉ khối lượng, chất lượng và ký mã hiệu của Công
ty SJC. NHNN quyết định hạn mức, thời điểm sản xuất và nguồn vàng nguyên liệu
để tổ chức sản xuất vàng miếng SJC và phê duyệt mức phí gia công vàng miếng
-65-
SJC trong từng thời kỳ trên cơ sở chi phí gia công, lợi nhuận dự kiến và thuế áp
dụng.
Vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng SJC được lấy từ các nguồn:
Vàng nguyên liệu của NHNN (độc quyền nhập khẩu);
Vàng miếng đã được NHNN cho phép sản xuất trong từng thời kỳ, trừ vàng
miếng SJC (vàng miếng của các thương hiệu khác đã được NHNN cho
phép sản xuất trước đây);
Vàng miếng SJC do công ty SJC đã sản xuất, gia công, nhưng không đủ
trọng lượng, bị cắt dũa, mài mòn; bị trầy xước; bị đóng thêm các dấu hiệu,
ký hiệu không phải của công ty SJC; bị biến dạng;
Và các loại vàng khác do Ngân hàng Nhà nước quyết định trong từng thời
kỳ.
Như vậy, SJC vừa là doanh nghiệp độc quyền gia công vàng miếng mang
thương hiệu SJC theo cấp phép của NHNN và chịu sự giám sát toàn diện của
NHNN, vừa là đơn vị được phép mua bán vàng SJC. Mặc dù NHNN quy định phí
gia công mà SJC được hưởng và thời gian mà SJC hoàn tất việc gia công tuy nhiên
trên thực tế SJC hoàn toàn có khả năng gây khó dễ cho các đơn vị khác (không phải
NHNN) khi những đơn vị này giao vàng nguyên liệu hoặc vàng phi SJC (theo giấy
phép của NHNN) để SJC gia công. Rõ ràng, lợi thế tuyệt đối từ độc quyền của SJC
không chỉ đem lại lợi nhuận cho SJC mà còn có thể tạo nên sự méo mó của thị
trường.
Về phía NHNN, với quy trình nêu trên, NHNN đã tham gia với tư cách là đơn
vị kinh doanh, đóng vai trò là người mua và người bán cuối cùng trên thị trường
vàng hàng hóa trong khi đây vốn không phải là chức năng của ngân hàng trung
ương.
-66-
Việc tạo ra thương hiệu vàng hàng hóa độc quyền và duy nhất trên thị trường đã
đi ngược lại nguyên tắc của tự do và cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường, gây
nên sự xáo trộn thậm chí có thể là sự hỗn loạn trên thị trường này khi NHNN không
đủ khả năng hoặc không cần thiết phải sử dụng nguồn lực tài chính để bình ổn thị
trường vàng hàng hóa còn nếu NHNN tham gia quá sâu vào thị trường này với tư
cách là chủ thể kinh doanh (dù không vì mục đích lợi nhuận) cũng sẽ gây nên sự
lãng phí nguồn lực tài chính quốc gia. Mặt khác, việc tạo sự độc quyền thương hiệu
vàng miếng từ vàng miếng của một doanh nghiệp cũng gây nên sự lãng phí xã hội
khi 8 doanh nghiệp sản xuất vàng miếng trước đó đã đầu tư hàng trăm tỷ đồng cho
dây chuyền sản xuất của mình.
Mặt khác, việc quyết tâm tổ chức sản xuất, lưu hành vàng miếng theo chuẩn
mực riêng (chất lượng, trọng lượng, hình dáng, thương hiệu) của Việt Nam trong
khi chuẩn mực này không được quốc tế chấp nhận sẽ khiến cho vàng miếng này chỉ
có thể giao dịch ở Việt Nam và vì vậy sẽ còn rất lâu, rất khó để thị trường vàng vật
chất của Việt Nam liên thông với thị trường vàng quốc tế.
Kinh nghiệm của các nước có tập quán sử dụng vàng miếng trên thế giới như
Trung Quốc, Ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ, Thái Lan là những nước có tập quán sử dụng
vàng tương tự như Việt Nam đều không có sự độc quyền thương hiệu vàng miếng
thay vào đó họ cho phép nhiều doanh nghiệp sản xuất vàng miếng theo chuẩn mực
chung dưới sự công nhận, giám sát của cơ quan kiểm soát chất lượng chuyên ngành
của quốc gia. Ngoài ra, các quốc gia này đều hướng đến việc xây dựng chuẩn mực
vàng miếng theo chuẩn mực quốc tế để vàng miếng của nước họ được quốc tế thừa
nhận. Các quốc gia này cũng cho phép giao dịch vàng miếng (thực chất là vàng
thanh) của các nhà sản xuất vàng uy tín trên thế giới (mà Việt Nam gọi là vàng theo
tiêu chuẩn quốc tế) trên thị trường nội địa. Như vậy, họ sẽ không tốn chi phí để gia
công vàng tiêu chuẩn quốc tế trở về theo tiêu chuẩn của quốc gia họ và nhờ vậy thị
trường vàng của họ sẽ gia tăng khả năng liên thông với thị trường vàng quốc tế.
-67-
2.3.5. Quản lý kinh doanh vàng vật chất
2.3.5.1. Kinh doanh vàng trang sức
Hoạt động kinh doanh mua, bán vàng trang sức, mỹ nghệ là hoạt động kinh
doanh có điều kiện không cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh với yêu cầu
phải niêm yết công khai tại địa điểm giao dịch về khối lượng, hàm lượng vàng, giá
mua, giá bán các loại sản phẩm vàng trang sức, mỹ nghệ và chịu trách nhiệm trước
pháp luật về chất lượng sản phẩm bán ra thị trường.
2.3.5.2. Kinh doanh vàng miếng
Hoạt động kinh doanh mua, bán vàng miếng là hoạt động kinh doanh có điều
kiện và phải được NHNN cấp giấy phép kinh doanh mua, bán vàng miếng. Theo
quy định, NHNN chỉ cấp phép cho tổ chức tín dụng và doanh nghiệp đạt các điều
kiện.
Đối với doanh nghiệp, các điều kiện bao gồm: vốn điều lệ từ 100 tỷ đồng trở
lên; có kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh mua, bán vàng từ hai năm
trở lên; có số thuế đã nộp của hoạt động kinh doanh vàng từ 500 triệu đồng/năm trở
lên trong hai năm liên tiếp gần nhất; có mạng lưới chi nhánh, địa điểm bán hàng tại
Việt Nam từ ba tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trở lên.
Đối với tổ chức tín dụng, các điều kiện bao gồm: có vốn điều lệ từ 3.000 tỷ
đồng trở lên; có đăng ký hoạt động kinh doanh vàng; có mạng lưới chi nhánh tại
Việt Nam từ năm tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trở lên.
Theo quy định, các tổ chức được phép hoạt động kinh doanh mua, bán vàng
miếng chỉ được phép mua, bán các loại vàng miếng quy định (tại thời điểm 2012 chỉ
duy nhất vàng miếng SJC); không được phép thực hiện kinh doanh vàng miếng
thông qua các đại lý ủy nhiệm.
-68-
Như vậy, về nguyên tắc hơn 12.000 cửa hàng kinh doanh vàng đã tồn tại trước
khi nghị định 24/2012/NĐ-CP có hiệu lực kể từ 01/5/2012 sẽ không đủ điều kiện
pháp lý để mua bán vàng miếng mà chỉ có thể mua bán vàng trang sức, mỹ nghệ.
Cho đến cuối tháng 10/2012, trên thực tế các cửa hàng kinh doanh vàng này vẫn
tiếp tục mua bán vàng miếng dù về nguyên tắc đây là hoạt động bất hợp pháp. Tuy
nhiên, cơ quan chức năng sẽ khó khăn để có thể giám sát việc tuân thủ quy định của
các cửa hàng kinh doanh này bởi số lượng cửa hàng quá lớn, địa bàn phân tán,
nhiều cửa hàng có quy mô và giao dịch nhỏ. Hơn nữa, việc giao dịch với các cửa
hàng này là nhu cầu thực sự của người dân khi họ khó khăn hơn nếu giao dịch với
mạng lưới cửa hàng của các tổ chức được phép (cửa hàng của các doanh nghiệp, chi
nhánh của các ngân hàng) vì mạng lưới này không phân bổ rộng khắp, thời gian
hoạt động không linh hoạt và quan trọng hơn nữa khi người dân giao dịch với số
lượng nhỏ thì việc giao dịch tại các đơn vị được phép hoàn toàn không thuận lợi cho
họ. Vì vậy, tính khả thi của quy định này là vấn đề rất đáng phải cân nhắc để điều
chỉnh.
Nghị định 24/2012/NĐ-CP không đề cập đến hoạt động của sàn giao dịch vàng.
Như vậy, dựa trên các quy định đã có trước đây của Chính phủ và NHNN, sàn giao
dịch vàng không được phép tổ chức hoạt động ở Việt Nam.
2.3.6. Quản lý kinh doanh vàng tài khoản
Lần đầu tiên, Việt Nam có quy định chính thức trong văn bản quy phạm pháp
luật ở cấp nghị định về kinh doanh vàng tài khoản. Nghị định 24/2012/NĐ-CP quy
định hoạt động kinh doanh vàng trên tài khoản là hoạt động kinh doanh vàng qua tài
khoản, dưới hình thức giao dịch ký quỹ và giá trị ròng được định giá lại liên tục
theo biến động của giá vàng. Tuy nhiên, quy định hiện tại cũng chỉ mới dừng lại ở
khái niệm kinh doanh vàng tài khoản chứ chưa có các quy định cụ thể về đối tượng
được phép kinh doanh vàng tài khoản ở trong nước, ở nước ngoài và cũng không đề
cập đến sàn giao dịch vàng vật chất.
