BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM



NGUYỄN HỒ MINH CHÂU

CƠ CHẾ QUẢN LÝ THỊ TRƯỜNG VÀNG VÀ KINH DOANH VÀNG TÀI KHOẢN Ở VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP.HỒ CHÍ MINH, NĂM 2012

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM

 NGUYỄN HỒ MINH CHÂU

CƠ CHẾ QUẢN LÝ THỊ TRƯỜNG VÀNG VÀ KINH DOANH VÀNG TÀI KHOẢN Ở VIỆT NAM

CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ TÀI CHÍNH-NGÂN HÀNG

MÃ SỐ

: 60.31.12

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS TRẦN HUY HOÀNG

TP.HỒ CHÍ MINH, NĂM 2012

-i-

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân. Các số liệu và kết

quả nghiên cứu đã công bố của những tác giả khác nêu trong luận án đều được trích

dẫn rõ nguồn và dẫn rõ tên tác giả. Các kết quả tính toán, nghiên cứu của tôi là

trung thực và chính xác.

TP.HCM, ngày 25 tháng 11 năm 2012

Tác giả

Nguyễn Hồ Minh Châu

-ii-

MỤC LỤC

Trang phụ bìa

Lời cam đoan

Mục lục

Danh mục các chữ viết tắt, ký hiệu

Danh mục các bảng

Danh mục các đồ thị

Danh mục các hình vẽ

MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1

Chương 1: Tổng quan về cơ chế quản lý thị trường vàng và hoạt

động kinh doanh vàng tài khoản. .................................................. 7

1.1. Khái quát về vàng ........................................................................................ 7

1.1.1. Vàng .......................................................................................................... 7

1.1.2. Cầu vàng ................................................................................................... 8

1.1.3. Cung vàng ............................................................................................... 10

1.2. Thị trường vàng và kinh doanh vàng tài khoản ...................................... 12

1.2.1. Thị trường vàng vật chất và kinh doanh vàng tài khoản ........................ 12

1.2.2. Thị trường chứng chỉ vàng ...................................................................... 16

1.3. Cơ chế quản lý thị trường vàng ................................................................ 16

1.4. Cơ chế quản lý thị trường vàng ở các nước ............................................. 18

1.4.1. Ấn Độ ...................................................................................................... 18

1.4.2. Trung Quốc ............................................................................................. 25

-iii-

1.5. Nhận xét chung về cơ chế quản lý thị trường vàng ............................... 31

Kết luận chương 1 ............................................................................................ 33

Chương 2: Cơ chế quản lý thị trường vàng và kinh doanh vàng tài

khoản ở Việt Nam ......................................................................... 35

2.1. Cơ chế quản lý thị trường vàng trước 1999 ............................................. 35

2.1.1. Trước 1975 .............................................................................................. 35

2.1.2. Từ 1975 đến 1989 .................................................................................... 36

2.1.3. Từ 1990 đến 1999 .................................................................................... 36

2.2. Cơ chế quản lý thị trường vàng và kinh doanh vàng tài khoản từ

2000 đến 2012 ............................................................................................ 38

2.2.1. Cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành ............................................... 40

2.2.2. Quản lý khai thác .................................................................................... 40

2.2.3. Quản lý xuất khẩu, nhập khẩu ................................................................ 42

2.2.4. Quản lý sản xuất, gia công vàng ............................................................. 43

2.2.5. Quản lý kinh doanh, giao dịch vàng vật chất ......................................... 44

2.2.6. Quản lý giao dịch vàng qua tài khoản ở nước ngoài .............................. 45

2.2.7. Quản lý huy động, cho vay vàng ............................................................. 46

2.2.8. Quản lý chất lượng vàng ......................................................................... 48

2.2.9. Phân tích diễn biến thị trường vàng ....................................................... 48

2.3. Nhận định về thành công và hạn chế của cơ chế quản lý thị

trường vàng ở Việt Nam hiện nay .......................................................... 61

Kết luận chương 2 ............................................................................................ 74

-iv-

Chương 3: Đề xuất về cơ chế quản lý thị trường vàng và kinh

doanh vàng tài khoản ở Việt Nam ............................................. 75

3.1. Mục tiêu của cơ chế quản lý thị trường vàng ở Việt Nam ......................... 75

3.2. Một số đề xuất về cơ chế quản lý thị trường vàng ở Việt Nam .................. 79

3.2.1. Cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành ............................................... 80

3.2.2. Quản lý xuất khẩu, nhập khẩu vàng nguyên liệu .................................... 80

3.2.3. Quản lý sản xuất, gia công vàng miếng .................................................. 81

3.2.4. Quản lý kinh doanh vàng miếng ............................................................. 84

3.2.5. Quản lý giao dịch vàng qua tài khoản ở nước ngoài .............................. 86

3.2.6. Quản lý huy động, cho vay vàng ............................................................. 86

3.2.7. Quản lý chất lượng vàng ......................................................................... 87

3.3. Tổ chức quản lý Sở giao dịch vàng và quản lý kinh doanh vàng

tài khoản ở Việt Nam ................................................................................ 88

3.3.1. Cơ quan quản lý sở giao dịch vàng ......................................................... 88

3.3.2. Vai trò, chức năng của Sở giao dịch vàng .............................................. 90

3.3.3. Một số quy định chi tiết về giao dịch vàng tài khoản ............................. 90

Kết luận chương 3 ............................................................................................ 93

KẾT LUẬN ..................................................................................................... 95

Danh mục tài liệu tham khảo .......................................................................... 95

-v-

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Từ viết tắt Tiếng Anh Tiếng Việt

ACB Asia Commercial Bank Ngân hàng TMCP Á Châu

CBGA Central Bank Gold Agreement Hiệp định vàng ngân hàng trung

ương

ETF Exchange Traded Funds Quỹ đầu tư ETF

IMF International Monetary Fund Quỹ tiền tệ quốc tế

LBMA London Bullion Market Hiệp hội thị trường vàng thoi

Association Luân đôn

MCX Sàn giao dịch vàng ở Ấn Độ

NHNN Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

OTC Giao dịch trao tay (không qua Over-the-counter sàn)

United State Dollar Đôla Mỹ USD

Saigon Jewelry Company Công ty vàng bạc đá quý Sài gòn SJC

The Shanghai Gold Exchange Sàn giao dịch vàng Thượng hải SGE

VCB Vietcombank Ngân hàng ngoại thương Việt

Nam

Vietnam Dong Đồng Việt Nam VND

World Gold Council Hội đồng vàng thế giới WGC

-vi-

DANH MỤC CÁC BẢNG

1. Bảng 1.1: Biến động cầu vàng từ 1999-2011

2. Bảng 1.2: Biến động cung vàng 2009-2011

3. Bảng 2.1: Quy định về giấy phép hoạt động kinh doanh vàng từ 2000 đến 2011

4. Bảng 2.2: Thuế suất thuế nhập khẩu vàng từ 1999-2011

5. Bảng 2.3. Cung cầu vàng ở Việt Nam từ 2000 đến 2005

6. Bảng 2.4. Cung cầu vàng ở Việt Nam từ 2006 đến 2011

-vii-

DANH MỤC CÁC ĐỒ THỊ

1. Đồ thị 1.1: Cầu vàng trung bình giai đoạn 2006-2010 chia theo khu vực

2. Đồ thị 1.2: Cung vàng trung bình giai đoạn 2006-2010 chia theo nguồn

3. Đồ thị 1.3: Mười quốc gia sản xuất vàng lớn nhất thế giới năm 2010

4. Đồ thị 1.4: Biến động giá vàng ở Ấn Độ và giá vàng thế giới

5. Đồ thị 1.5: Biến động giá vàng thế giới (USD/oz) và giá vàng tại Trung Quốc

(Yuan/oz)

6. Đồ thị 2.1: Biến động giá vàng giao ngay tại London (2000-2005)

7. Đồ thị 2.2: Tốc độ tăng cầu vàng và một số yếu tố liên quan (2000-2005)

8. Đồ thị 2.3: Biến động giá vàng giao ngay tại London (2006-2011)

9. Đồ thị 2.4: Tốc độ tăng cầu vàng và một số yếu tố liên quan (2006-2011)

10. Đồ thị 2.5: Biến động giá vàng SJC và giá vàng thế giới trong năm 2009

11. Đồ thị 2.6: Biến động giá vàng SJC và giá vàng thế giới từ 2010-2012

-viii-

DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ

1. Sơ đồ 1.1: Cấu trúc tổ chức quản lý thị trường vàng ở Ấn Độ

2. Sơ đồ 1.2: Cấu trúc tổ chức quản lý thị trường vàng ở Trung Quốc

3. Sơ đồ 2.1: Tổ chức quản lý thị trường vàng ở Việt Nam từ 2000 đến 2011

4. Sơ đồ 2.2: Tổ chức quản lý thị trường vàng ở Việt Nam từ 01/5/2012

5. Sơ đồ 3.1: Đề xuất quy trình quản lý sản xuất vàng miếng ở Việt Nam

6. Sơ đồ 3.2: Đề xuất mô hình tổ chức quản lý thị trường vàng ở Việt Nam

-1-

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Giao dịch vàng tài khoản là hoạt động kinh doanh phổ biến ở các nước phát

triển. Cùng với tiến trình hội nhập của lĩnh vực ngân hàng, ngày 18/01/2006, Ngân

hàng Nhà nước (NHNN) đã ban hành Quyết định 03/2006/QĐ-NHNN quy định về

việc kinh doanh vàng trên tài khoản ở nước ngoài. Tính đến cuối năm 2009, NHNN

đã cấp phép cho 11 ngân hàng và 8 doanh nghiệp kinh doanh vàng được kinh doanh

vàng tài khoản ở nước ngoài. Điều này đã đem lại tác động tích cực cho các tổ chức

kinh doanh vàng vì nhờ kinh doanh vàng tài khoản nước ngoài mà các tổ chức này

hạn chế được rủi ro, kiểm soát tốt hơn lợi nhuận và quan trọng hơn nữa là góp phần

giảm đi đáng kể chênh lệch giữa giá vàng trong nước, giá vàng nước ngoài.

Đối với việc kinh doanh vàng trong nước bao gồm cả giao dịch vàng trao tay và

giao dịch vàng tài khoản, cho đến cuối năm 2009, giữa các văn bản pháp lý của Việt

Nam vẫn còn rất nhiều mâu thuẫn, bất cập. Cụ thể, mặc dù theo Luật NHNN,

NHNN Việt Nam có chức năng quản lý hoạt động kinh doanh vàng, tuy nhiên Nghị

định 174/1999/NĐ-CP về quản lý hoạt động kinh doanh vàng chỉ giao cho NHNN

quản lý hoạt động xuất nhập khẩu vàng nguyên liệu, sản xuất vàng miếng. Bên cạnh

đó, theo Pháp lệnh Ngoại hối và Nghị định 160/2006/NĐ-CP thì NHNN quản lý

hoạt động xuất nhập khẩu vàng dưới dạng khối, thỏi, xu, miếng và hoạt động kinh

doanh vàng tài khoản ở nước ngoài. Vì vậy, nếu dựa trên tinh thần “công dân được

phép làm tất cả những gì luật không cấm”, quy định của Luật doanh nghiệp, Luật

thương mại và Nghị định 59/2006/NĐ-CP ngày 12/06/2006 thì các tổ chức, cá nhân

kinh doanh vàng trong nước (kể cả kinh doanh vàng tài khoản) chỉ cần đăng ký kinh

doanh và hoạt động kinh doanh theo Luật doanh nghiệp, Luật thương mại.

Trên thực tế, với hơn 20 sàn giao dịch vàng hoạt động sau hơn 2 năm kể từ khi

ACB thành lập Trung tâm giao dịch vàng Sài gòn ngày 25/05/2007, hoạt động kinh

-2-

doanh vàng tài khoản trong nước đã bộc lộ rất nhiều điểm bất hợp lý, đặc biệt là rủi

ro thực tế và nguy cơ tiềm ẩn rủi ro rất cao khi giá trị giao dịch hàng ngày ở các sàn

vàng ở thời điểm cuối năm 2009 lên đến hơn 10.000 tỷ đồng (gấp hơn 2 lần so với

doanh số giao dịch trên thị trường chứng khoán ở cùng thời điểm), dư nợ cho vay

trên các sàn vàng theo ước tính của NHNN lên đến hơn 2.000 tỷ đồng. Tuy nhiên,

khách quan nhìn nhận thì các rủi ro xảy ra trên thực tế và rủi ro tiềm ẩn chủ yếu là

do Việt Nam chưa có cơ chế quản lý đối với hoạt động kinh doanh vàng tài khoản.

Chưa có bất kỳ cơ quan quản lý nhà nước nào đứng ra nhận trách nhiệm quản lý,

ban hành quy chế hoạt động vì thế các sàn vàng đều hoạt động theo cơ chế “tự tung,

tự tác” với quy chế giao dịch do chính đơn vị tổ chức (và cũng là đơn vị tự doanh

vàng) ban hành. Nếu hoạt động của các sàn vàng được tổ chức chặt chẽ trên cơ sở

cơ chế quản lý công khai, minh bạch, logic, với đầy đủ các quy định chi tiết (về bán

khống, về tỷ lệ ký quỹ, về quản lý tiền của nhà đầu tư, .v.v.) phù hợp với thông lệ

quốc tế và bối cảnh của Việt Nam thì những lý do mà căn cứ vào đó Thủ tướng

Chính phủ, NHNN quyết định đóng cửa sàn vàng (ảnh hưởng đến điều hành chính

sách tiền tệ, một khối lượng vốn lớn được rút ra từ hoạt động sản xuất kinh doanh

để phục vụ cho các giao dịch kinh doanh vàng trên sàn vàng .v.v.) sẽ không có điều

kiện để “tồn tại”.

Hơn nữa, hiện nay và kể cả trong tương lai, việc xuất hiện ngày càng nhiều các

hoạt động biến tướng từ kinh doanh vàng tài khoản để lách luật. Mức độ sôi động

và doanh số giao dịch trên thị trường biến tướng có xu hướng tăng lên nhanh chóng,

tiềm ẩn nguy cơ rủi ro thậm chí còn cao hơn cả thời còn sàn vàng hoạt động. Cần

phải nhận thấy rằng, việc tìm kiếm lợi nhuận từ kinh doanh vàng tài khoản là hoạt

động không trái luật và cũng là nhu cầu chính đáng của các cá nhân và tổ chức, do

vậy dùng mệnh lệnh hành chính để nhằm triệt tiêu sẽ khó mang lại kết quả như

mong đợi.

Bên cạnh đó, Nghị định 12/2012/NĐ-CP ngày 03/4/2012 của Chính phủ quy

định về quản lý hoạt động kinh doanh vàng có đưa ra khái niệm kinh doanh vàng

-3-

trên tài khoản là hoạt động kinh doanh vàng qua tài khoản, dưới hình thức giao dịch

ký quỹ và giá trị ròng được định giá lại liên tục theo biến động của giá vàng nhưng

toàn bộ các nội dung còn lại nghị định này hoàn toàn không có quy định gì thêm.

Vì vậy, việc nhanh chóng hoàn tất cơ chế quản lý thị trường vàng mà một trong

những trọng tâm cần hướng đến là chuẩn bị các điều kiện để tiến đến cho phép hoạt

động kinh doanh vàng tài khoản được triển khai trở lại ở Việt Nam để góp phần ổn

định thị trường vàng, tránh những tác động tiêu cực đến nền kinh tế như thời gian

vừa qua.

2. Tổng quan về các công trình nghiên cứu trước đây

Sàn giao dịch hàng hóa nói chung, sàn giao dịch vàng nói riêng (bao gồm sàn

giao dịch vàng vật chất và sàn giao dịch vàng phái sinh) là loại hình kinh doanh đã

tồn tại, phát triển lâu đời ở các nước phát triển, đóng vai trò quan trọng trong hoạt

động thương mại, đầu tư quốc tế.

Ở Việt Nam đã có một số các đề tài nghiên cứu khoa học, luận văn cao học

nghiên cứu về kinh doanh vàng, thị trường vàng, sàn giao dịch vàng. Có thể liệt kê

một số công trình tiêu biểu như:

 Đinh Ngọc Mai (2010), Một số giải pháp nhằm ổn định thị trường vàng và

phát triển hoạt động đầu tư vàng tại Việt Nam, Luận văn thạc sĩ kinh tế,

Trường Đại học Kinh tế TP.HCM.

 Nguyễn Vân Anh (2009), Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý kinh doanh

vàng theo chức năng của Ngân hàng Trung ương, Đề tài nghiên cứu khoa

học cấp ngành - Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, 2009.

 Nguyễn Thị Trúc Quyên (2009), Trung tâm giao dịch vàng ACB: thực trạng

và giải pháp, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Trường Đại học Kinh tế TP.HCM.

-4-

 Nguyễn Ngọc Nhân (2009), Phát triển trung tâm giao dịch vàng tại Ngân

hàng thương mại cổ phẩn xuất nhập khẩu Việt Nam, Luận văn thạc sĩ kinh tế,

Trường Đại học Kinh tế TP.HCM.

 Huỳnh Phi Yến (2009), Hoạt động kinh doanh vàng tại ngân hàng Á Châu,

Luận văn thạc sĩ kinh tế, Trường Đại học Kinh tế TP.HCM.

 Huỳnh Phước Nguyên (2007), Kinh doanh vàng tại các ngân hàng thương

mại trên địa bàn TP.HCM, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Trường Đại học Kinh tế

TP.HCM.

 Vuong Quan Hoang (2004), Analyses on Gold and US Dollar in Vietnam's

Transitional Economy, Working Paper Centre Emile Bernheim WP-CEB No.

04-033.

 Nguyễn Hữu Định (1996), Kinh doanh vàng tại TP.HCM: chính sách và giải

pháp, Luận án tiến sĩ kinh tế, Trường Đại học Kinh tế TP.HCM, 1996.

Nhìn chung, các công trình nghiên cứu này đã được thực hiện từ nhiều năm

trước với bối cảnh khác nhiều so với thời điểm hiện nay. Mặt khác, hầu hết các

nghiên cứu này chú trọng đến kinh doanh vàng nhiều hơn là cơ chế quản lý thị

trường vàng hoặc chỉ tập trung phân tích hoạt động của một sàn giao dịch vàng cụ

thể trong giai đoạn 2007-2010. Các nghiên cứu này cũng chưa tập trung phân tích

đầy đủ và toàn diện về cơ chế quản lý thị trường vàng ở tất cả các khía cạnh từ khai

khoáng vàng, xuất khẩu nhập khẩu vàng, sản xuất gia công vàng, giao dịch vàng

trao tay và giao dịch vàng tài khoản, hoạt động huy động và cho vay vàng cũng như

việc quản lý chất lượng vàng để từ đó đề xuất cơ chế quản lý thị trường và thành lập

sàn giao dịch vàng như là thành phần của cơ chế quản lý thị trường vàng.

-5-

3. Mục tiêu nghiên cứu

Trên cơ sở kế thừa các công trình nghiên cứu trước đây, đề tài sẽ khắc phục

những hạn chế của các đề tài đã có trong việc nghiên cứu toàn diện về cơ chế quản

lý thị trường vàng ở Việt Nam, đề tài tập trung nghiên cứu để hướng đến ba mục

tiêu cốt lõi và cũng là những điểm mới cơ bản của đề tài so với các đề tài trước đây:

 Hệ thống hóa lý luận liên quan đến vàng, thị trường vàng và vấn đề quản lý

trên cơ sở tách bạch rõ giữa vàng tiền tệ, vàng hàng hóa cùng với việc đúc

kết các kinh nghiệm quản lý vàng hàng hóa ở các nước trên thế giới;

 Phân tích toàn diện cơ chế quản lý thị trường vàng ở Việt Nam và những

tác động của cơ chế này đến sự ổn định của thị trường vàng ở Việt Nam

 Đề xuất những gợi ý cho việc xây dựng cơ chế quản lý thị trường vàng ở

đồng thời chỉ ra những bất cập của cơ chế này;

Việt Nam phù hợp với hiện trạng kinh tế và đặc thù của Việt Nam trong đó

tập trung các đề xuất chi tiết đối với việc xây dựng và tổ chức vận hành

hoạt động kinh doanh vàng tài khoản thông qua sàn giao dịch vàng vật chất.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là cơ chế quản lý hoạt động kinh doanh vàng ở

Việt Nam.

Về phạm vi nghiên cứu, đề tài sẽ tập trung đến vàng phi tiền tệ trong đó chủ yếu

nghiên cứu về thị trường vàng thoi ở Việt Nam bởi lẽ vàng trang sức, mỹ nghệ về

cơ bản được sản xuất từ vàng thoi nên thị trường trang sức, mỹ nghệ chủ yếu chịu

sự ảnh hưởng từ thị trường vàng thoi. Hơn nữa, tính phức tạp của thị trường vàng

chủ yếu vẫn chỉ tập trung vào thị trường vàng thoi. Vàng tiền tệ do ngân hàng trung

ương quản lý dưới dạng dự trữ ngoại hối không phải là đối tượng nghiên cứu trực

tiếp của đề tài này. Thời gian nghiên cứu của đề tài đề cập chủ yếu đến giai đoạn từ

-6-

2000 đến 2012 trong đó tập trung vào khoảng thời gian từ 2008-2012 là giai đoạn

mà thị trường vàng Việt Nam có nhiều diễn biến phức tạp.

5. Phương pháp nghiên cứu

Vì mục tiêu của đề tài là đề xuất cơ chế quản lý thị trường vàng và sàn giao

dịch vàng tập trung vào cấu trúc tổ chức, mô hình hoạt động, cơ chế điều hành vì

vậy phương pháp định tính được sử dụng trong toàn bộ đề tài thông qua việc phân

tích diễn dịch, so sánh đối chiếu và tổng hợp.

6. Bố cục của đề tài

Ngoài phần mở đầu, kết luận và phụ lục, đề tài được bố cục gồm ba chương:

 Chương 1: Tổng quan về cơ chế quản lý thị trường vàng và hoạt động kinh

doanh vàng tài khoản.

 Chương 2: Cơ chế quản lý thị trường vàng và kinh doanh vàng tài khoản ở

Việt Nam.

 Chương 3: Một số đề xuất về cơ chế quản lý thị trường vàng và kinh doanh

vàng tài khoản ở Việt Nam.

-7-

CHƯƠNG 1

TỔNG QUAN VỀ CƠ CHẾ QUẢN LÝ THỊ TRƯỜNG

VÀNG VÀ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH

VÀNG TÀI KHOẢN

Mục tiêu của chương 1 là trình bày tổng quan về thị trường vàng trên thế giới,

cơ chế quản lý hoạt động thị trường vàng ở một số nước tiêu biểu để làm nền tảng

triển khai các phân tích trong những chương sau. Nội dung chương 1 trình bày bốn

vấn đề chính, bao gồm: i.Khái quát về vàng; ii. Thị trường vàng; iii.Cơ chế quản lý

thị trường vàng và kinh doanh vàng tài khoản; iv.Kết luận về cơ chế quản lý thị

trường vàng và kinh doanh vàng tài khoản.

1.1. KHÁI QUÁT VỀ VÀNG

1.1.1 Vàng

Vàng đã được đánh giá cao trong hàng ngàn năm không chỉ vì vẻ đẹp, tính hấp

dẫn mà còn có vai trò lịch sử với chức năng của tiền tệ, được sử dụng như tiền tệ,

làm cơ sở cho các giao dịch quốc tế vì các lý do cơ bản sau đây:

 Tính quý hiếm nhưng không quá hiếm.

 Tính bền vững và có khả năng chống ăn mòn.

 Tính mềm dẻo và dễ chia nhỏ.

 Tính dễ nhận biết, dễ phân biệt.

 Tính đồng nhất.

-8-

Vàng đóng một vai trò trung tâm trong hệ thống tiền tệ quốc tế cho đến khi sự

sụp đổ của hệ thống tỷ giá cố định Bretton Woods xảy ra vào năm 1973. Kể từ đó,

vai trò của vàng đã được giảm dần. Tuy nhiên, vàng vẫn là một tài sản quan trọng

trong dự trữ của các quốc gia mặc dù hiện nay không một quốc gia nào còn sử dụng

vàng làm tiền tệ chính thức [9].

1.1.2 Cầu vàng

Theo cách phân loại truyền thống, vàng được sử dụng cho ba nhu cầu i.dùng

làm trang sức; ii.dùng trong công nghệ bao gồm cả các ứng dụng cho y khoa; và

iii.đầu tư. Tính trung bình giai đoạn 2006-2010, nhu cầu vàng hàng năm trên thế

giới là 3.722 tấn/năm trong đó nhu cầu phục vụ cho trang sức chiếm 59%, đầu tư

bao gồm cả đầu tư trên thị trường OTC chiếm 29%, 12% còn lại phục vụ cho công

nghệ [22]. Nhu cầu này tiếp tục tăng mạnh trong năm 2010 và 2012 trong đó mức

tăng chủ yếu tập trung vào vàng đầu tư (xem bảng 1.1).

Bảng 1.1: Biến động cầu vàng 2009-2011

Nguồn cầu

Tổng

2010 2.017 1.583 1.201 382 466 77 4.143 207 4.350 2009 1.814 1.402 779 623 410 -34 3.592 517 4.109 Đơn vị: Tấn 2011 1.974 1.910 1.505 185 453 457 4.574 -77 4.497 Tổng cầu TT 1 Trang sức 2 Đầu tư 2.1 Tổng vàng thoi 2.2 ETF vàng và chứng chỉ vàng khác 3 Công nghệ 4 Mua của khu vực chính thức 5 Đầu tư OTC và tồn kho Nguồn: https://www.gold.org/investment/statistics/demand_and_supply_statistics/

1.1.2.1.Trang sức

Nhu cầu vàng cho trang sức bị phụ thuộc vào sự mong muốn, mức thu nhập, giá

và sự biến động giá cùng hàng loạt các yếu tố khác như tình hình kinh tế-xã hội và

văn hóa. Theo thống kê của WGC, trong giai đoạn 2006-2010 hơn 60% nhu cầu

vàng trang sức tập trung ở bốn quốc gia và vùng lãnh thổ là Trung Quốc, Ấn Độ,

-9-

Thổ Nhĩ Kỳ và Trung Đông (xem đồ thị 1.1). Tùy theo yếu tố kinh tế-xã hội và văn

hóa mà nhu cầu vàng ở mỗi quốc gia có sự khác nhau.

Đồ thị 1.1: Cầu vàng trung bình giai đoạn 2006-2010 chia theo khu vực

Nguồn: Thomson Reuters, World Gold Council [21]

1.1.2.2. Đầu tư

Nhu cầu đầu tư vào vàng vật chất bao gồm vàng thỏi (vàng khối/thanh, vàng

miếng), vàng xu (đồng vàng), vàng huy chương (medal), vàng cho các quỹ đầu tư

ETF (Exchange Traded Funds) và các sản phẩm khác có liên quan.

Nhu cầu vàng cho đầu tư đã có sự gia tăng đáng kể từ năm 2000 khi tại thời điểm

này chỉ chiếm 4% tổng nhu cầu vàng nhưng tỷ lệ này đã tăng nhanh đến mức kỷ

lục, đạt mức 39% (năm 2009), 38% (năm 2010) và 37% (năm 2011) [21].

1.1.2.3. Công nghệ

Nhu cầu vàng trong lĩnh vực này thường biến động theo sự phát triển của ngành

công nghiệp điện tử và GDP toàn cầu. Hơn 50% vàng sử dụng trong lĩnh vực công

nghệ là cho mục đích sản xuất các chi tiết yêu cầu chịu được sự ăn mòn, dẫn điện

cao và chịu nhiệt cao của các sản phẩm điện tử. Hầu hết các linh kiện điện tử có

chứa vàng thường được sản xuất ở Đông Á, Tây Châu Âu hoặc Bắc Mỹ.

-10-

Y khoa cũng đã có lịch sử lâu đời trong việc sử dụng vàng. Bên cạnh đó, vàng

còn được sử dụng trong một số ngành công nghiệp khác và dùng để trang trí như

vàng mạ và sơn phủ với nhu cầu chiếm khoảng 2,5% tổng nhu cầu vàng.

1.1.3 Cung vàng

Theo cách phân loại truyền thống, cung vàng bao gồm vàng khai thác mới từ mỏ,

từ dự trữ của các ngân hàng trung ương và từ việc tái chế từ các nguồn vàng tồn kho

trên mặt đất.

Bảng 1.2: Biến động cung vàng 2009-2011

Nguồn cung

2010 2.632 1.719 4.350 2009 2.374 1.735 4.109 Tổng Đơn vị: Tấn 2011 2.832 1.665 4.497 TT 1 Khai thác mỏ 2 Tái chế vàng Nguồn: https://www.gold.org/investment/statistics/demand_and_supply_statistics/

Trong giai đoạn 2006-2010, nguồn cung vàng bình quân hàng năm khoảng 3.779

tấn/năm trong đó 59% là khai thác mới từ mỏ vàng, 6% là từ bán ròng của khu vực

chính thức và 36% là từ tái chế vàng trên mặt đất chủ yếu là từ các thiết bị có sử

dụng vàng và đồ trang sức [22]. Nhìn chung nguồn cung vàng vẫn đáp ứng được

nhu cầu trên thị trường trong đó chủ yếu là từ khai thác mới (xem bảng 1.2).

Đồ thị 1.2: Cung vàng trung bình giai đoạn 2006-2010 chia theo nguồn

Nguồn: Thomson Reuters, World Gold Council [22]

-11-

1.1.3.1. Khai thác vàng

Đồ thị 1.3: Mười quốc gia sản xuất vàng lớn nhất thế giới năm 2010

Nguồn: Thomson Reuters, World Gold Council [22]

Vàng được khai thác trên mọi châu lục (ngoại trừ Nam Cực là nơi bị cấm khai

thác khoáng sản) bằng các cách thức khác nhau, từ rất nhỏ đến rất lớn. Trong thế kỷ

20, Nam Phi là quốc gia sản xuất vàng lớn nhất thế giới (vào đầu những năm 1970

đã được sản xuất 1.000 tấn/năm, chiếm hơn 70% sản lượng của toàn thế giới vào

thời gian đó). Vị thế độc tôn của Nam Phi càng giảm dần trong 2 thập kỷ kế tiếp khi

sản lượng khai thác đã tăng lên đáng kể ở các quốc gia và vùng lãnh thổ khác. Sự

thay đổi này đã góp phần giảm thiểu sự biến động giá vàng thấp hơn so với các

hàng hóa khác và làm giảm ảnh hưởng của vàng đến các cú sốc kinh tế, chính trị

trong một quốc gia hoặc khu vực cụ thể. Hiện nay, Trung Quốc là quốc gia khai

thác vàng lớn nhất thế giới với mức khai thác khoảng 351 tấn trong năm 2010.

1.1.3.2. Vàng từ khu vực chính thức

Ngân hàng trung ương và các tổ chức quốc tế là những chủ sở hữu chính của

vàng trong hơn 100 năm qua. Ngân hàng trung ương bắt đầu giữ vàng từ những

năm 1880 trong khoảng thời gian chế độ bản vị vàng khi số tiền giấy phát hành

được đảm bảo bởi số vàng tương ứng trong kho và tỷ lệ chuyển đổi tiền giấy ra

vàng được giữ ở mức cố định. Mức dự trữ đỉnh cao được xác định vào vào năm

1960 với khối lượng 38.000 tấn, chiếm khoảng 50% số vàng tồn kho trên mặt đất

-12-

lúc đó [24]. Khi hệ thống Breeton Wood chấm dứt vào năm 1973, vai trò dự trữ của

vàng không còn quan trọng như thời gian trước.

1.1.3.3. Tái chế vàng

Trên thực tế, vàng không thể bị phá hủy nên toàn bộ vàng đã khai thác vẫn còn

tồn tại. Theo ước tính của Thomson Reuters GFMS [24], trong tổng số 166.600 tấn

vàng đã tồn tại trên mặt đất tại thời điểm năm 2010 có 51% tồn tại dưới dạng trang

sức, 19% nằm trong tay các nhà đầu tư, 17% là dự trữ chính thức, 11% nằm trong

các sản phẩm công nghiệp và 2% là những nơi khác. Một phần trong số vàng này sẽ

quay trở lại thị trường từ việc tái chế đồ trang sức, sản phẩm công nghiệp và bán

ròng của khu vực chính thức.

Như vậy, các phân tích trên cho thấy cầu vàng vẫn tiếp tục tăng trưởng với tốc độ

cao trong khi nguồn cung vàng chủ yếu từ khai thác vẫn đang bị hạn chế và chi phí

khai thác ngày càng tăng cao. Điều này cho thấy quan hệ cung cầu vàng vẫn là

thách thức lớn và giá vàng chắc chắn sẽ vẫn còn nhiều biến động khó lường.

1.2. THỊ TRƯỜNG VÀNG VÀ KINH DOANH VÀNG TÀI KHOẢN

Thị trường vàng bao gồm thị trường: i.thị trường vàng vật chất (physical gold)

gồm thị trường vàng thoi vật chất và thị trường vàng tài khoản; và ii.thị trường

chứng chỉ vàng.

1.2.1. Thị trường vàng vật chất (Physical gold) và kinh doanh vàng tài khoản

(Gold accounts)

Thị trường vàng vật chất giao dịch vàng thoi (chủ yếu dưới dạng vàng

khối/thanh/miếng/gold bar), vàng xu (đồng vàng), vàng huy chương và cũng có giao

dịch vàng trang sức (nhất là vàng trang sức có sự chế tác đơn giản nhưng hàm lượng

vàng cao). Tuy nhiên, vàng xu, vàng huy chương, vàng trang sức về cơ bản đều

-13-

được sản xuất từ vàng thoi do vậy sự biến động giá vàng này liên kết chặt chẽ với

biến động vàng thoi.

Vàng thoi là vàng với trọng lượng và kích cỡ khác nhau từ ít nhất là 1 gram cho

đến 400 troy ounce (theo kích thước chuẩn của thị trường London). Vàng thoi

thường được đánh dấu với tên nhà sản xuất hoặc người phát hành, có ghi rõ số seri,

năm sản xuất, độ tinh khiết và trọng lượng. Độ tinh khiết của các loại vàng thoi

khác nhau, thường dao động từ 99,50% đến 99,99% vàng. Vàng thoi phải đáp ứng

tiêu chuẩn nghiêm ngặt của Hiệp hội thị trường vàng thoi Luân đôn (London

Bullion Market Association-LBMA).

Vàng xu (gold coin) là vàng dưới dạng xu do chính phủ các quốc gia hoặc nhà

sản xuất vàng trên thế giới cung cấp. Vàng xu khác nhau về trọng lượng và caratage

(carat). Carat là đơn vị đo lường chất lượng vàng. Vàng nguyên chất ("fine gold") là

24 carat, do đó 24 carat về mặt lý thuyết là 100% vàng. Các mức thấp hơn 24 carat

được tính theo tỷ lệ, chẳng hạn ví dụ 18 carat là 18/24 vàng 100% tương đương

75,0% vàng. Vàng xu có trọng lượng phổ biến nhất là 1/20, 1/10, 1/4, 1/2 và 1

ounce. Vàng xu nêu ở đây khác với tiền xu dùng làm kỷ niệm.

Các nhà đầu tư vàng thoi thường không muốn nhận vàng vật chất của họ, vì

những rủi ro và chi phí liên quan đến vận chuyển và cất trữ. Hiện nay, hầu hết các

đại lý và môi giới thực hiện để lưu trữ vàng dưới dạng số dư trên tài khoản vàng

(gold accounts). Từ đó, thay vì giao dịch vàng vật chất và chuyển giao vàng vật chất

đang nắm giữ trực tiếp cho nhau, họ chuyển sang giao dịch dựa trên số dư trên tài

khoản vàng còn vàng vật chất thì vẫn giữ nguyên trong kho. Cả hai thị trường giao

dịch vàng vật chất và thị trường vàng tài khoản đều có mối liên hệ chặt chẽ thông

qua chênh lệch arbitrage và người tham gia bị buộc phải có khả năng đáp ứng các

yêu cầu về vàng vật chất đồng thời giá các chứng chỉ vàng chịu sự ảnh hưởng lớn từ

giá vàng vật chất.

-14-

Ngoài việc gia tăng tính thanh khoản, việc giao dịch vàng tài khoản mà không

thực hiện việc chuyển giao vàng vật chất trực tiếp còn làm giảm chi phí vận chuyển

cùng rủi ro phát sinh trong quá trình này. Các ngân hàng thường cung cấp hai loại

tài khoản vàng là tài khoản có giao vàng (Allocated account) và tài khoản chưa giao

vàng (Unallocated account).

Tài khoản có giao vàng là loại tài khoản mà khối lượng, loại vàng vật chất sẽ

được tách riêng với ghi chú chi tiết. Ngân hàng đóng vai trò như người cất trữ hộ và

khách hàng phải trả phí lưu trữ bảo hiểm. Các đại lý vàng hoặc kho lưu giữ vàng

không được kinh doanh, cho vay trên số vàng lưu giữ này trừ trường hợp đặc biệt

theo lệnh của chủ tài khoản. Biến động số dư trên tài khoản này tương ứng với sự

biến động tăng giảm vàng vật chất mà chủ tài khoản gửi vào hoặc rút ra.

Tài khoản chưa giao vàng là loại tài khoản phổ biến nhất, theo đó các nhà đầu tư

không có vàng vật chất cụ thể trên tài khoản và biến động số dư trên tài khoản

tương ứng với giao dịch bán/mua của chủ tài khoản. Số dư trên tài khoản không thể

hiện quyền sở hữu lượng vàng vật chất cụ thể nhưng nó được đảm bảo bởi lượng

vàng dự trữ của các nhà kinh doanh vàng nơi chủ tài khoản mở tài khoản giao dịch.

Chủ tài khoản sẽ là chủ nợ không có đảm bảo của nhà kinh doanh vàng. Nếu chủ tài

khoản muốn nhận vàng vật chất cụ thể thì họ phải trả khoản phí theo quy định sau

một khoảng thời gian quy định từ khi yêu cầu.

Như vậy, thị trường vàng thoi thế giới hiện nay được giao dịch chủ yếu thông

qua tài khoản vàng. Căn cứ vào phương thức tổ chức giao dịch có thể chia thị

trường vàng thoi thành hai thị trường là thị trường vàng trao tay (OTC) và sàn giao

dịch vàng.

1.2.1.1. Thị trường vàng OTC

Thị trường vàng thoi trên thế giới được xem là thị trường công cụ tiền tệ có bề

dày lịch sử lâu đời nhất trên thế giới, khoảng 500 năm trước công nguyên.

-15-

Thị trường vàng thoi lớn nhất thế giới là thị trường vàng thoi London được quản

lý bởi Hiệp hội thị trường vàng thoi Luân đôn (LBMA) là thị trường vàng OTC bán

buôn. Đây là thị trường vàng giữa các nhà bán buôn với khối lượng giao dịch tối

thiểu là 1.000 ounce, khách hàng giao dịch thông thường là các tổ chức trung gian

đầu tư, các ngân hàng môi giới, ngân hàng trung ương và các thành viên tham gia

thị trường vàng có nhu cầu giao dịch với số lượng lớn.

Hầu hết các giao dịch vàng OTC trên thế giới đều liên quan đến vàng lưu giữ

trong kho vàng tại Lodon thông qua việc thay đổi sở hữu vàng của các bên liên

quan tại kho vàng này. Nói khác đi, giao dịch vàng thoi có thể được thực hiện bất

cứ nơi nào trên thế giới rồi cũng sẽ được thực hiện bù trừ trên tài khoản vàng của

các nhà kinh doanh vàng mở tại LBMA (tài khoản “Loco London”).

Ngoài thị trường vàng London, trên thế giới còn có các thị trường vàng thoi lớn

khác như Zurich, Hongkong, New York, Singapore, các nước Trung đông.

1.2.1.2. Giao dịch vàng tài khoản và sàn giao dịch vàng

Bên cạnh thị trường vàng OTC, việc giao dịch vàng còn được thực hiện thông

qua các sàn giao dịch vàng với các sàn giao dịch tiêu biểu như Sàn giao dịch vàng

và bạc Hồng Kông (The Hong Kong Chinese Gold & Silver Exchange Society) giao

dịch từ năm 1918, Sàn giao dịch vàng Istanbul của Thổ Nhỉ Kỳ (Istanbul Gold

Exchange) giao dịch từ năm 1995, Sàn giao dịch vàng Thượng Hải (The Shanghai

Gold Exchange) giao dịch từ năm 2002, .v.v.

Để giao dịch tại sàn giao dịch vàng, nhà đầu tư phải mở tài khoản tại tổ chức

thành viên của sàn giao dịch vàng hoặc trở thành thành viên của sàn giao dịch vàng.

Khi đã có tài khoản vàng, nhà đầu tư có thể hoạt động giao dịch mua bán vàng qua

tài khoản, dưới hình thức giao dịch ký quỹ mà giá trị ròng được định giá liên tục

theo biến động giá vàng. Chi tiết về giao dịch vàng qua tài khoản và các sàn giao

dịch vàng tiêu biểu sẽ được đề cập ở mục 1.3.

-16-

1.2.2. Thị trường chứng chỉ vàng (Paper Gold Instruments)

Về cơ bản, thị trường chứng chỉ vàng là thị trường giao dịch các chứng chỉ vàng -

công cụ tài chính chứng nhận người nắm giữ có quyền sở hữu một khối lượng vàng

xác định theo độ tinh khiết quy định.

Cũng giống như thị trường ngoại hối hay thị trường chứng khoán, các chứng chỉ

vàng thông dụng gồm có hợp đồng giao sau (gold future), quyền chọn vàng (gold

options), quyền ưu tiên mua trước vàng (gold warrants), hợp đồng đòn bẩy vàng

(gold leverage contract). Ngoài ra còn có các chứng chỉ quỹ đầu tư ETF vàng, cổ

phần của các công ty khai thác vàng cũng được xem là các chứng chỉ vàng thông

dụng hiện nay. Giao dịch các chứng chỉ vàng trên thế giới chủ yếu được thực hiện

qua sàn COMEX ở Hoa Kỳ. Ngoài ra chứng chỉ vàng còn được giao dịch trên sàn

TOCOM ở Nhật, MCX ở Ấn Độ, DGCX ở Ả Rập, SHFE ở Thượng Hải.

1.3. CƠ CHẾ QUẢN LÝ THỊ TRƯỜNG VÀNG

Vì vai trò đặc biệt của vàng như đã nêu trên, để phục vụ cho việc quản lý, IMF

chia vàng ra làm hai loại [9]:

 Vàng tài sản tài chính (financial gold) là vàng được sử dụng như tài sản tài

chính bao gồm vàng tiền tệ (monetary gold) và vàng phi tiền tệ (non-

monetary gold) .

o Vàng tiền tệ là vàng được nắm giữ bởi các cơ quan quản lý tiền tệ như là

một phần của dự trữ chính thức của quốc gia, các tổ chức quốc tế như

IMF, BIS. Giao dịch vàng tiền tệ là giao dịch vàng trực tiếp giữa các cơ

quan quản lý tiền tệ hoặc giữa các cơ quan quản lý tiền tệ với các tổ chức

quốc tế như IMF, BIS được ghi nhận là giao dịch tài khoản vốn trong hệ

thống tài khoản quốc gia (SNA).

-17-

o Vàng phi tiền tệ là vàng được nắm giữ bởi các tổ chức tài chính trung

gian, các nhà kinh doanh vàng cho mục đích kinh doanh, đầu tư. Doanh

số bán vàng tiền tệ chuyển sang vàng phi tiền tệ được phân biệt rõ: i.làm

thay đổi phân loại vàng của cơ quan quản lý tiền tệ thể hiện bằng sự thay

đổi số tiền trên bảng cân đối kế toán và ii.số tiền trên tài khoản vốn của

cơ quan quản lý tiền tệ hoặc giá trị hàng hóa xuất khẩu nếu người mua là

người không cư trú (hoặc giá trị hàng hóa nhập khẩu nếu người mua là

người không cư trú).

 Vàng hàng hóa (commodity gold) là vàng được nắm giữ phục vụ cho mục

đích sản xuất (trang sức, công nghệ), tồn kho hoặc cất trữ giá trị.

Trong nhiều trường hợp với cách phân loại đơn giản hơn thì vàng hàng hóa và

vàng phi tiền tệ như đề cập ở trên được gom chung vào một nhóm gọi chung là

vàng phi tiền tệ được hiểu là tất cả vàng không được nắm giữ bởi cơ quan quản lý

tiền tệ như là phần dự trữ chính thức của quốc gia.

IMF cho rằng, vàng phi tiền tệ phải được đối xử như với bất kỳ hàng hóa nào

khác trong nền kinh tế trong đó vàng phi tiền tệ cũng có thể thực hiện quản lý tương

tự như việc quản lý các tài sản tài chính khác [9]. Với quan niệm này, cơ chế quản

lý thị trường vàng là hệ thống các nguyên tắc, cách thức quản lý thị trường vàng,

bao gồm các nội dung:

 Quản lý khai thác vàng

 Quản lý xuất khẩu, nhập khẩu vàng

 Quản lý sản xuất, gia công vàng

 Quản lý kinh doanh, giao dịch vàng vật chất

 Quản lý giao dịch vàng qua tài khoản

 Quản lý huy động, cho vay vàng

 Quản lý chất lượng vàng

-18-

1.4. CƠ CHẾ QUẢN LÝ THỊ TRƯỜNG VÀNG Ở CÁC NƯỚC

Ấn Độ, Trung Quốc là hai thị trường tiêu thụ vàng vật chất lớn nhất thế giới

chiếm hơn 42% nhu cầu vàng trên thế giới. Đây cũng là hai quốc gia phát triển, có

lịch sử, văn hóa khá tương đồng với Việt Nam và cũng là hai quốc gia mà vàng vật

chất cũng đóng vai trò đặc biệt như ở Việt Nam. Bên cạnh đó, thị trường vàng Việt

Nam hiện nay cũng có khá nhiều nét tương đồng với thị trường vàng trước khi thực

hiện cải cách ở hai quốc gia này. Vì vậy, kinh nghiệm quản lý thị trường vàng và tổ

chức giao dịch vàng tài khoản ở hai quốc gia này sẽ là bài học rất đáng tham khảo

cho Việt Nam trong quá trình cải cách quản lý thị trường vàng.

1.4.1. Ấn Độ

1.4.1.1. Tổng quan

Ấn Độ là quốc gia chiếm trên 25% nhu cầu tiêu thụ vàng trên thế giới trong giai

đoạn 2006-2010 và nếu tính riêng trong năm 2010 thì tỷ lệ này lên đến 32% tương

đương với 963 tấn, xuất phát từ truyền thống văn hóa và tôn giáo trong đó hơn 75%

là vàng trang sức. Ấn Độ cũng là quốc giá có lượng vàng tồn kho lớn nhất thế giới,

khoảng 18.000 tấn. Theo ước tính, khoảng 7% tiết kiệm của Ấn Độ, tương đương

với 256 tỷ USD dùng để nắm giữ vàng. Dự báo lượng vàng tồn kho ở Ấn Độ sẽ tiếp

tục tăng cao vì vàng vốn dĩ là một phần không thể thiếu trong các đám cưới. Với

50% dân số của Ấn Độ dưới 25 tuổi, ước tính sẽ có khoảng 15 triệu đám cưới mỗi

năm trong vòng vài thập kỷ tiếp theo [21], [22], [24], [27].

1.4.1.2. Cơ chế quản lý thị trường vàng

Từ khi độc lập năm 1947, Chính phủ Ấn Độ giám sát chặt chẽ việc xuất nhập

khẩu, phân phối, sản xuất, chế tác và bán lẻ vàng cũng như sở hữu tư nhân về vàng

nhằm tập trung vào năm mục tiêu chính: chấm dứt sở hữu vàng của tư nhân, điều

tiết cung vàng, giảm buôn lậu, giảm cầu vàng, giảm giá vàng trong nước. Với các

biện pháp siết quản lý vàng, Chính phủ hầu như nắm toàn quyền kiểm soát giao

-19-

dịch vàng vào những năm 1963-1964 và đến năm 1968 ban hành luật quản lý vàng

rồi ban hành luật điều tiết ngoại hối năm 1973. Tháng 6/1990 Chính phủ đã bãi bỏ

luật quản lý vàng và ba năm sau đó bãi bỏ luật điều tiết ngoại hối đồng nghĩa với

việc thừa nhận thất bại trong việc kiểm soát chặt chẽ thị trường vàng bởi lẽ trong

suốt hàng chục năm trước đó việc nhập khẩu vàng không chính thức vẫn diễn ra

trầm trọng và được bán với giá có lúc cao hơn 50% so với giá vàng quốc tế. Các

hạn chế sở hữu tư nhân về vàng đã giảm đi, các thương nhân kinh doanh vàng

không còn phải xin giấy phép. Nhìn chung, chính sách mở cửa này đối với vàng

nhằm đến các mục tiêu: giảm nhập lậu, tăng thu ngân sách thông qua việc thu được

thuế nhập khẩu vàng, kích thích sản xuất nữ trang xuất khẩu, phát triển ngành sản

xuất vàng và chế tác trang sức, khuyến khích tái chế vàng trang sức [7], [10].

Trong giai đoạn cải cách từ 1997-1998, Chính phủ đã lựa chọn một số ngân

hàng theo các tiêu chí xác định rõ ràng để cho phép nhập khẩu vàng (7 ngân hàng

vào tháng 8/1997 và tăng lên 20 ngân hàng vào năm 2002). Các tổ chức này được

phép mua bán vàng trong nước và quốc tế không giới hạn. Ngoài ra, họ còn được

phép cung cấp các sản phẩm tiết kiệm và cho vay liên quan đến vàng.

Giai đoạn 2 của cải cách từ 1998-1999 Ngân hàng dự trữ Ấn Độ cho phép các

ngân hàng thương mại trả lãi tiền gửi vàng vật chất, phát hành các chứng chỉ vàng

và các chứng chỉ này được phép chuyển nhượng, giao dịch trên thị trường thứ cấp

với mục tiêu phát triển thị trường chứng chỉ vàng. Tuy nhiên việc triển khai đã

không thành công khi sau 12 tháng triển khai chỉ huy động được 8 tấn vàng so với

100 tấn theo kế hoạch. Điều này cho thấy dân chúng vẫn thích nắm giữ vàng vật

chất hơn là chứng chỉ vàng [4].

Từ năm 2003, Ấn Độ cho phép các ngân hàng giao dịch hợp đồng vàng kỳ hạn

trong nước hoặc quốc tế nhưng không được phép giao dịch với các tổ chức phi ngân

hàng. Đến năm 2006, quỹ đầu tư vàng (ETF vàng) đã được cho phép hoạt động và

thị trường này đã có dấu hiệu tăng trưởng đáng kể khi tổng giá trị nắm giữ của các

-20-

quỹ đã lên đến khoảng 11 tấn vào tháng 8/2010 so với mức 3 tấn vào tháng 6/2007

[7], [10].

Chính Phủ

MCM Quản lý khai thác mỏ vàng

MCAFD Quản lý tiêu chuẩn chất lượng vàng

MOF Kiểm soát chung về xuất nhập khẩu vàng SEBI Quản lý thị trường chứng khoán RBI Giám sát nhập khẩu, kinh doanh vàng MCI Chính sách xuất khẩu vàng trang sức

PSU Nhập khẩu vàng thỏi, chế tác trang sức PSB Nhập khẩu, đầu tư, kinh doanh vàng

Retailer Thợ kim hoàn, giao dịch vàng lẻ

NGM Các công ty khai thác mỏ vàng EPZ Doanh nghiệp chế tác xuất khẩu vàng trang sức IGM Tinh chế, chế tác vàng thỏi BIS Chứng nhận tiêu chuẩn vàng

Các tổ chức tài chính, nhà đầu tư tổ chức và cá nhân

Sàn giao dịch chứng khoán

FMC Quản lý thị trường hàng hóa giao sau

MCX, MCDE, NMCE, ICE Sàn giao dịch hàng hóa giao sau

Sơ đồ 1.1: Cấu trúc tổ chức quản lý thị trường vàng ở Ấn Độ

Nguồn:Tổng hợp của tác giả

Sơ đồ 1.1 cho thấy việc quản lý ngành công nghiệp vàng của Ấn Độ nói chung

và thị trường vàng nói riêng là khá phức tạp, với sự tham gia của nhiều cơ quan

quản lý khác nhau: Ngân hàng dự trữ Ấn Độ (The Reserve Bank of India - RBI); Bộ

Tài chính (Ministry of Finance - MOF); Bộ thương mại và công nghiệp (Ministry of

Commerce and Industry - MCI); Bộ khoáng sản và than (Ministry of Coal and

Mines-MCM); Bộ tiêu dùng, lượng thực và phân phối (Ministry of Consumer

Affairs, Food and Distribution - MCAFD); Ủy ban giao dịch chứng khoán Ấn Độ

(The Securities and Exchange Board of India - SEBI).

-21-

Ngoài ra còn có các cơ quan như Cục tiêu chuẩn Ấn Độ (Bureau of Indian

Standards - BIS), các công ty khai thác vàng quốc gia (Nationalised gold mining

companies - NGM), công ty sản xuất vàng của chính phủ (India Government Mint-

IGM), các ngân hàng và doanh nghiệp của nhà nước (Public Sector Banks - PSB’s,

Public Sector Undertakings - PSU’s) và những đơn vị kinh doanh vàng và các sàn

giao dịch hàng hóa giao sau trong đó có vàng. Ngoài ra, Ủy ban Thị trường kỳ hạn

(Forward Markets Commission - FMC), Hiệp hội hàng hóa phái sinh và thị trường

tiền tệ có thu nhập cố định (The Fixed Income Money Market and Derivatives

Association of India - FIMMDA) cũng tham gia quản lý thị trường vàng thông qua

việc quản lý các sàn giao dịch hàng hóa giao sau.

 Quản lý vàng tiền tệ: Ngân hàng dự trữ Ấn Độ là cơ quan quản lý dự trữ

vàng chính thức được xem là một phần trong dự trữ ngoại hối quốc gia. Ở

thời điểm tháng 3/2012, Ấn Độ là quốc gia có dự trữ vàng đứng thứ 11 thế

 Quản lý vàng phi tiền tệ:

o Khai khoáng, xuất nhập khẩu và sản xuất vàng: Với 90% lượng vàng

giới với 557,7 tấn chiếm 10,5% tổng dự trữ ngoại hối của quốc gia này.

tiêu thụ tại Ấn Độ được nhập khẩu, Ấn Độ đối mặt với thách thức

không nhỏ với việc kiểm soát vàng nhập khẩu để giảm thâm hụt cán

cân thanh toán nhưng không làm gia tăng hoạt động buôn lậu vàng.

Từ năm 2003-2004, thuế nhập khẩu đã giảm từ 250Rs/10gram xuống

100Rs/10gram, đến năm 2010-2011 đã tăng lên 300Rs/10gram và thuế

giá trị gia tăng 1% đối với vàng thoi, 4% đối với vàng trang sức nhằm

hạn chế nhập khẩu. Tại thời điểm đầu năm 2012, có 30 ngân hàng tại

Ấn Độ bao gồm cả ngân hàng nhà nước, ngân hàng tư nhân và ngân

hàng nước ngoài được phép nhập khẩu vàng và bạc để bán tại thị

trường trong nước. Các hạn chế về xuất khẩu vàng đặc biệt là xuất

khẩu vàng trang sức đã được gỡ bỏ. Ngoài ra, Ấn Độ cũng đã mở cửa

-22-

thị trường khai khoáng mỏ vàng cho các công ty nước ngoài nhưng

o Quản lý kinh doanh vàng: Ấn Độ đã bãi bỏ các quy định kiểm soát

nhìn chung thị trường khai khoáng mỏ vàng của Ấn Độ khá nhỏ bé.

giao dịch vàng bao gồm cả vàng thoi và vàng trang sức tuy nhiên vẫn

giữ quy định về lợi nhuận biên đối với các nhà nhập khẩu vàng. Theo

đó, các ngân hàng nhập khẩu chỉ có lợi nhuận biên 20 cent/large bar

khi bán cho đại lý. Các đại lý có lợi nhuận biên 4.000 Rs/kg, ngoài ra

họ còn kiếm lợi nhuận nhờ giá vàng biến động. Thị trường bán lẻ vàng

thoi OTC diễn ra phổ biến rộng rãi giữa nhà đầu tư với các tổ chức

kinh doanh vàng. Không có quy định việc giao dịch vàng thoi bắt

buộc phải diễn ra tại các sàn giao dịch. Trong khi đó, thị trường bán lẻ

vàng trang sức thì do gia đình các thợ kim hoàn kiểm soát và phân tán

khắp cả nước vì có khoảng trên 100.000 thợ kim hoàng với hơn

1.000.000 cửa hàng bán lẻ. Ấn Độ cho phép xuất khẩu vàng đặc biệt là

vàng trang sức nhưng kiểm soát chặt vàng thoi thông qua việc cấp

phép, kiểm soát chứng nhận xuất xứ, các chứng từ khác cùng với yêu

o Quản lý chất lượng: Để kiểm soát chất lượng vàng, Chính phủ thành

cầu vàng phải đạt độ tinh khiết từ 99,5% trở lên.

lập Cục chất lượng quốc gia (Bureau of Indian Standards - BIS) là cơ

quan kiểm định và đóng dấu vàng đạt chuẩn. Sự tham gia đông đảo

của tổ chức vào chương trình này của BIS phần lớn do tiêu chuẩn

vàng BIS đưa ra đạt chuẩn tiêu chuẩn quốc tế, giúp đảm bảo chất

lượng sản phẩm vàng được đóng dấu, nâng cao uy tín của tổ chức

được BIS chứng nhận. Điều này cũng giúp thị trường vàng vật chất ở

Ấn Độ được minh bạch hơn trong giao dịch và chất lượng sản phẩm.