-69-
Nghị định cũng đề cập đến hoạt động phái sinh về vàng của các ngân hàng
thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài nhưng quy định hoạt động này thực
hiện theo Điều 105 Luật các tổ chức tín dụng trong lúc cả Chính phủ và NHNN đều
chưa có quy định cụ thể về hoạt động này.
Với việc NHNN ban hành Thông tư 12/2012/TT-NHNN ngày 27/4/2012 quy
định chấm dứt hiệu lực của Thông tư 32/2011/TT-NHNN ngày 06/10/2011 và yêu
cầu các tổ chức tín dụng tất toán số vàng đã chuyển đổi thành tiền, đóng tài khoản
vàng ở nước ngoài theo thông báo của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thì các tổ
chức tín dụng đã không còn được phép kinh doanh vàng tài khoản ở nước ngoài.
Điều đó cũng có nghĩa là các tổ chức tín dụng không có cơ hội và điều kiện để
phòng ngừa rủi ro trong kinh doanh vàng.
2.3.7. Quản lý hoạt động huy động, cho vay vàng
Sau khi liên tục ban hành khá nhiều các quy định khác nhau xung quanh hoạt
động huy động vàng và cho vay vàng của các tổ chức tín dụng, NHNN đã chính
thức quy định các tổ chức tín dụng phải chấm dứt việc huy động và cho vay vàng kể
từ 25/11/2012 và cho đến thời điểm cuối tháng 10/2012 vẫn chưa thấy NHNN có
quy định hướng dẫn xử lý các phát sinh liên quan đến việc này. Về nguyên tắc, các
tổ chức phải chấm dứt huy động vàng kể từ 25/11/2012 (việc cho vay bằng vàng đã
phải chấm dứt từ 01/5/2011 theo quy định của Thông tư 11/2011/TT-NHNN ngày
29/4/2011) điều đó có nghĩa là trước 25/11/2012 các tổ chức tín dụng sẽ vẫn còn
được phép huy động vàng vì vậy, có thể đến hàng tháng, thậm chí hàng năm sau vẫn
còn số lượng vàng của dân chúng gửi tại tổ chức tín dụng nếu như các tổ chức tín
dụng huy động vàng với kỳ hạn dài.
Hướng giải quyết tình trạng này như thế nào, và phải làm sao để số lượng vàng
rất lớn còn tản mát trong dân chúng được sử dụng một cách hiệu quả vẫn là vấn đề
nan giải thu hút sự quan tâm của dư luận mà NHNN vẫn chưa có được giải pháp rõ
ràng, khả thi và có ý nghĩa.
-70-
2.3.8. Quản lý chất lượng
Về pháp lý, NHNN là cơ quan quản lý và kiểm soát chất lượng vàng bao gồm
cả vàng miếng và vàng trang sức, mỹ nghệ với yêu cầu các tổ chức sản xuất, kinh
doanh vàng phải công bố rõ hàm lượng, chất lượng vàng của mình và chịu trách
nhiệm về hàm lượng, chất lượng đã công bố. Tuy nhiên, trên thực tế do NHNN
không phải là cơ quan có chuyên môn sâu và có đủ điều kiện thuận lợi để tổ chức
quản lý, giám sát và kiểm soát chất lượng của tất cả các loại vàng trên thị trường mà
chỉ mới chú trọng đến việc giám sát, kiểm soát chất lượng của vàng SJC. Hơn nữa,
việc giám sát, kiểm soát chất lượng vàng SJC cũng chỉ mới dừng lại ở mức độ kiểm
soát chặt chẽ quy trình gia công. Mặt khác, theo thông lệ thế giới việc cấp chứng
nhận cho vàng miếng đạt tiêu chuẩn thuộc về các cơ quan chuyên ngành về quản lý
chất lượng. Do vậy, việc NHNN vừa là cơ quan quản lý nhà nước toàn diện về thị
trường vàng, vừa là đơn vị trực tiếp nhập khẩu, sản xuất và kinh doanh vàng, vừa là
đơn vị giám sát và kiểm soát chất lượng vàng là không đảm bảo sự minh bạch. Vì
vậy, rất cần thiết phải thiết lập cơ quan độc lập để quản lý, giám sát, kiểm soát và
cấp chứng nhận cho các loại vàng đạt tiêu chuẩn.
Với những nội dung về cơ chế quản lý thị trường vàng khi nghị định
24/2012/NĐ-CP có hiệu lực kể từ 01/5/2012 có thể mô tả qua sơ đồ tổ chức quản lý
thị trường vàng như sơ đồ 2.3.
Như vậy cơ chế quản lý thị trường vàng ở Việt Nam từ sau ngày 01/5/2012 đã
có sự thay đổi lớn so với cơ chế quản lý vàng giai đoạn 1999-2011 với mục đích mà
nhà nước đặt ra là nhằm phát triển ổn định và bền vững thị trường vàng, bảo đảm
hoạt động sản xuất, gia công vàng trang sức, mỹ nghệ phục vụ cho thị trường trong
nước và xuất khẩu. Mặc dù thời gian triển khai cơ chế mới chỉ mới vài tháng nhưng
với những diễn biến như đã phân tích ở trên có thể rút ra các nhận xét sau đây:
Cơ chế quản lý mang nặng tính hành chính, lấy việc độc quyền nhập khẩu,
sản xuất vàng miếng làm yếu tố trung tâm để chi phối các hoạt động khác
-71-
có liên quan đến vàng với mong muốn có thể kiểm soát được việc kinh
doanh vàng miếng từ đó gián tiếp hạn chế hiện tượng vàng hóa trong nền
kinh tế để giảm thiểu thâm hụt cán cân thanh toán do phải nhập khẩu lượng
vàng lớn trong thời gian dài. Tuy nhiên, cơ chế này đã không thể làm thay
đổi nhu cầu nắm giữ vàng của dân chúng vốn được thực hiện nhằm mục
đích bảo toàn giá trị và đầu cơ có nguyên nhân xuất phát từ tập quán lâu
đời, từ sự thiếu ổn định của kinh tế vĩ mô, tỷ lệ lạm phát cao, tỷ giá kém ổn
định, lãi suất VND và lãi suất USD chưa hợp lý, thiếu vắng nơi trú ẩn an
toàn và không có nhiều cơ hội đầu tư sinh lợi trong bối cảnh kinh tế bất ổn
cùng hàng loạt các yếu tố có liên quan khác. Như vậy, vấn đề mấu chốt ở
cầu vàng đã không giải quyết được tận gốc.
CHÍNH PHỦ
MOF
Chính sách
GTGT, TNDN MONRE
Quản lý nhà
nước về
khoáng sản SBV
Quản lý toàn diện hoạt động
sản xuất, kinh doanh vàng.
Độc quyền nhập khẩu, sản
xuất vàng miếng
NHTM
Kinh doanh
miếng SJC
Tổ chức
kinh
doanh
Kinh doanh
vàng miếng
SJC theo
giấy phép
của NHNN
Doanh
nghiệp
Thăm
dò, khai
thác,
tinh
luyện
vàng
khoáng
sản
SJC
Độc quyền
SX vàng
miếng dưới
sự giám sát
toàn diện,
tuyệt đối
của NHNN.
Trực tiếp
KD vàng
miếng SJC
Tổ chức
kinh
doanh
KD vàng
trang sức,
mỹ nghệ là
HĐKD có
điều kiện
không cấp
GCN đủ
điều kiện
Tổ chức
kinh
doanh
SX gia công
trang sức,
mỹ nghệ là
hoạt động
KD có điều
kiện phải
được NHNN
cấp phép
Quản lý
Giao dịch
Nhà đầu tư
Sơ đồ 2.3: Tổ chức quản lý thị trường vàng ở Việt Nam từ 01/5/2012 Nguồn: Tổng hợp của tác giả
-72-
Việc độc quyền và kiểm soát chặt chẽ nhập khẩu, sản xuất vàng miếng
trong ngắn hạn sẽ làm giảm đi nhu cầu nhập khẩu phi chính thức, hạn chế
tác động xấu đến trạng thái cán cân thanh toán. Nhưng về dài hạn có thể
xuất hiện tình trạng nhập khẩu phi chính thức vàng theo tiêu chuẩn quốc tế
khi dân chúng - nhất là tầng lớp người có thu nhập cao, nhà đầu cơ - sẽ trực
tiếp nắm giữ, kinh doanh vàng theo tiêu chuẩn quốc tế.
Việc độc quyền lưu thông duy nhất một thương hiệu vàng miếng SJC theo
tiêu chuẩn riêng của Việt Nam cũng sẽ khiến thị trường vàng Việt Nam tách
bạch với thị trường thế giới khi hàng hóa giao dịch trên thị trường có sự
khác biệt nhau. Chênh lệch giá vàng trong nước và giá vàng thế giới sẽ khó
có thể rút ngắn ở mức hợp lý.
Việc kiểm soát chặt chẽ nhập khẩu sẽ làm hạn chế nguồn cung trong lúc cầu
không hề suy giảm sẽ xuất hiện tình trạng hai giá trên thị trường vàng và
giá vàng trong nước sẽ ngày tiếp tục bỏ xa giá vàng thế giới, vô tình
“khuyến khích” việc nhập lậu vàng tiêu chuẩn quốc tế để tiêu thụ tại Việt
Nam. Bên cạnh đó, cơ chế quản lý này không đem lại sự cạnh tranh tự do
trên nguyên tắc thị trường, đem lại lợi thế hoàn toàn cho SJC, không công
bằng với các nhà kinh doanh vàng miếng khác.