 Quản lý chứng chỉ vàng và sản phẩm vàng phái sinh: Các sản phẩm

vàng phi vật chất (chứng chỉ vàng) đang phát triển và đa dạng hóa trên

thị trường ở Ấn độ. Lúc đầu chỉ là các trái phiếu vàng của Chính phủ,

-23-

các chứng chỉ tiền gửi đảm bảo bằng vàng của các ngân hàng đến nay đã

có các tài khoản vàng, các sản phẩm vàng phái sinh như hợp đồng kỳ

hạn, hợp đồng tương lai, hợp đồng quyền chọn và hoán đổi liên quan đến

vàng, ETF vàng. Hiện nay sản phẩm vàng phái sinh ở Ấn độ được quản

lý bởi Ủy ban Thị trường Kỳ hạn (Forward Markets Commission -

FMC), Hiệp hội hàng hóa phái sinh và thị trường tiền tệ có thu nhập cố

định (The Fixed Income Money Market and Derivatives Association of

India - FIMMDA) và giao dịch tại các sàn giao dịch hàng hóa phái sinh.

Đến cuối năm 2011, có 4 Sở giao dịch quốc gia thực hiện giao dịch .

1.4.1.3. Sàn giao dịch vàng

 Multi Commodity Exchange (MCX) tại Mumbai: MCX bắt đầu hoạt động

từ tháng 11/2003 với vốn cổ phần là 500.00 Rs và sau nhiều lần tăng

vốn, đến 14/3/2011 MCX có vốn cổ phần là 700.000.000 Rs. MCX là

sàn giao dịch hàng hóa giao sau với công nghệ đỉnh cao (state-of-the-art

electronic) thực hiện giao dịch online, thanh toán và thanh toán bù trừ

cho hơn 40 hàng hóa như vàng, kim loại đen, kim loại màu, năng lượng,

hàng nông nghiệp, .v.v. chịu sự quản lý của FMC. MCX là sàn giao dịch

có số lượng giao dịch hợp đồng giao sau lớn nhất thế giới về vàng và

bạc, lớn thứ hai thế giới về khí tự nhiên và lớn thứ 3 thế giới về dầu thô

crude trong năm 2011. Tại thời điểm 31/3/2012, MCX chiếm 85% thị

phần thị trường hàng hóa giao sau của Ấn Độ với hơn 2.170 thành viên

đăng ký hoạt động thông qua 346.000 thiết bị đầu cuối trải rộng trên

1.557 thành phố, thị trấn trên khắp cả nước. Thời gian hoạt động của

MCX bắt đầu từ buổi tối giờ địa phương để đồng bộ hóa với giờ giao

dịch ở London, New York và các thị trường quốc tế khác. Đối với vàng,

bện cạnh giao dịch các hợp đồng kỳ hạn vàng, MCX cũng tổ chức giao

dịch vàng thoi với hàng hóa theo tiêu chuẩn của LBMA.

-24-

 National Commodity and Derivatives Exchange (NCDEX) tại Mumbai:

NCDEX là công ty đại chúng được đăng ký thành lập vào tháng 4/2003

và hoạt động từ tháng 12/2003. NCDEX là sàn giao dịch hàng hóa online

được tổ chức chuyên nghiệp đặt dưới sự quản lý của FMC. Tại thời điểm

9/2/2012 có 34 mặt hàng trong đó 23 mặt hàng nông sản, 6 kim loại quý,

2 năng lượng và các hàng hóa khác được giao dịch tại NCDEX trong đó

5 mặt hàng có khối lượng giao dịch lớn nhất là Soya oil, Gaur Seed,

Chana, RM seed và Guar gum. Có 3 sản phẩm vàng được giao dịch tại

NCDEX bao gồm vàng thoi của 27 nhà sản xuất vàng thoi trên thế giới

với đơn vị giao dịch là 1kg, khối lượng tối đa là 50kg và hai sản phẩm

khác là hợp đồng vàng giao sau.

Đồ thị 1.4: Biến động giá vàng ở Ấn Độ và giá vàng thế giới

Nguồn: Ngân hàng dự trữ Ấn Độ

Như vậy, chính sách quản lý vàng của Ấn độ đã có sự thay đổi lớn từ kiểm soát

chặt chẽ đến tự do hóa thị trường vàng thông qua việc nới lỏng dần các biện pháp

hành chính để quản lý thị trường vàng, cấp giấy phép xuất nhập khẩu vàng cho

nhiều ngân hàng thương mại và các công ty được Chính phủ chỉ định. Ngoài ra

cũng cho phép các ngân hàng thương mại phát hành chứng chỉ tiền gửi bằng vàng

và các chứng chỉ này được phép giao dịch trên thị trường, các tài khoản vàng, các

sản phẩm vàng phái sinh như hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tương lai, hợp đồng quyền

chọn và hoán đổi liên quan đến vàng và ETF vàng. Tuy nhiên việc quản lý thị

-25-

trường vàng ở Ấn Độ nhìn chung vẫn còn khá phức tạp với sự tham gia kiểm soát

phân tán của khá nhiều cơ quan quản lý khác nhau và thị trường OTC vàng thoi

phân tán khắp cả nước. Tuy nhiên, nhìn chung Ấn Độ đã đạt được thành công đáng

kể trong quản lý thị trường vàng theo cơ chế mới, giá vàng trong nước đã biến động

song hành cùng với giá vàng thế giới ở mức chênh lệch rất thấp trong nhiều năm

qua đồng thời Ấn Độ cũng đã huy động được khối lượng vàng để đáp ứng nhu cầu

phát triển và ổn định thị trường tài chính.

1.4.2. Trung Quốc

1.4.2.1. Tổng quan

Vàng đã có mặt tại Trung Quốc lịch sử kể từ thời của triều đại nhà Hán, đóng

vai trò quan trọng trong văn hóa, tôn giáo Trung Quốc và được coi là một biểu hiện

của sự thịnh vượng. Nhu cầu vàng của Trung Quốc đứng thứ hai trên thế giới sau

Ấn Độ và chiếm khoảng 16% tổng cầu vàng trên thế giới. Với việc nới lỏng các quy

định quản lý vàng, nghiên cứu của WGC cho rằng, trong dài hạn nhu cầu vàng ở

Trung Quốc sẽ tăng trưởng mạnh bất chấp giá vàng tăng mạnh. Bên cạnh đó, ước

tính mức tiêu thụ vàng bình quân hiện nay ở Trung Quốc chỉ 0,26 gram thấp hơn so

với các quốc gia có nền văn hóa tương tự. Nếu mức tiêu thụ vàng bình quân tại

Trung Quốc bằng với Ấn Độ, Hồng Kông hay Saudi Arabia thì nhu cầu của Trung

Quốc hàng năm có thể tăng ít nhất 100 tấn, thậm chí đến 4.000 tấn [23]. Về cung

vàng, Trung Quốc đã vượt Nam Phi để trở thành nước sản xuất vàng hàng đầu thế

giới từ năm 2007 và vẫn tiếp tục tăng sản lượng hàng năm.

1.4.2.2. Cơ chế quản lý thị trường vàng

Trước năm 2002, thị trường vàng tại Trung Quốc được kiểm soát chặt chẽ từ

khâu sản xuất đến phân phối bán lẻ. Giá vàng và hạn ngạch đã được quyết định bởi

Ngân hàng nhân dân Trung Quốc (PBoC) phối hợp với các cơ quan khác ở trung

ương. PBoC cấp giấy xuất khẩu vàng và nhập khẩu vàng trang sức, mặt hàng này

chịu mức thuế nhập khẩu 60% ở năm 1996, giảm so với mức 100% trước đó.

-26-

Tháng 10/2002, Sàn giao dịch vàng Thượng Hải (Shanghai Gold Exchange -

SGE) được thành lập để tổ chức giao dịch vàng thay thế cho PBoC trước đây. Trung

Quốc cũng đã trở thành một thành viên Tổ chức thương mại thế giới (WTO) vào

tháng 12/2001 và kể từ đó các quy định pháp luật cũng đã khuyến khích việc hiện

đại hóa công nghệ khai thác khoáng sản và cho phép các tổ chức nước ngoài đầu tư

khai thác mỏ ở Trung Quốc.

Chính Phủ

CSRC Giám sát SHFE

MOLAR Cấp giấy phép khai thác

NDRC Kế hoạch, Chính sách CBRC Giám sát các ngân hàng PBoC Cung vàng, giám sát SGE SASAC Kiểm soát tài sản nhà nước và đầu tư

Bank Ngân hàng thương mại Retailer Giao dịch vàng lẻ CNGGC Khai thác, kinh doanh vàng SHFE Giao dịch hàng hóa giao sau CGA Tổ chức nghề nghiệp SGE Giao dịch vàng, bạc, Pla

Cá nhân, tổ chức đầu tư

Sơ đồ 1.2: Cấu trúc tổ chức quản lý thị trường vàng ở Trung Quốc

Nguồn:China Gold Report: Gold in Year of the Tiger và tổng hợp của tác giả

Hiệp hội Vàng Trung Quốc (China Gold Association - CGA) được thành lập

vào tháng 11/2001 đóng vai trò quan trọng trong ngành công nghiệp vàng của

Trung Quốc. CGA hoạt động như một cầu nối giữa Chính phủ Trung Quốc và các

nhà sản xuất để bảo vệ lợi ích kinh doanh và cung cấp dịch vụ thông tin, tư vấn, hợp

tác điều phối và trung gian cho họ.

Ngân hàng Công thương Trung Quốc (ICBC) và các ngân hàng thương mại

khác đóng vai trò quan trọng trong việc chuẩn bị cho sự ra đời của một thị trường

-27-

vàng với đầy đủ chức năng như các thị trường phát triển trên thế giới. ICBC đã

tham gia tích cực trong việc thiết lập các hoạt động của SGE và cung cấp một loạt

các dịch vụ bao gồm cả thanh toán bù trừ, vàng, kho vàng, cho thuê, tài trợ cho các

dự án vàng, mua vàng, đầu tư vàng dự án, xuất nhập khẩu và kinh doanh vàng cá

nhân.

Chính phủ Trung Quốc quản lý ngành công nghiệp vàng thông qua các cơ quan

chức năng: Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc (People’s Bank of China - PBoC), Ủy

ban Cải cách và phát triển quốc gia (National Develepment and Refrom

Commission - NDRC), Bộ Tài nguyên và Đất đai (Ministry of Land and Resources

- MOLAR), Ủy ban quản lý và giám sát tài sản nhà nước (State-owned Assets

Supervision and Administration Commission - SASAC), Ủy ban Quản lý Chứng

khoán Trung Quốc (The China Securities Regulatory Commission - CSRC), Ủy ban

quản lý ngân hàng Trung Quốc (China Banking Regulatory Commission - CBRC).

 Quản lý vàng tiền tệ: Ngân hàng nhân dân Trung Quốc là cơ quan quản lý

dự trữ vàng chính thức được xem là một phần trong dự trữ ngoại hối quốc

gia. Tại thời điểm tháng 3/2012, Trung Quốc là nước có dự trữ vàng đứng

thứ 6 thế giới sau Mỹ, Đức, IMF, Ý, Pháp với tổng dự trữ vàng là 1.054,1

tấn, chiếm 1,8% tổng dữ trữ ngoại hối của Trung Quốc [24].

 Quản lý vàng phi tiền tệ:

o Khai thác, xuất nhập khẩu và sản xuất: Từ năm 2002, Trung Quốc đã

mở cửa cho phép các nhà đầu tư nước ngoài tham gia thị trường khai

thác và sản xuất vàng. Mặc dù vẫn còn duy trì việc cấp phép khai thác,

xuất nhập khẩu vàng nhưng từ năm 2005 Trung Quốc đã chủ trương nới

lỏng việc quản lý cấp phép theo hướng sẽ bãi bỏ việc kiểm soát xuất

nhập khẩu vàng phụ thuộc vào tiến trình tự do hóa tài chính và mức độ

chuyển đổi của nhân dân tệ. Mặt khác, Trung Quốc đã cho phép các tổ

chức nước ngoài được phép giao dịch trên SGE và SHFE nên nhìn

-28-

chung cơ chế cấp phép xuất nhập khẩu vàng đã không còn kiểm soát

hoàn toàn việc xuất nhập khẩu vàng ở Trung Quốc.

o Quản lý giao dịch vàng: Trong giai đoạn 1995-2005, Trung Quốc đã

bãi bỏ việc nhà nước độc quyền vàng, bãi bỏ hệ thống cấp phép bán lẻ,

bán buôn, sản xuất và không còn kiểm soát giá vàng. Thông qua việc

đưa vào hoạt động SGE, Trung Quốc đã chính thức mở cửa thị trường

vàng vì vậy giá vàng tại Trung Quốc đã tiệm cận rất sát với giá vàng

thế giới từ năm 2000. Từ năm 2006, PBoC và CBRC đã cho phép các

ngân hàng thương mại giao dịch các sản phẩm đầu tư vàng với nhà đầu

tư cá nhân. Cũng trong năm này, hệ thống giao dịch vàng thoi hai giá

cũng đã được triển khai và đến năm 2007, các ngân hàng thương mại

được phép giao dịch vàng thoi vật chất, được tham gia giao dịch tại

SGE và SHFE. Thị trường bán lẻ của Trung Quốc chỉ được phép bán

vàng trang sức. Tất cả các giao dịch vàng thoi đều phải được thực hiện

thông qua SGE. Các cửa hàng bán lẻ trang sức chịu sự quản lý của chi

nhánh PBoC tại địa phương.

o Quản lý chất lượng: PBoC thống nhất quản lý chất lượng vàng và kiểm

soát chất lượng vàng của các nhà sản xuất, chế tác. Các kho vàng do

PBoC thành lập rãi đều trên cả nước và quy định các tổ chức tham gia

giao dịch vàng đều phải gửi vàng tại các kho vàng này. Bên cạnh đó, từ

năm 2003, Trung Quốc đã công bố tiêu chuẩn phân loại các sản phẩm

vàng trang sức 18K để thuận tiện cho việc giao dịch.

 Quản lý chứng chỉ vàng và sản phẩm vàng phái sinh: Chứng chỉ vàng,

sản phẩm vàng phái sinh và thị trường vàng phái sinh được tổ chức giao

dịch tại Sàn giao dịch hàng hóa giao sau Thượng Hải (SHFE) được thành

lập năm 1999 và chịu sự quản lý của Ủy ban chứng khoán Trung Quốc.

SHFE tổ chức giao dịch hợp đồng hàng hóa giao sau cho các hàng hóa cơ

-29-

bản bao gồm vàng, bạc, đồng, nhôm, chì, kẽm, thép xây dựng, thép thanh

dây, cao su tự nhiên, dầu nguyên liệu và ETF vàng.

1.4.2.3. Sàn giao dịch vàng

 Sàn giao dịch vàng Thượng Hải (SGE): SGE là tổ chức phi lợi nhuận do

PBoC thành lập để cung cấp cơ sở hạ tầng và tổ chức giao dịch vàng thoi

giao ngay nhằm kết nối thị trường vàng quốc tế với thị trường vàng nội địa

đồng thời cũng tạo ra sự kết nối giữa thị trường vàng với thị trường chứng

khoán và thị trường ngoại hối. Các thành viên tham gia SGE bao gồm các

ngân hàng thương mại đủ điều kiện, các tổ chức thành lập tại Trung Quốc và

được PBoC cho phép khai thác, sản xuất, bán buôn, nhập khẩu, xuất khẩu

vàng, bạc, bạch kim và các kim loại quý khác. Các thành viên được chia làm

ba loại gồm các thành viên là tổ chức tài chính có thể hoạt động tự doanh

hoặc làm đại lý và các hoạt động kinh doanh khác; thành viên phổ thông có

thể hoạt động tự doanh hoặc làm đại lý; và thành viên chỉ được phép tự

doanh. Đầu năm 2012, SGE có 25 thành viên là các tổ chức tài chính trong

nước, 6 thành viên là tổ chức tài chính nước ngoài, 130 thành viên là các

công ty kinh doanh và 3 thành viên là các nhà khai thác vàng. Hoạt động

giao dịch tại SGE được thực hiện theo phương thức giao ngay và không cho

phép sử dụng đòn bẩy theo đó bên mua phải mở tài khoản thanh toán chuyên

biệt tại một trong bốn ngân hàng thanh toán theo quy định của SGE còn bên

bán phải có vàng vật chất đúng tiêu chuẩn lưu giữ tại một trong 63 kho của

SGE phân bố tại 28 tỉnh thành trong cả nước. Nhìn chung, hoạt động của

SGE đã phát triển nhanh chóng và trở thành một trong các kênh đầu tư của

các quỹ trong nước, các nhà đầu tư tổ chức và cá nhân và trở thành một

thành phần không thể thiếu của thị trường tài chính của Trung Quốc. Trong

năm 2010, SGE đã đóng một vai trò lớn hơn trong phân bổ nguồn lực thị

trường tài chính và đã trở thành sàn vàng vật chất lớn nhất thế giới với khối

lượng giao dịch lên đến 6.051,5 tấn, tăng 28,46% so với cùng kỳ năm 2009

-30-

và giá trị giao là 1.615,781 tỷ nhân dân tệ, tăng 57,04% năm 2009. Hoạt

động hiệu quả của SGE đã giúp ổn định thị trường vàng vật chất ở Trung

Quốc [33].

 Sàn giao dịch hàng hóa giao sau Thượng Hải (SHFE): SHFE có hơn 200

thành viên trong đó khoảng 80% là các công ty môi giới. Việc giao dịch

được thực hiện online thông qua hơn 250 thiết bị đầu cuối trên toàn quốc.

Đối với vàng, đơn vị giao dịch là 1kg áp dụng cho các sản phẩm vàng nội

địa và vàng quốc tế có độ tinh khiết không thấp hơn 99,95% theo chuẩn

vàng thoi trong danh sách công bố bởi LBMA và được chấp nhận bởi SHFE

[34].

Đồ thị 1.5: Biến động giá vàng thế giới và giá vàng tại Trung Quốc

Nguồn: World Gold Council [12]

Như vậy có thể thấy Trung Quốc đã mở cửa thị trường vàng theo từng bước

một cách thận trọng với lộ trình được chuẩn bị kỹ càng khởi đầu bởi việc bãi bỏ độc

quyền vàng, mở cửa thị trường vàng trang sức, thành lập sàn giao dịch vàng vật chất

trước khi mở cửa thị trường khai thác và sản xuất vàng, song song đó tổ chức hoạt

động thị trường vàng giao sau để từng bước hướng đến tự do hóa thị trường vàng.

Tuy vậy, so với thị trường vàng ở các nước phát triển, Trung Quốc vẫn còn duy trì

kiểm soát mang tính hạn chế đối với thị trường vàng bao gồm cả thị trường vàng

-31-

hàng hóa (nguyên liệu, đầu tư), thị trường vàng bán lẻ lẫn thị trường vàng giao sau.

Việc cải cách cơ chế quản lý vàng ở Trung Quốc đã giúp cầu vàng đầu tư tăng bình

quân 62%/năm trong giai đoạn 2001-2010 cao hơn rất nhiều so với nhu cầu vàng

trang sức tuy nhiên biến động giá vàng trên thị trường nội địa Trung Quốc đã có sự

liên thông chặt chẽ hơn với giá trên thị trường thế giới, chêch lệch giá đã không còn

có sự khác biệt lớn như trước đây.

1.5. NHẬN XÉT CHUNG VỀ CƠ CHẾ QUẢN LÝ THỊ TRƯỜNG VÀNG

Từ kinh nghiệm của Ấn Độ và Trung Quốc trong việc quản lý thị trường vàng

 Cơ quan quản lý: Việc quản lý thị trường vàng nên đặt dưới sự quản lý của

và tổ chức quản lý sàn giao dịch vàng có thể rút ra các kết luận cơ bản sau đây:

cơ quan chuyên trách trên cơ sở phối hợp tốt giữa các cơ quan quản lý bao

gồm Ngân hàng trung ương, Ủy ban chứng khoán, các cơ quan quản lý

giám sát theo lĩnh vực chức năng của nhà nước bao gồm cả việc quản lý

vàng tiền tệ, vàng tài chính phi tiền tệ và vàng hàng hóa, trong đó ngân

hàng trung ương đóng vai trò chủ đạo đối với vàng tiền tệ, vàng hàng hóa,

vàng tài chính phi tiền tệ (không bao gồm sản phẩm vàng phái sinh) và giao

dịch vàng giao ngay.

 Tổ chức quản lý vàng phi tiền tệ:

o Việc quản lý giám sát cần được thực hiện từ khâu khai thác, sản xuất,

xuất nhập khẩu cho đến giao dịch, tiêu thụ ở cả cấp độ bán buôn lẫn bán

lẻ cho người tiêu dùng cuối cùng với những cơ chế và mô hình áp dụng

riêng biệt cho từng đối tượng mang tính minh bạch cao bao gồm tất cả

các khâu từ khai thác, sản xuất (bao gồm cả sản xuất vàng thoi, vàng

trang sức), bán buôn, bán lẻ đều hoàn toàn không nên có sự độc quyền

kể cả độc quyền nhà nước hay tư nhân.

-32-

o Việc quản lý nhập khẩu vàng được thực hiện một cách linh hoạt trên cơ

sở xử lý hài hòa giữa trạng thái cán cân thanh toán và tình trạng nhập

lậu. Có thể áp dụng cơ chế cấp phép nhập khẩu vàng hạn chế cho một

số đối tượng nhưng công bố minh bạch tiêu chuẩn lựa chọn. Việc quản

lý được thực hiện theo hướng sẽ bãi bỏ giấy phép nhập khẩu vàng

nguyên liệu để liên thông thị trường trong nước và thị trường nước

ngoài khi đã chuẩn bị đầy đủ các điều kiện.

o Quản lý chặt chẽ chất lượng vàng kể cả vàng thoi và vàng trang sức.

Đối với vàng thoi, thành lập tổ chức kiểm định và cấp chứng nhận đạt

chuẩn theo các tiêu chuẩn quốc tế. Cho phép giao dịch các sản phẩm

vàng thoi theo tiêu chuẩn quốc tế được sản xuất bởi các nhà sản xuất có

uy tín theo danh sách công bố của LBMA và sự chấp thuận của cơ quan

quản lý.

 Tổ chức quản lý sàn giao dịch vàng vật chất

o Tổ chức sàn giao dịch vàng vật chất (giao dịch qua tài khoản vàng) chặt

chẽ và quy định việc giao dịch vàng thoi bắt buộc phải thực hiện qua

sàn giao dịch vàng vật chất. Sàn giao dịch vàng vật chất có sự kết nối

với thị trường vàng quốc tế để giá vàng trong nước tiệm cận với giá

vàng quốc tế nhằm chặn đứng việc nhập khẩu vàng. Trong giai đoạn

đầu không cho phép sử dụng đòn bẩy trên sàn giao dịch vàng vật chất

nhằm đảm bảo sự ổn định, an toàn của thị trường. Cho phép các ngân

hàng thương mại và các tổ chức đủ điều kiện được trở thành thành viên,

giao dịch vàng tài khoản tại sàn giao dịch vàng vật chất. Các nhà tạo lập

thị trường (market maker) trên sàn giao dịch vàng vật chất được phép

giao dịch vàng tài khoản trên thị trường thế giới. Từng bước cho phép

các tổ chức tài chính nước ngoài được tham gia giao dịch trên sàn giao

dịch vàng vật chất.

o Cho phép các ngân hàng huy động vàng thông qua các chứng chỉ vàng

-33-

và cho phép các chứng chỉ vàng được phép giao dịch trên sàn giao dịch

vàng vật chất.

 Quản lý chứng chỉ vàng và các sản phẩm vàng phái sinh:

o Cho phép thành lập các quỹ ETF vàng và niêm yết các chứng chỉ quỹ

trên thị trường chứng khoán.

o Thành lập và đưa vào hoạt động sàn giao dịch hàng hóa giao sau đặt

dưới sự quản lý của Ủy ban chứng khoán với các quy định, chuẩn mực

giao dịch bám sát với thông lệ quốc tế để từng bước hướng đến phù hợp

với thông lệ quốc tế.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

Chương 1 đã tập trung trình bày tổng quan về thị trường vàng trên thế giới và

cơ chế quản lý hoạt động thị trường vàng ở một số nước tiêu biểu bao gồm quản lý

vàng tiền tệ và đặc biệt là quản lý vàng hàng hóa từ mô hình tổ chức, cơ quan quản

lý, quản lý khai thác vàng khoáng sản, quản lý xuất khẩu nhập khẩu vàng, quản lý

và tổ chức giao dịch vàng hàng hóa vật chất lẫn giao dịch vàng tài khoản gồm sàn

giao dịch vàng vật chất và sàn giao dịch các sản phẩm phái sinh về vàng.

Nhìn chung, việc quản lý vàng hàng hóa của Ấn Độ và Trung Quốc là hai quốc

gia có nhiều nét tương đồng với Việt Nam về tập quá sử dụng vàng cho thấy các

quốc gia này đã chuyển dần từ việc quản lý hành chính, kiểm soát chặt thị trường

vàng sang việc nới lỏng, tự do hóa theo cơ chế thị trường. Ở các quốc gia này không

có sự độc quyền nhập khẩu, sản xuất vàng miếng thay vào đó họ thành lập cơ quan

chuyên trách để chứng nhận vàng miếng đạt tiêu chuẩn lưu thông đồng thời hướng

đến việc sử dụng, giao dịch vàng theo tiêu chuẩn quốc tế của các nhà sản xuất vàng

-34-

uy tín trên thế giới. Các quốc gia này cũng đã tổ chức hoạt động thành công sàn

giao dịch vàng vật chất và đặt biệt là sàn giao dịch hàng hóa phái sinh vàng cùng

các sản phẩm tài chính phái sinh khác. Việc quản lý thị trường vàng ở các quốc gia

này không giao cho một cơ quan chức năng quản lý nhà nước duy nhất mà sẽ có

nhiều cơ quan cùng tham gia quản lý với vai trò, chức năng được phân định minh

bạch, cụ thể và hợp lý. Ngoài ra, các quốc gia này cũng thành lập cơ quan chuyên

trách để quản lý sàn giao dịch vàng. Mặc dù, mỗi quốc gia có những đặc thù riêng

và khó có thể áp đặt mô hình quản lý của quốc gia này cho quốc gia kia nhưng việc

nghiên cứu kinh nghiệm quản lý thị trường vàng và tổ chức hoạt động sàn giao dịch

vàng ở các quốc gia trên thế giới có nhiều đặc điểm tương đồng với Việt Nam trong

tập quán sử dụng vàng để tham khảo nhằm xây dựng cơ chế quản lý thị trường vàng

ở Việt Nam và tổ chức hoạt động của sàn giao dịch vàng là điều hết sức cần thiết và có ý nghĩa khoa học.

-35-

CHƯƠNG 2

CƠ CHẾ QUẢN LÝ THỊ TRƯỜNG VÀNG VÀ

KINH DOANH VÀNG TÀI KHOẢN Ở VIỆT NAM

Mục tiêu của chương 2 là phân tích cơ chế quản lý thị trường vàng ở Việt Nam

từ trước năm 1999 đến 2012 chia làm ba giai đoạn: trước năm 1999, từ năm 2000

đến năm 2011 và từ năm 2012 trong đó tập trung vào những vấn đề trọng tâm phát

sinh trong các năm từ 2010 đến 2012 nhằm nhận diện những bất cập trong cơ chế

quản lý vàng hiện nay.

2.1. CƠ CHẾ QUẢN LÝ THỊ TRƯỜNG VÀNG TRƯỚC 1999

2.1.1 Trước năm 1975

Về lịch sử, từ thời vua Hùng đã có hoạt động khai thác và tinh luyện vàng bạc

để chế tác các trang sức bằng vàng với kỹ thuật chạm khắc được đánh giá là tinh vi.

Từ thế kỷ 18, nghề khai thác mỏ xuất hiện nhiều nơi trên cả nước trong đó được

nhắc đến nhiều là ở Quảng Nam. Cuối thế kỷ 19, Pháp thành lập Công ty vàng

Bồng Miêu ở Quảng Nam sau khi cho điều tra địa chất trên khu vực Đông Dương.

Tuy nhiên, việc tổ chức quản lý thị trường vàng giai đoạn này chưa hình thành một

cách rõ nét [2].

Trong những năm thập niên 60-70 thế kỷ 20, vàng ít khi được dùng làm phương

tiện thanh toán mà chủ yếu được dùng làm cất trữ và chế tác trang sức. Chính quyền

Sài Gòn áp dụng chính sách tự do kinh doanh vàng kể cả xuất khẩu, nhập khẩu vàng

thoi, vàng trang sức.

-36-

Hệ thống kinh doanh vàng được tổ chức phân cấp với đầu mối là các ngân hàng,

các đại lý cấp 1 sẽ nhận vàng từ ngân hàng về gia công, đóng nhãn hiệu sau đó phân

phối về cho các đại lý cấp 2 là các cửa hàng kinh doanh nhỏ. Trong giai đoạn này,

tại TP.HCM có khoảng 600 cửa hàng kinh doanh vàng theo kiểu đại lý cấp 1. Chất

lượng vàng chưa có sự kiểm soát chặt chẽ mà dựa trên uy tín của các thương hiệu

vàng là chủ yếu. Các hoạt động đầu cơ cũng diễn ra trong giai đoạn này nhưng

không đủ lớn và không đủ mạnh để tạo đột biến giá trên thị trường [2].

2.1.2 Từ 1975 đến 1989

Ngày 9/2/1979 Hội đồng Chính phủ đã ban hành quyết định số 38-CP về việc

quản lý vàng, bạc, bạch kim, kim cương đối với các xí nghiệp, cơ quan nhà nước và

quyết định số 39-CP về việc nhà nước thống nhất quản lý vàng, bạc, bạch kim và

kim cương.

Trong giai đoạn này, vàng trở thành hàng hóa đặc biệt như tiền tệ khi trên thực

tế vàng được sử dụng làm thước đo giá trị, phương tiện thanh toán và được ưa thích

cất trữ vì lạm phát thường xuyên ở mức cao dù rằng việc dùng vàng để định giá,

thanh toán là không được pháp luật thừa nhận. Việc giao dịch vàng kể cả vàng trang

sức lẫn vàng miếng của tư nhân bị cấm cùng với việc nhà nước dùng các biện pháp

hành chính mạnh để kiểm soát và điều khiển giá vàng.

Đến năm 1986, Việt Nam mới thực hiện chủ trương cho thành lập mạng lưới

các cửa hàng kinh doanh vàng bạc quốc doanh và đến ngày 24/5/1989 Chủ tịch Hội

đồng Bộ trưởng đã ban hành quyết định 139-CT chính thức cho phép tư nhân thành

lập cửa hàng kinh doanh vàng, bạc, đá quý (hộ kinh tế cá thể kinh doanh vàng, bạc,

đá quý) và từ đó thị trường vàng mới bắt đầu có sự cạnh tranh.

2.1.3 Từ 1990 đến 1999

Tháng 9/1990, trước tình trạng vàng hóa trong nền kinh tế, Hội đồng Bộ trưởng

đã ban hành Chỉ thị 330/CT quy định cấm sử dụng vàng dưới bất kỳ dạng nào để

-37-

thanh toán, chi trả hàng hóa qua biên giới và quy định việc lưu thông vàng thỏi trên

thị trường nội địa do Ngân hàng Nhà nước đảm nhận.

Ngày 23/9/1993, Chính Phủ ban hành Nghị định 63/CP về quản lý nhà nước đối

với hoạt động kinh doanh vàng theo đó nhà nước thừa nhận quyền sở hữu hợp pháp

về vàng của mọi tổ chức và cá nhân dưới dạng vàng khối, vàng thỏi, vàng cục, vàng

cốm, vàng lá, vàng sa khoáng, vàng gốc, vàng tư trang. Cho phép các doanh nghiệp,

tổ chức, cá nhân, xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được quyền cất giữ, vận

chuyển hoặc gửi vàng ở ngân hàng.

Về mặt quản lý, NHNN là cơ quan quản lý nhà nước về các hoạt động gia công,

chế tác, cầm đồ, mua bán, xuất nhập khẩu vàng; cùng các Bộ, ngành liên quan và

các địa phương thực hiện việc quản lý thị trường vàng trong cả nước. Các tổ chức

và cá nhân muốn kinh doanh vàng phải thành lập doanh nghiệp, hoặc đăng ký kinh

doanh và phải được NHNN cấp giấy phép. Ngoài việc thực hiện các quy định về

thành lập theo pháp luật về doanh nghiệp nhà nước, Luật Công ty, Luật Doanh

nghiệp tư nhân, các doanh nghiệp còn phải có các điều kiện: có vốn pháp định theo

quy định của NHNN đối với từng loại doanh nghiệp và từng vùng; có thợ chuyên

môn kỹ thuật; có trụ sở, địa chỉ rõ ràng.

Các doanh nghiệp kinh doanh vàng được mua bán vàng khối, vàng thỏi, vàng

cục, vàng cốm, vàng lá, vàng sa khoáng, vàng gốc, vàng tư trang; được chế tác, gia

công, cầm đồ vàng. Đối với hoạt động xuất nhập khẩu vàng, các doanh nghiệp xuất

khẩu vàng cần phải có giấy phép từ NHNN còn việc nhập khẩu vàng thì NHNN trực

tiếp thực hiện. Từ tháng 8/1994, Vụ quản lý ngoại hối cấp phép nhập ủy thác để

Công ty vàng bạc đá quý Việt Nam (VJC) nhập trực tiếp cho các doanh nghiệp và

Vụ quản lý ngoại hối bán vàng cho các doanh nghiệp. Việc quản lý nhập khẩu vàng

với chính sách chậm điều chỉnh và hạn ngạch thấp trong lúc cầu tăng cao đã làm

nảy sinh tình trạng nhập lậu trong suốt thời gian dài. Trong giai đoạn 1993 -1996,

NHNN đã cấp phép nhập khẩu khoảng 20 tấn vàng và các doanh nghiệp nhà nước,

tổ chức tín dụng được nhập khẩu vàng là đầu mối phân phối bán buôn và có khả

-38-

năng điều tiết thị trường trong cả nước [2]. Tuy nhiên, từ năm 1996 do tình hình

ngoại tệ khan hiếm vì ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính tiền tệ Đông Nam Á,

NHNN tạm dừng việc cấp phép nhập khẩu vàng.

Trong giai đoạn này, mạng lưới kinh doanh vàng phát triển mạnh đan xem giữa

các cửa hàng vàng bạc đá quý của tư nhân, các cửa hàng vàng bạc đá quý của các

doanh nghiệp nhà nước và kể cả các ngân hàng thương mại điển hình như các đơn

vị: Tổng công ty vàng bạc đá quý Việt Nam thuộc NHNN (VJC), Công ty vàng bạc

đá quý thuộc UBND TP.HCM (SJC), Công ty vàng bạc đá quý Phú Nhuận (PNJ),

Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu (Bông Lúa), Ngân hàng thương mại cổ

phần Đại Nam (Thần Tài) và khoảng 900 doanh nghiệp với trên 1.000 cửa hàng với

các quy mô khác nhau (chỉ tính trên địa bàn TP.HCM).

Về quản lý chất lượng vàng, không có cơ quan chức năng chính thức của nhà

nước hay đơn vị độc lập đủ uy tín để kiểm định, xác nhận chất lượng vàng.

Nhìn chung, thị trường vàng trong giai đoạn này phân tán cao, việc tổ chức

quản lý không có tính thống nhất khi các đơn vị kinh doanh tự lo nguồn nguyên

liệu, tự sản xuất và phân phối. Giá cả biến động thất thường và có sự chênh lệch cao

giữa giá vàng của các thương hiệu khác nhau, chênh lệch cao giữa các cửa hàng

nhất là khi thị trường có sự biến động giá cao. Số lượng các đơn vị kinh doanh, gia

công chế tác vàng tăng gấp 3 lần so với thời kỳ trước khi ban hành Nghị định 63/CP

(trong đó có 1.000 cá nhân/ hộ kinh doanh cá thể được cấp phép gia công và chế tác

vàng) và 50% số lượng các đơn vị này tập trung ở TP.HCM và các tỉnh đồng bằng

Nam Bộ [1].

2.2. CƠ CHẾ QUẢN LÝ THỊ TRƯỜNG VÀNG VÀ KINH DOANH VÀNG

TÀI KHOẢN TỪ 2000 ĐẾN 2012

Ngày 09/12/1999, Chính Phủ ban hành Nghị định 174/1999/NĐ-CP quy định

về quản lý hoạt động kinh doanh vàng thay thế Nghị định 63/CP về quản lý nhà

-39-

nước đối với hoạt động kinh doanh vàng vốn đã trở nên lạc hậu. Như vậy, cùng với

Nghị định 63/1998/NĐ-CP về quản lý ngoại hối được ban hành trước đó vào ngày

17/8/1998, cơ chế quản lý vàng ở Việt Nam đã chính thức tách bạch rõ việc quản lý

vàng tiền tệ và quản lý vàng hàng hóa. Ngày 11/6/2003, Chính phủ đã ban hành

Nghị định 64/2003/NĐ-CP sửa đổi bổ sung một số điều Nghị định 174/1999/NĐ-

CP theo hướng nới lỏng các quy định quản lý.

Chính Phủ

MONRE Quản lý nhà nước về khoáng sản MOF Chính sách thuế xuất khẩu, nhập khẩu, GTGT, TNDN SBV Quản lý toàn diện hoạt động sản xuất, kinh doanh vàng

Doanh nghiệp XK, NK vàng khoáng sản

Doanh nghiệp SX, gia công vàng miếng, trang sức mỹ nghệ

Doanh nghiệp Sàn giao dịch vàng

Doanh nghiệp đầu mối XK, NK vàng nguyên liệu

Doanh nghiệp Mua bán vàng miếng, trang sức mỹ nghệ

NHTM SX vàng miếng, sàn giao dịch vàng, kinh doanh vàng tài khoản, huy động cho vay vàng

Doanh nghiệp Thăm dò, khai thác, tinh luyện vàng khoáng

Quản lý

Giao dịch

Cá nhân

Sơ đồ 2.1: Tổ chức quản lý thị trường vàng ở Việt Nam từ 2000 đến 2011

Nguồn: Tổng hợp của tác giả

Vàng theo tiêu chuẩn quốc tế được quản lý dựa trên quy định của Nghị định

63/1998/NĐ-CP (từ 2005 thực hiện theo quy định của Pháp lệnh ngoại hối) tương

tự như việc quản lý ngoại hối. Nói cách khác, vàng theo tiêu chuẩn quốc tế được

-40-

quản lý như vàng tiền tệ mặc dù cả hai nghị định nói trên và cả Pháp lệnh ngoại hối

đều không đưa ra khái niệm vàng theo tiêu chuẩn quốc tế.

2.2.1 Cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành

NHNN là cơ quan đầu mối để quản lý theo ngành dọc gần như toàn bộ các hoạt

động liên quan đến vàng bao gồm cả vàng tiền tệ và vàng phi tiền tệ (trừ hoạt động

khai thác và chế biến/tinh chế vàng). Bên cạnh đó, các cơ quan chức năng của chính

quyền địa phương cũng được giao trách nhiệm phối hợp trong việc quản lý đăng ký

kinh doanh và thanh tra kiểm soát theo chức năng chung.

Bảng 2.1: Quy định về giấy phép hoạt động kinh doanh vàng từ 2000 đến 2011

Từ 01/01/2000 Từ 01/10/2003 Từ 6/6/2008 TT

1

2 NHNN cấp phép NHNN cấp phép NHNN cấp phép NHNN cấp phép Tạm dừng NK kể từ 6/6/2008, đến 11/11/2009 NHNN cấp phép trở lại

3 NHNN cấp phép

Loại hình kinh doanh Sản xuất, XK, NK vàng miếng XK, NK vàng nguyên liệu dưới dạng khối, thỏi, lá, hạt, dây, bột XK, NK vàng mỹ nghệ có khối lượng lô hàng từ 3kg/lần XK, NK

Không phải có giấy phép của NHNN 4 Các hoạt động kinh doanh khác liên quan đến vàng Không phải có giấy phép của NHNN

Ghi chú: Không bao gồm kinh doanh vàng tài khoản

Nguồn: Tổng hợp của tác giả

2.2.2 Quản lý khai thác

Theo Luật khoáng sản ngày 20/3/1996, nhà nước chủ trương để doanh nghiệp

nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong việc khai thác, chế biến các khoáng sản quan

trọng nhưng không thấy minh định cụ thể khoáng sản quan trọng. Theo Luật khoáng

-41-

sản, các hoạt động liên quan đến vàng bao gồm khảo sát, thăm dò, khai thác, chế

biến vàng đều là các hoạt động phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp

phép. Bộ Công nghiệp là cơ quan quản lý nhà nước về vàng khoáng sản trên cả

nước, Ủy ban nhân dân các cấp thực hiện chức năng quản lý nhà nước về vàng

khoáng sản tại địa phương. Tuy nhiên đến năm 2005, Luật sửa đổi bổ sung một số

điều Luật khoáng sản 1996 đã bổ sung thêm trách nhiệm của Bộ Tài nguyên và Môi

trường trong việc điều tra cơ bản về tài nguyên vàng khoáng sản và quản lý nhà

nước về vàng khoáng sản trên phạm vi cả nước, Bộ Công nghiệp chỉ quản lý nhà

nước về công nghiệp khai thác, chế biến (tinh chế) vàng. Như vậy, việc cấp phép

khảo sát, thăm dò, khai thác, chế biến vàng đều thuộc thẩm quyền của Bộ Tài

nguyên và Môi trường.

Luật khoáng sản 2010 thay thế các luật về khoáng sản trước đó đã không còn

tách bạch giữa khai thác và chế biến vàng khoáng sản ra riêng mà nhập chung hai

hoạt động này lại với tên gọi chung là khai thác vàng khoáng sản. Bộ Tài nguyên và

Môi trường vẫn là cơ quan có thầm quyền cấp phép. Theo quy định của Luật

khoáng sản, Bộ Công thương là cơ quan cấp phép xuất khẩu khoáng sản tuy nhiên

luật không minh định rõ khoáng sản nguyên khai hay khoáng sản đã qua sơ chế,

tinh luyện nên trên thực tế đối với vàng khoáng sản đã qua sơ chế, tinh luyện thành

vàng nguyên liệu thì NHNN là cơ quan cấp phép theo các quy định của Chính phủ

về quản lý vàng.

Theo số liệu của Đại học Mỏ Địa Chất, dự báo trữ lượng vàng ở Việt Nam

khoảng 1.800 tấn tuy nhiên hiện chỉ mới phát hiện khoảng 300 điểm quặng với trữ

lượng ước tính từ 150-300 tấn. Mặc dù Việt Nam đã cấp phép hoạt động khai thác

vàng khoáng sản cho Xí nghiệp liên doanh vàng Việt - Nga (đã giải thể cuối thế kỷ

20), Công ty TNHH vàng Bồng Miêu, Công ty TNHH vàng Phước Sơn, nhà máy

luyện vàng Bồng Miêu, Công ty cổ phần khoáng sản Tây Bắc, Công ty cổ phần tập

đoàn khoáng sản Hamico để khai thác các mỏ vàng đã được cấp phép như mỏ vàng

Bồng Miêu, mỏ vàng Điện Biên, mỏ vàng bản Pểnh, mỏ vàng Phù Yên, mỏ vàng sa

-42-

khoáng Bắc Kạn, mỏ vàng Nà Làng, .v.v. nhưng theo báo cáo giám sát của Ủy ban

thường vụ Quốc hội vào tháng 7 năm 2012 thì vì công nghệ khai thác lạc hậu chưa

hiện đại nên tổn thất trong chế biến vàng khoáng sản còn ở mức cao với mức tổng

thu hồi trong chế biến chỉ đạt khoảng 30% - 40%. Vì vậy, chúng tôi cho rằng vàng

khoáng sản khai thác ở Việt Nam là nguồn cung quá nhỏ và không có ảnh hưởng

đáng kể đến thị trường vàng ở Việt Nam.

2.2.3 Quản lý xuất khẩu, nhập khẩu

Theo quy định, việc xuất khẩu, nhập khẩu vàng mỹ nghệ có khối lượng từ

3kg/lần trở lên và vàng miếng phải xin phép NHNN (NHNN chi nhánh tỉnh thành

cấp phép từ 3kg-10kg/lần, Vụ quản lý ngoại hối cấp phép trên 10kg/lần). Trong khi

đó việc xuất khẩu, nhập khẩu vàng trang sức (không giới hạn), vàng mỹ nghệ (dưới

3kg/lần) thực hiện theo giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp.

Bảng 2.2: Thuế suất thuế nhập khẩu vàng từ 1999-2011

TT Loại vàng 12/98- 06/02 07/02- 08/03 08/03- 03/04 04/04- 09/06 10/06- 12/09 Từ 01/10

5% 3% 3% 1% 0,50% 0% 1

1% 1% 1% 0,50% 0,50% 0% 2 Thanh, que, lá, dãi Hạt chưa gia công, loại khác

Ghi chú: Từ tháng 3/2004, các loại vàng khối, thỏi, đúc được đưa vào nhóm 2 chung với vàng hạt Nguồn: Tác giả tổng hợp

Việc quản lý xuất khẩu, nhập khẩu vàng nguyên liệu được thực hiện khá chặt

chẽ, theo đó NHNN sẽ căn cứ nhu cầu nguyên liệu cho sản xuất vàng trang sức, mỹ

nghệ, vàng miếng và mục tiêu chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ để xem xét cho

phép các doanh nghiệp có đăng ký kinh doanh vàng được xuất khẩu, nhập khẩu

vàng miếng, vàng nguyên liệu dưới dạng khối, thỏi, lá, hạt, dây, bột khi có vốn pháp

định tối thiểu 5 tỷ đồng Việt Nam và kinh doanh có lãi trong năm gần nhất. Đối với

doanh nghiệp nước ngoài hoạt động sản xuất vàng trang sức, vàng mỹ nghệ thì việc

-43-

xuất khẩu, nhập khẩu không phải xin phép từng chuyến mà thực hiện theo hạn

ngạch được NHNN cấp theo kế hoạch sản xuất kinh doanh.

Mặc dù về danh nghĩa các quy định cho phép nhập khẩu vàng có hiệu lực kể từ

01/01/2000 nhưng phải mất một năm sau, đến tháng 01/2001 sau hơn 5 năm tạm

dừng cấp phép nhập khẩu vàng, NHNN mới cho phép nhập khẩu vàng trở lại. Việc

cấp phép được thực hiện từng lần theo hạn ngạch cụ thể cho từng doanh nghiệp cụ

thể và được bãi bỏ vào năm 2003 nhưng sau đó áp dụng trở lại vào năm 2009.

Với đường biên giới khá dài trong khi việc quản lý còn chưa được tốt, việc áp

dụng mức thuế suất thuế nhập khẩu cao đối với vàng nguyên liệu đã vô tình

“khuyến khích” việc nhập lậu, nhà nước vừa không quản lý được vừa thất thu một

số thuế đáng kể. Vì vậy, việc giảm thuế suất thuế nhập khẩu xuống mức thấp thậm

chí 0% như chính sách hiện nay là điều nên duy trì.

2.2.4 Quản lý hoạt động sản xuất, gia công vàng

Từ năm 1999, đã có quy định cụ thể phân biệt giữa vàng trang sức, vàng mỹ

nghệ, vàng miếng, vàng nguyên liệu không theo tiêu chuẩn quốc tế. Ngoài ra, các

doanh nghiệp trong nước, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng được

cho hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, gia công vàng trang sức, mỹ nghệ. Hoạt động

kinh doanh vàng được xem là hoạt động kinh doanh có điều kiện với các yêu cầu về

cơ sở vật chất kỹ thuật, đội ngũ nhân sự và vốn pháp định trong đó vốn pháp định

đối với hoạt động sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ là 5 tỷ đồng (tại TP.HCM, Hà

Nội), 1 tỷ đồng (ở các tỉnh thành khác), đối với hoạt động sản xuất vàng miếng là

50 tỷ đồng. Tuy nhiên, Nghị định 64/2003/NĐ-CP ngày 11/6/2003 đã bỏ quy định

vốn pháp định 50 tỷ đối với hoạt động sản xuất vàng miếng. Bên cạnh đó, từ

1/10/2003, NHNN cũng đã cho phép các doanh nghiệp sản xuất vàng miếng được

phép nhận gia công vàng miếng cho các tổ chức, cá nhân khác.

-44-

2.2.5 Quản ký kinh doanh, giao dịch vàng vật chất

Việc giao dịch vàng bao gồm cả vàng trang sức mỹ nghệ và vàng miếng giữa

các cá nhân tổ chức được thực hiện tự do trên thị trường nội địa thông qua các cửa

hàng vàng của các hộ cá thể, các điểm giao dịch vàng của các công ty kinh doanh

vàng trên khắp cả nước. NHNN không có quy định hạn chế số lượng các cửa hàng

bán lẻ và các nhà kinh doanh vàng. Tại thời điểm cuối năm 2010, ước tính trên của

nước có khoảng 12.000 hộ cá thể và doanh nghiệp kinh doanh vàng trong đó có 24

doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài [1]. Các đơn vị sản xuất vàng miếng có

thương hiệu và sản lượng tiêu thụ lớn gồm có Tổng công ty vàng bạc đá quý Sài

Gòn (SJC), Tổng công ty vàng bạc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

(AAA), Công ty vàng Bảo tín Minh châu (BTNM), Công ty vàng bạc đá quý Phú

Nhuận (PNJ), Công ty vàng Ngân hàng Sài gòn Thương tín (SBJ), Trung tâm vàng

Ngân hàng Á Châu (ACB), Công ty thương mại vàng bạc đá quý Phương Nam

(NJC).

Tháng 5/2007, sàn giao dịch vàng vật chất đầu tiên của Việt Nam được Ngân

hàng Á Châu chính thức đưa vào hoạt. Khởi thủy của sàn giao dịch vàng ở Việt

Nam chỉ đơn thuần là sàn giao dịch vàng vật chất đúng nghĩa và ngân hàng tổ chức

sàn chỉ hoàn toàn đóng vai trò trung gian để nhận hoa hồng thông qua môi giới. Tuy

nhiên, hoạt động sàn giao dịch kiểu này đã không hấp dẫn được người tham gia bởi

vì họ vẫn có thể thực hiện mà không cần phải thông qua sàn. Vì thế, các ngân hàng

lập sàn giao dịch vàng ngoài vai trò môi giới (broker) họ còn đóng vai trò là người

tạo lập thị trường (market maker) và nhà kinh doanh (dealer) để cân bằng chênh

lệch cung cầu giữa các nhà đầu tư rồi ngay lập tức cân bằng trạng thái của mình

thông qua giao dịch trên tài khoản vàng ở nước ngoài. Bên cạnh đó, các sàn giao

dịch vàng đã triển khai nghiệp vụ bán khống và cho phép khách hàng sử dụng đòn

bẩy tài chính để giao dịch.

Mặc dù các sàn giao dịch vàng nở rộ và triển khai các nghiệp vụ phức tạp, các

chủ sàn đóng một lúc nhiều vai trò trong giao dịch gây rất nhiều rủi ro và kém minh

-45-

bạch nhưng đáng tiếc trong suốt giai đoạn này NHNN không hề ban hành bất kỳ

quy định chi tiết nào liên quan đến hoạt động này và cũng chưa tổ chức việc quản

lý, giám sát đúng yêu cầu. Vì vậy, hoạt động của các sàn vàng đã gây nên những hệ

lụy tiêu cực cho các nhà đầu tư lẫn nền kinh tế, đặc biệt liên quan đến vàng và tỷ

giá.

Tính đến cuối năm 2010 khi Chính Phủ chủ trương đóng cửa các sàn vàng, Việt

Nam có hơn 20 sàn vàng bao gồm hai nhóm: sàn vàng do ngân hàng thương mại

thành lập, sàn vàng do các công ty phi tài chính thành lập (gồm 3 loại: có hoặc

không có ngân hàng tham gia góp vốn, giao dịch theo giá vàng trong nước hoặc

giao dịch trực tiếp vàng ở nước ngoài).

2.2.6 Quản lý giao dịch vàng tài khoản ở nước ngoài

Để giúp các ngân hàng thương mại có công cụ phòng ngừa rủi ro trong việc huy

động và cho vay bằng vàng, ngày 18/01/2006 NHNN đã ban hành quyết định

03/2006/QĐ-NHNN cho phép kinh doanh vàng trên tài khoản ở nước ngoài. Theo

đó, không chỉ các tổ chức tín dụng có kinh nghiệm trên 1 năm hoạt động trong lĩnh

vực kinh doanh vàng và huy động, cho vay vàng; đồng thời có số dư huy động vàng

từ 500kg trở lên được phép kinh doanh vàng tài khoản ở nước ngoài mà các doanh

nghiệp kinh doanh vàng có trên 1 năm kinh nghiệm hoạt động kinh doanh xuất,

nhập khẩu vàng và có vốn tự có tối thiểu 100 tỷ đồng cũng được phép kinh doanh

vàng trên tài khoản ở nước ngoài.

Trạng thái vàng tính theo giá vàng quy đổi trạng thái được giới hạn tối đa ở

mức + 20% so với vốn tự có áp dụng cho các tổ chức tín dụng, + 100% so với vốn

tự có áp dụng cho các doanh nghiệp kinh doanh vàng.

Đến năm 2009, NHNN đã cấp giấy phép kinh doanh vàng trên tài khoản ở nước

ngoài cho 19 đơn vị. Do năng lực tài chính và kinh nghiệm kinh doanh vàng trên tài

khoản của các đơn vị không đồng đều nên có đơn vị kinh doanh đạt hiệu quả cao, có

-46-

đơn vị đạt hiệu quả thấp, giá vàng trong nước hình thành không thống nhất, mang

tính tự phát.

2.2.7 Quản lý huy động, cho vay bằng vàng

Năm 1992, nhằm mục đích thu hút các nguồn vốn tiền tệ nhàn rỗi trong các

tầng lớp dân cư để cho vay trung dài hạn đối với các tổ chức kinh tế trong nước,

NHNN cho phép Tổng công ty vàng bạc đá quý và các ngân hàng thương mại nhà

nước được huy động vốn và cho vay có bảo đảm giá trị theo giá vàng. Theo đó, việc

huy động thực hiện dưới hình thức phát hành kỳ phiếu có mục đích bằng VND được

quy ra vàng 99,99 tại thời điểm gửi. Kỳ phiếu không in sẵn mệnh giá nên khi nhận

tiền gửi, ngân hàng sẽ ghi rõ trên kỳ phiếu số tiền huy động và số lượng vàng tương

đương tại thời điểm gửi. Giá quy đổi căn cứ theo giá bán ra của Công ty vàng bạc

đá quý tại thời điểm và nơi nhận gửi, cho vay và hoàn trả.

Việc huy động VND được đảm bảo bằng vàng đã tạo điều kiện giúp ngân hàng

huy động được nguồn vốn trung dài hạn để phục vụ cho nhu cầu vốn trung dài hạn

đang rất cao ở giai đoạn đó. Tuy nhiên, quy định này khá đơn giản khi chưa ràng

buộc các ngân hàng duy trì trạng thái vàng để hạn chế rủi ro.

Ngày 03/10/2000, NHNN đã ban hành quyết định 432/2000/QĐ-NHNN1 thay

thế cho quy định từ năm 1992 theo đó chỉ có các tổ chức tín dụng mới được huy

động bằng vàng thông qua hình thức phát hành chứng chỉ vàng hoặc nhận tiền gửi

VND có đảm bảm bằng vàng với kỳ hạn huy động tối thiểu 30 ngày. Từ nguồn vốn

huy động bằng vàng, các tổ chức tín dụng cho vay bằng vàng hoặc chuyển đổi sang

VND để cho vay VND bảo đảm theo giá vàng. Tỷ lệ chuyển đổi nguồn vốn huy

động bằng vàng thành nguồn vốn bằng tiền không quá 30% nguồn vốn huy động

bằng vàng.

Từ những năm 1999-2001 khi thị trường nhà đất đóng băng, việc NHNN cho

phép các ngân hàng duy trì trạng thái vàng âm đã giúp giải tỏa lượng lớn vàng huy

-47-

động nhưng không cho vay được của các ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, khi giá

vàng liên tục tăng từ giai đoạn 2003-2005 thì hoạt động này đã bộc lộ nguy cơ rủi ro

rất lớn. Đây cũng chính là lý do từ năm 2004 NHNN đã cho phép thử nghiệm việc

mở tài khoản vàng ở nước ngoài để cân bằng trạng thái, chính thức áp dụng rộng rãi

từ tháng 1/2006 và sau đó là sàn giao dịch vàng vào tháng 5/2007.