Cơ chế này cũng đưa NHNN can thiệp, hoạt động quá sâu trên thị trường
vàng hàng hóa không chỉ với tư cách là ngân hàng trung ương mà còn mang
hàm ý là đơn vị sản xuất, kinh doanh. Điều này không phù hợp với vai trò,
chức năng của ngân hàng trung ương.
Cơ chế này cũng gây những khó khăn, bất tiện trong việc nắm giữ, giao
dịch vàng miếng của đại đa số những người dân nắm giữ ít vàng khi mạng
lưới đơn vị kinh doanh vàng miếng bị thu hẹp. Từ đó xuất hiện tình trạng
kinh doanh bất hợp pháp của hơn 12.000 cửa hàng kinh doanh vàng hiện
hữu và tiềm ẩn nguy cơ rủi ro cho những người dân nắm giữ ít vàng khi họ
-73-
bị ép giá, không có đủ điều kiện để kiểm soát rủi ro trong giao dịch cả về
giá lẫn chất lượng vàng. Thị trường khi đó sẽ bất ổn và hệ lụy là những
người dân ít tiền lại càng bị thiệt hại.
Cơ chế này cũng không tạo điều kiện tốt để hình thành thị trường giao dịch
vàng vật chất theo hai kênh giao dịch OTC và giao dịch qua sàn giao dịch
vàng vật chất. Cùng với việc không liên thông được với giá vàng thế giới sẽ
làm xuất hiện yếu tố tắt nghẽn trên thị trường vàng và do vậy, khối lượng
vàng có giá trị lớn trong nền kinh tế sẽ không được sử dụng hiệu quả vì số
vàng này chỉ đơn thuần giữ vai trò cất trữ trong bối cảnh nền kinh tế đang
thiếu vốn, tích lũy chưa cao.
Cơ chế cũng không cho phép các tổ chức kinh doanh tiền tệ được phép sử
dụng các công cụ phòng ngừa rủi ro, các công cụ phái sinh để một mặt bảo
hiểm cho hoạt động kinh doanh của mình, mặt khác cũng có thể tìm kiếm
lợi nhuận từ các công cụ này.
Với khá nhiều bất cập nêu trên, Việt Nam sẽ phải cần sớm có những thay đổi
lớn trong cơ chế quản lý vàng hiện tại mới có thể có được thị trường vàng phát triển
ổn định và đem lại ảnh hưởng tích cực cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Chương 2 đã phân tích sự thay đổi của cơ chế quản lý thị trường vàng Việt Nam
qua ba giai đoạn: trước 1999, từ 1999 đến 2011 và từ 2012 trong đó tập trung phân
tích sâu trong khoảng thời gian từ 2009 đến 2012. Các phân tích trong khoảng thời
gian từ 2009 đến 2012 bao gồm phân tích cả cơ chế quản lý và phân tích diễn biến
của thị trường từ những thay đổi trong cơ chế quản lý ở tất cả các khía cạnh: cơ
quan quản lý, quản lý khai thác vàng khoáng sản, quản lý xuất khẩu nhập khẩu
-74-
vàng, quản lý sản xuất gia công vàng gồm vàng trang sức và vàng miếng, quản lý
kinh doanh mua bán vàng vật chất, quản lý kinh doanh vàng tài khoản, quản lý hoạt
động huy động và cho vay vàng và quản lý chất lượng vàng.
Những phân tích này cho thấy mặc dù Việt Nam mới ban hành cơ chế quản lý
thị trường vàng với nhiều thay đổi kể từ 01/5/2012 nhưng cơ chế này vẫn chưa thể
mang lại kết quả khởi sắc cho thị trường vàng vốn dĩ có quá nhiều yếu tố bất ổn và
tiềm ẩn nguy cơ rủi ro cao trong suốt nhiều năm trở lại đây. Cơ chế quản lý mới vẫn
còn những bất cập quá lớn, chưa phù hợp với thông lệ quốc tế cũng như đặc thù của
Việt Nam.
Mặc dù mục tiêu đặt ra của cơ chế quản lý mới là hợp lý nhưng những quy định
cụ thể có nguy cơ làm phát sinh những tác động làm méo mó thị trường vàng khiến
cho mục tiêu đề ra khó đạt được. Vì vậy, việc sớm sửa đổi toàn diện cơ chế quản lý
thị trường vàng Việt Nam là một yêu cầu thiết yếu mang tính khách quan. Đây cũng
chính là những nội dung sẽ được đề cập trong chương 3.
-75-
CHƯƠNG 3
MỘT SỐ ĐỀ XUẤT VỀ CƠ CHẾ QUẢN LÝ
THỊ TRƯỜNG VÀNG VÀ GIAO DỊCH VÀNG
TÀI KHOẢN Ở VIỆT NAM
Mục tiêu của chương này là đưa ra những gợi ý mang tính chất khuyến nghị đối
với cơ chế quản lý thị trường vàng ở Việt Nam trong đó nhấn mạnh đến việc cần
thiết phải xây dựng và đưa vào hoạt động sàn giao dịch vàng vật chất ở Việt Nam.
Chương này bao gồm ba phần: i.Mục tiêu của cơ chế quản lý thị trường vàng ở Việt
Nam; ii.Một số đề xuất về cơ chế quản lý thị trường vàng ở Việt Nam; iii.Mô hình
tổ chức sàn giao dịch vàng và kinh doanh vàng tài khoản.
3.1. MỤC TIÊU CỦA CƠ CHẾ QUẢN LÝ THỊ TRƯỜNG VÀNG Ở VIỆT
NAM
Xuất phát từ vị trí, vai trò của vàng trong nền kinh tế trên cơ sở phân tích ở
chương 2 đồng thời tham khảo kinh nghiệm từ các nước trên thế giới, chúng tôi đề
xuất việc quản lý thị trường vàng ở Việt Nam cần hướng đến ba mục tiêu cơ bản
được nêu ở bên dưới.
3.1.1. Tạo lập thị trường vàng hàng hóa hoạt động theo nguyên tắc của cơ chế
thị trường và duy trì được sự liên thông chặt chẽ giữa thị trường vàng
hàng hóa trong nước với thị trường vàng hàng hóa thế giới
Như đã đề cập trong chương 1, mục tiêu của việc quản lý vàng tiền tệ và quản
lý vàng hàng hóa là hoàn toàn khác biệt nhau. Kinh nghiệm của các nước phát triển
trên thế giới có thị trường vàng phát triển hoàn chỉnh và lâu đời (Anh, Thụy Sĩ, Úc,
Hoa Kỳ) cho đến các nước có văn hóa và tập quán sử dụng vàng có nhiều nét tương
-76-
đồng với Việt Nam như Ấn Độ, Trung Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ, Thái Lan đều thực hiện
việc quản lý vàng hàng hóa tương tự như quản lý các hàng hóa thông thường khác.
Tuy nhiên, vì tính chất và vai trò đặc biệt của vàng nên mỗi nước đều xây dựng cho
mình một cơ chế quản lý chặt chẽ, nới lỏng hay tự do phụ thuộc trình độ phát triển
của nước đó trong từng giai đoạn cũng như tác động của vàng đối với tình hình kinh
tế vĩ mô. Tuy nhiên, có thể thấy rằng ở các quốc gia có trình độ phát triển kinh tế
hoặc văn hóa, tập quán sử dụng vàng tương tự với Việt Nam không có quốc gia nào
sử dụng cơ chế quản lý chặt chẽ mang tính chất độc quyền trong bối cảnh hiện nay,
đặc biệt ở các quốc gia này hoàn toàn không có việc ngân hàng trung ương trực tiếp
nhập khẩu, xuất khẩu cũng như độc quyền sản xuất vàng miếng.
Thực tiễn cho thấy, các biện pháp hành chính có vai trò hết sức quan trọng ở thị
trường chưa phát triển nhưng nó cũng chỉ phát huy hiệu quả trong thời gian ngắn.
Nếu tiếp tục duy trì việc sử dụng các biện pháp hành chính, nhất là độc quyền trong
dài hạn, thị trường sẽ trở nên méo mó và gây nên những hệ lụy tiêu cực.
Việt Nam là quốc gia có đường biên giới dài trong lúc việc tổ chức quản lý
hàng hóa nhập lậu qua biên giới chưa thật sự hiệu quả thì việc sử dụng biện pháp
hành chính cấm nhập khẩu sẽ ngay lập tức làm xuất hiện tình trạng nhập lậu khiến
nhà nước thất thu thuế đồng thời cơ quan chức năng sẽ khó có thể tổ chức quản lý
hiệu quả khi không có đầy đủ dữ liệu có liên quan. Mặt khác, như đã phân tích ở
chương 2, việc sử dụng biện pháp độc quyền sản xuất vàng miếng và chỉ cho lưu
hành duy nhất một thương hiệu vàng SJC theo tiêu chuẩn quốc gia vốn có nhiều
khác biệt so với tiêu chuẩn thế giới sẽ dẫn đến nguy cơ xuất hiện việc nhập lậu, nắm
giữ, giao dịch phổ biến vàng theo tiêu chuẩn quốc tế của các nhà sản xuất uy tín trên
thế giới. Lúc đó, việc độc quyền sản xuất vàng miếng và cho phép lưu hành duy
nhất thương hiệu vàng SJC sẽ không thể đạt được mục tiêu chấm dứt nhập lậu vàng.