Tuy nhiên, đến năm 2010 trước diễn biến phức tạp của thị trường vàng, sau khi

không cho phép các ngân hàng kinh doanh vàng tài khoản ở nước ngoài và dừng

hoạt động của các sàn vàng trong nước từ 30/3/2010, ngày 29/10/2010 NHNN ban

hành thông tư 22/2010/TT-NHNN quy định mới về việc huy động vốn và cho vay

bằng vàng theo đó vàng sử dụng trong huy động vốn và cho vay là vàng miếng theo

tiêu chuẩn của các doanh nghiệp kinh doanh vàng đã được NHNN cấp giấy phép

sản xuất vàng miếng. Tổ chức tín dụng chỉ được huy động thông qua phát hành giấy

tờ có giá và chỉ cho vay vốn bằng vàng để sản xuất (chế tác) và kinh doanh vàng

trang sức, không được cho vay để sản xuất và kinh doanh vàng miếng, không được

chuyển đổi vốn huy động bằng vàng thành VND và các hình thức bằng tiền khác.

Tuy nhiên, chưa đầy 6 tháng sau khi thông tư 22/2010/TT-NHNN có hiệu lực, tháng

4/2011 NHNN đã ban hành quy định giới hạn việc huy động vốn và cho vay bằng

vàng theo đó không cho phép các ngân hàng thực hiện cho vay vốn bằng vàng đối

với khách hàng và các tổ chức tín dụng khác, không được gửi vàng tại tổ chức tín

dụng khác, không được thực hiện các nghiệp vụ ủy thác, đầu tư và các hình thức

cấp tín dụng khác bằng vàng. Đồng thời quy định cũng không cho phép các tổ chức

tín dụng huy động vốn bằng vàng trừ trường hợp phát hành chứng chỉ ngắn hạn

bằng vàng để chi trả vàng theo yêu cầu của khách hàng khi số vàng thu nợ và tồn

quỹ không đủ để chi trả và việc phát hành chứng chỉ ngắn hạn bằng vàng của tổ

chức tín dụng phải chấm dứt vào ngày 01/5/2012.

Có thể nói, NHNN đã bị động trước diễn biến của thị trường nên phải liên tục

thay đổi chính sách quản lý việc huy động và cho vay bằng vàng của các tổ chức tín

dụng. Đầu tháng 10/2011, NHNN đã phục hồi lại quy định cho phép các tổ chức tín

-48-

dụng đáp ứng đủ điều kiện được chuyển đổi lượng vàng tồn quỹ (bao gồm vàng huy

động và vàng giữ hộ tồn quỹ) và mở tài khoản vàng ở nước ngoài để bảo hiểm rủi

ro biến động giá vàng. Tỷ lệ chuyển đổi vàng tồn quỹ thành VND tối đa 40% lượng

vàng tồn quỹ và phải mua vàng vật chất tại thị trường trong nước để bù đắp lượng

vàng tồn quỹ đã chuyển đổi thành tiền theo văn bản cho phép chuyển đổi của

NHNN. Trong trường hợp ngân hàng thương mại gặp khó khăn trong việc mua

vàng vật chất bù đắp lượng vàng tồn quỹ đã chuyển đổi thành tiền tại thị trường

trong nước, NHNN sẽ xem xét cho phép nhập khẩu vàng để bù đắp lượng vàng tồn

quỹ đã chuyển đổi.

2.2.8 Quản lý chất lượng

Theo quy định, các doanh nghiệp sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ, vàng

miếng đều phải đăng ký ký mã hiệu với NHNN và phải đóng ký mã hiệu doanh

nghiệp, chất lượng trên sản phẩm. Riêng đối với sản xuất vàng miếng, doanh nghiệp

còn phải đăng ký chất lượng sản phẩm với NHNN tuy nhiên việc giám sát, kiểm

soát chưa được thực hiện chặt chẽ khi chưa có một cơ quan chuyên môn chuyên

trách trực tiếp quản lý, giám sát.

2.2.9 Phân tích diễn biến thị trường vàng

Việc nắm giữ vàng với chức năng cất trữ (bảo toàn giá trị) là tập quán lâu đời

của người Việt Nam. Nhu cầu nắm giữ vàng càng tăng cao khi tình hình kinh tế

không ổn định, nội tệ mất giá hoặc những khi có biến động đột biến giá. Người dân

cũng có xu hướng chuyển sang trú ẩn ở vàng khi USD mất giá hoặc khó khăn trong

việc nắm giữ USD do các hạn chế của luật pháp. Bên cạnh đó, trong thời gian dài

hàng chục năm, vàng còn được dân chúng sử dụng phổ biến ở chức năng định giá

và trung gian thanh toán đối với các tài sản có giá trị lớn đặc biệt là nhà đất. Tập

quán văn hóa cũng khiến người Việt Nam sử dụng trang sức vàng rất phổ biến và

nhu cầu này cũng biến động mang tính mùa vụ vào mùa cưới cuối năm và ngày lễ

tình nhân, quốc tế phụ nữ. Ngoài ra một nhu cầu khác không thể không kể đến là

-49-

việc sử dụng vàng làm dự trữ ngoại hối của NHNN. Vì số liệu chính thức về vàng

của Việt Nam là không đầy đủ, thiếu hệ thống và cập nhật kém đồng thời đề tài

không tập trung đề cập đến vàng tiền tệ nên để thuận tiện trong việc thống kê và

thống nhất dữ liệu, các số liệu về vàng nêu ở đây sẽ được chia làm hai loại theo mục

đích là vàng đầu tư và vàng trang sức.

2.2.9.1 Giai đoạn từ 2000 đến 2005

Bảng 2.3. Cung cầu vàng ở Việt Nam từ 2000 đến 2005

Tổng cung (tấn) Năm Tốc độ tăng tổng cầu (%) Tổng Trang T T Tổng NK lậu sức Tổng cầu* (tấn) Trang sức NK chính thức

Đầu tư 16,1 13,9 -12,2 0,0 8,3 -12,8 9,1 33,3 -25 -4,2 13 3,8 13,2 21,7 -17,8 -1,7 10,2 -6,2 1 2000 2 2001 3 2002 4 2003 5 2004 6 2005 24 32 24 23 26 27 n.a 11 16 18 18 17 n.a 62 44 41 47 44 Đầu tư 36 60 41 73 36 60 36 59 39 65 34 61 Ghi chú: * Đã bao gồm xuất khẩu. n.a: Không có số liệu Nguồn: Tổng hợp từ IMF, GFMS, SBV, WGC [3], [24]

Sự ra đời của nghị định 174/1999/NĐ-CP về quản lý vàng cho phép tự do hóa

kinh doanh vàng là một trong những lý do làm gia tăng đáng kể nhu cầu nắm giữ

vàng trong năm 2000 - ngay sau khi nghị định 174/199/NĐ-CP có hiệu lực - tăng

13,2% trong đó cầu đầu tư tăng đến 16,1%.

Năm 2001 đánh dấu sự gia tăng mạnh nhất trong lịch sử của cầu vàng trang sức,

lên đến 33%, góp phần quan trọng làm tổng cầu vàng tăng 21,7% tương đương 13

tấn. Hội đồng vàng thế giới (WGC) đã gọi Việt Nam là ngôi sao đang lên của thị

trường vàng Đông Nam Á. Sự gia tăng mạnh mẽ cầu vàng ở Việt Nam có thể giải

thích vì các nguyên nhân:

-50-

 GDP vẫn tiếp tục mức tăng trưởng ổn định và thu nhập gia tăng nhờ cải

cách tiền lương là nhân tố quan trọng làm tăng nhu cầu nắm giữ vàng

trang sức. Số liệu thống kê theo quý của WGC cho thấy nhu cầu vàng

trang sức tăng cao vào quý 1 và quý 4 là quý có những ngày lễ lớn, mùa

cưới và tết nguyên đán.

 Biến động đột biến của giá vàng cũng góp phần làm tăng nhu cầu tích trữ

vàng không chỉ là kênh tiết kiệm mà còn mang cả ý nghĩa đầu tư. Nhu cầu

này cũng tăng chủ yếu ở quý 4 sau khi xảy ra sự kiện 11/9/2001 ở Hoa

Kỳ.

 Lãi suất VND và USD đều giảm mạnh so với các năm trước cùng với việc

VND mất giá mạnh so với USD đã làm dịch chuyển dòng tiền tiết kiệm

VND và USD sang vàng.

 Giá nhà đất bắt đầu có sự gia tăng đáng kể làm gia tăng nhu cầu đầu tư

vào nhà đất vì vậy cầu vàng dùng để thanh toán cũng tăng theo.

Đồ thị 2.1: Biến động giá vàng giao ngay tại London (2000-2005)

Nguồn: World Gold Council [24]

Thống kê của WGC cũng cho thấy, nhu cầu vàng cả trang sức và đầu tư vẫn gia

tăng mạnh ở mức 11% so với quý trước tương đương 20 tấn trong quý 1/2002 trong

-51-

đó trang sức tăng 11 tấn và đầu tư tăng 9 tấn [24]. Tuy nhiên, từ quý 2 khi Chính

phủ xiết chặt thị trường bất động sản thì nhu cầu vàng đầu tư giảm đến 21% khiến

cho tổng nhu cầu vàng giảm 9% mặc dù cầu vàng trang sức vẫn tiếp tục duy trì mức

tăng 22% so với quý 1. Tình trạng này tiếp tục kéo dài trong hai quý còn lại của

năm 2002, đồng thời sự gia tăng mạnh mẽ của giá vàng cũng khiến cho nhu cầu

vàng trang sức sụt giảm mạnh. Lần đầu tiên trong nhiều năm, tổng cầu vàng ở Việt

Nam đã có mức suy giảm và giảm mạnh đến gần 18%.

Đồ thị 2.2: Tốc độ tăng cầu vàng và một số yếu tố liên quan (2000-2005)

Tổng hợp từ GSO, WGC, GFMS, IMF

Tuy nhiên, với sự hỗ trợ của lạm phát tăng cao ở trong nước, lãi suất VND và

cả lãi suất USD vẫn ở mức thấp trong lúc tỷ giá được kìm giữ ở mức tăng khá thấp

(dưới 2%/năm), việc giảm thuế nhập khẩu vàng nguyên liệu nhằm hạn chế nhập lậu

vàng, thị trường bất động sản bùng nổ từ tháng 4/2004 trước khi Luật đất đai có

hiệu lực từ 01/7/2004 là những nguyên nhân chính làm cầu vàng tăng mạnh trở lại

trong các năm từ 2003 đến 2005.

-52-

Nhìn chung, trong các năm 2000-2005 cầu vàng ở Việt Nam có tốc độ tăng cao

so với các nước trong khu vực, đưa Việt Nam trở thành “ngôi sao” tiêu thụ vàng lớn

trên thế giới vì gần như toàn bộ cung vàng của Việt Nam là từ nhập khẩu với lượng

nhập khẩu hàng năm luôn ở mức cao, dao động từ 60-80 tấn/năm vì thế đã làm tiêu

tốn từ 1,5-3 tỷ USD/năm trong bối cảnh cán cân thanh toán vẫn thường xuyên thâm

hụt, dự trữ ngoại tệ nhỏ bé. Áp lực mua ngoại tệ nhập khẩu vàng, đặc biệt là nhập

lậu vàng luôn duy trì ở mức trên 70% tổng nhập khẩu hàng năm đã khiến cho việc

quản lý thị trường ngoại tệ của NHNN trở nên khó khăn hơn đồng thời nhà nước

cũng mất đi khoảng thu đáng kể từ thuế nhập khẩu.

2.2.9.2 Giai đoạn từ 2006 đến 2012

Bảng 2.4. Cung cầu vàng ở Việt Nam từ 2006 đến 2011

Tổng cung (tấn) Năm Tốc độ tăng tổng cầu (%) Tổng Trang T T Tổng NK lậu sức Đầu tư

1 2006 2 2007 3 2008 4 2009 5 2010 6 2011 Tổng cầu* (tấn) Trang sức 22 22 29 15 14 15 Đầu tư 64 56 96 58 67 87 86 78 125 73 81 102 -18,5 0,0 31,8 -48,3 -6,7 7,1 41 -9,3 60,3 -41,6 11,0 25,9 88,2 -12,5 71,4 -39,6 15,5 29,9 NK chính thức 35 29 57 n.a n.a 25 51 49 68 n.a n.a 77

Ghi chú: * : Đã bao gồm xuất khẩu. n.a: Không có số liệu Nguồn: Tổng hợp từ IMF, GFMS, SBV, WGC [3], [24]

Khi giá vàng tăng cao trong năm 2006, cầu vàng trang sức đã sụt giảm mạnh

mẽ nhưng cầu vàng đầu tư đã bùng nổ đột biến. Cơn sốt vàng với việc các cá nhân

đổ xô đi mua vàng miếng diễn ra liên tục hai quý đầu năm tiếp tục được “bồi” thêm

khi giá vàng quay đầu giảm vào nữa đầu tháng 6/2006, chứng khoán và bất động

sản cùng song hành bùng nổ và lãi suất tiền gửi vàng tăng lên đã làm dịch chuyển

dòng tiền gửi tiết kiệm VND sang vàng. Nhu cầu vàng miếng tăng quá mạnh trong

lúc công xuất gia công vàng của các nhà sản xuất giới hạn vì vậy các nhà đầu tư

-53-

phải đặt cọc trước 20% mới có thể nhận vàng miếng 6 tuần sau đó. Hạn ngạch nhập

khẩu vàng cho cả năm đã được sử dụng hết từ quý 3 và NHNN đã phải cấp phép

nhập khẩu thêm 20 tấn trong quý 4.

Đồ thị 2.3: Biến động giá vàng giao ngay tại London (2006-2011)

Nguồn: World Gold Council [24]

Đồ thị 2.4: Tốc độ tăng cầu vàng và một số yếu tố liên quan (2006-2011)

Nguồn:Tổng hợp từ GSO, WGC, GFMS, IMF

-54-

Đầu năm 2007, khi giá vàng giảm trở lại dưới mức 650$/oz, nhu cầu nhập khẩu

vàng Việt Nam nhanh chóng tăng lên. Chỉ trong vòng 2 tuần đầu tiên của năm mới,

đã có 10 tấn vàng được nhập về Việt Nam. Dù rằng nhu cầu này nhanh chóng giảm

xuống vài tuần sau khi giá vàng tăng trở lại nhưng do thị trường bất động sản vẫn

tiếp tục bùng nổ làm cho cầu vàng đầu tư lẫn trang sức vẫn tiếp tục tăng trưởng

vững mạnh trong nữa đầu năm 2007 trong đó tập trung vào vàng đầu tư với mức

20,3 tấn trong quý 2, đạt mức tăng 28% - cao nhất trong lịch sử tính đến thời điểm

này.

Trong tháng 6/2007, nhập khẩu vàng tăng lên đến 5 tấn/tuần. Các ngân hàng

bán vàng miếng chỉ có thể giao vàng sau 7-10 ngày. Trong bối cảnh đó, việc cho

phép mở kho vàng ngoại quan tại TP.HCM và Hà Nội đã tạo điều kiện thuận lợi cho

việc đưa nhanh vàng vào thị trường để đáp ứng nhu cầu tăng cao của người dân.

Tuy nhiên, đầu quý 3 khi giá vàng trong nước tăng gần 16%, cao và nhanh hơn so

với mức tăng mạnh của giá vàng thế giới, cầu vàng trong nước chỉ còn mức 14,5 tấn

- giảm 35% so với cùng kỳ năm 2006. Thêm vào đó, việc nhập khẩu vàng cũng

ngưng trệ từ tháng 8/2007 khi giá vàng trong nước thấp hơn giá vàng thế giới. Mặc

dù tổng cầu năm 2007 chỉ còn 78 tấn, giảm 9,3% so với năm 2006 nhưng vẫn cao

hơn mức 61 tấn của năm 2005 bởi lẽ lạm phát trong nước - một trong những yếu tố

quan trọng hỗ trợ cho nhu cầu nắm giữ vàng vẫn tiếp tục tăng cao và xấu hơn.

Quý 1 năm 2008 là quý đặc biệt đối với thị trường vàng Việt Nam khi thị

trường khoán bắt đầu suy giảm nhanh, tình hình kinh tế vĩ mô ngày một xấu đi với

lãi suất VND tăng mạnh, lạm phát tiếp tục tăng cao trong lúc lãi suất tiền gửi USD

xuống thấp kéo theo dòng tiền chuyển dịch từ đầu tư chứng khoán, tiết kiệm VND,

tiết kiệm USD sang vàng. Cầu vàng đầu tư trong quý 1 lên đến mức kỷ lục 31,5 tấn,

tăng 110% so với cùng kỳ năm 2007 [24].

Lãi suất VND tăng mạnh (phổ biến 11%-13%/năm so với 9,0%/năm trước đó)

nên các ngân hàng đã gia tăng huy động vàng trong nước (lãi suất huy động vàng

phổ biến ở mức 2,4%-2,76%/năm so với 1,0%-1,5%/năm trước đó) [3] rồi bán số

-55-

vàng này ra thị trường nội địa (sau khi cân bằng trạng thái trên tài khoản vàng ở

nước ngoài) để lấy VND cho vay cũng góp phần thúc đẩy làm cầu vàng tăng cao.

Bên cạnh đó, việc giá vàng tăng cao cũng làm tăng cầu VND theo hai xu

hướng: i.gia tăng nhu cầu vay VND để mua vàng đầu tư, đầu cơ; ii.bán vàng cho

ngân hàng để chốt lời và rút tiền mặt. Cả hai động thái này đều góp phần làm gia

tăng diễn biến phức tạp của lãi suất VND và vòng xoáy vàng - ngoại tệ - tín dụng

trong giai đoạn này.

Diễn biến bất lợi của thị trường tiền tệ, tỷ giá, lạm phát và thị trường chứng

khoán vẫn tiếp tục trong quý 2/2008 đã khiến người dân tiếp tục dùng vàng làm nơi

trú ẩn an toàn vì vậy thị trường vàng tiếp tục bùng nổ và diễn biến phức tạp. Chỉ

trong 6 tháng đầu năm 2008 các doanh nghiệp đã nhập khẩu đến 56,8 tấn vàng, gần

đạt mức 75 tấn là hạn ngạch mà NHNN cấp cho cả năm 2008. Việc nhập khẩu (kể

cả nhập lậu) lượng lớn vàng dồn dập chỉ trong 6 tháng đầu năm trong điều kiện cán

cân thanh toán thâm hụt nghiêm trọng đã gây áp lực tăng mạnh tỷ giá. Từ

10/3/2008, NHNN đã phải nới lỏng biên độ tỷ giá từ ±0,75% lên ±1% rồi tiếp tục

tăng lên ±2% vào ngày 26/6/2008 sau khi điều chỉnh mạnh tỷ giá liên ngân hàng từ

16.139 lên 16.461 vào ngày 11/6/2008 [3].

Về lý thuyết, việc tạm dừng cho phép nhập khẩu vàng kể từ ngày 06/6/2008 đã

làm giảm đáng kể cầu ngoại tệ góp phần bình ổn tỷ giá tuy nhiên trên thực tế việc

tạm dừng nhập khẩu trong lúc cầu trong nước vẫn không suy giảm khiến cho việc

nhập khẩu vàng lậu trở nên mạnh mẽ, tỷ giá thị trường tự do vì vậy vẫn tạo khoảng

cách xa so với tỷ giá chính thức và thị trường ngoại tệ vốn dĩ đã phức tạp lại càng

phức tạp hơn.

Mặc dù đã tạm dừng nhập khẩu vàng từ tháng 6/2008 nhưng do không kiểm

soát tốt biên giới nên vàng “không chính thức” vẫn vào Việt Nam từ các nước láng

giềng, đặc biệt là Thái Lan. Hội đồng vàng thế giới cho rằng vàng nhập khẩu vào

Thái Lan đã tăng mạnh trong 2 quý cuối năm 2008 có nguyên nhân chủ yếu là do

-56-

xuất lậu vào Việt Nam [24]. Tổng vàng nhập vào Việt Nam trong năm 2008 lên đến

125 tấn, tăng đến 60,3% so với năm trước đó. Rõ ràng, việc dùng biện pháp hành

chính trong trường hợp này đã không đem lại kết quả như mong đợi.

Đầu quý 1/2009 khi giá vàng thế giới tăng đột biến, các nhà đầu tư Việt Nam

nắm giữ vàng trước đây được mua với giá thấp đã tìm cách xuất khẩu vàng dưới

nhiều hình thức khác nhau kể cả chính thức và phi chính thức. Trong quý này,

NHNN đã cấp phép xuất khẩu hơn 20 tấn vàng tuy nhiên đến cuối quý khi giá vàng

thế giới quy về mức 900 USD/oz thì lại xuất hiện tình trạng nhập lậu vì giá trong

nước lại cao hơn giá thế giới.

Đồ thị 2.5: Biến động giá vàng SJC và giá vàng thế giới trong năm 2009 Nguồn:WGC, SJC

Sự biến động thất thường khó dự đoán của giá vàng trong năm 2009 khiến

người dân trở nên nhạy cảm hơn với vàng cùng với thực trạng kinh tế ngày một xấu

đi làm tổng cầu vàng trong năm 2009 quay trở về gần bằng mức “ổn định” của năm

2007.

Mặt khác, trong năm 2008-2009 hoạt động của các sàn giao dịch vàng vẫn tiếp

tục nở rộ đến mức hỗn loạn và bát nháo vì thiếu sự quản lý đầy đủ của cơ quan chức

-57-

năng. Liên tục xuất hiện các khiếu nại, khiếu kiện của nhà đầu tư về “sự cố kỹ

thuật” của các sàn vàng mỗi khi giá vàng quốc tế có sự biến động mạnh khi nguyên

nhân sâu xa được cho là các ngân hàng chủ sàn vàng đã không kịp cân đối trạng thái

vàng sau khi bán vàng trong nước nhưng chưa kịp mua vàng trên tài khoản nước

ngoài thì giá vàng thế giới tăng đột biến. Mặt khác, việc các sàn vàng lôi kéo khách

hàng của nhau và cho phép khách hàng sử dụng đòn bẩy cao (tỷ lệ ký quỹ quá thấp,

chỉ 7%) đã khiến cho các hoạt động của sàn vàng mang tính đầu cơ cao, rủi ro lớn

vì khách hàng chưa có đầy đủ hiểu biết và các công cụ phòng ngừa rủi ro đầy đủ.

Lợi nhuận hấp dẫn của một số nhà đầu tư lớn trên sàn vàng kéo theo cơn sốt vàng ở

tất cả các lĩnh vực: mua bán vàng vật chất, gửi vàng, vay vàng, giao dịch vàng trên

sàn vàng. Các ngân hàng thương mại cũng không đứng ngoài trào lưu này khi tận

dụng tối đa lợi thế có trong tay tài khoản vàng ở nước ngoài, họ đẩy mạnh huy động

vàng để vừa bán trong nước/mua nước ngoài vừa cho vay lại (mà thực chất bên vay

chủ yếu đổ tiếp vào sàn vàng). Như vậy, về bản chất, phần lớn lượng vàng huy động

được đã được sử dụng để đánh vàng trên tài khoản trong lúc đó NHNN thiếu kiểm

tra, giám sát chặt chẽ trạng thái vàng của các ngân hàng đã khiến cho thị trường

vàng càng trở nên phức tạp, khó kiểm soát. Đây là một trong những nguyên nhân

gây nên những đợt sốt vàng trong năm 2009 và kể cả những năm sau này khiến

NHNN trở nên bị động khi cứ mỗi đợt sốt vàng, NHNN lại phải cho nhập khẩu

vàng để can thiệp với cơ chế kém minh bạch khi không công khai tiêu chuẩn, điều

kiện để doanh nghiệp được cấp quota và khối lượng của từng đơn vị. Đỉnh điểm là

“cơn điên loạn” giá vàng là vào ngày 11/11/2009 khi giá vàng trong nước vượt 29

triệu, tăng hơn 3,5 triệu đồng so với hôm trước mặt dù giá vàng thế giới chỉ tăng 15

USD/oz buộc NHNN phải can thiệp khi tuyên bố cho phép 5-6 doanh nghiệp nhập

khẩu vàng với số lượng không hạn chế mà theo số liệu của WGC là 10 tấn [24].

Ngày 30/12/2009, Chính phủ đã có phản ứng trước diễn biến bất thường của thị

trường vàng bằng việc công bố quy định đóng cửa sàng vàng trong nước kể từ

30/03/2010 và chấm dứt kinh doanh vàng trên tài khoản ở nước ngoài kể từ

31/7/2010 (sau hai lần gia hạn từ 30/03/2010, rồi 30/06/2010) với mong muốn bình

-58-

ổn và quản lý được thị trường vàng. Đáng tiếc rằng biện pháp hành chính này chỉ

giải quyết được phần ngọn, bề nổi trong khi nguồn cơn bên trong là quan hệ cung

cầu vàng đã không được quan tâm đúng mức. Hơn nữa, với thời gian quá ngắn, các

ngân hàng thương mại đã không kịp để đóng trạng thái vàng đang âm trước đó, nhất

là trong bối cảnh vẫn cấm nhập khẩu vàng (thực chất là cấp quota hạn chế trong

từng tình huống cụ thể). Việc các ngân hàng liên tục mua vàng để cân bằng trạng

thái cùng với lạm phát tăng cao trở lại trong năm 2010, thị trường chứng khoán và

thị trường bất động sản đóng băng, lãi suất USD xuống mức thấp kỷ lục (0,5%-

2,0%) trong lúc giá vàng liên tục biến động tăng với mức tăng cuối năm so với đầu

năm lên đến 39% được xem là những nguyên nhân cốt lõi khiến cầu vàng đầu tư

trong nước tăng mạnh trở lại (sau khi sụt giảm mạnh trong năm 2009).

Đồ thị 2.6: Biến động giá vàng SJC và giá vàng thế giới từ 2010-2012 Nguồn: WGC, SJC

Trong bối cảnh lạm phát tiếp tục tăng cao ngay những tháng đầu năm 2011, lãi

suất USD vẫn tiếp tục duy trì ở mức thấp và tỷ giá không có sự biến động đáng kể,

lãi suất thực VND vẫn tiếp tục âm ở mức cao, thị trường bất động sản vẫn tiếp tục

đóng băng thì lựa chọn vàng làm nơi trú ẩn an toàn vẫn là lựa chọn của người dân.

-59-

Vì vậy, cầu vàng trong quý 1/2011 vẫn tiếp tục tăng ổn định tuy nhiên mức tăng

trong quý 2 và quý 3 đã chững lại khi giá vàng trong nước trở nên quá đắt đỏ,

thường xuyên cao hơn 1,5-4,0 triệu đồng/lượng. NHNN đã phải liên tục cấp quota

cho các đơn vị nhập khẩu ở mỗi thời điểm giá vàng trong nước chênh quá cao so

với vàng thế giới. Việc xử lý tình huống trong trạng thái bị động của NHNN lại là

cơ hội tốt cho các đơn vị kinh doanh vàng lớn trong nước khi họ chủ động đẩy giá

trong nước tăng cao nhằm kiếm lợi lớn, đón chờ NHNN cho phép nhập khẩu để

kiếm lợi thêm lần nữa. Tính chung cho cả năm 2011, NHNN đã phải cấp quota nhập

khẩu lên đến 25 tấn với giá cao gần 1,3 lần so với giá xuất khẩu hơn 10 tấn của hai

năm trước đó.

Để kiểm soát tình trạng nhập lậu vàng, NHNN đã yêu cầu Công ty vàng bạc đá

quý Sài Gòn chỉ nhận gia công vàng cho các đơn vị được NHNN cấp phép nhập

khẩu (không nhận gia công vàng của các đơn vị khác như trước đây), quy định này

đã phần nào giảm lượng vàng nhập lậu tuy nhiên lại gây áp lực làm gia tăng khoảng

cách giữa giá vàng trong nước so với giá vàng thế giới. Trước tình trạng này, kể từ

ngày 6/10/2011, NHNN đã cho phép 5 ngân hàng (ACB, Eximbank, Sacombank,

TCB, EAB) và SJC cùng tham gia bình ổn giá vàng trong nước khi cho phép các

đơn vị này được chuyển đổi tối đa 40% lượng vàng tồn quỹ (bao gồm vàng huy

động và vàng giữ hộ tồn quỹ) sang VND và mở tài khoản vàng ở nước ngoài để bảo

hiểm rủi ro biến động giá vàng. Sau động thái này, chênh lệch giá vàng trong nước

so với giá vàng thế giới đã được điều chỉnh giảm xoay quanh 1 triệu đồng/lượng sau

đó tăng cao trở lại phổ biến từ 2-3 triệu đồng/lượng. Như vậy, mục tiêu đưa mức

chênh lệch về khoảng 400.000 đồng /lượng như tuyên bố của NHNN đã không thực

hiện được.

Trước tình hình diễn biến phức tạp của hoạt động huy động vốn, cho vay bằng

vàng cùng những biến tướng khó kiểm soát từ hoạt động này, NHNN đã ban hành

thông tư 11/2011/TT-NHNN quy định các tổ chức tín dụng không được thực hiện

cho vay vốn bằng vàng đối với khách hàng và các tổ chức tín dụng khác (kể cả các

-60-

hợp đồng tín dụng đã ký kết nhưng chưa giải ngân hoặc giải ngân chưa hết); không

được gửi vàng tại tổ chức tín dụng khác; không được thực hiện các nghiệp vụ ủy

thác, đầu tư và các hình thức cấp tín dụng khác bằng vàng kể từ ngày 01/5/2012 và

chấm dứt việc huy động vàng từ 01/5/2012 (sau gia hạn đến 25/11/2012).

Mặc dù các ngân hàng có thời gian hơn 12 tháng để chuẩn bị nhưng với số dư

huy động và cho vay quá lớn đồng thời bản thân các ngân hàng này vẫn đang có

trạng thái vàng âm trong nước (dù có trạng thái dương trên tài khoản vàng ở nước

ngoài nhưng không được phép nhập khẩu vàng vật chất) nên họ buộc lòng phải canh

giá để mua vào nhưng giá vàng thế giới vẫn tiếp tục tăng cao,vì vậy giá vàng trong

nước đã không có cơ hội giảm khoảng cách như mong đợi. Bài toán kiểm soát giá

vàng của NHNN có thể nói là bế tắc, ít nhất là cho đến cuối năm 2011.

Như vậy, từ năm 2006 đến năm 2012 là giai đoạn thị trường vàng trong nước có

những diễn biến vô cùng phức tạp. Ngoài những nguyên nhân thông thường ảnh

hưởng đến thị trường vàng như giai đoạn 2000-2005 bao gồm tốc độ tăng trưởng

kinh tế trong nước, tỷ lệ lạm phát, lãi suất thực VND, lãi suất USD, chênh lệch lãi

suất VND so với lãi suất USD, biến động tỷ giá USD/VND, biến động giá vàng thế

giới, thị trường bất động sản và thị trường chứng khoán, thị trường vàng giai đoạn

2006-2011 còn chịu ảnh hưởng của các vấn đề sau đây:

 Sự nở rộ của các sàn vàng (2007-2008) sau đó chấm dứt hoạt động (2010);

 Cho phép nhập khẩu vàng sau đó tạm ngưng (từ 6/2008) rồi cấp quota nhập

khẩu trở lại (từ 11/2009) vào mỗi khi có biến động đột biến giá;

 Các ngân hàng được phép kinh doanh vàng trên tài khoản ở nước ngoài

(2006) sau đó chấm dứt (31/7/2010) rồi được phép giao dịch trở lại

(10/2011);

-61-

 Các ngân hàng được phép huy động vàng và cho vay bằng vàng theo quy

định mới (10/2010) rồi phải chấm dứt cho vay vàng (5/2011) và chuẩn bị

cho việc chấm dứt huy động vàng (11/2012);

 Thông tin về việc NHNN sẽ độc quyền sản xuất kinh doanh vàng miếng và

sử dụng thương hiệu vàng SJC làm thương hiệu vàng quốc gia.

Rõ ràng, NHNN đã không có cơ chế quản lý thị trường vàng mang tính hệ

thống và bền vững. Về danh nghĩa, có thể thấy hầu hết các quy định đưa ra chỉ

nhằm giải quyết tình thế để bình ổn giá vàng, giúp các ngân hàng cân bằng trạng

thái vàng đang âm trước đó, hạn chế nhập khẩu cả đường chính thức lẫn phi chính

thức để hạn chế thâm hụt cán cân thanh toán nhằm ổn định tỷ giá. Một giải pháp

mang tính căn cơ nhằm giải quyết tận gốc các bất cập của thị trường vàng chưa

được NHNN triển khai thực thi.

2.3. NHẬN ĐỊNH VỀ THÀNH CÔNG VÀ HẠN CHẾ CỦA CƠ CHẾ QUẢN

LÝ THỊ TRƯỜNG VÀNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Ngày 25/11/2011 trả lời chất vấn trước Quốc hội, Thống đốc NHNN chính thức

tuyên bố việc sử dụng vàng SJC làm thương hiệu vàng quốc gia và NHNN sẽ độc

quyền sản xuất kinh doanh vàng miếng, chấm dứt những tranh cãi vốn có từ giữa

năm khi dự thảo nghị định quản lý kinh doanh vàng được đưa ra lấy ý kiến.

Ngày 03/4/2012 Chính phủ ban hành Nghị định 24/2012/NĐ-CP về quản lý

hoạt động kinh doanh vàng có hiệu lực từ 25/5/2012 thay thế cho Nghị định

174/1999/NĐ-CP ngày 09/12/1999 của Chính phủ về quản lý hoạt động kinh doanh

vàng và Nghị định số 64/2003/NĐ-CP ngày 11/6/2003 của Chính phủ sửa đổi, bổ

sung Nghị định số 174/1999/NĐ-CP ngày 09/12/1999. Sau đó, ngày 23/8/2012,

NHNN ban hành quyết định 1623/QĐ-NHNN về việc tổ chức và quản lý sản xuất

của NHNN.

-62-

2.3.1. Cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành

Ngân hàng Nhà nước vẫn là cơ quan thay mặt Chính phủ thống nhất quản lý các

hoạt động kinh doanh vàng. Với thị trường vàng chủ yếu chỉ giao dịch vàng vật chất

đồng thời tiềm lực chủ yếu tập trung vào các ngân hàng thương mại và một số ít

công ty kinh doanh vàng thì việc quy định NHNN là đơn vị duy nhất quản lý hoạt

động kinh doanh vàng là lựa chọn hợp lý.

2.3.2. Quản lý khai thác

Việc quản lý khai thác và tinh chế vàng khoáng sản vẫn tiếp tục thực hiện theo

quy định của Luật khoáng sản giống như trước năm 2012. Đây cũng là lựa chọn hợp

lý mà hầu hết các nước trên thế giới điều thực hiện.

2.3.3. Quản lý xuất khẩu, nhập khẩu

Vàng trang sức, vàng mỹ nghệ được phép xuất khẩu, nhập khẩu theo giấy

chứng nhận đăng ký kinh doanh, như vậy quy định này đã thoáng hơn so với việc

khống chế số lượng như trước đây. Tuy nhiên, khái niệm đưa ra ở Nghị định

24/2012/NĐ-CP chưa thật sự rõ ràng để minh định giữa các loại vàng này với vàng

miếng. Theo đó, vàng trang sức, mỹ nghệ là sản phẩm vàng có hàm lượng từ 8 carat

(tương đương 33,33%) trở lên, đã qua gia công chế tác để phục vụ nhu cầu trang trí

mỹ thuật. Quy định này vẫn còn khe hở và rất dễ bị lợi dụng trong thực tế vì các

doanh nghiệp có thể sử dụng vàng 24 carat để chế tác sơ sài nhằm lách luật.

Theo quy định hiện này, vàng nguyên liệu là vàng dưới dạng khối, thỏi, hạt,

miếng và các loại vàng khác được quản lý chặt chẽ trong việc xuất khẩu, nhập khẩu.

Nếu trước đây NHNN chỉ là cơ quan cấp phép cho doanh nghiệp xuất khẩu, nhập

khẩu vàng nguyên liệu thì nay việc quản lý xuất khẩu, nhập khẩu vàng nguyên liệu

được chia làm hai trường hợp:

-63-

 Nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ của

doanh nghiệp sản xuất trong nước và của doanh nghiệp nước ngoài gia

công tại Việt Nam: NHNN tiếp tục là cơ quan xem xét cấp giấy phép nhập

vàng nguyên liệu để sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ cho các doanh

nghiệp đủ điều kiện hoặc tạm nhập vàng nguyên liệu để tái xuất sản phẩm.

 Nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng: NHNN trực tiếp tổ

chức thực hiện, không cho phép các đơn vị khác được nhập khẩu. Hoạt

động này được miễn thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.

Bên cạnh đó, nghị định đã quy định rõ về vàng miếng là vàng được dập thành

miếng, có đóng chữ, số chỉ khối lượng, chất lượng và ký mã hiệu của doanh nghiệp

và tổ chức tín dụng được NHNN cho phép sản xuất hoặc vàng miếng do NHNN tổ

chức sản xuất trong từng thời kỳ. Như vậy, với quy định này, NHNN đã trực tiếp

tham gia vào quá trình xuất khẩu, nhập khẩu vàng hàng hóa và giữ vai trò độc

quyền xuất khẩu, nhập khẩu vàng hàng hóa. Có thể nói, đây là quy định không phù

hợp vì đây vốn dĩ không phải là chức năng vốn có của ngân hàng trung ương và hầu

như không có ngân hàng trung ương nào trên thế giới thực hiện công việc này.

2.3.4. Quản lý hoạt động sản xuất, gia công vàng

2.3.4.1 Vàng trang sức, mỹ nghệ

Hoạt động sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ là hoạt động kinh doanh có điều

kiện và phải được NHNN cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất vàng trang

sức, mỹ nghệ với các điều kiện tương đối cụ thể, đơn giản và không còn yêu cầu

phải có vốn pháp định như trước đây. Theo quy định, các doanh nghiệp này phải

thực hiện đóng mã ký hiệu và hàm lượng vàng trên sản phẩm, công bố tiêu chuẩn áp

dụng, khối lượng của sản phẩm theo quy định pháp luật và chịu trách nhiệm trước

pháp luật về tiêu chuẩn công bố áp dụng và khối lượng sản phẩm đã công bố do

doanh nghiệp sản xuất.

-64-

Đối với hoạt động gia công vàng trang sức, mỹ nghệ, cá nhân, hộ gia đình, hợp

tác xã và doanh nghiệp được thực hiện gia công cho doanh nghiệp sản xuất vàng

trang sức, mỹ nghệ và phải có đăng ký gia công vàng trang sức, mỹ nghệ trong giấy

chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh, giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc giấy

chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.

Như vậy, nhìn chung quy định về quản lý sản xuất, gia công vàng trang sức mỹ

nghệ có chặt chẽ hơn so với trước đây nhằm hướng đến việc kiểm soát trật tự và sự

ổn định của thị trường này nhưng vẫn đảm bảo được quyền tự do kinh doanh của

các chủ thể trên cơ sở cạnh tranh lành mạnh, hài hòa quyền lợi của nhà kinh doanh

và dân chúng.

2.3.4.2 Vàng miếng

Về pháp lý, kể từ 01/05/2012, theo quy định của nghị định 24/20120/NĐ-CP,

nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng, xuất khẩu vàng nguyên liệu và nhập khẩu

vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng nhằm mục tiêu điều hành chính sách tiền

tệ và cung cầu vàng miếng trên thị trường.

Như vậy, khác với các nước, về mặt pháp lý Chính phủ đã xem hoạt động sản

xuất, kinh doanh vàng miếng dù là vàng hàng hóa đã có ảnh hưởng rất lớn và giữ

vai trò quan trọng trong chính sách tiền tệ nên NHNN dù với tư cách là ngân hàng

trung ương vẫn phải độc quyền và trực tiếp thực hiện sản xuất và xuất khẩu, nhập

khẩu.

Trên thực tế, NHNN đã giao cho công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên

Vàng bạc đá quý Sài Gòn (SJC) - vốn là nhà sản xuất vàng miếng với thương hiệu

SJC chiếm hơn 90% thị phần vàng miếng trong cả nước - gia công vàng miếng hàm

lượng 99,99%, có đóng chữ, số chỉ khối lượng, chất lượng và ký mã hiệu của Công

ty SJC. NHNN quyết định hạn mức, thời điểm sản xuất và nguồn vàng nguyên liệu

để tổ chức sản xuất vàng miếng SJC và phê duyệt mức phí gia công vàng miếng

-65-

SJC trong từng thời kỳ trên cơ sở chi phí gia công, lợi nhuận dự kiến và thuế áp

dụng.

Vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng SJC được lấy từ các nguồn:

 Vàng nguyên liệu của NHNN (độc quyền nhập khẩu);

 Vàng miếng đã được NHNN cho phép sản xuất trong từng thời kỳ, trừ vàng

miếng SJC (vàng miếng của các thương hiệu khác đã được NHNN cho

phép sản xuất trước đây);

 Vàng miếng SJC do công ty SJC đã sản xuất, gia công, nhưng không đủ

trọng lượng, bị cắt dũa, mài mòn; bị trầy xước; bị đóng thêm các dấu hiệu,

ký hiệu không phải của công ty SJC; bị biến dạng;

 Và các loại vàng khác do Ngân hàng Nhà nước quyết định trong từng thời

kỳ.

Như vậy, SJC vừa là doanh nghiệp độc quyền gia công vàng miếng mang

thương hiệu SJC theo cấp phép của NHNN và chịu sự giám sát toàn diện của

NHNN, vừa là đơn vị được phép mua bán vàng SJC. Mặc dù NHNN quy định phí

gia công mà SJC được hưởng và thời gian mà SJC hoàn tất việc gia công tuy nhiên

trên thực tế SJC hoàn toàn có khả năng gây khó dễ cho các đơn vị khác (không phải

NHNN) khi những đơn vị này giao vàng nguyên liệu hoặc vàng phi SJC (theo giấy

phép của NHNN) để SJC gia công. Rõ ràng, lợi thế tuyệt đối từ độc quyền của SJC

không chỉ đem lại lợi nhuận cho SJC mà còn có thể tạo nên sự méo mó của thị

trường.

Về phía NHNN, với quy trình nêu trên, NHNN đã tham gia với tư cách là đơn

vị kinh doanh, đóng vai trò là người mua và người bán cuối cùng trên thị trường

vàng hàng hóa trong khi đây vốn không phải là chức năng của ngân hàng trung

ương.

-66-

Việc tạo ra thương hiệu vàng hàng hóa độc quyền và duy nhất trên thị trường đã

đi ngược lại nguyên tắc của tự do và cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường, gây

nên sự xáo trộn thậm chí có thể là sự hỗn loạn trên thị trường này khi NHNN không

đủ khả năng hoặc không cần thiết phải sử dụng nguồn lực tài chính để bình ổn thị

trường vàng hàng hóa còn nếu NHNN tham gia quá sâu vào thị trường này với tư

cách là chủ thể kinh doanh (dù không vì mục đích lợi nhuận) cũng sẽ gây nên sự

lãng phí nguồn lực tài chính quốc gia. Mặt khác, việc tạo sự độc quyền thương hiệu

vàng miếng từ vàng miếng của một doanh nghiệp cũng gây nên sự lãng phí xã hội

khi 8 doanh nghiệp sản xuất vàng miếng trước đó đã đầu tư hàng trăm tỷ đồng cho

dây chuyền sản xuất của mình.

Mặt khác, việc quyết tâm tổ chức sản xuất, lưu hành vàng miếng theo chuẩn

mực riêng (chất lượng, trọng lượng, hình dáng, thương hiệu) của Việt Nam trong

khi chuẩn mực này không được quốc tế chấp nhận sẽ khiến cho vàng miếng này chỉ

có thể giao dịch ở Việt Nam và vì vậy sẽ còn rất lâu, rất khó để thị trường vàng vật

chất của Việt Nam liên thông với thị trường vàng quốc tế.

Kinh nghiệm của các nước có tập quán sử dụng vàng miếng trên thế giới như

Trung Quốc, Ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ, Thái Lan là những nước có tập quán sử dụng

vàng tương tự như Việt Nam đều không có sự độc quyền thương hiệu vàng miếng

thay vào đó họ cho phép nhiều doanh nghiệp sản xuất vàng miếng theo chuẩn mực

chung dưới sự công nhận, giám sát của cơ quan kiểm soát chất lượng chuyên ngành

của quốc gia. Ngoài ra, các quốc gia này đều hướng đến việc xây dựng chuẩn mực

vàng miếng theo chuẩn mực quốc tế để vàng miếng của nước họ được quốc tế thừa

nhận. Các quốc gia này cũng cho phép giao dịch vàng miếng (thực chất là vàng

thanh) của các nhà sản xuất vàng uy tín trên thế giới (mà Việt Nam gọi là vàng theo

tiêu chuẩn quốc tế) trên thị trường nội địa. Như vậy, họ sẽ không tốn chi phí để gia

công vàng tiêu chuẩn quốc tế trở về theo tiêu chuẩn của quốc gia họ và nhờ vậy thị

trường vàng của họ sẽ gia tăng khả năng liên thông với thị trường vàng quốc tế.

-67-

2.3.5. Quản lý kinh doanh vàng vật chất

2.3.5.1. Kinh doanh vàng trang sức

Hoạt động kinh doanh mua, bán vàng trang sức, mỹ nghệ là hoạt động kinh

doanh có điều kiện không cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh với yêu cầu

phải niêm yết công khai tại địa điểm giao dịch về khối lượng, hàm lượng vàng, giá

mua, giá bán các loại sản phẩm vàng trang sức, mỹ nghệ và chịu trách nhiệm trước

pháp luật về chất lượng sản phẩm bán ra thị trường.

2.3.5.2. Kinh doanh vàng miếng

Hoạt động kinh doanh mua, bán vàng miếng là hoạt động kinh doanh có điều

kiện và phải được NHNN cấp giấy phép kinh doanh mua, bán vàng miếng. Theo

quy định, NHNN chỉ cấp phép cho tổ chức tín dụng và doanh nghiệp đạt các điều

kiện.

Đối với doanh nghiệp, các điều kiện bao gồm: vốn điều lệ từ 100 tỷ đồng trở

lên; có kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh mua, bán vàng từ hai năm

trở lên; có số thuế đã nộp của hoạt động kinh doanh vàng từ 500 triệu đồng/năm trở

lên trong hai năm liên tiếp gần nhất; có mạng lưới chi nhánh, địa điểm bán hàng tại

Việt Nam từ ba tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trở lên.

Đối với tổ chức tín dụng, các điều kiện bao gồm: có vốn điều lệ từ 3.000 tỷ

đồng trở lên; có đăng ký hoạt động kinh doanh vàng; có mạng lưới chi nhánh tại

Việt Nam từ năm tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trở lên.

Theo quy định, các tổ chức được phép hoạt động kinh doanh mua, bán vàng

miếng chỉ được phép mua, bán các loại vàng miếng quy định (tại thời điểm 2012 chỉ

duy nhất vàng miếng SJC); không được phép thực hiện kinh doanh vàng miếng

thông qua các đại lý ủy nhiệm.

-68-

Như vậy, về nguyên tắc hơn 12.000 cửa hàng kinh doanh vàng đã tồn tại trước

khi nghị định 24/2012/NĐ-CP có hiệu lực kể từ 01/5/2012 sẽ không đủ điều kiện

pháp lý để mua bán vàng miếng mà chỉ có thể mua bán vàng trang sức, mỹ nghệ.

Cho đến cuối tháng 10/2012, trên thực tế các cửa hàng kinh doanh vàng này vẫn

tiếp tục mua bán vàng miếng dù về nguyên tắc đây là hoạt động bất hợp pháp. Tuy

nhiên, cơ quan chức năng sẽ khó khăn để có thể giám sát việc tuân thủ quy định của

các cửa hàng kinh doanh này bởi số lượng cửa hàng quá lớn, địa bàn phân tán,

nhiều cửa hàng có quy mô và giao dịch nhỏ. Hơn nữa, việc giao dịch với các cửa

hàng này là nhu cầu thực sự của người dân khi họ khó khăn hơn nếu giao dịch với

mạng lưới cửa hàng của các tổ chức được phép (cửa hàng của các doanh nghiệp, chi

nhánh của các ngân hàng) vì mạng lưới này không phân bổ rộng khắp, thời gian

hoạt động không linh hoạt và quan trọng hơn nữa khi người dân giao dịch với số

lượng nhỏ thì việc giao dịch tại các đơn vị được phép hoàn toàn không thuận lợi cho

họ. Vì vậy, tính khả thi của quy định này là vấn đề rất đáng phải cân nhắc để điều

chỉnh.

Nghị định 24/2012/NĐ-CP không đề cập đến hoạt động của sàn giao dịch vàng.

Như vậy, dựa trên các quy định đã có trước đây của Chính phủ và NHNN, sàn giao

dịch vàng không được phép tổ chức hoạt động ở Việt Nam.

2.3.6. Quản lý kinh doanh vàng tài khoản

Lần đầu tiên, Việt Nam có quy định chính thức trong văn bản quy phạm pháp

luật ở cấp nghị định về kinh doanh vàng tài khoản. Nghị định 24/2012/NĐ-CP quy

định hoạt động kinh doanh vàng trên tài khoản là hoạt động kinh doanh vàng qua tài

khoản, dưới hình thức giao dịch ký quỹ và giá trị ròng được định giá lại liên tục

theo biến động của giá vàng. Tuy nhiên, quy định hiện tại cũng chỉ mới dừng lại ở

khái niệm kinh doanh vàng tài khoản chứ chưa có các quy định cụ thể về đối tượng

được phép kinh doanh vàng tài khoản ở trong nước, ở nước ngoài và cũng không đề

cập đến sàn giao dịch vàng vật chất.

-69-

Nghị định cũng đề cập đến hoạt động phái sinh về vàng của các ngân hàng

thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài nhưng quy định hoạt động này thực

hiện theo Điều 105 Luật các tổ chức tín dụng trong lúc cả Chính phủ và NHNN đều

chưa có quy định cụ thể về hoạt động này.

Với việc NHNN ban hành Thông tư 12/2012/TT-NHNN ngày 27/4/2012 quy

định chấm dứt hiệu lực của Thông tư 32/2011/TT-NHNN ngày 06/10/2011 và yêu

cầu các tổ chức tín dụng tất toán số vàng đã chuyển đổi thành tiền, đóng tài khoản

vàng ở nước ngoài theo thông báo của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thì các tổ

chức tín dụng đã không còn được phép kinh doanh vàng tài khoản ở nước ngoài.

Điều đó cũng có nghĩa là các tổ chức tín dụng không có cơ hội và điều kiện để

phòng ngừa rủi ro trong kinh doanh vàng.

2.3.7. Quản lý hoạt động huy động, cho vay vàng

Sau khi liên tục ban hành khá nhiều các quy định khác nhau xung quanh hoạt

động huy động vàng và cho vay vàng của các tổ chức tín dụng, NHNN đã chính

thức quy định các tổ chức tín dụng phải chấm dứt việc huy động và cho vay vàng kể

từ 25/11/2012 và cho đến thời điểm cuối tháng 10/2012 vẫn chưa thấy NHNN có

quy định hướng dẫn xử lý các phát sinh liên quan đến việc này. Về nguyên tắc, các

tổ chức phải chấm dứt huy động vàng kể từ 25/11/2012 (việc cho vay bằng vàng đã

phải chấm dứt từ 01/5/2011 theo quy định của Thông tư 11/2011/TT-NHNN ngày

29/4/2011) điều đó có nghĩa là trước 25/11/2012 các tổ chức tín dụng sẽ vẫn còn

được phép huy động vàng vì vậy, có thể đến hàng tháng, thậm chí hàng năm sau vẫn

còn số lượng vàng của dân chúng gửi tại tổ chức tín dụng nếu như các tổ chức tín

dụng huy động vàng với kỳ hạn dài.

Hướng giải quyết tình trạng này như thế nào, và phải làm sao để số lượng vàng

rất lớn còn tản mát trong dân chúng được sử dụng một cách hiệu quả vẫn là vấn đề

nan giải thu hút sự quan tâm của dư luận mà NHNN vẫn chưa có được giải pháp rõ

ràng, khả thi và có ý nghĩa.

-70-

2.3.8. Quản lý chất lượng

Về pháp lý, NHNN là cơ quan quản lý và kiểm soát chất lượng vàng bao gồm

cả vàng miếng và vàng trang sức, mỹ nghệ với yêu cầu các tổ chức sản xuất, kinh

doanh vàng phải công bố rõ hàm lượng, chất lượng vàng của mình và chịu trách

nhiệm về hàm lượng, chất lượng đã công bố. Tuy nhiên, trên thực tế do NHNN

không phải là cơ quan có chuyên môn sâu và có đủ điều kiện thuận lợi để tổ chức

quản lý, giám sát và kiểm soát chất lượng của tất cả các loại vàng trên thị trường mà

chỉ mới chú trọng đến việc giám sát, kiểm soát chất lượng của vàng SJC. Hơn nữa,

việc giám sát, kiểm soát chất lượng vàng SJC cũng chỉ mới dừng lại ở mức độ kiểm

soát chặt chẽ quy trình gia công. Mặt khác, theo thông lệ thế giới việc cấp chứng

nhận cho vàng miếng đạt tiêu chuẩn thuộc về các cơ quan chuyên ngành về quản lý

chất lượng. Do vậy, việc NHNN vừa là cơ quan quản lý nhà nước toàn diện về thị

trường vàng, vừa là đơn vị trực tiếp nhập khẩu, sản xuất và kinh doanh vàng, vừa là

đơn vị giám sát và kiểm soát chất lượng vàng là không đảm bảo sự minh bạch. Vì

vậy, rất cần thiết phải thiết lập cơ quan độc lập để quản lý, giám sát, kiểm soát và

cấp chứng nhận cho các loại vàng đạt tiêu chuẩn.

Với những nội dung về cơ chế quản lý thị trường vàng khi nghị định

24/2012/NĐ-CP có hiệu lực kể từ 01/5/2012 có thể mô tả qua sơ đồ tổ chức quản lý

thị trường vàng như sơ đồ 2.3.

Như vậy cơ chế quản lý thị trường vàng ở Việt Nam từ sau ngày 01/5/2012 đã

có sự thay đổi lớn so với cơ chế quản lý vàng giai đoạn 1999-2011 với mục đích mà

nhà nước đặt ra là nhằm phát triển ổn định và bền vững thị trường vàng, bảo đảm

hoạt động sản xuất, gia công vàng trang sức, mỹ nghệ phục vụ cho thị trường trong

nước và xuất khẩu. Mặc dù thời gian triển khai cơ chế mới chỉ mới vài tháng nhưng

với những diễn biến như đã phân tích ở trên có thể rút ra các nhận xét sau đây:

 Cơ chế quản lý mang nặng tính hành chính, lấy việc độc quyền nhập khẩu,

sản xuất vàng miếng làm yếu tố trung tâm để chi phối các hoạt động khác

-71-

có liên quan đến vàng với mong muốn có thể kiểm soát được việc kinh

doanh vàng miếng từ đó gián tiếp hạn chế hiện tượng vàng hóa trong nền

kinh tế để giảm thiểu thâm hụt cán cân thanh toán do phải nhập khẩu lượng

vàng lớn trong thời gian dài. Tuy nhiên, cơ chế này đã không thể làm thay

đổi nhu cầu nắm giữ vàng của dân chúng vốn được thực hiện nhằm mục

đích bảo toàn giá trị và đầu cơ có nguyên nhân xuất phát từ tập quán lâu

đời, từ sự thiếu ổn định của kinh tế vĩ mô, tỷ lệ lạm phát cao, tỷ giá kém ổn

định, lãi suất VND và lãi suất USD chưa hợp lý, thiếu vắng nơi trú ẩn an

toàn và không có nhiều cơ hội đầu tư sinh lợi trong bối cảnh kinh tế bất ổn

cùng hàng loạt các yếu tố có liên quan khác. Như vậy, vấn đề mấu chốt ở

cầu vàng đã không giải quyết được tận gốc.

CHÍNH PHỦ

MOF Chính sách GTGT, TNDN MONRE Quản lý nhà nước về khoáng sản SBV Quản lý toàn diện hoạt động sản xuất, kinh doanh vàng. Độc quyền nhập khẩu, sản xuất vàng miếng

NHTM Kinh doanh miếng SJC

Tổ chức kinh doanh Kinh doanh vàng miếng SJC theo giấy phép của NHNN

Doanh nghiệp Thăm dò, khai thác, tinh luyện vàng khoáng sản

SJC Độc quyền SX vàng miếng dưới sự giám sát toàn diện, tuyệt đối của NHNN. Trực tiếp KD vàng miếng SJC

Tổ chức kinh doanh KD vàng trang sức, mỹ nghệ là HĐKD có điều kiện không cấp GCN đủ điều kiện

Tổ chức kinh doanh SX gia công trang sức, mỹ nghệ là hoạt động KD có điều kiện phải được NHNN cấp phép

Quản lý

Giao dịch

Nhà đầu tư

Sơ đồ 2.3: Tổ chức quản lý thị trường vàng ở Việt Nam từ 01/5/2012 Nguồn: Tổng hợp của tác giả

-72-

 Việc độc quyền và kiểm soát chặt chẽ nhập khẩu, sản xuất vàng miếng

trong ngắn hạn sẽ làm giảm đi nhu cầu nhập khẩu phi chính thức, hạn chế

tác động xấu đến trạng thái cán cân thanh toán. Nhưng về dài hạn có thể

xuất hiện tình trạng nhập khẩu phi chính thức vàng theo tiêu chuẩn quốc tế

khi dân chúng - nhất là tầng lớp người có thu nhập cao, nhà đầu cơ - sẽ trực

tiếp nắm giữ, kinh doanh vàng theo tiêu chuẩn quốc tế.