Tình trạng chảy máu ngoại tệ sẽ vẫn tiếp diễn và cán cân thanh toán sẽ chịu tác
động tiêu cực nếu việc nhập lậu vàng tiêu chuẩn quốc tế trở nên phổ biến, thông
dụng.
-77-
Quy mô của thị trường vàng trên thế giới rất lớn và thị trường vàng Việt Nam là
không nhỏ, trong bối cảnh gần như toàn bộ nguồn cung vàng của Việt Nam có được
từ nhập khẩu, dự trữ ngoại hối bằng vàng của NHNN hầu như không đáng kể thì
mọi nỗ lực nhằm can thiệp giá vàng trên thị trường sẽ không thể nào thực hiện
được. Vì vậy, dù đặt ra bất cứ rào cản nào thì sự biến động của giá vàng trong nước
rồi cũng sẽ chịu sự chi phối của giá vàng thế giới. Trong quá khứ, với các rào cản
hành chính, giá vàng Việt Nam đã có không ít trường hợp biến động không tương
đồng với giá vàng quốc tế. Thế nhưng, chỉ trong thời gian ngắn sau đó, thị trường
đã phản ứng (xuất hiện ngay việc xuất khẩu hoặc nhập khẩu vàng để tìm kiếm lợi
nhuận từ chênh lệch giá) và biến động không tương đồng lập tức chấm dứt.
Những phân tích này cho thấy cần thiết phải gỡ bỏ những rào cản ngăn cách giá
vàng trong nước với giá vàng thế giới để thị trường vàng Việt Nam sẽ có được sự
liên thông với thị trường vàng thế giới. Kinh nghiệm cải cách của Trung Quốc và
Ấn Độ được nêu trong chương 1 cũng cho thấy các quốc gia này đã thành công
trong cải cách quản lý thị trường vàng khi tạo được sự liên thông giữa thị trường nội
địa với thị trường thế giới.
3.1.2. Giảm thiểu sự tác động tiêu cực của những biến động thị trường vàng
đến kinh tế vĩ mô
Các phân tích ở chương 2 cho thấy trong suốt thời gian dài, sự biến động của
giá vàng trên thế giới và biến động giá vàng trong nước đã gây ảnh hưởng nghiêm
trọng đến trạng thái cán cân thanh toán, tạo nên vòng xoáy vàng - tỷ giá -tín dụng từ
đó ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả thực thi chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà
nước đồng thời tạo ra nguy cơ mất an toàn cho hệ thống ngân hàng khi các ngân
hàng thương mại đầu tư quá nhiều cho hoạt động kinh doanh vàng và chưa kiểm
soát tốt trạng thái vàng của mình. Đây có lẽ là lý do chính yếu khiến NHNN phải
mạnh tay can thiệp thị trường vàng và sau thời gian dài chưa bình ổn được thị
trường như mong đợi đã sử dụng đến biện pháp hànhchính.
-78-
Tuy nhiên, có thể thấy rằng nguyên nhân mấu chốt để xảy ra tình trạng nêu trên
không phải là vàng mà chính là cơ chế quản lý đã thiếu sót khi tạo ra lỗ hổng cho
các nhà kinh doanh tìm kiếm lợi nhuận mà thiếu đi ràng buộc về quản trị rủi ro.
Việt Nam sẽ không thể nào dùng biện pháp hành chính để loại bỏ vàng ra khỏi
nền kinh tế và buộc phải sống chung với sự biến động của vàng. Vì vậy, mục tiêu
của cơ chế quản lý thị trường vàng là phải giảm thiểu các tác động tiêu cực của
những biến động trên thị trường vàng đến các biến số kinh tế vĩ mô như tỷ giá, lạm
phát, cung tiền và sự an toàn của hệ thống tài chính.
3.1.3. Giảm dần vai trò của vàng như là tiền tệ và tiến đến việc chấm dứt tình
trạng vàng hóa trong nền kinh tế
Trong quá khứ vàng đã đóng vai trò như tiền tệ, song hành cùng VND, được
dân chúng sử dụng rộng rãi làm phương tiện định giá, phương tiện thanh toán và
phương tiện bảo tồn giá trị dù về mặt pháp lý đây là hành vi bất hợp pháp. Nhà
nước cũng đã có nhiều nỗ lực trong mục tiêu hạn chế tình trạng vàng hóa nhưng kết
quả cho thấy các biện pháp này không có ảnh hưởng đáng kể đến tập quán của
người dân Việt Nam.
Từ những năm cuối của thế kỷ 20, khi Việt Nam thành công trong việc kiểm
soát lạm phát đồng thời kinh tế phát triển tốt, thu nhập và mức sống của người dân
gia tăng đáng kể, vai trò là phương tiện định giá và phương tiện thanh toán của vàng
đã tự động thu hẹp đáng kể. Vàng đã không còn sử dụng để định giá, thanh toán
trong các giao dịch xe máy, ôtô và các vật dụng, tài sản đắt tiền khác mà chỉ còn
được sử dụng chủ yếu trong giao dịch nhà đất.
Đến những năm đầu thế kỷ 21, mặc dù thị trường bất động sản bùng nổ trở lại ở
Việt Nam nhưng vàng đã không còn là phương tiện định giá và phương tiện thanh
toán thông dụng như cuối thế kỷ trước bởi lẽ sự bùng nổ bất động sản tập trung chủ
yếu vào đất nông nghiệp chuyển đổi mục đích sử dụng là đất mà các công ty kinh
-79-
doanh bất động sản trước đó đã thực hiện đầu tư toàn bộ bằng VND (chi phí đền bù,
chi phí giải phóng mặt bằng, chi phí đầu tư cơ sở hạ tầng, thuế, phí, lệ phí, .v.v. đều
được thanh toán 100% bằng tiền đồng) nên các công ty này đều niêm yết giá bán và
giao dịch bằng VND. Trong giai đoạn này, việc dùng vàng làm phương tiện định
giá chỉ sử dụng chủ yếu đối với nhà đất ở các khu dân cư ổn định lâu đời trong nội
thành. Từ những năm 2007-2008, khi giá vàng tăng cao liên tục kèm theo những
biến động đột biến thất thường, các giao dịch nhà đất hầu như đều được thực hiện
thông qua VND, rất hiếm các giao dịch nhà đất sử dụng vàng.
Diễn biến trên cho thấy, hiện nay dân chúng sử dụng vàng chủ yếu dùng làm
phương tiện bảo tồn giá trị dưới dạng vàng miếng, vàng trang sức. Ngoài ra, các nhà
đầu tư và dân chúng cũng nắm giữ vàng cho mục đích đầu tư hoặc đầu cơ nhờ vào
sự biến động giá vàng trên cơ sở tin tưởng xu thế tăng giá vững mạnh của vàng sẽ
tiếp tục trong tương lai. Nhu cầu đầu tư và nhu cầu cất trữ vàng là nhu cầu chính
đáng của người dân, các nhà đầu tư nên rõ ràng Việt Nam khó có thể thậm chí là
không thể dùng biện pháp hành chính để triệt tiêu hoạt động này thay vào đó mục
tiêu cần hướng đến là tạo lập được thị trường giao dịch vàng chính thức với đầy đủ
các công cụ kinh doanh dựa trên cơ chế thị trường để các nhà đầu tư, dân chúng có
thể dễ dàng giao dịch, cất trữ và tìm kiếm lợi nhuận. Song song đó, khi kinh tế phát
triển ổn định, tỷ lệ lạm phát được kiểm soát tốt, tỷ giá USD/VND ổn định thì nhu
cầu nắm giữ vàng cho mục đích bảo tồn giá trị sẽ tự động giảm dần, thay vào đó sẽ
tập trung chủ yếu cho mục tiêu giao dịch để tìm kiếm lợi nhuận.
3.2. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT VỀ CƠ CHẾ QUẢN LÝ THỊ TRƯỜNG VÀNG Ở
VIỆT NAM
Để đạt được ba mục tiêu nêu trên, theo chúng tôi cần thay đổi cơ chế quản lý
vàng hiện đang áp dụng ở Việt Nam. Cụ thể như sau:
-80-
3.2.1. Về cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành
Trước mắt, NHNN sẽ vẫn là cơ quan quản lý toàn diện về hoạt động sản xuất,
gia công và kinh doanh vàng (trừ hoạt động khai thác khoáng sản và tinh chế vẫn
thực hiện như hiện nay). Tuy nhiên, cần sớm chấm sứt việc NHNN tham gia trực
tiếp vào hoạt động sản xuất, kinh doanh vàng để thực hiện đúng vai trò, chức năng
của ngân hàng trung ương.
Trong trung hạn, NHNN sẽ vẫn là cơ quan quản lý Sở giao dịch vàng trong giai
đoạn đầu vì trong thời gian này hoạt động Sở giao dịch vàng sẽ chỉ tổ chức giao
dịch vàng vật chất.
Trong dài hạn, khi cho phép giao dịch các sản phẩm vàng phái sinh, Sở giao
dịch vàng có thể sáp nhập với các Sở giao dịch hàng hóa khác, đặt dưới sự quản lý
của Ủy ban quản lý giao dịch hàng hóa độc lập trực thuộc Chính phủ hoặc liên bộ.
Tuy nhiên, đề tài chỉ tập trung đề xuất các gợi ý cho giai đoạn trung hạn khi Sở
giao dịch vàng sẽ chỉ tổ chức giao dịch vàng vật chất.