 Việc độc quyền lưu thông duy nhất một thương hiệu vàng miếng SJC theo

tiêu chuẩn riêng của Việt Nam cũng sẽ khiến thị trường vàng Việt Nam tách

bạch với thị trường thế giới khi hàng hóa giao dịch trên thị trường có sự

khác biệt nhau. Chênh lệch giá vàng trong nước và giá vàng thế giới sẽ khó

có thể rút ngắn ở mức hợp lý.

 Việc kiểm soát chặt chẽ nhập khẩu sẽ làm hạn chế nguồn cung trong lúc cầu

không hề suy giảm sẽ xuất hiện tình trạng hai giá trên thị trường vàng và

giá vàng trong nước sẽ ngày tiếp tục bỏ xa giá vàng thế giới, vô tình

“khuyến khích” việc nhập lậu vàng tiêu chuẩn quốc tế để tiêu thụ tại Việt

Nam. Bên cạnh đó, cơ chế quản lý này không đem lại sự cạnh tranh tự do

trên nguyên tắc thị trường, đem lại lợi thế hoàn toàn cho SJC, không công

bằng với các nhà kinh doanh vàng miếng khác.

 Cơ chế này cũng đưa NHNN can thiệp, hoạt động quá sâu trên thị trường

vàng hàng hóa không chỉ với tư cách là ngân hàng trung ương mà còn mang

hàm ý là đơn vị sản xuất, kinh doanh. Điều này không phù hợp với vai trò,

chức năng của ngân hàng trung ương.

 Cơ chế này cũng gây những khó khăn, bất tiện trong việc nắm giữ, giao

dịch vàng miếng của đại đa số những người dân nắm giữ ít vàng khi mạng

lưới đơn vị kinh doanh vàng miếng bị thu hẹp. Từ đó xuất hiện tình trạng

kinh doanh bất hợp pháp của hơn 12.000 cửa hàng kinh doanh vàng hiện

hữu và tiềm ẩn nguy cơ rủi ro cho những người dân nắm giữ ít vàng khi họ

-73-

bị ép giá, không có đủ điều kiện để kiểm soát rủi ro trong giao dịch cả về

giá lẫn chất lượng vàng. Thị trường khi đó sẽ bất ổn và hệ lụy là những

người dân ít tiền lại càng bị thiệt hại.

 Cơ chế này cũng không tạo điều kiện tốt để hình thành thị trường giao dịch

vàng vật chất theo hai kênh giao dịch OTC và giao dịch qua sàn giao dịch

vàng vật chất. Cùng với việc không liên thông được với giá vàng thế giới sẽ

làm xuất hiện yếu tố tắt nghẽn trên thị trường vàng và do vậy, khối lượng

vàng có giá trị lớn trong nền kinh tế sẽ không được sử dụng hiệu quả vì số

vàng này chỉ đơn thuần giữ vai trò cất trữ trong bối cảnh nền kinh tế đang

thiếu vốn, tích lũy chưa cao.

 Cơ chế cũng không cho phép các tổ chức kinh doanh tiền tệ được phép sử

dụng các công cụ phòng ngừa rủi ro, các công cụ phái sinh để một mặt bảo

hiểm cho hoạt động kinh doanh của mình, mặt khác cũng có thể tìm kiếm

lợi nhuận từ các công cụ này.

Với khá nhiều bất cập nêu trên, Việt Nam sẽ phải cần sớm có những thay đổi

lớn trong cơ chế quản lý vàng hiện tại mới có thể có được thị trường vàng phát triển

ổn định và đem lại ảnh hưởng tích cực cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

Chương 2 đã phân tích sự thay đổi của cơ chế quản lý thị trường vàng Việt Nam

qua ba giai đoạn: trước 1999, từ 1999 đến 2011 và từ 2012 trong đó tập trung phân

tích sâu trong khoảng thời gian từ 2009 đến 2012. Các phân tích trong khoảng thời

gian từ 2009 đến 2012 bao gồm phân tích cả cơ chế quản lý và phân tích diễn biến

của thị trường từ những thay đổi trong cơ chế quản lý ở tất cả các khía cạnh: cơ

quan quản lý, quản lý khai thác vàng khoáng sản, quản lý xuất khẩu nhập khẩu

-74-

vàng, quản lý sản xuất gia công vàng gồm vàng trang sức và vàng miếng, quản lý

kinh doanh mua bán vàng vật chất, quản lý kinh doanh vàng tài khoản, quản lý hoạt

động huy động và cho vay vàng và quản lý chất lượng vàng.

Những phân tích này cho thấy mặc dù Việt Nam mới ban hành cơ chế quản lý

thị trường vàng với nhiều thay đổi kể từ 01/5/2012 nhưng cơ chế này vẫn chưa thể

mang lại kết quả khởi sắc cho thị trường vàng vốn dĩ có quá nhiều yếu tố bất ổn và

tiềm ẩn nguy cơ rủi ro cao trong suốt nhiều năm trở lại đây. Cơ chế quản lý mới vẫn

còn những bất cập quá lớn, chưa phù hợp với thông lệ quốc tế cũng như đặc thù của

Việt Nam.

Mặc dù mục tiêu đặt ra của cơ chế quản lý mới là hợp lý nhưng những quy định

cụ thể có nguy cơ làm phát sinh những tác động làm méo mó thị trường vàng khiến

cho mục tiêu đề ra khó đạt được. Vì vậy, việc sớm sửa đổi toàn diện cơ chế quản lý

thị trường vàng Việt Nam là một yêu cầu thiết yếu mang tính khách quan. Đây cũng

chính là những nội dung sẽ được đề cập trong chương 3.

-75-

CHƯƠNG 3

MỘT SỐ ĐỀ XUẤT VỀ CƠ CHẾ QUẢN LÝ

THỊ TRƯỜNG VÀNG VÀ GIAO DỊCH VÀNG

TÀI KHOẢN Ở VIỆT NAM

Mục tiêu của chương này là đưa ra những gợi ý mang tính chất khuyến nghị đối

với cơ chế quản lý thị trường vàng ở Việt Nam trong đó nhấn mạnh đến việc cần

thiết phải xây dựng và đưa vào hoạt động sàn giao dịch vàng vật chất ở Việt Nam.

Chương này bao gồm ba phần: i.Mục tiêu của cơ chế quản lý thị trường vàng ở Việt

Nam; ii.Một số đề xuất về cơ chế quản lý thị trường vàng ở Việt Nam; iii.Mô hình

tổ chức sàn giao dịch vàng và kinh doanh vàng tài khoản.

3.1. MỤC TIÊU CỦA CƠ CHẾ QUẢN LÝ THỊ TRƯỜNG VÀNG Ở VIỆT

NAM

Xuất phát từ vị trí, vai trò của vàng trong nền kinh tế trên cơ sở phân tích ở

chương 2 đồng thời tham khảo kinh nghiệm từ các nước trên thế giới, chúng tôi đề

xuất việc quản lý thị trường vàng ở Việt Nam cần hướng đến ba mục tiêu cơ bản

được nêu ở bên dưới.

3.1.1. Tạo lập thị trường vàng hàng hóa hoạt động theo nguyên tắc của cơ chế

thị trường và duy trì được sự liên thông chặt chẽ giữa thị trường vàng

hàng hóa trong nước với thị trường vàng hàng hóa thế giới

Như đã đề cập trong chương 1, mục tiêu của việc quản lý vàng tiền tệ và quản

lý vàng hàng hóa là hoàn toàn khác biệt nhau. Kinh nghiệm của các nước phát triển

trên thế giới có thị trường vàng phát triển hoàn chỉnh và lâu đời (Anh, Thụy Sĩ, Úc,

Hoa Kỳ) cho đến các nước có văn hóa và tập quán sử dụng vàng có nhiều nét tương

-76-

đồng với Việt Nam như Ấn Độ, Trung Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ, Thái Lan đều thực hiện

việc quản lý vàng hàng hóa tương tự như quản lý các hàng hóa thông thường khác.

Tuy nhiên, vì tính chất và vai trò đặc biệt của vàng nên mỗi nước đều xây dựng cho

mình một cơ chế quản lý chặt chẽ, nới lỏng hay tự do phụ thuộc trình độ phát triển

của nước đó trong từng giai đoạn cũng như tác động của vàng đối với tình hình kinh

tế vĩ mô. Tuy nhiên, có thể thấy rằng ở các quốc gia có trình độ phát triển kinh tế

hoặc văn hóa, tập quán sử dụng vàng tương tự với Việt Nam không có quốc gia nào

sử dụng cơ chế quản lý chặt chẽ mang tính chất độc quyền trong bối cảnh hiện nay,

đặc biệt ở các quốc gia này hoàn toàn không có việc ngân hàng trung ương trực tiếp

nhập khẩu, xuất khẩu cũng như độc quyền sản xuất vàng miếng.

Thực tiễn cho thấy, các biện pháp hành chính có vai trò hết sức quan trọng ở thị

trường chưa phát triển nhưng nó cũng chỉ phát huy hiệu quả trong thời gian ngắn.

Nếu tiếp tục duy trì việc sử dụng các biện pháp hành chính, nhất là độc quyền trong

dài hạn, thị trường sẽ trở nên méo mó và gây nên những hệ lụy tiêu cực.

Việt Nam là quốc gia có đường biên giới dài trong lúc việc tổ chức quản lý

hàng hóa nhập lậu qua biên giới chưa thật sự hiệu quả thì việc sử dụng biện pháp

hành chính cấm nhập khẩu sẽ ngay lập tức làm xuất hiện tình trạng nhập lậu khiến

nhà nước thất thu thuế đồng thời cơ quan chức năng sẽ khó có thể tổ chức quản lý

hiệu quả khi không có đầy đủ dữ liệu có liên quan. Mặt khác, như đã phân tích ở

chương 2, việc sử dụng biện pháp độc quyền sản xuất vàng miếng và chỉ cho lưu

hành duy nhất một thương hiệu vàng SJC theo tiêu chuẩn quốc gia vốn có nhiều

khác biệt so với tiêu chuẩn thế giới sẽ dẫn đến nguy cơ xuất hiện việc nhập lậu, nắm

giữ, giao dịch phổ biến vàng theo tiêu chuẩn quốc tế của các nhà sản xuất uy tín trên

thế giới. Lúc đó, việc độc quyền sản xuất vàng miếng và cho phép lưu hành duy

nhất thương hiệu vàng SJC sẽ không thể đạt được mục tiêu chấm dứt nhập lậu vàng.

Tình trạng chảy máu ngoại tệ sẽ vẫn tiếp diễn và cán cân thanh toán sẽ chịu tác

động tiêu cực nếu việc nhập lậu vàng tiêu chuẩn quốc tế trở nên phổ biến, thông

dụng.

-77-

Quy mô của thị trường vàng trên thế giới rất lớn và thị trường vàng Việt Nam là

không nhỏ, trong bối cảnh gần như toàn bộ nguồn cung vàng của Việt Nam có được

từ nhập khẩu, dự trữ ngoại hối bằng vàng của NHNN hầu như không đáng kể thì

mọi nỗ lực nhằm can thiệp giá vàng trên thị trường sẽ không thể nào thực hiện

được. Vì vậy, dù đặt ra bất cứ rào cản nào thì sự biến động của giá vàng trong nước

rồi cũng sẽ chịu sự chi phối của giá vàng thế giới. Trong quá khứ, với các rào cản

hành chính, giá vàng Việt Nam đã có không ít trường hợp biến động không tương

đồng với giá vàng quốc tế. Thế nhưng, chỉ trong thời gian ngắn sau đó, thị trường

đã phản ứng (xuất hiện ngay việc xuất khẩu hoặc nhập khẩu vàng để tìm kiếm lợi

nhuận từ chênh lệch giá) và biến động không tương đồng lập tức chấm dứt.

Những phân tích này cho thấy cần thiết phải gỡ bỏ những rào cản ngăn cách giá

vàng trong nước với giá vàng thế giới để thị trường vàng Việt Nam sẽ có được sự

liên thông với thị trường vàng thế giới. Kinh nghiệm cải cách của Trung Quốc và

Ấn Độ được nêu trong chương 1 cũng cho thấy các quốc gia này đã thành công

trong cải cách quản lý thị trường vàng khi tạo được sự liên thông giữa thị trường nội

địa với thị trường thế giới.

3.1.2. Giảm thiểu sự tác động tiêu cực của những biến động thị trường vàng

đến kinh tế vĩ mô

Các phân tích ở chương 2 cho thấy trong suốt thời gian dài, sự biến động của

giá vàng trên thế giới và biến động giá vàng trong nước đã gây ảnh hưởng nghiêm

trọng đến trạng thái cán cân thanh toán, tạo nên vòng xoáy vàng - tỷ giá -tín dụng từ

đó ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả thực thi chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà

nước đồng thời tạo ra nguy cơ mất an toàn cho hệ thống ngân hàng khi các ngân

hàng thương mại đầu tư quá nhiều cho hoạt động kinh doanh vàng và chưa kiểm

soát tốt trạng thái vàng của mình. Đây có lẽ là lý do chính yếu khiến NHNN phải

mạnh tay can thiệp thị trường vàng và sau thời gian dài chưa bình ổn được thị

trường như mong đợi đã sử dụng đến biện pháp hànhchính.

-78-

Tuy nhiên, có thể thấy rằng nguyên nhân mấu chốt để xảy ra tình trạng nêu trên

không phải là vàng mà chính là cơ chế quản lý đã thiếu sót khi tạo ra lỗ hổng cho

các nhà kinh doanh tìm kiếm lợi nhuận mà thiếu đi ràng buộc về quản trị rủi ro.

Việt Nam sẽ không thể nào dùng biện pháp hành chính để loại bỏ vàng ra khỏi

nền kinh tế và buộc phải sống chung với sự biến động của vàng. Vì vậy, mục tiêu

của cơ chế quản lý thị trường vàng là phải giảm thiểu các tác động tiêu cực của

những biến động trên thị trường vàng đến các biến số kinh tế vĩ mô như tỷ giá, lạm

phát, cung tiền và sự an toàn của hệ thống tài chính.

3.1.3. Giảm dần vai trò của vàng như là tiền tệ và tiến đến việc chấm dứt tình

trạng vàng hóa trong nền kinh tế

Trong quá khứ vàng đã đóng vai trò như tiền tệ, song hành cùng VND, được

dân chúng sử dụng rộng rãi làm phương tiện định giá, phương tiện thanh toán và

phương tiện bảo tồn giá trị dù về mặt pháp lý đây là hành vi bất hợp pháp. Nhà

nước cũng đã có nhiều nỗ lực trong mục tiêu hạn chế tình trạng vàng hóa nhưng kết

quả cho thấy các biện pháp này không có ảnh hưởng đáng kể đến tập quán của

người dân Việt Nam.

Từ những năm cuối của thế kỷ 20, khi Việt Nam thành công trong việc kiểm

soát lạm phát đồng thời kinh tế phát triển tốt, thu nhập và mức sống của người dân

gia tăng đáng kể, vai trò là phương tiện định giá và phương tiện thanh toán của vàng

đã tự động thu hẹp đáng kể. Vàng đã không còn sử dụng để định giá, thanh toán

trong các giao dịch xe máy, ôtô và các vật dụng, tài sản đắt tiền khác mà chỉ còn

được sử dụng chủ yếu trong giao dịch nhà đất.

Đến những năm đầu thế kỷ 21, mặc dù thị trường bất động sản bùng nổ trở lại ở

Việt Nam nhưng vàng đã không còn là phương tiện định giá và phương tiện thanh

toán thông dụng như cuối thế kỷ trước bởi lẽ sự bùng nổ bất động sản tập trung chủ

yếu vào đất nông nghiệp chuyển đổi mục đích sử dụng là đất mà các công ty kinh

-79-

doanh bất động sản trước đó đã thực hiện đầu tư toàn bộ bằng VND (chi phí đền bù,

chi phí giải phóng mặt bằng, chi phí đầu tư cơ sở hạ tầng, thuế, phí, lệ phí, .v.v. đều

được thanh toán 100% bằng tiền đồng) nên các công ty này đều niêm yết giá bán và

giao dịch bằng VND. Trong giai đoạn này, việc dùng vàng làm phương tiện định

giá chỉ sử dụng chủ yếu đối với nhà đất ở các khu dân cư ổn định lâu đời trong nội

thành. Từ những năm 2007-2008, khi giá vàng tăng cao liên tục kèm theo những

biến động đột biến thất thường, các giao dịch nhà đất hầu như đều được thực hiện

thông qua VND, rất hiếm các giao dịch nhà đất sử dụng vàng.

Diễn biến trên cho thấy, hiện nay dân chúng sử dụng vàng chủ yếu dùng làm

phương tiện bảo tồn giá trị dưới dạng vàng miếng, vàng trang sức. Ngoài ra, các nhà

đầu tư và dân chúng cũng nắm giữ vàng cho mục đích đầu tư hoặc đầu cơ nhờ vào

sự biến động giá vàng trên cơ sở tin tưởng xu thế tăng giá vững mạnh của vàng sẽ

tiếp tục trong tương lai. Nhu cầu đầu tư và nhu cầu cất trữ vàng là nhu cầu chính

đáng của người dân, các nhà đầu tư nên rõ ràng Việt Nam khó có thể thậm chí là

không thể dùng biện pháp hành chính để triệt tiêu hoạt động này thay vào đó mục

tiêu cần hướng đến là tạo lập được thị trường giao dịch vàng chính thức với đầy đủ

các công cụ kinh doanh dựa trên cơ chế thị trường để các nhà đầu tư, dân chúng có

thể dễ dàng giao dịch, cất trữ và tìm kiếm lợi nhuận. Song song đó, khi kinh tế phát

triển ổn định, tỷ lệ lạm phát được kiểm soát tốt, tỷ giá USD/VND ổn định thì nhu

cầu nắm giữ vàng cho mục đích bảo tồn giá trị sẽ tự động giảm dần, thay vào đó sẽ

tập trung chủ yếu cho mục tiêu giao dịch để tìm kiếm lợi nhuận.

3.2. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT VỀ CƠ CHẾ QUẢN LÝ THỊ TRƯỜNG VÀNG Ở

VIỆT NAM

Để đạt được ba mục tiêu nêu trên, theo chúng tôi cần thay đổi cơ chế quản lý

vàng hiện đang áp dụng ở Việt Nam. Cụ thể như sau:

-80-

3.2.1. Về cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành

Trước mắt, NHNN sẽ vẫn là cơ quan quản lý toàn diện về hoạt động sản xuất,

gia công và kinh doanh vàng (trừ hoạt động khai thác khoáng sản và tinh chế vẫn

thực hiện như hiện nay). Tuy nhiên, cần sớm chấm sứt việc NHNN tham gia trực

tiếp vào hoạt động sản xuất, kinh doanh vàng để thực hiện đúng vai trò, chức năng

của ngân hàng trung ương.

Trong trung hạn, NHNN sẽ vẫn là cơ quan quản lý Sở giao dịch vàng trong giai

đoạn đầu vì trong thời gian này hoạt động Sở giao dịch vàng sẽ chỉ tổ chức giao

dịch vàng vật chất.

Trong dài hạn, khi cho phép giao dịch các sản phẩm vàng phái sinh, Sở giao

dịch vàng có thể sáp nhập với các Sở giao dịch hàng hóa khác, đặt dưới sự quản lý

của Ủy ban quản lý giao dịch hàng hóa độc lập trực thuộc Chính phủ hoặc liên bộ.

Tuy nhiên, đề tài chỉ tập trung đề xuất các gợi ý cho giai đoạn trung hạn khi Sở

giao dịch vàng sẽ chỉ tổ chức giao dịch vàng vật chất.

3.2.2. Về quản lý xuất khẩu, nhập khẩu vàng nguyên liệu

NHNN sớm chấm dứt độc quyền nhập khẩu, xuất khẩu vàng nguyên liệu. Việc

nhập khẩu, xuất khẩu vàng nguyên liệu cần được giao trở lại cho các công ty có

chức năng và hội đủ các điều kiện để được NHNN cấp phép.

Không cần thiết phải giới hạn về mặt số lượng các công ty tham gia xuất khẩu,

nhập khẩu vàng nguyên liệu nhưng cần đặt ra các tiêu chuẩn cao để chỉ những công

ty thật sự vững mạnh về tài chính lẫn kinh nghiệm mới đủ điều kiện tham gia và chỉ

những công ty có chức năng, đủ điều kiện sản xuất vàng miếng thì mới được phép

trực tiếp nhập khẩu, xuất khẩu vàng nguyên liệu. Vì vậy, các công ty được phép

nhập khẩu, xuất khẩu vàng miếng cũng là những công ty sẽ đóng vai trò đầu mối

-81-

trong việc sản xuất, gia công vàng miếng. Chỉ một số ít trong số này là các công ty

sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ.

Việc quản lý vàng trang sức, mỹ nghệ có thể tổ chức như quy định hiện tại

nhưng cần xác định rõ hơn đó là các loại vàng có hàm lượng dưới 18 cara (dưới

75% vàng). Các loại vàng có hàm lượng từ 18 cara trở lên (75% vàng trở lên) được

tổ chức quản lý như quản lý vàng miếng.

Về số lượng vàng nhập khẩu, trong giai đoạn 2013-2020 vẫn sử dụng cơ chế

cấp hạn ngạch cho các doanh nghiệp được phép tuy nhiên cần xác định rõ tiêu chí

để phân bổ hạn ngạch hợp lý, công bằng, minh bạch theo hướng mở rộng dần hạn

ngạch để đi đến dỡ bỏ hạn ngạch khi trạng thái cán cân thanh toán trở nên an toàn

hơn.

3.2.3. Về quản lý sản xuất, gia công vàng miếng

Như đã nhiều lần đề cập trong đề tài này, quan điểm xuyên suốt của chúng tôi là

NHNN cần sớm chấm dứt trực tiếp tham gia vào thị trường vàng, sớm chấm dứt độc

quyền sản xuất vàng.

Hoạt động sản xuất vàng miếng là hoạt động kinh doanh có điều kiện và phải

được cấp phép tuy nhiên cần cho phép tồn tại nhiều thương hiệu vàng khác nhau

trong nền kinh tế để tạo sự cạnh tranh lành mạnh theo lộ trình như sau:

 Ngay trong năm 2012, cần thông báo chủ trương sẽ cho phép các doanh

nghiệp trước đây đã được phép sản xuất vàng miếng trở lại trong giai đoạn

2013-2014 để các doanh nghiệp này có phương án cho dây chuyền máy móc

thiết bị đã đầu tư. NHNN cần xây dựng phương án quản lý thị trường vàng

trong điều kiện có nhiều thương hiệu vàng cùng tồn tại và khi đã hoàn tất

công tác chuẩn bị sẽ trình Chính phủ thay thế Nghị định 24/2012/NĐ-CP để

chấm dứt độc quyền sản xuất vàng.

-82-

 Trong giai đoạn từ 2015-2020, ngoài vàng miếng sản xuất theo đơn vị đo

lường truyền thống (chỉ, lượng) sẽ sản xuất thêm vàng miếng với kích

thước, tiêu chuẩn theo thông lệ quốc tế (vàng khối/thanh với trọng lượng

ounce và kg) và áp dụng cơ chế khuyến khích giao dịch loại vàng này để

đến 2025 loại sản phẩm vàng theo đơn vị đo lường chỉ, lượng sẽ không còn

thông dụng. Điều này sẽ góp phần thuận lợi cho việc phát triển giao dịch

trên sở giao dịch vàng và tạo sự gắn kết tốt hơn giữa thị trường vàng Việt

Nam và thị trường vàng thế giới, giảm thiểu chi phí cho việc gia công vàng

theo tiêu chuẩn hiện hành của Việt Nam từ vàng nguyên liệu đã đạt chuẩn

thế giới. Cũng trong giai đoạn này ban hành các tiêu chuẩn kinh tế, kỹ thuật

khắt khe (không sử dụng biện pháp hành chính) đối với doanh nghiệp sản

xuất vàng miếng để giảm dần số lượng thương hiệu vàng miếng ở Việt Nam.

Song song đó đặt ra các yêu cầu kỹ thuật để việc nhập khẩu vàng nguyên

liệu sẽ tập trung vào vàng khối, vàng thanh của các nhà sản xuất uy tín trên

thế giới và cho phép lưu hành, giao dịch loại vàng này.

 Có kế hoạch giao cho 1-2 công ty sản xuất vàng uy tín của Việt Nam (chẳng

hạn SJC) lập kế hoạch hợp tác với các nhà sản xuất vàng uy tín của Thụy Sĩ,

Anh để sản phẩm vàng khối, vàng thanh đạt được chứng nhận của các tổ

chức quốc tế, đủ điều kiện giao dịch trên thị trường vàng thế giới trong giai

đoạn 2015-2025. Như vậy, về lâu dài các sản phẩm vàng của các nhà sản

xuất vàng uy tín trên thế giới sẽ được phép lưu hành phổ biến ở Việt Nam

cùng với 1-2 sản phẩm đạt chuẩn quốc tế của các công ty Việt Nam và một

số ít các thương hiệu vàng khác của Việt Nam theo tiêu chuẩn, đơn vị đo

lường của Việt Nam.

Trong giai đoạn 2013-2015 và có thể đến 2020, các doanh nghiệp trước đây đã

được phép được tham gia nhập khẩu, sản xuất vàng miếng sẽ vẫn tiếp tục được cấp

hạn ngạch và tổ chức sản xuất tuy nhiên sẽ ban hành các tiêu chuẩn về tài chính, kỹ

thuật, quy trình công nghệ và quy trình quản lý giám sát sản xuất để hạn chế dần số

-83-

lượng doanh nghiệp được phép (nhất là những doanh nghiệp có quy mô nhỏ, thị

phần ít, đã khấu hao xong dây chuyền máy móc thiết bị và không đổi mới được

công nghệ, khó có điều kiện sản xuất được vàng theo tiêu chuẩn quốc tế được các tổ

chức quốc tế công nhận). Theo hướng này, từ sau 2015-2020, các doanh nghiệp nhỏ

sẽ không được nhập khẩu trực tiếp, họ chỉ mua lại vàng nguyên liệu từ các nhà nhập

khẩu chủ lực để sản xuất vàng theo tiêu chuẩn, trọng lượng truyền thống của Việt

Nam.

Ngân hàng nhà nước Việt Nam Văn phòng công nhận chất lượng vàng

Giám sát, kiểm soát và công nhận chất lượng Cấp giấy phép, quota, giám sát sản xuất Cơ sở gia công vàng trang sức, mỹ nghệ

Quản lý

Giao dịch

Cửa hàng bán lẻ vàng miếng Vàng nguyên liệu tiêu chuẩn quốc tế Doanh nghiệp có giấy phép sản xuất vàng miếng

Ngân hàng thương mại là thành viên Sở giao dịch vàng

Sơ đồ 3.1: Đề xuất quy trình quản lý sản xuất vàng miếng ở Việt Nam

Nói khác đi, trong dài hạn, thị trường vàng hàng hóa ở Việt Nam sẽ lưu hành

song song ba loại vàng: vàng theo tiêu chuẩn quốc tế được sản xuất bởi các nhà sản

xuất uy tín trên thế giới; vàng theo tiêu chuẩn quốc tế do các công ty Việt Nam sản

xuất được các tổ chức quốc tế công nhận; vàng theo tiêu chuẩn truyền thống của

Việt Nam. Trong đó hai loại vàng đầu tiên sẽ là sản phẩm chủ lực được giao dịch

phổ biến qua sở giao dịch, loại sản phẩm thứ ba sẽ chỉ còn giao dịch trên thị trường

OTC và sẽ không còn quá thông dụng.

-84-

3.2.4. Về kinh doanh vàng miếng

Theo chúng tôi cần sớm chấm dứt quy định NHNN cấp phép hoạt động kinh

doanh vàng miếng như quy định tại nghị định 24/2012/NĐ-CP. Thay vào đó, quay

trở lại theo tinh thần của nghị định 174/1999/NĐ-CP ngày 9/12/1999, theo đó hoạt

động kinh doanh vàng miếng không qua sàn (giao dịch OTC) là hoạt động kinh

doanh có điều kiện nhưng không cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh mà

doanh nghiệp chỉ cần đăng ký và cam kết đủ điều kiện, cơ quan quản lý kiểm tra và

giám sát. Như vậy, hơn 12.000 cửa hàng kinh doanh vàng đã tồn tại trước khi nghị

định 24/2012/NĐ-CP có hiệu lực kể từ 01/5/2012 sẽ vẫn tiếp tục đủ điều kiện pháp

lý để mua bán vàng miếng như trước đây.

Trong giai đoạn chưa tổ chức được Sở giao dịch vàng hoàn chỉnh, nhà đầu tư

giao dịch vàng miếng có thể lực chọn giao dịch bằng một trong hai phương thức:

giao dịch nhận vàng trực tiếp giữa nhà đầu tư với hệ thống cửa hàng bán lẻ của nhà

sản xuất hoặc các cơ sở kinh doanh vàng vật chất (tiệm vàng); giao dịch thông qua

tài khoản vàng mở tại ngân hàng thương mại.

Khi nhà đầu tư đã quen với việc giao dịch vàng tài khoản đồng thời cơ quan

quản lý có đủ thời gian để hiệu chỉnh mô hình, chuẩn bị đầy đủ cơ sở vật chất kỹ

thuật và con người, sẽ thành lập Sở giao dịch vàng vật chất nhằm đưa hoạt động

giao dịch vàng trên thị trường sẽ diễn ra qua Sở giao dịch là chủ yếu. Đây là điểm

mấu chốt có vai trò quan trọng nhất để lập lại trật tự và đem lại sự ổn định cho thị

trường vàng Việt Nam. Việc tổ chức hoạt động giao dịch vàng tài khoản qua Sở

giao dịch vàng sẽ đem lại các lợi ích sau đây:

 Tập trung được giao dịch vàng vật chất quy về đầu mối lớn để nhà nước có

điều kiện quản lý, giám sát và điều chỉnh chính sách kịp thời vì giao dịch trên

sàn giao dịch phản ánh phần lớn quan hệ cung cầu trên thị trường. Đảm bảo

được sự vận hành theo cơ chế thị trường của thị trường vàng, bình ổn được

thị trường vàng.

-85-

 Chuẩn hóa được giao dịch trên thị trường vàng trong nước để từng bước phù

hợp với thông lệ quốc tế, tạo được mối liên thông với thị trường vàng thế

giới. Giá cả hình thành trên Sở giao dịch (sử dụng giá tham chiếu theo giá thế

giới) sẽ giúp giá vàng trong nước liên thông với giá vàng thế giới. Khi các

giao dịch trong nước được thực hiện tham chiếu theo giá thế giới, các lực

lượng giao dịch ở Việt Nam sẽ không đủ sức để làm giá trên thị trường nhờ

vậy tránh được sự hỗn loạn của thị trường.

 Hoạt động của Sở giao dịch vàng sẽ làm chất dứt sự phát triển tự phát của

các sàn giao dịch vàng chui bất hợp pháp gây rối loạn thị trường và rủi ro cho

nhà đầu tư, ảnh hưởng tiêu cực đến việc quản lý ngoại hối.

 Tạo điều kiện thuận lợi cho việc đầu tư kinh doanh, tìm kiếm lợi nhuận trên

thị trường vàng của các nhà đầu tư. Với việc giao dịch được chuẩn hóa,

những nhà đầu tư vàng sẽ có đủ điều kiện, công cụ để phòng ngừa rủi ro. Thị

trường sẽ đi vào khuôn khổ theo “luật chơi” chung, hạn chế tối đa các thủ

thuật làm giá, chi phối thị trường, tạo sự an tâm cho người dân từ đó góp

phần làm giảm đi nhu cầu cất trữ, nắm giữ vàng chỉ vì mục đích cất trữ, giảm

chi phí sản xuất vàng miếng theo tiêu chuẩn Việt Nam.

 Thông qua hoạt động Sở giao dịch vàng, các tổ chức được phép sẽ huy động

được lượng vàng lớn trong dân quy về một mối để thuận tiện cho công tác

quản lý, giám sát và từ đó giúp cơ quan quản lý đánh giá chính xác hơn vai

trò, ảnh hưởng của vàng đối với nền kinh tế nhằm giúp các nhà quản lý có

quyết sách đúng đắn và phù hợp hơn.

 Thông qua việc tham hoạt động trên Sở giao dịch vàng, các ngân hàng

thương mại có thể huy động vàng từ trong dân chúng và sử dụng số lượng

vàng này cho giao dịch trên Sở giao dịch (với điều kiện phải tuân thủ quy

định khắt khe về quản trị rủi ro) để tìm kiếm lợi nhuận mà không phải sử

dụng số lượng vàng đã huy động để cho vay. Vì vậy, tuy chấm dứt việc cho

-86-

vay vàng nhưng các ngân hàng vẫn có thể tiếp tục huy động vàng từ dân

chúng và trả lãi hợp lý cho người gửi tiền tránh được việc dân chúng phải tự

nắm giữ vàng vừa rủi ro vừa không có được lợi nhuận.

Những lợi ích nêu trên của Sở giao dịch vàng nếu được tổ chức theo đúng

nguyên tắc, chuẩn mực và thông lệ quốc tế là hoàn toàn đáp ứng và góp phần quan

trọng cho việc đạt đến ba mục tiêu của cơ chế quản lý thị trường vàng đã đề cập ở

mục 3.1. Chi tiết về tổ chức quản lý Sở giao dịch vàng và việc giao dịch vàng qua

tài khoản sẽ được đề cập ở mục 3.3.

3.2.5. Về kinh doanh vàng tài khoản ở nước ngoài

Song song với việc đưa vào hoạt động sở giao dịch vàng sẽ được trình bày cụ

thể ở mục 3.3, cần cho phép các ngân hàng thương mại và các công ty được phép

nhập khẩu, sản xuất vàng miếng là thành viên của Sở giao dịch vàng được phép mở

tài khoản vàng ở nước ngoài và kinh doanh vàng trên tài khoản này.

Tuy nhiên, việc tổ chức quản lý giám sát rủi ro nhất là kiểm soát mức độ tuân

thủ trạng thái vàng của các tổ chức này cần được thực hiện chặt chẽ, nghiêm ngặt để

đảm bảo rủi ro nằm trong mức chấp nhận, tránh được sự đỗ vỡ.

3.2.6. Về hoạt động huy động, cho vay vàng

Các ngân hàng thương mại là thành viên của Sở giao dịch vàng sẽ được phép

huy động vàng có trả lãi và được sử dụng một phần số vàng này để giao dịch trên sở

giao dịch vàng. Tùy theo đặc thù của từng giai đoạn, NHNN sẽ điều chỉnh trạng thái

vàng thích hợp của các ngân hàng này nhưng phải đảm bảo tuân thủ nghiêm ngặt

trạng thái vàng theo đúng quy định của các tổ chức này.

Trong giai đoạn đầu, khi sở giao dịch vàng chỉ thuần túy tổ chức giao dịch vàng

vật chất và không cho phép sử dụng đòn bẩy thì sẽ không cho phép các ngân hàng

thương mại cho vay giải ngân vàng vật chất.

-87-

Trong dài hạn, khi cho phép sử dụng các công cụ phái sinh trên Sở giao dịch

vàng và cho phép sử dụng đòn bẩy trong giao dịch vàng thì có thể cho phép các

ngân hàng thương mại là thành viên của Sở giao dịch vàng được phép cho vay bằng

vàng nhưng không giải ngân vàng vật chất, cho phép sử dụng chứng chỉ vàng trong

huy động vàng đồng thời giao dịch các chứng chỉ này trên Sở giao dịch vàng hoặc

Sở giao dịch hàng hóa phái sinh và thành lập các quỹ ETF vàng.

Như vậy, một mặt vẫn đảm bảo các ngân hàng thương mại đủ điều kiện sẽ được

tham gia hoạt động trên Sở giao dịch vàng nhưng mặt khác sẽ không làm gia tăng

vấn nạn vàng hóa trong nền kinh tế vì góp phần hạn chế việc giao dịch trao tay vàng

vật chất nên sẽ làm giảm việc nắm giữ vàng vật chất trong dân chúng.

3.2.7. Về quản lý chất lượng

Việc NHNN vừa là cơ quan quản lý thị trường, vừa là cơ quan tổ chức sản xuất

vàng miếng sẽ không đảm bảo khách quan trong việc chứng nhận chất lượng vàng

miếng thành phẩm.

Mặt khác, khi cho phép nhiều thương hiệu vàng cùng tồn tại thì rất cần thiết

phải chuẩn hóa việc quản lý chất lượng các sản phẩm vàng của các thương hiệu

vàng khác nhau.

Ngoài ra, để tạo được sự liên thông giữa thị trường vàng trong nước với thị

trường vàng thế giới thì sản phẩm/hàng hóa giao dịch trên thị trường phải được

chuẩn hóa theo thông lệ quốc tế.

Vì vậy, Việt Nam cần thành lập Văn phòng công nhận chất lượng vàng độc lập

với NHNN, độc lập với Sở giao dịch vàng để chịu trách nhiệm quản lý chất lượng

vàng miếng và cấp chứng nhận thương hiệu vàng miếng đạt chất lượng của các nhà

sản xuất vàng miếng.

-88-

Từ mục tiêu đã nêu và các khuyến nghị nêu trên, theo chúng tôi, việc quản lý

thị trường vàng ở Việt Nam có thể thực hiện theo mô hình như sơ đồ tổ chức 3.2.

CHÍNH PHỦ

MOST Quản lý chất lượng SBV Quản lý hoạt động sản xuất, kinh doanh vàng Quản lý Sở giao dịch vàng MONRE Quản lý nhà nước về khoáng sản MOF Chính sách thuế GTGT, TNDN

Kho vàng Cất trữ, lưu ký, giao vàng vật chất

SX, KD trang sức Tổ chức, cá nhân SX vàng trang sức, mỹ nghệ

Sở giao dịch vàng Quản lý hoạt động giao dịch vàng vật chất qua tài khoản

Ngân hàng thương mại Thành viên của Sở giao dịch vàng

Doanh nghiệp Thăm dò, khai thác, tinh luyện vàng khoáng sản

Tổ chức NK, SX vàng miếng NK, SX, KD vàng miếng theo giấy phép của NHNN

VP công nhận chất lượng vàng GS,KS, đánh giá, cấp công nhận đạt chuẩn

Quản lý

Giao dịch

Nhà đầu tư

Sơ đồ 3.2: Đề xuất mô hình tổ chức quản lý thị trường vàng ở Việt Nam

3.3. TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG CỦA SỞ GIAO DỊCH VÀNG VÀ QUẢN LÝ

KINH DOANH VÀNG TÀI KHOẢN Ở VIỆT NAM

3.3.1. Cơ quan quản lý Sở giao dịch vàng

Theo quy định hiện nay ở Việt Nam, Ủy ban chứng khoán nhà nước thuộc Bộ

Tài chính là cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động của Sở giao dịch chứng khoán.

-89-

Ngoài ra một số sàn giao dịch hàng hóa kể cả hàng hóa giao sau được các công ty

kinh doanh thành lập chịu sự quản lý của Bộ Công thương. Vì vậy, về tổng thể có

thể thấy có ba phương án quản lý Sở giao dịch vàng: hoặc Ủy ban chứng khoán nhà

nước, hoặc Bộ Công thương, hoặc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Mỗi phương án

đều có những thuận lợi và khó khăn nhất định tuy nhiên theo chúng tôi, NHNN nên

là cơ quan quản lý nhà nước trực tiếp Sở giao dịch vàng vì các lý do sau đây:

 Kỹ thuật giao dịch vàng có sự khác biệt lớn so với giao dịch chứng khoán

nên không thể sử dụng cơ sở hạ tầng sẵn có của Sở giao dịch chứng khoán

để tổ chức Sở giao dịch vàng. Còn nếu tổ chức Sở giao dịch độc lập với Sở

giao dịch chứng khoán hiện này thì việc Ủy ban chứng khoán nhà nước quản

lý giao dịch vàng sẽ không hợp lý trong bối cảnh hiện nay ở Việt Nam vì

các công ty chứng khoán hiện nay - là thành viên của Sở giao dịch chứng

khoán - không đủ điều kiện trở thành thành viên của Sở giao dịch vàng để

cho các cá nhân, tổ chức mở tài khoản giao dịch tại đây.

 Mặc dù Bộ Công thương là cơ quan quản lý nhà nước về các sàn giao dịch

hàng hóa công nghiệp (cafe, tiêu, điều, .v.v.) nhưng hiện vẫn chưa tổ chức

được sàn giao dịch hàng hóa độc lập. Các sàn giao dịch hàng hóa hiện nay

đều do các công ty tổ chức, không đảm bảo tính độc lập và công nghệ không

đảm bảo để triển khai giao dịch vàng.

 NHNN là cơ quan quản lý nhà nước về cả vàng hàng hóa và vàng vật chất,

có đầy đủ công cụ, kỹ thuật để quản lý tốt nhất Sở giao dịch vàng. Hơn nữa,

các thành viên của Sở giao dịch vàng sẽ là các công ty sản xuất vàng miếng

và các ngân hàng thương mại đủ điều kiện mà hai đối tượng này đang chịu

sự quản lý của NHNN. Nhà đầu tư muốn giao dịch trên Sở giao dịch vàng

phải mở tài khoản kinh doanh vàng tại NHTM và lưu ký vàng vật chất tại

kho vàng (cũng do NHNN quản lý) thông qua NHTM nơi mình mở tài

khoản kinh doanh vàng. Các NHTM là tổ chức đủ điều kiện về công nghệ,

-90-

quản trị để quản lý tài khoản kinh doanh vàng của nhà đầu tư. Các NHTM

cũng là tổ chức đã có kinh nghiệm, đủ năng lực để tham gia kinh doanh

vàng trên Sở giao dịch vàng trong khi các công ty chứng khoán Việt nam

hiện nay hoàn toàn chưa có kinh nghiệm kinh doanh vàng đồng thời chức

năng không cho phép họ có đủ năng lực để kiểm soát rủi ro khi tham gia

kinh doanh vàng.

3.3.2. Vai trò, chức năng của Sở giao dịch vàng

Để đảm bảo an toàn cho hoạt động giao dịch, Sở giao dịch vàng sẽ được tổ chức

theo mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên thuộc sở hữu nhà nước

nhằm đạt được các mục đích cơ bản như sau:

 Bảo đảm hoạt động giao dịch vàng trên Sở giao dịch được tiến hành công

khai, công bằng, trật tự và hiệu quả;

 Đảm bảo giảm thiểu rủi ro trong giao dịch, thanh toán và cung cấp cơ sở hạ

tầng tốt nhất, công nghệ mới nhất;

 Tổ chức giao dịch trực tuyến cho nhà đầu tư với sự bảo mật, an toàn cao

nhất;

 Hợp lý hóa chi phí giao dịch ở mức tối ưu;

 Thực hiện công bố thông tin về giao dịch vàng, thông tin về các thành viên

và thông tin giám sát hoạt động của thị trường vàng.

3.3.3. Một số quy định chi tiết về cơ chế giao dịch vàng tài khoản

Trên cơ sở tham khảo hoạt động giao dịch của các sàn giao dịch vàng ở Ấn Độ,

Trung Quốc và một số nước khác, đồng thời dựa trên thực trạng của thị trường vàng

Việt Nam hiện nay, chúng tôi đề xuất một số gợi ý như sau:

3.3.3.1. Nhà đầu tư

-91-

Nhà đầu tư phải mở tài khoản giao dịch tại ngân hàng thành viên và ký gửi vàng

vật chất theo tiêu chuẩn giao dịch tại kho vàng của NHNN. Nhà đầu tư không được

phép bán khống, không được sử dụng đòn bẩy khi giao dịch, không được cùng đặt

đồng thời lệnh bán và lệnh mua khi lệnh chưa được khớp. Số dư tiền trên tài khoản

tiền và số dư vàng trên tài khoản phải đủ để thực hiện lệnh khi nhà đầu tư đặt lệnh.

3.3.3.2. Thành viên

Chỉ có ngân hàng thương mại và công ty sản xuất vàng miếng đạt đầy đủ các

quy định của NHNN và Sở giao dịch vàng mới được nộp hồ sơ đăng ký trở thành

thành viên của Sở giao dịch vàng. Thành viên là các công ty sản xuất vàng miếng

chỉ được tự doanh. Thành viên là các ngân hàng thương mại có thể tự doanh hoặc

môi giới.

3.3.3.3. Hàng hóa giao dịch

Thời gian đầu, chỉ những thương hiệu vàng của các công ty sản xuất trong nước

được Văn phòng công nhận chất lượng vàng cấp công nhận và được Sở giao dịch

vàng cấp phép mới được phép giao dịch. Về lâu dài, cho phép lưu hành vàng tiêu

chuẩn quốc tế của các nhà sản xuất uy tín trên thế giới giao dịch trên Sở giao dịch

vàng.

3.3.3.4. Hệ thống giao dịch

Sở giao dịch vàng cần được xây dựng trên nền tảng công nghệ hiện đại, cho

phép giao dịch khớp lệnh hoàn toàn tự động và trực tuyến (online). Nhà đầu tư đặt

lệnh giao dịch thông qua các ngân hàng thương mại thành viên (trừ công ty sản xuất

vàng miếng là thành viên của Sở được đặt lệnh trực tiếp), sau đó lệnh sẽ được ngân

hàng thương mại thành viên chuyển tự động trực tuyến đến hệ thống nhận lệnh của

Sở giao dịch.

-92-

Trong 1-2 năm đầu tiên triển khai sẽ chỉ cho phép thực hiện hai loại lệnh là lệnh

giới hạn và lệnh thị trường theo phương thức khớp lệnh liên tục. Việc so khớp lệnh

được thực hiện theo nguyên tắc ưu tiên 1 về giá và ưu tiên 2 về thời gian.

3.3.3.5. Thời gian giao dịch

Thời gian đầu, có thể chỉ triển khai giao dịch vào buổi sáng từ 9h00 đến 11h00,

sau tăng lên buổi chiều từ 13h00 đến 15h00 hoặc kéo dài liên tục từ 9h00 đến 14h00

hàng ngày làm việc.

Khi thị trường hoạt động ổn định và chuẩn bị đủ điều kiện về hạ tầng công nghệ

và cơ chế quản lý rủi ro, có thể triển khai giao dịch theo giờ giao dịch của thị trường

London (giao dịch ban đêm) để gia tăng sự kết nối, liên thông với thị trường vàng

thế giới.

3.3.3.6. Đơn vị giao dịch

Thời gian đầu khi chỉ giao dịch vàng miếng đạt chuẩn trong nước, đơn vị giao

dịch là lượng (37,5gram) với khối lượng giao dịch tối thiểu là 1 lượng, khối lượng

giao dịch tối đa là 100 lượng (tùy theo tình hình có thể nâng dần mức tối đa nhưng

đảm bảo kiểm soát được tình hình). Nói khác đi, cần phải thiết lập hạn mức giao

dịch tối đa để đảm bảo sự vận hành an toàn, ổn định của sàn giao dịch và chỉ nới

lỏng dần hạn mức giao dịch khi thị trường đã phát triển.

Theo tiến trình đề xuất ở mục 3.2, khi chuyển dần vàng miếng tiêu chuẩn Việt

Nam từ đơn vị đo lường lượng sang ounce và kg theo thông lệ quốc tế thì bổ sung

thêm các loại vàng có đơn vị giao dịch là kg.

3.3.3.7. Giá và đơn vị yết giá

Giá tham chiếu đầu phiên giao dịch là giá cùng thời điểm với giá vàng thế giới

tại Singapore hoặc giá giao dịch công bố của London Gold Market Fixing Ltd tùy

-93-

theo thời điểm bắt đầu phiên giao dịch sau khi đã cộng thêm chi phí vận chuyển, phí

bảo hiểm vào Việt Nam.

Đơn vị yết giá là 1.000 VND và bước giá là 1.000 VND. Việc quy đổi giá vàng

theo USD sang VND thực hiện theo tỷ giá trung bình mua bán của USD/VND niêm

yết của Vietcombank.

3.3.3.8. Biên độ giá và ngưỡng tạm ngừng giao dịch

Đề xuất biên độ giá cơ bản hàng ngày là ± 2% và mở rộng hơn khi thị trường

phát triển.

3.3.3.9. Lệnh giao dịch

Để đảm bảo thị trường vận hành an toàn, trong giai đoạn đầu chỉ cho phép sử

dụng lệnh giới hạn và lệnh thị trường để giao dịch và tất cả đều áp dụng giao dịch

giao ngay (T+1).

3.3.3.10. Thời hạn thanh toán, thời hạn giao hàng và địa điểm giao hàng

Hệ thống giao dịch, lưu ký, thanh toán bù trừ phải đảm bảo thực hiện tự động

để thời hạn thanh toán là T+1. Đối với các giao dịch rút vàng vật chất từ kho vàng

áp dụng thời gian giao hàng là T+2 và địa điểm giao hàng là TP.HCM hoặc Hà Nội.

Có thể giao hàng tại các địa điểm có kho vàng của NHNN nhưng sẽ phụ thu phí vận

chuyển. Phí vận chuyển do NHNN quy định.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3

Chương 3 đã phân tích để đề xuất ba mục tiêu cần hướng đến khi xây dựng cơ

chế quản lý thị trường vàng Việt Nam là i.tạo lập thị trường vàng hàng hóa hoạt

động theo nguyên tắc của cơ chế thị trường và duy trì được sự liên thông chặt chẽ

-94-

giữa thị trường vàng hàng hóa trong nước với thị trường vàng hàng hóa thế giới;

ii.giảm thiểu sự tác động tiêu cực của những biến động thị trường vàng đến kinh tế

vĩ mô; iii.giảm dần vai trò của vàng như là tiền tệ và tiến đến việc chấm dứt tình

trạng vàng hóa trong nền kinh tế. Trên cơ sở đó, đề tài đã đưa ra các đề xuất cần

thay đổi trong cơ chế quản lý thị trường vàng Việt Nam ở tất cả các khía cạnh bao

gồm: cơ quan quản lý, quản lý xuất khẩu nhập khẩu, quản lý sản xuất vàng miếng,

quản lý kinh doanh vàng vật chất, quản lý kinh doanh vàng tài khoản ở nước ngoài,

quản lý việc huy động, cho vay vàng vật chất và quản lý chất lượng vàng. Những đề

xuất này là cơ sở để tạo nền tảng và tiền đề cho việc tổ chức giao dịch vàng tài

khoản để tiến đến đưa vào hoạt động Sở giao dịch vàng vật chất phù hợp với đặc

thù của Việt Nam.

-95-

KẾT LUẬN

Đề tài đã hệ thống hóa được các lý luận liên quan đến vàng, thị trường vàng và

vấn đề quản lý thị trường vàng trên cơ sở tách bạch rõ giữa vàng tiền tệ, vàng hàng

hóa để nhận diện rõ các nội dung cơ bản của cơ chế quản lý vàng. Bên cạnh đó, đề

tài cũng đã đi vào phân tích sâu sự tiến triển cơ chế quản lý thị trường vàng của Ấn

Độ, Trung Quốc là hai quốc gia có văn hóa, tập quán sử dụng vàng có nhiều nét

tương đồng với Việt Nam. Từ những phân tích này, đề tài đã rút ra được những đúc

kết quan trọng trong kinh nghiệm quản lý thị trường vàng của hai nước này là bài

học tham khảo giá trị để sử dụng khi đề xuất cơ chế quản lý vàng ở Việt Nam. Phân

tích này cũng đã đề cập chi tiết đến tổ chức hoạt động của Sở giao dịch vàng vật

chất và kỹ thuật giao dịch vàng tài khoản.

Từ những nội dung nêu trên, đề tài đã thực hiện phân tích toàn diện cơ chế quản

lý thị trường vàng ở Việt Nam và những tác động của cơ chế này đến sự ổn định của

thị trường vàng ở Việt Nam đồng thời chỉ ra những bất cập của cơ chế này. Trên cơ

sở đó, đề tài đã đề xuất ba mục tiêu mà cơ chế quản lý thị trường vàng ở Việt Nam

cần hướng đến. Từ đó đề xuất những gợi ý cho việc xây dựng cơ chế quản lý thị

trường vàng ở Việt Nam phù hợp với hiện trạng kinh tế và đặc thù của Việt Nam

trong đó tập trung các đề xuất chi tiết đối với việc xây dựng và tổ chức vận hành

hoạt động giao dịch vàng tài khoản thông qua Sở giao dịch vàng vật chất. Những đề

xuất, gợi ý nêu trên mang tính khả thi có thể triển khai thực hiện ở Việt Nam để đạt

được việc ổn định thị trường vàng, giảm thiểu tác động của bất ổn trên thị trường

vàng đến các chỉ số kinh tế vĩ mô và liên thông được thị trường vàng Việt Nam với

thị trường thế giới, giảm thiểu tình trạng vàng hóa trong nền kinh tế./.

-96-

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

1. Nguyễn Vân Anh (2009), Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý kinh doanh

vàng theo chức năng của Ngân hàng Trung ương, Đề tài nghiên cứu khoa

học cấp ngành-Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Hà Nội.

2. Nguyễn Hữu Định (1996), Kinh doanh vàng tài khoản tại thành phố Hồ Chí

Minh: Chính sách và giải pháp, NXB TP.Hồ Chí Minh.

3. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (1999-2011), Báo cáo thường niên hàng

năm, Hà Nội.

4. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (_______), Kinh nghiệm quản lý thị trường

vàng ở Trung Quốc và Ấn Độ, Hà Nội.

Tiếng Anh

5. Peter L. Bernstein (2004), The power of Gold, John Wiley & Sons, New

York.

6. Himadri Bhattacharya (2002), Deregulation of gold in India, WGC, London.

7. Nigel Desebrock (_______), An introduction to the Indian gold market,

Virtual metal Research & Cosulting Ltd., India.

8. Vuong Quan Hoang (2004), Analyses on Gold and US Dollar in Vietnam's

Transitional Economy, Working Paper Centre Emile Bernheim WP-CEB No.

04-033.

9. IMF (_______), Balace of Payment Manual, Washington DC.

10. Rabi N. Mishra and G. Jagan Mohan (2012), Gold Prices and Financial

Stability in India, Reserve Bank of India, India.

-97-

11. National Mining Assosiation (2001), The history of Gold, Washington DC.

12. London Bullion Market Assosiation (2011), Chinese gold market: past,

present and Future, London

13. London Bullion Market Assosiation (2009), A guide to the London Precious

metal markets, London.

14. Gary O’Callaghan (1993), The structure and Operation of the world gold

market, IMF, Washington DC.

15. Reserve Bank of India (2006), Report of the Committee on Fuller Capital

Account Convertibility, India.

16. Shen Xiangrong (2004), The Foundation and Development of the Chinese

Gold Market, Shanghai Gold Exchange, China.

17. Wang Zhe (2004), Prospects for the Chinese Private Gold Market, London

Bullion Market Assosiation, London.

18. Roland Wang (2003), The Liberalisation of the Gold Bullion Market in

China: “Crouching Tiger and Hidden Dragon” or “Hero”?, WGC, China.

19. Shanghai Gold Exchange (2011), China gold market report 2011, Shanghai,

China.

20. World Gold Council (2010), An investor’s guide to the gold market, US

edition, London.

21. World Gold Council (2010), An investor’s guide to the gold market, UK

edition, London.

22. World Gold Council (2010), An investor’s guide to the gold market,

European edition, London.

-98-

23. World Gold Council (2010), China Gold Report: Gold in the Year of the

Tiger, London.

24. World Gold Council (1999-2012), Gold demand trends, London.

25. World Gold Council (2009), Liquidity in the global gold market, London.

26. World Gold Council (2010), The importance of gold in reserve asset

management, London.

27. World Gold Council (2011), The role of gold in India, London.

28. World Gold Council (2006), The role of Gold in India, London.

29. Barry M. Wainstein (2009), The role of gold in global market, Canada.

30. Zhao Wenjian (2011), Chinese Gold Market Evolution – a Boom or a

Bubble?, London Bullion Market Assosiation, London.

31. Zhao Wenjian (2011), Commercial banking business in Chinese gold market,

ICBC, China.

32. Websites: http://www.mcxindia.com/home.aspx, Multi Commodity

Exchange, Mumbai, India.

33. Websites: http://www.ncdex.com/, National Commodity and Derivatives

Exchange, Mumbai, India

34. Websites: http://www.sge.sh/publish/sgeen/, Shanghai Gold Exchange,

Shanghai, China.

35. Websites: http://www.shfe.com.cn, Shanghai Futures Exchange, Shanghai,

China.