3.2.2. Về quản lý xuất khẩu, nhập khẩu vàng nguyên liệu
NHNN sớm chấm dứt độc quyền nhập khẩu, xuất khẩu vàng nguyên liệu. Việc
nhập khẩu, xuất khẩu vàng nguyên liệu cần được giao trở lại cho các công ty có
chức năng và hội đủ các điều kiện để được NHNN cấp phép.
Không cần thiết phải giới hạn về mặt số lượng các công ty tham gia xuất khẩu,
nhập khẩu vàng nguyên liệu nhưng cần đặt ra các tiêu chuẩn cao để chỉ những công
ty thật sự vững mạnh về tài chính lẫn kinh nghiệm mới đủ điều kiện tham gia và chỉ
những công ty có chức năng, đủ điều kiện sản xuất vàng miếng thì mới được phép
trực tiếp nhập khẩu, xuất khẩu vàng nguyên liệu. Vì vậy, các công ty được phép
nhập khẩu, xuất khẩu vàng miếng cũng là những công ty sẽ đóng vai trò đầu mối
-81-
trong việc sản xuất, gia công vàng miếng. Chỉ một số ít trong số này là các công ty
sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ.
Việc quản lý vàng trang sức, mỹ nghệ có thể tổ chức như quy định hiện tại
nhưng cần xác định rõ hơn đó là các loại vàng có hàm lượng dưới 18 cara (dưới
75% vàng). Các loại vàng có hàm lượng từ 18 cara trở lên (75% vàng trở lên) được
tổ chức quản lý như quản lý vàng miếng.
Về số lượng vàng nhập khẩu, trong giai đoạn 2013-2020 vẫn sử dụng cơ chế
cấp hạn ngạch cho các doanh nghiệp được phép tuy nhiên cần xác định rõ tiêu chí
để phân bổ hạn ngạch hợp lý, công bằng, minh bạch theo hướng mở rộng dần hạn
ngạch để đi đến dỡ bỏ hạn ngạch khi trạng thái cán cân thanh toán trở nên an toàn
hơn.
3.2.3. Về quản lý sản xuất, gia công vàng miếng
Như đã nhiều lần đề cập trong đề tài này, quan điểm xuyên suốt của chúng tôi là
NHNN cần sớm chấm dứt trực tiếp tham gia vào thị trường vàng, sớm chấm dứt độc
quyền sản xuất vàng.
Hoạt động sản xuất vàng miếng là hoạt động kinh doanh có điều kiện và phải
được cấp phép tuy nhiên cần cho phép tồn tại nhiều thương hiệu vàng khác nhau
trong nền kinh tế để tạo sự cạnh tranh lành mạnh theo lộ trình như sau:
Ngay trong năm 2012, cần thông báo chủ trương sẽ cho phép các doanh
nghiệp trước đây đã được phép sản xuất vàng miếng trở lại trong giai đoạn
2013-2014 để các doanh nghiệp này có phương án cho dây chuyền máy móc
thiết bị đã đầu tư. NHNN cần xây dựng phương án quản lý thị trường vàng
trong điều kiện có nhiều thương hiệu vàng cùng tồn tại và khi đã hoàn tất
công tác chuẩn bị sẽ trình Chính phủ thay thế Nghị định 24/2012/NĐ-CP để
chấm dứt độc quyền sản xuất vàng.
-82-
Trong giai đoạn từ 2015-2020, ngoài vàng miếng sản xuất theo đơn vị đo
lường truyền thống (chỉ, lượng) sẽ sản xuất thêm vàng miếng với kích
thước, tiêu chuẩn theo thông lệ quốc tế (vàng khối/thanh với trọng lượng
ounce và kg) và áp dụng cơ chế khuyến khích giao dịch loại vàng này để
đến 2025 loại sản phẩm vàng theo đơn vị đo lường chỉ, lượng sẽ không còn
thông dụng. Điều này sẽ góp phần thuận lợi cho việc phát triển giao dịch
trên sở giao dịch vàng và tạo sự gắn kết tốt hơn giữa thị trường vàng Việt
Nam và thị trường vàng thế giới, giảm thiểu chi phí cho việc gia công vàng
theo tiêu chuẩn hiện hành của Việt Nam từ vàng nguyên liệu đã đạt chuẩn
thế giới. Cũng trong giai đoạn này ban hành các tiêu chuẩn kinh tế, kỹ thuật
khắt khe (không sử dụng biện pháp hành chính) đối với doanh nghiệp sản
xuất vàng miếng để giảm dần số lượng thương hiệu vàng miếng ở Việt Nam.
Song song đó đặt ra các yêu cầu kỹ thuật để việc nhập khẩu vàng nguyên
liệu sẽ tập trung vào vàng khối, vàng thanh của các nhà sản xuất uy tín trên
thế giới và cho phép lưu hành, giao dịch loại vàng này.
Có kế hoạch giao cho 1-2 công ty sản xuất vàng uy tín của Việt Nam (chẳng
hạn SJC) lập kế hoạch hợp tác với các nhà sản xuất vàng uy tín của Thụy Sĩ,
Anh để sản phẩm vàng khối, vàng thanh đạt được chứng nhận của các tổ
chức quốc tế, đủ điều kiện giao dịch trên thị trường vàng thế giới trong giai
đoạn 2015-2025. Như vậy, về lâu dài các sản phẩm vàng của các nhà sản
xuất vàng uy tín trên thế giới sẽ được phép lưu hành phổ biến ở Việt Nam
cùng với 1-2 sản phẩm đạt chuẩn quốc tế của các công ty Việt Nam và một
số ít các thương hiệu vàng khác của Việt Nam theo tiêu chuẩn, đơn vị đo
lường của Việt Nam.
Trong giai đoạn 2013-2015 và có thể đến 2020, các doanh nghiệp trước đây đã
được phép được tham gia nhập khẩu, sản xuất vàng miếng sẽ vẫn tiếp tục được cấp
hạn ngạch và tổ chức sản xuất tuy nhiên sẽ ban hành các tiêu chuẩn về tài chính, kỹ
thuật, quy trình công nghệ và quy trình quản lý giám sát sản xuất để hạn chế dần số
-83-
lượng doanh nghiệp được phép (nhất là những doanh nghiệp có quy mô nhỏ, thị
phần ít, đã khấu hao xong dây chuyền máy móc thiết bị và không đổi mới được
công nghệ, khó có điều kiện sản xuất được vàng theo tiêu chuẩn quốc tế được các tổ
chức quốc tế công nhận). Theo hướng này, từ sau 2015-2020, các doanh nghiệp nhỏ
sẽ không được nhập khẩu trực tiếp, họ chỉ mua lại vàng nguyên liệu từ các nhà nhập
khẩu chủ lực để sản xuất vàng theo tiêu chuẩn, trọng lượng truyền thống của Việt
Nam.
Ngân hàng nhà nước
Việt Nam Văn phòng công nhận
chất lượng vàng
Giám sát,
kiểm soát và
công nhận
chất lượng Cấp giấy
phép, quota,
giám sát sản
xuất Cơ sở gia công
vàng trang sức,
mỹ nghệ
Quản lý
Giao dịch
Cửa hàng bán lẻ
vàng miếng Vàng nguyên
liệu tiêu
chuẩn quốc
tế Doanh nghiệp
có giấy phép
sản xuất vàng
miếng
Ngân hàng thương
mại là thành viên
Sở giao dịch vàng
Sơ đồ 3.1: Đề xuất quy trình quản lý sản xuất vàng miếng ở Việt Nam
Nói khác đi, trong dài hạn, thị trường vàng hàng hóa ở Việt Nam sẽ lưu hành
song song ba loại vàng: vàng theo tiêu chuẩn quốc tế được sản xuất bởi các nhà sản
xuất uy tín trên thế giới; vàng theo tiêu chuẩn quốc tế do các công ty Việt Nam sản
xuất được các tổ chức quốc tế công nhận; vàng theo tiêu chuẩn truyền thống của
Việt Nam. Trong đó hai loại vàng đầu tiên sẽ là sản phẩm chủ lực được giao dịch
phổ biến qua sở giao dịch, loại sản phẩm thứ ba sẽ chỉ còn giao dịch trên thị trường
OTC và sẽ không còn quá thông dụng.
-84-
3.2.4. Về kinh doanh vàng miếng
Theo chúng tôi cần sớm chấm dứt quy định NHNN cấp phép hoạt động kinh
doanh vàng miếng như quy định tại nghị định 24/2012/NĐ-CP. Thay vào đó, quay
trở lại theo tinh thần của nghị định 174/1999/NĐ-CP ngày 9/12/1999, theo đó hoạt
động kinh doanh vàng miếng không qua sàn (giao dịch OTC) là hoạt động kinh
doanh có điều kiện nhưng không cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh mà
doanh nghiệp chỉ cần đăng ký và cam kết đủ điều kiện, cơ quan quản lý kiểm tra và
giám sát. Như vậy, hơn 12.000 cửa hàng kinh doanh vàng đã tồn tại trước khi nghị
định 24/2012/NĐ-CP có hiệu lực kể từ 01/5/2012 sẽ vẫn tiếp tục đủ điều kiện pháp
lý để mua bán vàng miếng như trước đây.
Trong giai đoạn chưa tổ chức được Sở giao dịch vàng hoàn chỉnh, nhà đầu tư
giao dịch vàng miếng có thể lực chọn giao dịch bằng một trong hai phương thức:
giao dịch nhận vàng trực tiếp giữa nhà đầu tư với hệ thống cửa hàng bán lẻ của nhà
sản xuất hoặc các cơ sở kinh doanh vàng vật chất (tiệm vàng); giao dịch thông qua
tài khoản vàng mở tại ngân hàng thương mại.
Khi nhà đầu tư đã quen với việc giao dịch vàng tài khoản đồng thời cơ quan
quản lý có đủ thời gian để hiệu chỉnh mô hình, chuẩn bị đầy đủ cơ sở vật chất kỹ
thuật và con người, sẽ thành lập Sở giao dịch vàng vật chất nhằm đưa hoạt động
giao dịch vàng trên thị trường sẽ diễn ra qua Sở giao dịch là chủ yếu. Đây là điểm
mấu chốt có vai trò quan trọng nhất để lập lại trật tự và đem lại sự ổn định cho thị
trường vàng Việt Nam. Việc tổ chức hoạt động giao dịch vàng tài khoản qua Sở
giao dịch vàng sẽ đem lại các lợi ích sau đây:
Tập trung được giao dịch vàng vật chất quy về đầu mối lớn để nhà nước có
điều kiện quản lý, giám sát và điều chỉnh chính sách kịp thời vì giao dịch trên
sàn giao dịch phản ánh phần lớn quan hệ cung cầu trên thị trường. Đảm bảo
được sự vận hành theo cơ chế thị trường của thị trường vàng, bình ổn được
thị trường vàng.
-85-
Chuẩn hóa được giao dịch trên thị trường vàng trong nước để từng bước phù
hợp với thông lệ quốc tế, tạo được mối liên thông với thị trường vàng thế
giới. Giá cả hình thành trên Sở giao dịch (sử dụng giá tham chiếu theo giá thế
giới) sẽ giúp giá vàng trong nước liên thông với giá vàng thế giới. Khi các
giao dịch trong nước được thực hiện tham chiếu theo giá thế giới, các lực
lượng giao dịch ở Việt Nam sẽ không đủ sức để làm giá trên thị trường nhờ
vậy tránh được sự hỗn loạn của thị trường.
Hoạt động của Sở giao dịch vàng sẽ làm chất dứt sự phát triển tự phát của
các sàn giao dịch vàng chui bất hợp pháp gây rối loạn thị trường và rủi ro cho
nhà đầu tư, ảnh hưởng tiêu cực đến việc quản lý ngoại hối.
Tạo điều kiện thuận lợi cho việc đầu tư kinh doanh, tìm kiếm lợi nhuận trên
thị trường vàng của các nhà đầu tư. Với việc giao dịch được chuẩn hóa,
những nhà đầu tư vàng sẽ có đủ điều kiện, công cụ để phòng ngừa rủi ro. Thị
trường sẽ đi vào khuôn khổ theo “luật chơi” chung, hạn chế tối đa các thủ
thuật làm giá, chi phối thị trường, tạo sự an tâm cho người dân từ đó góp
phần làm giảm đi nhu cầu cất trữ, nắm giữ vàng chỉ vì mục đích cất trữ, giảm
chi phí sản xuất vàng miếng theo tiêu chuẩn Việt Nam.
Thông qua hoạt động Sở giao dịch vàng, các tổ chức được phép sẽ huy động
được lượng vàng lớn trong dân quy về một mối để thuận tiện cho công tác
quản lý, giám sát và từ đó giúp cơ quan quản lý đánh giá chính xác hơn vai
trò, ảnh hưởng của vàng đối với nền kinh tế nhằm giúp các nhà quản lý có
quyết sách đúng đắn và phù hợp hơn.
Thông qua việc tham hoạt động trên Sở giao dịch vàng, các ngân hàng
thương mại có thể huy động vàng từ trong dân chúng và sử dụng số lượng
vàng này cho giao dịch trên Sở giao dịch (với điều kiện phải tuân thủ quy
định khắt khe về quản trị rủi ro) để tìm kiếm lợi nhuận mà không phải sử
dụng số lượng vàng đã huy động để cho vay. Vì vậy, tuy chấm dứt việc cho
-86-
vay vàng nhưng các ngân hàng vẫn có thể tiếp tục huy động vàng từ dân
chúng và trả lãi hợp lý cho người gửi tiền tránh được việc dân chúng phải tự
nắm giữ vàng vừa rủi ro vừa không có được lợi nhuận.
Những lợi ích nêu trên của Sở giao dịch vàng nếu được tổ chức theo đúng
nguyên tắc, chuẩn mực và thông lệ quốc tế là hoàn toàn đáp ứng và góp phần quan
trọng cho việc đạt đến ba mục tiêu của cơ chế quản lý thị trường vàng đã đề cập ở
mục 3.1. Chi tiết về tổ chức quản lý Sở giao dịch vàng và việc giao dịch vàng qua
tài khoản sẽ được đề cập ở mục 3.3.
3.2.5. Về kinh doanh vàng tài khoản ở nước ngoài
Song song với việc đưa vào hoạt động sở giao dịch vàng sẽ được trình bày cụ
thể ở mục 3.3, cần cho phép các ngân hàng thương mại và các công ty được phép
nhập khẩu, sản xuất vàng miếng là thành viên của Sở giao dịch vàng được phép mở
tài khoản vàng ở nước ngoài và kinh doanh vàng trên tài khoản này.
Tuy nhiên, việc tổ chức quản lý giám sát rủi ro nhất là kiểm soát mức độ tuân
thủ trạng thái vàng của các tổ chức này cần được thực hiện chặt chẽ, nghiêm ngặt để
đảm bảo rủi ro nằm trong mức chấp nhận, tránh được sự đỗ vỡ.
3.2.6. Về hoạt động huy động, cho vay vàng
Các ngân hàng thương mại là thành viên của Sở giao dịch vàng sẽ được phép
huy động vàng có trả lãi và được sử dụng một phần số vàng này để giao dịch trên sở
giao dịch vàng. Tùy theo đặc thù của từng giai đoạn, NHNN sẽ điều chỉnh trạng thái
vàng thích hợp của các ngân hàng này nhưng phải đảm bảo tuân thủ nghiêm ngặt
trạng thái vàng theo đúng quy định của các tổ chức này.
Trong giai đoạn đầu, khi sở giao dịch vàng chỉ thuần túy tổ chức giao dịch vàng
vật chất và không cho phép sử dụng đòn bẩy thì sẽ không cho phép các ngân hàng
thương mại cho vay giải ngân vàng vật chất.
-87-
Trong dài hạn, khi cho phép sử dụng các công cụ phái sinh trên Sở giao dịch
vàng và cho phép sử dụng đòn bẩy trong giao dịch vàng thì có thể cho phép các
ngân hàng thương mại là thành viên của Sở giao dịch vàng được phép cho vay bằng
vàng nhưng không giải ngân vàng vật chất, cho phép sử dụng chứng chỉ vàng trong
huy động vàng đồng thời giao dịch các chứng chỉ này trên Sở giao dịch vàng hoặc
Sở giao dịch hàng hóa phái sinh và thành lập các quỹ ETF vàng.
Như vậy, một mặt vẫn đảm bảo các ngân hàng thương mại đủ điều kiện sẽ được
tham gia hoạt động trên Sở giao dịch vàng nhưng mặt khác sẽ không làm gia tăng
vấn nạn vàng hóa trong nền kinh tế vì góp phần hạn chế việc giao dịch trao tay vàng
vật chất nên sẽ làm giảm việc nắm giữ vàng vật chất trong dân chúng.
3.2.7. Về quản lý chất lượng
Việc NHNN vừa là cơ quan quản lý thị trường, vừa là cơ quan tổ chức sản xuất
vàng miếng sẽ không đảm bảo khách quan trong việc chứng nhận chất lượng vàng
miếng thành phẩm.
Mặt khác, khi cho phép nhiều thương hiệu vàng cùng tồn tại thì rất cần thiết
phải chuẩn hóa việc quản lý chất lượng các sản phẩm vàng của các thương hiệu
vàng khác nhau.
Ngoài ra, để tạo được sự liên thông giữa thị trường vàng trong nước với thị
trường vàng thế giới thì sản phẩm/hàng hóa giao dịch trên thị trường phải được
chuẩn hóa theo thông lệ quốc tế.
Vì vậy, Việt Nam cần thành lập Văn phòng công nhận chất lượng vàng độc lập
với NHNN, độc lập với Sở giao dịch vàng để chịu trách nhiệm quản lý chất lượng
vàng miếng và cấp chứng nhận thương hiệu vàng miếng đạt chất lượng của các nhà
sản xuất vàng miếng.
-88-
Từ mục tiêu đã nêu và các khuyến nghị nêu trên, theo chúng tôi, việc quản lý
thị trường vàng ở Việt Nam có thể thực hiện theo mô hình như sơ đồ tổ chức 3.2.
CHÍNH PHỦ
MOST
Quản lý chất
lượng SBV
Quản lý hoạt động sản
xuất, kinh doanh vàng
Quản lý Sở giao dịch vàng MONRE
Quản lý nhà
nước về
khoáng sản MOF
Chính sách
thuế GTGT,
TNDN
Kho
vàng
Cất trữ,
lưu ký,
giao
vàng
vật chất
SX, KD
trang
sức
Tổ chức,
cá nhân
SX vàng
trang
sức, mỹ
nghệ
Sở giao
dịch
vàng
Quản lý
hoạt động
giao dịch
vàng vật
chất qua
tài khoản
Ngân
hàng
thương
mại
Thành
viên của
Sở giao
dịch vàng
Doanh
nghiệp
Thăm
dò, khai
thác,
tinh
luyện
vàng
khoáng
sản
Tổ chức
NK, SX
vàng
miếng
NK, SX,
KD vàng
miếng
theo giấy
phép của
NHNN
VP công
nhận
chất
lượng
vàng
GS,KS,
đánh giá,
cấp công
nhận đạt
chuẩn
Quản lý
Giao dịch
Nhà đầu tư
Sơ đồ 3.2: Đề xuất mô hình tổ chức quản lý thị trường vàng ở Việt Nam
3.3. TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG CỦA SỞ GIAO DỊCH VÀNG VÀ QUẢN LÝ
KINH DOANH VÀNG TÀI KHOẢN Ở VIỆT NAM
3.3.1. Cơ quan quản lý Sở giao dịch vàng
Theo quy định hiện nay ở Việt Nam, Ủy ban chứng khoán nhà nước thuộc Bộ
Tài chính là cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động của Sở giao dịch chứng khoán.
-89-
Ngoài ra một số sàn giao dịch hàng hóa kể cả hàng hóa giao sau được các công ty
kinh doanh thành lập chịu sự quản lý của Bộ Công thương. Vì vậy, về tổng thể có
thể thấy có ba phương án quản lý Sở giao dịch vàng: hoặc Ủy ban chứng khoán nhà
nước, hoặc Bộ Công thương, hoặc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Mỗi phương án
đều có những thuận lợi và khó khăn nhất định tuy nhiên theo chúng tôi, NHNN nên
là cơ quan quản lý nhà nước trực tiếp Sở giao dịch vàng vì các lý do sau đây:
Kỹ thuật giao dịch vàng có sự khác biệt lớn so với giao dịch chứng khoán
nên không thể sử dụng cơ sở hạ tầng sẵn có của Sở giao dịch chứng khoán
để tổ chức Sở giao dịch vàng. Còn nếu tổ chức Sở giao dịch độc lập với Sở
giao dịch chứng khoán hiện này thì việc Ủy ban chứng khoán nhà nước quản
lý giao dịch vàng sẽ không hợp lý trong bối cảnh hiện nay ở Việt Nam vì
các công ty chứng khoán hiện nay - là thành viên của Sở giao dịch chứng
khoán - không đủ điều kiện trở thành thành viên của Sở giao dịch vàng để
cho các cá nhân, tổ chức mở tài khoản giao dịch tại đây.
Mặc dù Bộ Công thương là cơ quan quản lý nhà nước về các sàn giao dịch
hàng hóa công nghiệp (cafe, tiêu, điều, .v.v.) nhưng hiện vẫn chưa tổ chức
được sàn giao dịch hàng hóa độc lập. Các sàn giao dịch hàng hóa hiện nay
đều do các công ty tổ chức, không đảm bảo tính độc lập và công nghệ không
đảm bảo để triển khai giao dịch vàng.
NHNN là cơ quan quản lý nhà nước về cả vàng hàng hóa và vàng vật chất,
có đầy đủ công cụ, kỹ thuật để quản lý tốt nhất Sở giao dịch vàng. Hơn nữa,
các thành viên của Sở giao dịch vàng sẽ là các công ty sản xuất vàng miếng
và các ngân hàng thương mại đủ điều kiện mà hai đối tượng này đang chịu
sự quản lý của NHNN. Nhà đầu tư muốn giao dịch trên Sở giao dịch vàng
phải mở tài khoản kinh doanh vàng tại NHTM và lưu ký vàng vật chất tại
kho vàng (cũng do NHNN quản lý) thông qua NHTM nơi mình mở tài
khoản kinh doanh vàng. Các NHTM là tổ chức đủ điều kiện về công nghệ,
-90-
quản trị để quản lý tài khoản kinh doanh vàng của nhà đầu tư. Các NHTM
cũng là tổ chức đã có kinh nghiệm, đủ năng lực để tham gia kinh doanh
vàng trên Sở giao dịch vàng trong khi các công ty chứng khoán Việt nam
hiện nay hoàn toàn chưa có kinh nghiệm kinh doanh vàng đồng thời chức
năng không cho phép họ có đủ năng lực để kiểm soát rủi ro khi tham gia
kinh doanh vàng.
3.3.2. Vai trò, chức năng của Sở giao dịch vàng
Để đảm bảo an toàn cho hoạt động giao dịch, Sở giao dịch vàng sẽ được tổ chức
theo mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên thuộc sở hữu nhà nước
nhằm đạt được các mục đích cơ bản như sau:
Bảo đảm hoạt động giao dịch vàng trên Sở giao dịch được tiến hành công
khai, công bằng, trật tự và hiệu quả;
Đảm bảo giảm thiểu rủi ro trong giao dịch, thanh toán và cung cấp cơ sở hạ
tầng tốt nhất, công nghệ mới nhất;
Tổ chức giao dịch trực tuyến cho nhà đầu tư với sự bảo mật, an toàn cao
nhất;
Hợp lý hóa chi phí giao dịch ở mức tối ưu;
Thực hiện công bố thông tin về giao dịch vàng, thông tin về các thành viên
và thông tin giám sát hoạt động của thị trường vàng.
3.3.3. Một số quy định chi tiết về cơ chế giao dịch vàng tài khoản
Trên cơ sở tham khảo hoạt động giao dịch của các sàn giao dịch vàng ở Ấn Độ,
Trung Quốc và một số nước khác, đồng thời dựa trên thực trạng của thị trường vàng
Việt Nam hiện nay, chúng tôi đề xuất một số gợi ý như sau:
3.3.3.1. Nhà đầu tư
-91-
Nhà đầu tư phải mở tài khoản giao dịch tại ngân hàng thành viên và ký gửi vàng
vật chất theo tiêu chuẩn giao dịch tại kho vàng của NHNN. Nhà đầu tư không được
phép bán khống, không được sử dụng đòn bẩy khi giao dịch, không được cùng đặt
đồng thời lệnh bán và lệnh mua khi lệnh chưa được khớp. Số dư tiền trên tài khoản
tiền và số dư vàng trên tài khoản phải đủ để thực hiện lệnh khi nhà đầu tư đặt lệnh.
3.3.3.2. Thành viên
Chỉ có ngân hàng thương mại và công ty sản xuất vàng miếng đạt đầy đủ các
quy định của NHNN và Sở giao dịch vàng mới được nộp hồ sơ đăng ký trở thành
thành viên của Sở giao dịch vàng. Thành viên là các công ty sản xuất vàng miếng
chỉ được tự doanh. Thành viên là các ngân hàng thương mại có thể tự doanh hoặc
môi giới.
3.3.3.3. Hàng hóa giao dịch
Thời gian đầu, chỉ những thương hiệu vàng của các công ty sản xuất trong nước
được Văn phòng công nhận chất lượng vàng cấp công nhận và được Sở giao dịch
vàng cấp phép mới được phép giao dịch. Về lâu dài, cho phép lưu hành vàng tiêu
chuẩn quốc tế của các nhà sản xuất uy tín trên thế giới giao dịch trên Sở giao dịch
vàng.
3.3.3.4. Hệ thống giao dịch
Sở giao dịch vàng cần được xây dựng trên nền tảng công nghệ hiện đại, cho
phép giao dịch khớp lệnh hoàn toàn tự động và trực tuyến (online). Nhà đầu tư đặt
lệnh giao dịch thông qua các ngân hàng thương mại thành viên (trừ công ty sản xuất
vàng miếng là thành viên của Sở được đặt lệnh trực tiếp), sau đó lệnh sẽ được ngân
hàng thương mại thành viên chuyển tự động trực tuyến đến hệ thống nhận lệnh của
Sở giao dịch.
-92-
Trong 1-2 năm đầu tiên triển khai sẽ chỉ cho phép thực hiện hai loại lệnh là lệnh
giới hạn và lệnh thị trường theo phương thức khớp lệnh liên tục. Việc so khớp lệnh
được thực hiện theo nguyên tắc ưu tiên 1 về giá và ưu tiên 2 về thời gian.
3.3.3.5. Thời gian giao dịch
Thời gian đầu, có thể chỉ triển khai giao dịch vào buổi sáng từ 9h00 đến 11h00,
sau tăng lên buổi chiều từ 13h00 đến 15h00 hoặc kéo dài liên tục từ 9h00 đến 14h00
hàng ngày làm việc.
Khi thị trường hoạt động ổn định và chuẩn bị đủ điều kiện về hạ tầng công nghệ
và cơ chế quản lý rủi ro, có thể triển khai giao dịch theo giờ giao dịch của thị trường
London (giao dịch ban đêm) để gia tăng sự kết nối, liên thông với thị trường vàng
thế giới.
3.3.3.6. Đơn vị giao dịch
Thời gian đầu khi chỉ giao dịch vàng miếng đạt chuẩn trong nước, đơn vị giao
dịch là lượng (37,5gram) với khối lượng giao dịch tối thiểu là 1 lượng, khối lượng
giao dịch tối đa là 100 lượng (tùy theo tình hình có thể nâng dần mức tối đa nhưng
đảm bảo kiểm soát được tình hình). Nói khác đi, cần phải thiết lập hạn mức giao
dịch tối đa để đảm bảo sự vận hành an toàn, ổn định của sàn giao dịch và chỉ nới
lỏng dần hạn mức giao dịch khi thị trường đã phát triển.
Theo tiến trình đề xuất ở mục 3.2, khi chuyển dần vàng miếng tiêu chuẩn Việt
Nam từ đơn vị đo lường lượng sang ounce và kg theo thông lệ quốc tế thì bổ sung
thêm các loại vàng có đơn vị giao dịch là kg.
3.3.3.7. Giá và đơn vị yết giá
Giá tham chiếu đầu phiên giao dịch là giá cùng thời điểm với giá vàng thế giới
tại Singapore hoặc giá giao dịch công bố của London Gold Market Fixing Ltd tùy
-93-
theo thời điểm bắt đầu phiên giao dịch sau khi đã cộng thêm chi phí vận chuyển, phí
bảo hiểm vào Việt Nam.
Đơn vị yết giá là 1.000 VND và bước giá là 1.000 VND. Việc quy đổi giá vàng
theo USD sang VND thực hiện theo tỷ giá trung bình mua bán của USD/VND niêm
yết của Vietcombank.
3.3.3.8. Biên độ giá và ngưỡng tạm ngừng giao dịch
Đề xuất biên độ giá cơ bản hàng ngày là ± 2% và mở rộng hơn khi thị trường
phát triển.
3.3.3.9. Lệnh giao dịch
Để đảm bảo thị trường vận hành an toàn, trong giai đoạn đầu chỉ cho phép sử
dụng lệnh giới hạn và lệnh thị trường để giao dịch và tất cả đều áp dụng giao dịch
giao ngay (T+1).
3.3.3.10. Thời hạn thanh toán, thời hạn giao hàng và địa điểm giao hàng
Hệ thống giao dịch, lưu ký, thanh toán bù trừ phải đảm bảo thực hiện tự động
để thời hạn thanh toán là T+1. Đối với các giao dịch rút vàng vật chất từ kho vàng
áp dụng thời gian giao hàng là T+2 và địa điểm giao hàng là TP.HCM hoặc Hà Nội.
Có thể giao hàng tại các địa điểm có kho vàng của NHNN nhưng sẽ phụ thu phí vận
chuyển. Phí vận chuyển do NHNN quy định.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Chương 3 đã phân tích để đề xuất ba mục tiêu cần hướng đến khi xây dựng cơ
chế quản lý thị trường vàng Việt Nam là i.tạo lập thị trường vàng hàng hóa hoạt
động theo nguyên tắc của cơ chế thị trường và duy trì được sự liên thông chặt chẽ
-94-
giữa thị trường vàng hàng hóa trong nước với thị trường vàng hàng hóa thế giới;
ii.giảm thiểu sự tác động tiêu cực của những biến động thị trường vàng đến kinh tế
vĩ mô; iii.giảm dần vai trò của vàng như là tiền tệ và tiến đến việc chấm dứt tình
trạng vàng hóa trong nền kinh tế. Trên cơ sở đó, đề tài đã đưa ra các đề xuất cần
thay đổi trong cơ chế quản lý thị trường vàng Việt Nam ở tất cả các khía cạnh bao
gồm: cơ quan quản lý, quản lý xuất khẩu nhập khẩu, quản lý sản xuất vàng miếng,
quản lý kinh doanh vàng vật chất, quản lý kinh doanh vàng tài khoản ở nước ngoài,
quản lý việc huy động, cho vay vàng vật chất và quản lý chất lượng vàng. Những đề
xuất này là cơ sở để tạo nền tảng và tiền đề cho việc tổ chức giao dịch vàng tài
khoản để tiến đến đưa vào hoạt động Sở giao dịch vàng vật chất phù hợp với đặc
thù của Việt Nam.
-95-
KẾT LUẬN
Đề tài đã hệ thống hóa được các lý luận liên quan đến vàng, thị trường vàng và
vấn đề quản lý thị trường vàng trên cơ sở tách bạch rõ giữa vàng tiền tệ, vàng hàng
hóa để nhận diện rõ các nội dung cơ bản của cơ chế quản lý vàng. Bên cạnh đó, đề
tài cũng đã đi vào phân tích sâu sự tiến triển cơ chế quản lý thị trường vàng của Ấn
Độ, Trung Quốc là hai quốc gia có văn hóa, tập quán sử dụng vàng có nhiều nét
tương đồng với Việt Nam. Từ những phân tích này, đề tài đã rút ra được những đúc
kết quan trọng trong kinh nghiệm quản lý thị trường vàng của hai nước này là bài
học tham khảo giá trị để sử dụng khi đề xuất cơ chế quản lý vàng ở Việt Nam. Phân
tích này cũng đã đề cập chi tiết đến tổ chức hoạt động của Sở giao dịch vàng vật
chất và kỹ thuật giao dịch vàng tài khoản.
Từ những nội dung nêu trên, đề tài đã thực hiện phân tích toàn diện cơ chế quản
lý thị trường vàng ở Việt Nam và những tác động của cơ chế này đến sự ổn định của
thị trường vàng ở Việt Nam đồng thời chỉ ra những bất cập của cơ chế này. Trên cơ
sở đó, đề tài đã đề xuất ba mục tiêu mà cơ chế quản lý thị trường vàng ở Việt Nam
cần hướng đến. Từ đó đề xuất những gợi ý cho việc xây dựng cơ chế quản lý thị
trường vàng ở Việt Nam phù hợp với hiện trạng kinh tế và đặc thù của Việt Nam
trong đó tập trung các đề xuất chi tiết đối với việc xây dựng và tổ chức vận hành
hoạt động giao dịch vàng tài khoản thông qua Sở giao dịch vàng vật chất. Những đề
xuất, gợi ý nêu trên mang tính khả thi có thể triển khai thực hiện ở Việt Nam để đạt
được việc ổn định thị trường vàng, giảm thiểu tác động của bất ổn trên thị trường
vàng đến các chỉ số kinh tế vĩ mô và liên thông được thị trường vàng Việt Nam với
thị trường thế giới, giảm thiểu tình trạng vàng hóa trong nền kinh tế./.
-96-
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Nguyễn Vân Anh (2009), Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý kinh doanh
vàng theo chức năng của Ngân hàng Trung ương, Đề tài nghiên cứu khoa
học cấp ngành-Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Hà Nội.
2. Nguyễn Hữu Định (1996), Kinh doanh vàng tài khoản tại thành phố Hồ Chí
Minh: Chính sách và giải pháp, NXB TP.Hồ Chí Minh.
3. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (1999-2011), Báo cáo thường niên hàng
năm, Hà Nội.
4. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (_______), Kinh nghiệm quản lý thị trường
vàng ở Trung Quốc và Ấn Độ, Hà Nội.
Tiếng Anh
5. Peter L. Bernstein (2004), The power of Gold, John Wiley & Sons, New
York.
6. Himadri Bhattacharya (2002), Deregulation of gold in India, WGC, London.
7. Nigel Desebrock (_______), An introduction to the Indian gold market,
Virtual metal Research & Cosulting Ltd., India.
8. Vuong Quan Hoang (2004), Analyses on Gold and US Dollar in Vietnam's
Transitional Economy, Working Paper Centre Emile Bernheim WP-CEB No.
04-033.
9. IMF (_______), Balace of Payment Manual, Washington DC.
10. Rabi N. Mishra and G. Jagan Mohan (2012), Gold Prices and Financial
Stability in India, Reserve Bank of India, India.
-97-
11. National Mining Assosiation (2001), The history of Gold, Washington DC.
12. London Bullion Market Assosiation (2011), Chinese gold market: past,
present and Future, London
13. London Bullion Market Assosiation (2009), A guide to the London Precious
metal markets, London.
14. Gary O’Callaghan (1993), The structure and Operation of the world gold
market, IMF, Washington DC.
15. Reserve Bank of India (2006), Report of the Committee on Fuller Capital
Account Convertibility, India.
16. Shen Xiangrong (2004), The Foundation and Development of the Chinese
Gold Market, Shanghai Gold Exchange, China.
17. Wang Zhe (2004), Prospects for the Chinese Private Gold Market, London
Bullion Market Assosiation, London.
18. Roland Wang (2003), The Liberalisation of the Gold Bullion Market in
China: “Crouching Tiger and Hidden Dragon” or “Hero”?, WGC, China.
19. Shanghai Gold Exchange (2011), China gold market report 2011, Shanghai,
China.
20. World Gold Council (2010), An investor’s guide to the gold market, US
edition, London.
21. World Gold Council (2010), An investor’s guide to the gold market, UK
edition, London.
22. World Gold Council (2010), An investor’s guide to the gold market,
European edition, London.
-98-
23. World Gold Council (2010), China Gold Report: Gold in the Year of the
Tiger, London.
24. World Gold Council (1999-2012), Gold demand trends, London.
25. World Gold Council (2009), Liquidity in the global gold market, London.
26. World Gold Council (2010), The importance of gold in reserve asset
management, London.
27. World Gold Council (2011), The role of gold in India, London.
28. World Gold Council (2006), The role of Gold in India, London.
29. Barry M. Wainstein (2009), The role of gold in global market, Canada.
30. Zhao Wenjian (2011), Chinese Gold Market Evolution – a Boom or a
Bubble?, London Bullion Market Assosiation, London.
31. Zhao Wenjian (2011), Commercial banking business in Chinese gold market,
ICBC, China.
32. Websites: http://www.mcxindia.com/home.aspx, Multi Commodity
Exchange, Mumbai, India.
33. Websites: http://www.ncdex.com/, National Commodity and Derivatives
Exchange, Mumbai, India
34. Websites: http://www.sge.sh/publish/sgeen/, Shanghai Gold Exchange,
Shanghai, China.
35. Websites: http://www.shfe.com.cn, Shanghai Futures Exchange, Shanghai,
China.